Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Lạ Trên Tàu

Đã quen với những tay sát nhân máu lạnh, với những âm mưu tỉ mỉ được lên kế hoạch kĩ càng, độc giả hẳn sẽ cảm thấy ngỡ ngàng khi bước chân vào thế giới của Người Lạ Trên Tàu. Dưới ngòi bút bậc thầy của Patricia Highsmith, ngay cả những con người bình thường nhất cũng có khả năng phạm phải những tội ác ghê gớm nhất. Guy và Bruno, hai con người với tính cách hoàn toàn đối lập, tình cờ gặp nhau trên một chuyến tàu. Trong khi Guy là một kiến trúc sư tài hoa đang cố gắng li dị cô vợ hư hỏng, thì Bruno là một cậu ấm vô công rồi nghề, đang tìm cách thoát khỏi vòng kìm kẹp của cha mình. Sau một tối ngập trong rượu, Bruno bốc đồng đề nghị Guy và cậu ta giết người hộ nhau: Guy giết cha cậu ta và đổi lại cậu ta sẽ giết vợ Guy. Một phi vụ giết người hoàn hảo. Câu chuyện đi theo Guy và Bruno qua những âm mưu, giằng xé đạo đức, những mối quan hệ phức tạp và mối liên kết không thể phá vỡ dần hình thành giữa họ.  *** “Khi trở nên kích động, thì chỉ cần một chuyện nhỏ nhặt nhất thôi cũng có thể đẩy con người ta xuống vực thẳm.” Đây là một câu nói thấm đẫm triết lý trong “Người lạ trên tàu” – một lời phản biện mà Charles Bruno dành cho Guy Haines khi tranh cãi về việc trong cuộc đời sẽ có ít nhất một kẻ nào đó mà ta thực lòng muốn thủ tiêu để thấy hạnh phúc hơn. Quyển “Người lạ trên tàu” dường như đã bị người ta lãng quên bởi sự thành công của bộ phim chuyển thể. Sự xuất sắc của đạo diễn Alfred Hitchcock khi chuyển thể ít nhiều đã làm lu mờ đi tác phẩm gốc của Patricia Highsmith đến nỗi mà người không nghĩ đây là tựa của một quyển sách nữa. Thực lòng thì cuốn sách cực kỳ hay và bộ phim cũng thế nên tôi thích cả hai phiên bản này. Tôi nghĩ bạn cũng thử xem cả phim và sách để có cái nhìn đối chiếu hoàn thiện hơn. “Người lạ trên tàu” là câu chuyện về Guy Haines một anh chàng kiến trúc sư tài hoa và nhà xã hội học giàu có Charles Bruno. Hai người gặp nhau trên một chuyến tàu khi Guy đang về nhà để yêu cầu vợ là Miriam ly hôn để anh ta có thể kết hôn với Anne Morton – một người ăn chơi, giàu có và tự cho mình là trung tâm của vũ trụ. Trước đó, Miriam đã từng đồng ý ly hôn, nhưng lần này Guy có căn cứ để cho rằng Miriam đang mang thai và Guy tin chắc chắn rằng anh không phải là cha. Tuy nhiên, trong lòng Guy vô cùng băn khoăn về việc ấy và nghĩ rằng cô vợ sẽ gây ra nhiều rắc rối để làm chậm trễ tiến trình ly hôn. Những nỗi lòng ấy được tâm sự với Bruno và một kế hoạch kỳ quái đã được đề ra. Nếu Guy đồng ý giết cha của Bruno thì anh ta sẽ giết Miriam dùm Guy. Sở dĩ Bruno đưa ra lời đề nghị kinh dị này bởi vì đối với anh ta thì người bố ấy là nguồn gốc của mọi sự khốn khổ trong cuộc sống của anh ta. Kế hoạch này dường như có lợi cho cả hai bên vì một kẻ tiêu diệt được người thân đáng ghét còn một kẻ sẽ tiếp tục thuận lợi trong con đường hôn nhân. Tuy nhiên, Guy không phải là một kẻ giết người máu lạnh và khi nghe được lời đề nghị đó, anh chàng đã bị sốc vô cùng và ngay lập tức gạt bỏ ý tưởng điên rồ ấy rồi xuống tàu với quyết định sẽ không bao giờ gặp lại con người kia. Nhưng mọi chuyện không hề êm đẹp như ước muốn của Guy bởi không lâu sau đó, Miriam bị giết và nghiễm nhiên là Guy biết ai là kẻ thủ ác. Tự nhiên Guy bị cuốn vào trò chơi giết người ấy dù không hề mong muốn. Kịch bản “mèo vờn chuột” luôn được tận dụng hoàn hảo trong các tác phẩm của Highsmith và “Người lạ trên tàu” cũng không ngoại lệ. Những sự tuyệt vọng của Guy khi cố thoát khỏi trò chơi của Bruno đã mang lại sự kịch tính cho truyện. Một Bruno loạn trí và một Guy mâu thuẫn trong nội tâm cùng chơi một “game thú vị”. Mạch truyện sau đó cho thấy không hề có yếu tố lãng mạn trong “Người lạ trên tàu”. Anne Morton là kiểu phụ nữ muốn tạo ra một vỏ bọc hôn nhân hoàn hảo cho bản thân, và dường như cô ta chỉ cần biết bản thân có chút thích anh chàng đó và không mấy quan tâm việc người đàn ông ấy có yêu mình hay không. Guy, may mắn thay, lại là người rất yêu Anne. Anh ấy có tầm nhìn về sự nghiệp của mình và biết cha của Anne có ảnh hưởng lớn đối với sự thành bại trong tương lai. Nhưng, nếu Guy dính líu đến vụ giết Miriam, thì anh ta chỉ có thể nói lời tạm biệt với Anne và những khao khát về nghề nghiệp. Trong khi mối quan hệ giữa Guy và Anne không phải là điều gì quá thú vị thì mối quan hệ giữa Guy và Bruno ngày càng trở nên phức tạp và mơ hồ. Bruno rõ ràng có rất nhiều vấn đề và những vấn đề này cũng mở rộng sang lĩnh vực tình dục. Một người đàn ông quá loạn trí khi tham gia vào bất cứ điều gì lành mạnh và mối quan hệ kỳ lạ của anh ta với cha mẹ, đặc biệt là với mẹ anh ta, ngăn cản anh ta phát triển mối quan hệ dị tính hoặc đồng tính trong quá khứ. Tuy nhiên, sự tiến triển trong mối quan hệ giữa Guy và Bruno rất hấp dẫn, đặc biệt là khi chúng ta chứng kiến sự suy đồi về tình cảm và đạo đức của Guy. Một số người có thể xem anh ta như một nạn nhân nhưng tôi thì không vì Guy hoàn toàn tỉnh táo, và anh ta đủ nhận thức để phải chịu trách nhiệm cho hành động của mình. Những câu văn trong “Người lạ trên tàu” mang lại cho tôi cảm giác vô cùng căng thẳng và hồi hộp, đôi khi không thể để đặt cuốn sách xuống ngay cả khi ngủ. Cảnh mà Bruno giết Miriam đặc biệt hồi hộp, và mặc dù tôi biết những gì sắp xảy ra, nhưng tôi thực sự không kịp chuẩn bị tinh thần cho tình cảnh đó. Đây là một cuốn sách miêu tả nội tâm nhân vật cực hay và phần lớn sự hồi hộp diễn ra trong tâm trí của Guy và Bruno. Highsmith khiến tôi hồi hộp và cắn móng tay vì không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo cả. Với cách miêu tả kỹ lưỡng, tỉ mỉ từng chi tiết giằng xé nội tâm của hai nhân vật, từ những ngôn ngữ, cử chỉ, hành động cho đến những suy nghĩ điên rồ bệnh hoạn của Bruno; từ những đau đớn tột cùng của Guy khi bị Bruno chi phối, làm ảnh hưởng trầm trọng đến gia đình, tình yêu, sự nghiệp của Guy, cái cách mà Guy khốn khổ, vật vã khi không thể thoát ra khỏi sự bủa vây của Bruno trong tâm trí cũng như cuộc sống… đối với nhiều độc giả ưa thích motif nhanh, cuốn, không quá chuyên sâu vào việc lột tả tâm lý nhân vật, ưa thích những đòn cân não, những vụ án máu me, những suy luận sắc bén, hoặc đơn giản là không thích những cốt truyện mà tác giả tiết lộ hung thủ ngay từ đầu, có thể sẽ cảm thấy nó là lê thê, rệu rã, mất kiên nhẫn, là không đúng với gu của mình. Nó là quá trình hình thành nên cái bản ngã độc ác của một con người, nó từ lương thiện, hiền lành, khi gặp đúng hoàn cảnh thích hợp, nó sẽ tha hóa, biến chất, trở thành một tên sát nhân qua ngòi bút tỉ mỉ, đôi khi pha chút hóm hỉnh, những ví von hài hước nhưng cũng không kém phần mỉa mai, nhạo báng của Patricia Highsmith. “Cái ác ghê gớm nhất bắt nguồn từ chính chúng ta – Jean Jacques Rousseau”. Đọc “Người lạ trên tàu” – một tác phẩm xuất sắc của Patricia Highsmith để có câu trả lời cho bạn nhé. *** “Người lạ trên tàu là một cuốn trinh thám đơn giản đến ngỡ ngàng. Không có những pha hành động nguy hiểm, không có những sát thủ máu lạnh, không có những âm mưu tỉ mỉ được lên kế hoạch kỹ càng. Không có những cú twist hay những pha đấu trí căng thẳng. Không có những màn suy luận sắc sảo. Tội phạm được lộ diện ngay từ đầu. Nhưng chính cái sự đơn giản đến ngỡ ngàng của Người lạ trên tàu lại khiến người đọc bị thu hút. Tác giả tập trung vào khai thác tâm lý của nhân vật khiến ta phải giật mình suy ngẫm. Việc giết người được diễn ra dưới một cách thức hết sức đơn giản, tầm thường không cần phải sắp xếp hay theo một kế hoạch nào cả. Thủ phạm trong Người lạ trên tàu cũng rất đặc biệt. Anh ta muốn trả giá cho hành động của mình nhưng các mối quan hệ phức tạp khiến anh ta giằng xé và đấu tranh.” (Binh Boog) *** Con tàu lao đi vùn vụt với guồng quay bất ổn đầy giận dữ. Nó phải dừng chân ở các trạm thường xuyên hơn, nơi nó sẽ nôn nóng đứng chờ trong giây lát rồi lại tiếp tục tấn công thảo nguyên. Nhưng biến động mà nó gây ra lại quá đỗi nhỏ bé. Thảo nguyên chỉ khẽ dập dờn, như một chiếc chăn hồng mênh mông bị rũ nhẹ một cách thờ ơ. Tàu chạy càng nhanh thì những chuyển động dập dờn ấy lại càng trôi nổi trong gió với vẻ nhạo báng. Guy rời mắt khỏi khung cửa sổ, tiếp tục ngồi dính chặt vào ghế. Miriam sẽ cố gắng trì hoãn vụ ly dị lâu nhất có thể, anh nghĩ thầm. Vì tiền, có khi cô ta còn chẳng muốn ly dị cũng nên. Cứ thế này thì liệu anh có thể thật sự cắt đứt với cô ta không? Anh bắt đầu nhận ra sự căm ghét đang dần làm tê liệt suy nghĩ của mình, tạo ra những lối rẽ nhỏ tối tăm trên con đường mà logic đã chỉ ra khi anh còn ở New York. Anh có thế cảm nhận Miriam đang ở trước mặt, không còn xa xôi, làn da hồng hào và rám nắng, đầy tàn nhang, phát ra hơi nóng bệnh tật, như thảo nguyên bên ngoài khung cửa sổ kia. Sưng sỉa và thô lỗ. Anh tìm thuốc lá trong vô thức, lần thứ 10 nhớ tới quy định không được phép hút thuốc trong toa cao cấp, nhưng cuối cùng vẫn rút ra một điếu. Anh gõ điếu thuốc lên mặt đồng hồ rồi xem giờ, như thể điều đó vẫn còn có ý nghĩa trong ngày hôm nay, 5 giờ 12 phút. Anh đút điếu thuốc vào khóe miệng trước khi đưa que diêm lên. Thế rồi que diêm trên tay được thay thế bằng điếu thuốc, anh hít vào từng hơi thật đều và chậm rãi. Hết lần này tới lần khác, đôi mắt nâu của anh rơi xuống vùng đất bướng bỉnh và hấp dẫn bên ngoài cửa sổ kia. Một bên cổ áo mềm mại hơi vểnh lên. Trên hình ảnh phản chiếu được ráng chiều in lên cửa kính, viền cổ áo trắng dọc quai hàm gợi lại phong cách ăn mặc của thế kỷ trước, cũng giống như mái tóc đen được vuốt cao, rũ xuống trên đỉnh đầu rồi thu gọn lại sau gáy. Mái tóc vuốt lên và đường dốc của chiếc mũi dài khiến vẻ ngoài của anh mang theo nét mạnh mẽ và bạo dạn, dù hàng lông mày ngang rậm rạp và khuôn miệng lại cho thấy sự trì trệ và bảo thủ. Anh mặc một chiếc quần vải flannel phẳng phiu, áo khoác sẫm màu rũ xuống trên cơ thể dong dỏng và có màu tím nhạt ở những nơi được ánh sáng chiếu vào, cà vạt len màu cà chua được thắt cẩn thận. Anh không nghĩ Miriam sẽ có bầu trừ phi cô ta muốn. Điều đó cũng có nghĩa là người tình của cô ta có ý định cưới xin. Nhưng vì sao cô ta lại gọi cho anh? Cô ta không cần sự có mặt của anh thì mới có thể nộp được đơn ly dị. Và vì sao anh cứ lặp lại những luận điệu ngu ngốc mà anh đã nghĩ tới cách đây 4 ngày khi nhận được thư của cô ta? 5 hay 6 dòng gì đó bằng nét chữ viết tay tròn trịa của Miriam chỉ nói rằng cô ta sắp có con và muốn gặp anh. Anh lập luận rằng việc cô ta có bầu sẽ đảm bảo cho vụ ly dị được tiến hành, nhưng vì sao lúc này anh lại thấy lo lắng cơ chứ? Điều khiến anh bị tra tấn nhất là ở một vùng đất sâu thẳm trong tâm hồn, anh thấy ghen tị vì cô ta đang mang thai con của một người đàn ông khác, nhưng lại từng bỏ đi đứa con của anh. Không, anh tự nhủ rằng chẳng có gì ngoài cảm giác xấu hổ khiến anh bực bội, xấu hổ vì anh đã từng yêu một người như Miriam. Anh dập tắt điếu thuốc lên mặt lò sưởi. Đầu thuốc lăn xuống chân và anh đá nó vào phía dưới lò sưởi. Hiện giờ, có rất nhiều thứ để hướng tới. Ly dị, công việc ở Florida - gần như chắc chắn Ban giám đốc sẽ duyệt các bản vẽ của anh và trong tuần này thôi, kết quả sẽ ngã ngũ - rồi cả Anne nữa. Bây giờ, anh và Anne đã có thể bắt đầu lên kế hoạch được rồi. Hơn 1 năm qua, anh đã chờ đợi, cáu bẳn, mong đợi chuyện này xảy ra để anh được tự do. Cảm nhận được sự hạnh phúc đang bùng nổ một cách dễ chịu, anh thả lỏng người trên chiếc ghế xa hoa. Thật sự, suốt 3 năm qua, anh vẫn mong chờ chuyện này xảy ra. Anh có thể trả tiền để ly dị, tất nhiên, nhưng anh chưa bao giờ gom góp được nhiều tiền tiết kiệm như lúc này. Không có nhiều phúc lợi vì anh không làm việc ổn định ở một công ty nào, khởi nghiệp là một kiến trúc sư chưa bao giờ là một điều dễ dàng và ngay cả bây giờ cũng vậy. Miriam chưa bao giờ đòi lấy thu nhập của anh, nhưng cô ta yêu sách anh theo cách khác, nói chuyện về việc anh ở Metcalf như thể họ vẫn còn tốt đẹp lắm, như thể anh tới New York chỉ để thể hiện bản thân và cuối cùng sẽ đưa cô ta tới cùng. Thỉnh thoảng, cô ta lại viết thư vòi tiền anh, những khoản tiền nhỏ thôi nhưng rất phiền nhiễu, anh vẫn gửi bởi vì cô ta có thể thản nhiên khởi động một chiến dịch chống lại anh ở Metcalf, mà mẹ anh thì vẫn đang ở đó. Một chàng trai trẻ tóc vàng, cao ráo, mặc bộ vest màu nâu đồng vừa ngồi phịch xuống chiếc ghế trống đối diện Guy và nở một nụ cười có phần thân thiện, sau đó dịch người vào trong góc. Guy liếc nhìn khuôn mặt nhỏ thó, xanh xao của cậu ta. Có một cái mụn lớn ở giữa trán cậu. Guy lại đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Chàng trai ngồi đối diện có vẻ đang đấu tranh xem nên bắt chuyện hay đánh một giấc. Khuỷu tay của cậu ta liên tục trượt dọc bục cửa số và mỗi khi hàng lông mi rậm rạp mở ra, đôi mắt xám đỏ quạch lại nhìn anh cùng với một nụ cười mỉm trên môi. Có lẽ cậu ta đang ngà ngà say. Guy mở sách ra đọc, nhưng đầu óc anh lại đi lang thang ngay sau một nửa trang giấy. Anh ngẩng lên khi hàng bóng đèn huỳnh quang trắng lập lòe chiếu xuống từ nóc toa tàu, ánh mắt vẩn vơ chạm vào một điếu xì gà chưa được châm đang xoay tròn lơ đãng bởi một bàn tay xương xẩu sau lưng ghế, sau đó anh nhìn vào hàng chữ viết hoa được lồng vào nhau đang lắc lư trên một sợi dây vàng mỏng vắt qua cà vạt của chàng trai ngồi đối diện. Hàng chữ ấy là CAB, chiếc cà vạt bằng lụa xanh lục, bên trên là những cây cọ chướng mắt màu da cam được vẽ bằng tay. Cơ thể thon dài mặc bộ đồ màu nâu đồng ấy đang nằm duỗi ra một cách ẻo lả, đầu ngả ra phía sau khiến cho cái nhọt lớn hoặc vết sưng trên trán kia trông như một ngọn núi lửa sắp phun trào. Đó là một khuôn mặt thú vị, dù Guy không biết vì sao. Trông nó chẳng già cũng chẳng trẻ, không thông tuệ cũng chẳng hoàn toàn ngu đần. Giữa vầng trán dô hẹp và quai hàm nhô ra, mọi thứ hõm xuống một cách nguyên thủy, hõm sâu nơi miệng hằn thành một đường thẳng, nhưng sâu nhất thì phải nói đến cái hõm xanh chứa hai mi mắt nhỏ hình vỏ sò. Da dẻ mịn như con gái, thậm chí là trơn nhẵn, như thể mọi bụi bẩn đã được rút sạch đế nuôi dưỡng cái mụn. Trong giây lát, Guy lại đọc sách. Các con chữ dần có ý nghĩa và bắt đầu xua tan sự lo lắng trong anh. Nhưng Plato* có thể giúp gì cho anh trong chuyện Miriam cơ chứ, một giọng nói trong lòng anh cất tiếng hỏi. Nó đã hỏi anh câu đó ở New York, nhưng anh vẫn mang cuốn sách theo, một cuốn sách cũ từ lớp triết hồi trung học, có lẽ là một sự tùy hứng để bù đắp cho việc anh phải tới gặp Miriam. *Plato (427 - 347 trước Công nguyên), là nhà đại hiền triết và nhà giáo dục của Hy Lạp cổ, đồng thời cũng là một trong các nhà tư tưởng quan trọng nhất, đã viết ra nhiều tác phẩm giá trị, tạo nên ảnh hưởng rộng lớn trong nền Triết học phương Tây. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ, mắt chạm vào hình ảnh của chính mình đang vuốt phẳng cổ áo cong tớn. Anne luôn giúp anh làm việc đó. Đột nhiên, anh cảm thấy bất lực khi không có cô. Anh chuyển tư thế, vô tình va vào bàn chân duỗi ra của chàng trai đang ngủ, thích thú quan sát khi hàng lông mi của cậu ta nhíu lại rồi mở ra. Đôi mắt đỏ quạch hẳn đã tập trung nhìn anh từ nãy đến giờ qua hàng lông mi. “Xin lỗi,” Guy lầm bầm. “Không sao,” cậu ta nói, ngồi thẳng dậy và lắc đầu thật mạnh. “Chúng ta đang ở đâu?” “Đang vào Texas.” Mời các bạn đón đọc Người Lạ Trên Tàu của tác giả Patricia Highsmith.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bí mật Shakespeare - Jennifer Lee Carrell
Sau khi ra mắt (từ tháng 1/2008), “The Shakespeare Secret” (Bí mật Shakespeare) hay còn có tên khác là “Interred with Their Bones” - tiểu thuyết đầu tay của Jennifer Lee Carrell đã lọt vào top 5 cuốn sách bán chạy nhất. Tác phẩm tạo thành một hiện tượng mới của làng xuất bản Mỹ với mức độ thành công tương đương với “Mật mã Da Vinci” của Dan Brown. The Shakespeare Secret (Bí mật Shakespeare) là một tiểu thuyết ly kỳ liên quan đến một vở kịch bị mất của Shakespeare, vở kịch The History of Cardenio. Vào một ngày tháng 6 năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dựng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị, khoa trương của trường ĐH Harvard chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho cô bạn mình là Katharine Stanley - đạo diễn người Mỹ đang dựng vở kịch Hamlet ở nhà hát Globe - một hộp nhỏ gói giấy vàng.  Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta đã giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind, chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời nữ hoàng Victoria được trang trí những bông hoa liên quan đến Ophelia, đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah; Arizona; Washington, D.C.; và quay trở lại London. Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo của vụ giết người.  Từ những tài liệu của Shakespeare cho đến những hầm mỏ hoang tàn, từ hiện tại đến quá khứ, tiểu thuyết tâm lý hành động của tác giả Jennifer Lee Carrell chứa đựng nhiều bất ngờ, hồi hộp và thú vị. Sức hút của tác phẩm được thể hiện rất rõ qua viện Bản quyền tác phẩm đã bán cho 20 quốc gia trên toàn thế giới. *** Một ngày tháng Sáu năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dụng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho Katharine Staley - đạo diễn người Mỹ một hộp nhỏ màu vàng. Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đáng ngờ đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời Nữ hoàng Victoria đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah Anzona… Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết một cách bất ngờ khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo… “Những điều xấu xa người ta làm vẫn sống sau họ, trong khi những điều tốt đẹp thường bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ.” Bí mật Shakespeare đã tạo ra một hiện tượng mới trong làng xuất bản Mỹ, với mức độ thành công tương đương với Mật mã Da Vince của Dan Brown. *** LỜI TÁC GIẢ: Một buổi tối mùa thu khi tôi mới bắt đầu vào đại học, trong lúc đang lục lọi tìm kiếm giữa những cuốn sách cũ trong căn phòng phía sau thư viện Child, góc riêng tư của khoa Anh văn nằm ở một góc tầng trên cùng thư viện Widener của trường Harvard, tôi bắt gặp bộ sách bốn tập: Sân khấu thời Elzabeth của E. K. Chambers, xuất bản năm 1923. Tôi lần lượt giở qua từng tập. Những tập sách này đầy ắp thông tin, phần lớn chúng tôi không biết có thể sử dụng làm gì, chẳng hạn như ghi chú rằng “rất nhiều diễn viên thời Elizabeth cũng là nghệ sĩ nhào lộn, và hiển nhiên có thể đi trên dây”. Tuy vậy, ở cuối tập ba, tôi tìm thấy vài trang nói về những vở kịch của Shakespeare, gồm cả một mục ngắn có tên “Những vở kịch đã thất lạc.” Tôi biết phần lớn những vở kich được viết bằng tiếng Anh thời Phục hưng đã không tồn tại được đến ngày nay, và vì thế tôi nghĩ - một cách mơ hồ - rằng một số tác phẩm Shakespeare sáng tác chắc chắn cũng đã thất lạc. Điều làm tôi ngạc nhiên là Chambers biết được một vài điều về những tác phẩm đã mất. Đập vào mắt tôi, bằng giấy trắng mực đen, là hai cái tên, và trong trường hợp của vở kịch Cardenio còn có cả nội dung sơ lược. Tôi bắt đầu tự hỏi sẽ ra sao nếu tìm được một trong những vở kịch này. Ở nơi nào người ta có thể khám phá ra một thứ như vậy? Và khoảnh khắc của sự khám phá sẽ như thế nào? Và liệu một khám phá như thế sẽ ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của một người - ngoài việc hiển nhiên người đó sẽ lập tức trở nên giàu có và nổi tiếng? Nhưng địa điểm thích hợp nhất để tìm kiếm những vở kịch thất lạc của Shakespeare là các thư viện ở châu Âu và những ngôi nhà cổ. Nhưng tất nhiên, nếu một vở kịch nằm ở nơi dễ đoán như vậy, thì nó đã được tìm ra từ lâu. Theo cách chủ quan của những kẻ nằm mơ ban ngày, tôi bắt đầu suy nghĩ xem ở nơi nào ngoài nước Anh, và cụ thể hơn, ở một số địa điểm tôi có thể thực sự tìm thấy nó, chẳng hạn New England (hay ít nhất nơi nào đó ở hành lang Đông Bắc giữa Boston và Washington D. C. ) hay vùng sa mạc phía tây nam. Thỉnh thoảng, tôi đi xa đến mức tìm kiềm những chiếc hộp đựng những cuốn sách sờn cũ trong cửa hiệu bán đồ cổ nằm trong những ngôi nhà thô kệch sau nhưng con đường mà tôi tình cờ đi qua trong lúc lang thang ở New England. Nhưng chẳng có ai lại để, cho dù một khổ thơ của Shakespeare chứ đừng nói tới cả tập bản thảo, nằm yên tại đó. Ở đâu đó trên bước đường tìm kiếm, tôi tự thừa nhận với mình rằng sẽ chẳng bao giờ tôi thực sự tìm thấy một trong các vở kịch thất lạc của Shakespeare - và rằng có thể sẽ thú vị hơn khi biến nó thành một câu chuyện, vì như thế tôi có thể kiểm soát những gì xảy ra, và xảy ra với ai. Và sau đó tôi nghĩ - tại sao không bám lấy bí mật khác thậm chí còn lớn hơn về Shakespeare? Ông là ai? Tôi đã mất hơn một thập kỉ chỉ để bắt đầu, nhưng Bí mật Shakespeare hay Chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ là kết quả. Đoạn văn trong tập sách của Chambers khởi đầu cho toàn bộ câu chuyện này, với vài chỉnh sửa nhỏ, chính là đoạn văn mà Kate đã đọc trong truyện. Những địa điểm liên quan tới Shakespeare xuất hiện trong cuốn tiểu thuyết đều là những địa danh có thật, mặc dù tôi đã tự cho phép mình hư cấu đôi chút ở một vài chỗ cho phù hợp với mạch chuyện. Những giả thiết về danh tính thực của Shakespeare cũng đều có thật - ít nhất với tư cách là những giả thiết. Cuối cùng, rất nhiều nhân vật lịch sử được hư cấu từ các sự kiện có thật. Tất cả các nhân vật hiện đại đều là hư cấu. Một mục ghi chú trong cuốn Đăng kí Stationers (một dạng bản quyền sơ khai ở nước Anh) xác nhận Shakespeare là đồng tác giả của vở kịch Cardenio cùng với John Fletcher, người kế tục ông trong vai trò nhà soạn kịch chính cho đoàn kịch của nhà vua (và cũng là đồng tác giả với ông trong nhiều vở kịch khác). Tôi chọn “tìm ra”  Cardenio vì trong hai vở kịch đã thất lạc mà chúng ta biết nhan đề, đây là vở kịch chúng ta biết được nhiều chi tiết về nội dung hơn, và cũng bởi vì nguồn gốc của vở kịch này, từ cuốn tiểu thuyết Don Quixote của Miguel de Cervantes, cho nó một mối liên hệ mơ hồ với vùng thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ, và do đó liên quan tới vùng tây nam nước Mỹ - một vùng đất tôi yêu mến, và là nơi tôi muốn các nhân vật của mình chơi trò đi tìm kho báu với vở kịch của Shakespeare. Vở kịch thất lạc còn lại - những nổ lực vì tình yêu được đền đáp - đã biến mất hoàn toàn, nhưng Cardenio đã xuất hiện trở lại dưới dạng bản thảo vào thế kỉ mười tám, khi Lewis Theobald “hiện đại hóa” nó trên sân khấu London. Bản thảo gốc, mà phần lớn học giả chấp nhận coi là xác thực, đã thất lạc, nhưng một bản rút gọn với cái tên Hai sự dối trá [sic] đã tồn tại tới ngày nay. Nhìn chung, bản phóng tác này thực sự kinh khủng đúng như Kate nói: đầy những lỗ hổng, chằng chịt những chỗ vá víu vụng về như khuôn mặt của Frankeinstein. Tuy vậy, rải rác trong bản thảo này có những câu có vẻ như đúng là do Shakespeare hay Fletcher - ở mức độ từng câu riêng lẻ, khó mà phân biệt giữa sự phụ hay đồ đệ, cũng giống như việc phân biệt giữa tranh của Rembrandt với tranh có xuất xứ từ “xưởng họa của Rembrandt” ở mức độ nhát cọ. Hai sự dối trá là nguồn gốc của những từ mà Kate cũng như những người khác đã nhận định là của Shakespeare trong cuốn tiểu thuyết này. Ngoại lệ duy nhất là câu chỉ đạo diễn xuất và dòng thoại về Sancho và Don Quixote: tôi phải mang gánh nặng trách nhiệm về những câu này vì trong bản rút gọn tôi đang nói đến không còn chút dấu vết nào của nhà quý tộc già điên rồ cùng anh hầu thực dụng của ông. Tuy vậy, giống như Kate, tôi muốn nghĩ rằng Shakespeare hẳn sẽ nhìn ra hai người này là không thể thiếu cho sự trào phúng và dẫn dắt mạch chuyện, và do đó chắc đã đưa họ vào dưới một dạng dẫn chuyện nào đó. Tôi đã đọc một giả thiết học thuật, do Richard Wilson đưa ra trong cuốn Shakespeare bí mật (Đại học Manchester xuất bản năm 2004) , cho rằng Cardenio có thể có mối liên hệ nào đso với gia đình Howard và cái chết của hoàng tử Henry. Gia đình Howard ủng hộ Tây Ban Nha và là những tín đồ Thiên chúa giáo bí mật, và nổi tiếng đố kỵ, nhất là bá tước Northampton và cháu ông ta, bá tước Suffolk (Để cho đơn giản, tôi sử dụng tước vị này để nói về hai người đó trong cuốn tiểu thuyết, mặc dù cả hai chỉ được phong bá tước sau khi vua James lên ngôi). Đúng là có những lời đồn đại về mối quan hệ tình ái giữa Frances Howard và hoàng tử, và theo những lời đồn “sự kiện chiếc găng tay” đã thực sự xảy ra (mặc dù tên của quý bà vẫn được giữ kín) ; câu chuyện khủng khiếp về việc Frances đầu độc một trong những tình nhân của chồng bằng những chiếc bánh tẩm thuốc độc đã được ghi lại rất chi tiết trong các tài liệu tư pháp, và bà ta đã thực sự bị phán quyết là có tội trước tòa. Tuy nhiên, chi tiết về những rắc rối của gia đình Howard và Shakespeare và nhà hát Quả cầu hoàn toàn do tôi tưởng tượng ra. Trong khi cách đơn giản nhất nói rằng William Shakespeare người Stratford đã viết những vở kịch mang tên ông, vẫn có rất nhiều ý kiến phản biện, từ thú vị gây tò mò tới thô thiển kỳ quặc, cho rằng có thể không phải như vậy. Tuy nhiên, vấn đề chính mà mọi giả thiết về “một người khác” đều không tránh khỏi, đó là tất cả đều đòi hỏi một sự đồng thuận im lặng: Nếu có một ai khác đã viết những vở kịch, thì chưa từng ai tiết lộ bí mật này. Trong một môi trường đầy rẫy những chuyện ngồi lê đôi mách, nói xấu sau lưng, những lời châm chọc đến mức chuyên nghiệp như tại triều đình của Elizabeth và James, đây là một thiếu sót không nhỏ. Nhiều hiệp hội của những người “chống lại giả thiết người Stratford (anti-Stratfordian)” hiện vẫn tồn tại - từ những tổ chức học thuật cho tới những nhóm theo lý thuyết âm mưu mang tính sùng bái. Rất nhiều người hâm mộ giải mã nhưng thông điệp được mã hóa mà theo họ tiết lộ danh tính của rất nhiều rác giá khác như là tác giả thực thụ, người đã ẩn danh một cách có chủ ý, của những tác phẩm được xuất bản dưới cái tên của “William Shakespeare”. Hai cái tên thay thế mà số người ủng hộ nhiều nhất - và cũng đáng tôn trọng nhất - là bá tước Oxford và Francis Bacon. Các ứng viên sáng giá khác gồm Christopher Marlowe; Edmund Spence; Philip Sidney và em gái ông Mary Herber, nữ bá tước Pembroke; Nữ hoàng Elizabeth; Walter Raleigh; bá trước Southampton, Derby, và Rutland, và một hội đồng bí mật gồm tất cả những người kể trên, được cho là do Bacon, hay Oxford, hoặc cả hai, chủ tọa. Còn điên rồ đến mức khó lý giải hơn là những người ủng hộ cho Henry Howard, bá tước Sussex (bị chặt đầu bốn mươi tư năm trước buổi công diễn đầu tiên một vở kịch của Shakespeare) và Daniel Defoe (ra đời bảy mươi năm sau buổi công diễn đầu tiên vừa nhắc tới ở trên). Một bổ sung mới nhất cho danh sách thu hút được sự chú ý nghiêm túc là vị triều thần khiêm tốn Henry Neville. Edward de Vere, bá tước Oxford đời thứ bảy, hiện là nhân vật được những người anti-Stratfordian ưa thích nhất. Những đoạn đảo chữ và ám chỉ về Oxford tromg cuốn sách này trên thực tế đều đã được đưa ra làm bằng chứng để chứng minh rằng bá tước là người viết các vở kịch. Như Athenaide đã chỉ ra, họ của ông ta - Vere - có liên quan tới từ Latinh verum, hay “sự thật” , theo một truyền thống lâu đời, và câu phương châm của gia đình ông ta - Vero nihil verius, tức “Không có gì đúng hơn sự thật” cũng tham dự vào mối liên hệ này. Đó là cách làm của những người ủng hộ ông ta ngoài đời thực: tìm kiếm những quan hệ “nghi ngờ” hay “có ý ngĩa” tới sự thật về Shakespeare. Từ “ever” là một bằng chứng thuyết phục khác. Người đầu tiên ủng hộ Oxford (hay Oxfordian) một cách nghiêm túc là J. Thomas Looney (đọc là “Loney” ), cuốn sánh Nhận diện “Shakespeare” của ông được xuất bản năn 1920 đã thuyết phục được nhiều người, trong đó có Sigmund Freud. Tuy vậy, Francis Bacon mới là tác giả thay thế được nhắc tới sớm hơn cả; những lập luận nghiêm túc nghiêng về ông đã được Delia Bacon và một vài người khác đưa ra từ những năm 1850. Những người ủng hộ Bacon (hay các Baconian) đã nghiên cứu kỹ lưỡng những tác phẩm của Shakespeare và các tác pharm thời Phục hưng khác với một sư hăng say mãnh liệt, khám phá ra vô số đoạn đảo chữ, ẩn ngữ theo chữ cái đầu, mật mã số và từ đồng nghĩa (thường là về “hog” (lơn thịt) và “bacon” (thịt muối) mà theo họ đã chỉ ra người hùng của họ chính lá tác giả các vở kịch; và thêm vào đó Bacon còn thường được cho là con trai của Nữ hoàng Elizabeth). Một số người thậm chí còn đi xa tới mức xem xét những buổi lên đồng hay đi đào trộm mộ. Tuy vậy, không phải tất cả những người ủng hộ Vacon đều dễ dàng bị khuất phục; trong số họ có cả các học giả, tác giả, luật gia, và thẩm phán ở cả nước Anh lẫn nước Mỹ. Tính đến nay bài viết mà các Baconian thích đọc nhất là bài tiểu luận của Mark Twain - “Có phải Shakespeare đã chết?”. Cho dù anh ta còn là gì khác nữa, chắc chắn Bacon là một người vừa xuất chúng vừa khôn ngoan. Đã từng có thời gian là chánh án của Hoàng gia, ông đã phát minh ra một hệ thống mật mã phức tạp đáng khâm phục mà Jem Branville đã sử dụng trong cuốn tiểu thuyết này. Bacon đã công bố mật mã năm 1623, cùng năm Tuyển tập Đầu tiên xuất hiện. Người đề xướng ra cái tên của bá tước Derby đời thứ sáu là Abel Lefranc, nhà nghiên cứu lịch sử văn học Pháp và giáo sư trường đại học Pháp, vào những thập kỷ đầu của thế kỉ hai mươi. Bất chấp tên của Derby (William) , những chữ cái đầu tiên tên goi (W. S. ), và cuộc đời nằm trong khoảng thời gian phù hợp, với những người nói tiếng Anh, tư cách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. ách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. Tác phẩm không hư cấu (và cũng không thiên vị) đáng chú ý nhất nói về những tranh cãi về tư cách tác giả này là cuốn Ai đã viết những tác phẩm của Shakespeare? Của John Mitchell (Thames và Hudson, 1996). Về một cái nhìn ủng hộ Shakespeare người Stratford, xin mời xem Cuộc điều tra vì Shakespeare của Scott McCrea (Praeger, 2005). Nhà hát Quả cầu nguyên bản bị cháy rụi vào ngày 29 tháng Sáu năm 1613 (một ngày thứ Ba, theo lịch Julian cũ) trong một buổi biểu diễn vở Henry VIII, sau đó được biết đến với cái tên Tất cả đều đúng. Theo những gì đã biết cho tới nay, đó là một tai nạn, do những tia lửa từ những phát đại bác bắn ra làm hiệu ứng đặc biệt rơi vào mái rạ. Những nhân chứng tận mắt chứng kiến đã thuật lại có một người đàn ông bị bỏng nhẹ trong khi cứu một đứa bé bị kẹt trong đám cháy; lửa bám vào người anh ta được dập tắt bằng bia. Nhà hát Quả cầu mới đúng là tòa nhà đầu tiên lợp mái rạ được chấp nhận ở khu vực phụ cận London từ sau vụ cháy lớn năm 1666. Những công trình kỉ niệm và nà hát về Shakespeare ở Stratford-upon-Avon đều nổi tiếng trên toàn thế giới. Thư viện Folger về Shakespeare ở trên đồi Capitol tại Washington D. C. sở hữu bộ sưu tập phong phú nhất về Shakespeare. Witon, tư gia của bá tước Pembroke, là một trong số ít địa điểm mà Shakespeare chắc chắn đã từng tới thăm còn tồn tại đến ngày nay - việc ông từng có mặt ở đây còn chắc chắn hơn tại bất cứ tòa nhà nào ở Stratford, ngoại trừ nhà thờ nơi ông được an táng. Bản copy tại tại Wilton, đài tưởng niệm Shakespeare ở Westminster cùng những thay đổi và những chữ cái viết hoa lạ lùng đều chính xác, mặc dù tôi đã tưởng tượng ra những màu sơn nhấn mạnh sự đảo chữ. Cũng như vậy, có một loạt tranh về chủ đề Arcadia trong gian phòng theo phong cách Palladian vẫn được gọi là phòng Lập phương, mặc dù tôi đã hư cấu đôi chút cho phù hợp với câu chuyện của mình. Ngăn hốc bí mật đằng sau một trong những bức họa đó là do tôi tưởng tượng ra. “Bức thư bị thất lạc” của nữ bá tước gửi cho con trai, nói rằng “chúng ta đang có Shakespeare ở đây” , đã được đề cặp tới trong tài liệu vào thế kỉ mười chín, nhưng từ đó tới nay chưa có học giả nào được nhìn thấy tận mắt. Bức thư của Will gửi cho con Thiên nga Ngọt ngào nhất là do tôi hư cấu. Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid được vua Tây Ban Nha Philip II thành lập nhằm mục đich đào tạo các thanh niên người Anh thành tu sĩ  Thiên chúa giáo và (theo cách nhìn của Nữ hoàng Elizabeth) gây ra những cuộc nổi loạn tôn giáo tại đất nước họ. Học viện này hiện vẫn tồn tại đào tạo thanh niên người Anh thành tu sĩ. Trong thư viện tuyệt vời của học viện này đã từng có một cuốn Tuyển tập Đầu tiên, nhưng tôi được nghe kể lại cuốn sách đã bị bán đi vào đầu thế kỉ hai mươi. Vào năm 1601, tám năm sau khi Christopher Marlowe bị sát hại, một “Christopher Morley” - tên gọi Marlowe từng sử dụng khi còn sống - được ghi lại trong tư liệu lưu trữ là đang theo học tại học viện. Tới năm 1604, Cervantes cũng có mặt tại thành phố này và hoàn tất Don Quixote tại đây. Những khu mỏ, thị trấn, và các nhà hát liên quan đến Shakespeare tồn tại nhiều vô số kể ở khắp miền tây Hoa Kỳ: những khu mỏ được đặt tên theo các nhân vật và vở kịch của Shakespeare rải rác khắp dãy núi Colorado. Nghiên cứu của Roz về chủ đề này chính là của tôi, được tiến hành cho một bài viết tôi thực hiện cho tạp chí Smithsonian với tên gọi “Một thi sĩ đã chinh phục miền Tây như thế nào” [Tháng Tám, 1998]. Thành phố Cedar, nằm ở vùng núi đá đỏ au của bang Utah, là nơi diễn ra Festival về Shakespear ở Utah, thành phố này rất tự hào về một bản sao mới xây lại của nhà hát Quả cầu thời Elizabeth - mặc dù tôi đã thêm vào Văn khố Preston dưới dạng bản sao ngôi nhà Shakespeare ra đời tại Stratford-upon-Avon. Vụ cá cược về vai diễn Hamlet của Jem Granville được lấy cảm hứng từ một vụ cá cược có thật đã diễn ra vào năm 1861 ở Denver. Tôi đã xây dựng nội dung những bài báo trong tiểu thuyết từ những phóng sự trên tờ Tin tức Rocky Moutain thuật lại một cách chi tiết cuộc cá cược có thật trong lịch sử này. Thị trấn ma mang tên Shakespeare nằm ở miền tây New Mexico, gần Lordsburg, trên biên giới bang Arizona; tôi đã nghe được câu chuyện về Bean Belly Smith vài lần từ những người chủ nhà. Tuy nhiên, tòa dinh thự của Athenaide nằm ở cuối con đường duy nhất của thị trấn là do tôi hư cấu thêm, mặc dù tòa lâu đài “nguyên bản” của Hamlet mà dinh thự đó mô phỏng theo là một địa điểm có thật - lâu đài Kronborg ở ngoại ô Elsinore (hay Helsingor) ở Đan Mạch, cũng như đại sảnh khiêu vũ tại lâu đài Hedingham, nơi đã từng là tư dinh của bá tước Oxford. Sự ám ảnh của những người theo trường phái Oxfordian với vở kịch Hamlet là có thật; những người này đã diễn giải giải vở kịch như một cuốn tự truyện được mã hóa của ứng cử viên họ ủng hộ. Như nhận xét của Kate và Athenaide, quả thực vở kịch có không ít điểm tương đồng đến kỳ lạ với cuộc đời của Oxford. Học giả người Mỹ Delia Bacon đã bị điên năm 1857 trong khi đang viết tác phẩm nổi tiếng Làm sáng tỏ [sic] triết lý trong những vở kịch của Shakespeare. Câu chuyện bà thức trắng đêm trước ngôi mộ của Shakespeare tại nhà thờ Thánh Ba ngôi ở Stratford được tái hiện theo đúng lời kể của chính bà về sự kiện này, trong một lá thư gửi cho người bạn Nathanien Hawthorne. Mục sư của nhà thờ Thánh Ba ngôi, Granville J. Granville, đã cho phép bà làm việc đó; mục sư Granville có vài người con, nhưng Jeremy (Jem) là do tôi hư cấu thêm vào gia đình ông. Cũng như vậy, bác sĩ George Fayrer đúng là người đã đưa Delia vào trại điên tư của ông ở Henley-in-Arden vào ngày 30 tháng Mười một năm 1857, nhưng cô con gái Ophelia của ông hoàn toàn là sản phẩm từ trí tưởng tượng của tôi. Francis J. Child là giáo sư Anh văn tại Đại học Harvard từ năm 1876 cho tới tận khi ông qua đời năm 1896; bộ sưu tập các bản ballad bình dân của Anh và Scotland do ông thực hiện cho đến nay vẫn là một trong những công trình học thuật lớn về văn học Anh. Ông cũng là một học giả xuất sắc về Shakespeare. Giống như trong tiểu thuyết, hoa hồng là một niềm đam mê lớn nữa của đời ông (và quả thực có một cây hồng Lady Banks lâu năm rất nổi tiếng mọc trong vường sau một nhà trọ - ngày này là bảo tàng - ở Tombstone, bang Arizona, mặc dù tôi đã lùi thời gian nó được trồng sớm lên vài năm). Tôi hy vọng hương hồn ông sẽ tha thứ cho tôi vì đã gán cho ông một đứa con sinh ra từ tình yêu. Những bài sonnet của Shakespeare có vẻ được viết một cách rõ ràng dành cho chàng thanh niên tóc vàng rụt rè hoặc quý bà tóc đen bí hiểm, thi sĩ có vẻ như bị ràng buộc với hai người này trong mối tình tay ba. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã bỏ công sức nhằm xác định xem quý bà và chàng thanh niên là ai; chưa ai trong số hai nhân vật bí ẩn này được xác định danh tính một cách thuyết phục. Trong mười bảy bài sonnet đầu tiên, Shakespeare cầu khẩn chàng thanh niên hãy có một đứa con. Thật đáng tò mò, lòi nói đầu của Theobald cho vở kịch Hai sự dối trá có ảm chỉ đến một người con gái ngoài giá thú của Shakespeare chưa từng được nhắc tới ở bất cứ nơi nào khác. Thi sĩ - người kể chuyện của những bài sonnet bị giày vò bởi ngọn lửa ghen tuông vì mối quan hệ giữa chàng thanh niên và quý bà tóc đen, việc gán đứa bé gái này cho quý bà và làm cho danh tính người cha đưa bé mơ hồ cũng là tự nhiên - nhưng mối liên hệ này là do tôi hư cấu nên và không hề được tìm thấy trên thực tế. Nicholas Hilliard quả thật là họa sĩ nổi bật nhất nước Anh vào thời Shakespeare còn sống; theo một nghĩa nào đó, có thể coi ông như là Shakespeare của mỹ thuật. Hilliard chuyên vẽ những bức chân dung cỡ nhỏ với những chi thiết tinh xảo, chính xác như một bức ảnh chụp. Bảo tàng Victoria và Albert ở London sở hữu một bức chân dung như vậy, vẽ một người đàn ông với hậu cảnh là những ngọn lửa. Thomas Shelton là quản gia mang hai dòng máu Anh và Ireland của gia đình Howard, đúng là người đã dịch Don Quixote sang tiếng Anh; bản dịch của ông ta được xuất bản năm 1612. Trong khi người em của ông ta chỉ là nhân vật hư cấu, trên thực tế đã có một số lượng không nhỏ người Anh theo Công giáo mộ đạo bí mất trốn tới lục địa để học tại các trường dòng giống như Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid. Những tu sĩ Jesuit người Anh thường được gửi trở lại Anh để coi sóc phần hồn cho những tín đồ Thiên chúa giáo ở nước này một cách bí mật. Những tu viện xuất hiện sớm nhất ở Santa Fe và vùng lân cận, ở khu vực hiện nay là bang New Mexico, đều thuộc dòng tu Franciscan. Người bản địa châu Mỹ ở khắp vùng tây nam - lúc đó là Tân Tây Ban Nha với người Âu - liên tiếp nổi dậy trong thế kỉ mười bảy, tàn sát những người Tây Ban Nha xâm lược, đặc biệt là các tu sĩ. Dãy núi Dragoon ở vùng đông nam Arizona là căn cứ địa của người Apache cho tới khi Geronimo bị bắt năm 1886. (Người thủ lĩnh Apache vĩ đại Cochise yên nghỉ ở một địa điểm bí mật nào đó trong những dãy núi này). Mặc dù tôi đã hư cấu ra hẻm núi và khu hang động trong đó Kate tìm thấy kho báu bị chôn vùi cùng những bộ hài cốt, quả thực vùng này chứa đựng vô số hang động. Hang động Kartchner nằm gần đó (và mới được phát hiện gần đây) là một ví dụ tuyệt vời về những “cung điện tự nhiên” mà những lòng núi rỗng chắc hẳn vẫn còn ẩn giấu. “Chữ ký” trong cuốn Kinh thánh của vua James vẫn luôn nằm đó cho bất kỳ ai muốn xem (hay muốn đếm). Tại sao nó lại có mặt ở đó là câu hỏi vẫn chưa được giải đáp, và tôi cũng không rõ ai đã “phát hiện” ra nó. Không ai biết rõ bài Thánh thi số bốn mươi sáu, hay toàn bộ Sách các Thánh thi, được hoàn thành vào thời điểm nào (mặc dù thời điểm đó chắc chắn nằm giữa năm 1604 và 1610) , hay ai đã phụ trách bài Thánh thi nào. Cả Lancelor Andrewes, thu viện trưởng Westminster và sau đó là giám mục Chichester, và Laurence Chaderton, hiệu trưởng trường Đại học Emmannuel ở Cambridge, đều là những nhà thần học đã tham gia biên soạn cuốn Kinh thánh, và Chaderton, một người theo Thanh giáo, là thành viên của “Ủy ban Cambridge thứ nhất” được phân công phụ trách các bài Thánh thi. Tuy nhiên, bức thư của giám mục có nói đến Chaderton là do tôi tưởng tượng ra. Mặt khác, ngày tháng năm sinh của Bacon, Derby, và nữ bá tước Pembroke đều dựa trên các tư liệu lịch sử chính thức. Biến một giấc mơ giữa ban ngày thành một cuốn tiểu thuyết hóa ra lại cần đến vô số sự giúp đỡ và lời động viên. Trước hết và trên hết, tôi muốn cám ơn Brian Tart và Mitch Hoffman, sự kiên nhẫn cùng đôi mắt sáng suốt của họ đã giúp tôi định hình cuốn sách này. Bằng cách nào đó, họ đã giúp tôi luôn giữ được tiếng cười. Neil Gordon và Erika Imranyi đã giúp quá trình sáng tác của tôi được trôi chảy. Noah Lukeman tin chắc đây là cuốn sách tôi nên viết và đã làm những điều kỳ diệu để biến nó thành sự thật. Vì những ý kiến chuyên môn và tư liệu về nhiều lĩnh vực mà họ đã cung cấp, tôi cũng muốn gửi lời cám ơn tới Ilana Addis, Michelle Alexander, Kathy Allen, Bill Carrell, Jamie de Courcey, Lionel Faitelson, Dave và Ellen Grounds, cha Peter Harris, Jessica Harrison, Charlotte Lowe-Bailey, Peggy Marner, Karen Melvin, Kristie Miller. Liz Ogilvy, Nick Saunders, Brian Schuyler, Dan Shapiro, Ronald Spark, Ian Tennent, và Heidi Vanderbilt. Diễn đàn Straw Bale và Câu lạc bộ văn học Tucson đã được nghe một số trang bản thảo ban đầu, và để được tham dự vào hai nhóm này, tôi phải biết ơn Bazy Tankersley. Tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt tới tiến sĩ Javier Burrieza Sanchez, thủ thư và quản lý văn khố tại Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid; tới Nigel Bailey, người quản lý, và Carol Kitching, hướng dẫn viên chính tại dinh thự Wilton và Wiltshire; và tới Sarah Weatherall tại nhà hát Quả cầu của Shakespeare, London. Tập thể nhân viên thư viện Folger ở Washington D. C. , cũng như nhà thờ Thánh Ba ngôi và trung tâm Thư viện Shakespeare, đều ở Stratford, cũng đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Hơn bất cứ ai khác, Marge Garber đã góp phần định hình suy nghĩ của tôi về Shakespeare trên những trang giấy. Những thành viên của đoàn sân khấu Hyperion tại trường Harvard, trong những năm 1996 - 1998, và Shakespeare & Company, tại Lenox, Massachusetts, đã dạy cho tôi biết tất cả những gì về Shakespeare trên sân khấu. David Ira Goldstein và đoàn kịch Arizona đã đón tiếp tôi đến với thế giới của sân khấu chuyên nghiệp như một người khách thường xuyên. Ba người đã lắng nghe, đọc và nhận xét không ngừng trong suốt quá trình cuốn sách này hình thành: Kristen Poole, học giả, người kể chuyện, và người bạn: mẹ tôi, Melinda Carrell, người đầu tiên truyền cho tôi tình yêu với những cuốn sách; và chồng tôi, Johnny Helenbolt. Không gì có thể nói hết lòng biết ơn của tôi dành cho Johnny. *** Jennifer Lee Carrell sống tại Tucson, Arizona, Mỹ. Bà có bằng tiến sĩ về văn học Anh và Mỹ, chuyên đạo diễn các vở kịch của Shakespeare cho đoàn sân khấu Hyperion. Jennifer Lee Carrell là một tác giả người Mỹ của ba cuốn tiểu thuyết và nhiều bài viết cho Tạp chí Smithsonian và Ngôi sao hàng ngày Arizona   Mời các bạn đón đọc Bí mật Shakespeare của tác giả Jennifer Lee Carrell.
Hokkaido Mê Trận Án - Soji Shimada
Tại Hokkaido, trên một mỏm cao xa tít tắp trông xuống biển khơi đầy băng trôi, có xây cất một công trình dị thường mà người trong vùng gọi là "nhà nghiêng". Công trình ấy gồm một ngôi nhà và một ngọn tháp tròn, cùng nghiêng về phía Nam, xây dựng rất kì công với thiết kế mê cung bên trong, nhưng hiện tại đang rơi vào tình trạng hoang phế, rao bán đã lâu mà chẳng ai hỏi mua, không chỉ vì vị trí quá hẻo lánh, mà còn vì nơi này từng xảy ra án mạng. Vào Giáng sinh năm nọ, sau đêm tiệc linh đình, một trong số khách khứa đã bị giết ở phòng kín, ngủ yên mãi mãi với tư thế tay giơ chân múa như cầu thần linh. Khi ai nấy chưa kịp trấn tĩnh, người khách thứ hai tiếp tục đi về cõi vĩnh hằng ở tư thế nằm sấp trong căn phòng kín bưng với ba lớp khóa. Mitarai Kiyoshi tài danh tìm đến, khẳng định có anh ở đây, sẽ không một ai phải chết nữa. Lời chưa ráo miệng, người khách thứ ba ra đi… Bộ đôi Mitarai và Ishioka ở Tokyo hoàng đạo án nay trở lại trong một phi vụ giết người đầy ảo diệu, sử dụng rất nhiều đạo cụ cầu kì… *** Soji Shimada là một tác giả chiêm tinh, nhà thiết kế, kiêm nhạc sĩ nổi tiếng người Nhật Bản. Tokyo hoàng đạo án là tiểu thuyết li kỳ đầu tay của ông, đã được vinh danh ở giải Edogawa Rampo vào năm 1981. Hơn 30 năm qua, Tokyo hoàng đạo án vẫn nằm trong danh sách các tác phẩm văn học bán chạy nhất của Nhật Bản, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Nga, Trung, Thái Lan, Tagalog…   Mời bạn đón đọc Hokkaido Mê Trận Án của tác giả Soji Shimada.
Nỗi Kinh Hoàng Trườn Tới - James Patterson
Nỗi kinh hoàng trườn tới được xây dựng trên một tam giác khác thường bậc nhất: Gary Soneji – tên tội phạm cực kỳ thông minh đang muốn gây ra một vụ long trời lở đất; Alex Cross – viên thám tử xuất sắc có nhiệm vụ phải ngăn chặn hắn ta, và Jezzie Flanagan – nữ giám sát viên đầu tiên của Sở Mật vụ. Điều đáng nói là, trong cuộc chơi này, Gary luôn ở cửa trên. Còn Alex và Jezzie, ngay giữa những thời khắc căng thẳng nhất của cuộc điều tra, lại chấp chới rơi vào một tình yêu cấm kỵ. Một thời điểm không thể tệ hơn được nữa. Những vụ án bí ẩn, cuộc cân não vừa căng thẳng vừa thú vị giữa tên tội phạm xuất sắc và tay thám tử xuất sắc, nhịp độ nhanh với những khúc ngoặt bất ngờ Nỗi kinh hoàng trườn tới có mọi yếu tố của một best seller kinh điển. Và quả vậy, nó đã mở đầu cho cả một series về Alex Cross, một trong những series trinh thám thành công nhất thế giới đã kéo dài suốt hai mươi lăm năm qua. Nhận định “James Patterson đã dọn sẵn cho người đọc một bữa tiệc “cảm giác” thịnh soạn.” (New York Times)   ***   Nhà văn James Patterson sinh ngày 22 tháng 3 năm 1947 tại thành phố Newburgh, bang New York. Ông từng tốt nghiệp cử nhân về tiếng Anh ở trường cao đẳng Manhattan và tiếp theo, đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ cũng về tiếng Anh ở Trường Đại học Tổng hợp Vanderbilt. Năm 1971, Patterson được nhận vào làm tại Công ty Quảng cáo James Walter Thompson. Chính ở đây nhà văn tương lai đã được thăng tiến rất mau lẹ trong công việc, từ một nhân viên bình thường lên tới giám đốc. Ngay khi đang làm quảng cáo, Patterson đã thử viết văn. Tiểu thuyết đầu tay của ông là Con số Thomas Berryman thoạt tiên đã bị nhiều nhà xuất bản từ chối. Mãi tới năm 1976, Con số Thomas Berryman mới được nhà xuất bản Little Brown nhận in và sau đó, chính nó đã trở thành sách best-seller và được trao giải thưởng mang tên nhà văn Edgar (mang tên nhà văn Mỹ nổi tiếng Edgar Poe) dành cho tác phẩm đầu tay xuất sắc. Trong gần hai mươi năm sau đó, Patterson đã kết hợp hoạt động của một giám đốc hãng quảng cáo với công việc của một ngôi sao mới nổi trong làng nghệ thuật giải trí. Và rất thành công. Các tác phẩm của James Patterson đã được xuất bản tại Việt Nam: - Hồng Rực Đỏ - Tuần Trăng Mật - Chuyến Đi Khủng Khiếp - Luật Sư và Bị Cáo - Ly Rượu Pha Vội - Cạm Bẫy Mong Manh - Nụ Hôn của Casanova - Kẻ Đầu Tiên Phải Chết - Cơ Hội Thứ 2 - Cấp Độ 3 - Ngày 4 tháng 7 - Kỵ sĩ thứ 5 - Mục Tiêu thứ 6 - Thiên Đường Thứ 7 - Cross - Nỗi Kinh Hoàng Trườn Tới - Tick Tock *** CÙNG CHƠI TRÒ TƯỞNG TƯỢNG (1932) NEWJERSEY, gần Princeton; tháng Ba năm 1932 TÒA NHÀ trong nông trại của Charles Lindbergh sáng rực với những bóng đèn màu cam. Nó trông như một tòa lâu đài đang bừng cháy, nhất là trong khu rừng linh sam tối tăm của bang Jersey. Những lớp sương mỏng chạm người thằng bé khi nó tiến ngày càng gần tới khoảnh khắc đầu tiên của vinh quang thực sự, lần giết người đầu tiên của nó. Trời tối đen như mực, mặt đất ướt, nhầy nhụa và đặc quánh bùn. Thằng bé đã biết trước những điều này. Kế hoạch của nó đã tính đến mọi chuyện, kể cả thời tiết. Thằng bé đi đôi ủng lao động cỡ số chín dành cho đàn ông. Mũi và gót ủng nhồi đầy những mảnh vải nhỏ và vụn báo Người điều tra Philadelphia. Nó muốn để lại các dấu chân, thật nhiều dấu chân. Những dấu chân của một người đàn ông. Chứ không phải dấu chân của một thằng bé mười hai tuổi. Những dấu chân ấy xuất phát từ quốc lộ chạy qua hạt, đường Stoutsburg-Wertsville, tới nông trại, rồi từ đó chạy đi. Thằng bé bắt đầu run rẩy khi bước tới chỗ hàng thông, còn chưa đầy ba mươi mét nữa là đến tòa nhà trải rộng trên khu đất. Tòa nhà to lớn đúng như thằng bé đã tưởng tượng: chỉ riêng tầng hai đã có bảy phòng ngủ và bốn phòng tắm. Đây là nơi nghỉ dưỡng của Lindy May Mắn và Anne Morrow ở vùng nông thôn. Tuyệt cú mèo, thằng bé nghĩ. Thằng bé từ từ nhích về phía cửa sổ phòng ăn. Nó bị hấp dẫn bởi thứ gọi là sự nổi tiếng. Nó đã nghĩ về điều này rất nhiều. Hầu như lúc nào cũng nghĩ. Sự nổi tiếng thực ra là thế nào nhỉ? Nó có mùi gì? Vị nó ra sao? Sự nổi tiếng ở gần trông thế nào? “Người đàn ông quyến rũ và nổi tiếng nhất thế giới” đang ngồi ở ngay bàn này. Charles Lindbergh cao ráo, lịch lãm, mái tóc vàng óng đầy quý phái và làn da sáng. ”Lindy May Mắn” thực sự nổi trội hơn tất cả những người khác. Vợ ông là - Anne Morrow Lindbergh. Anne có mái tóc ngắn. Tóc đen, xoăn, khiến cho làn da bà trông trắng như phấn. Ánh sáng từ những ngọn nến trên bàn như nhảy múa quanh bà. Cả hai vợ chồng đều ngồi rất thẳng người trên ghế. Đúng, chắc chắn cặp vợ chồng này trông cao quý, như thể họ là những món quà Chúa dành tặng thế giới. Cả hai đều giữ đầu ngẩng cao, thưởng thức những món ăn bằng phong thái lịch thiệp. Ông miễn cưỡng nhìn những thứ bày trên bàn. Trên bộ đồ ăn bằng sứ đẹp hoàn hảo là món gì đó trông như thịt cừu... Mời các bạn đón đọc Nỗi Kinh Hoàng Trườn Tới của tác giả James Patterson.
Hầm Trữ Đông - Minette Walters
Màn chào sân trinh thám ấn tượng của nhà văn Minette Walters. Tác phẩm đạt giải thưởng John Creasy Dagger cho truyện trinh thám đầu tay xuất sắc nhất và được chuyển thể thành bộ phim cùng tên năm 1997. Cái xác không mặt được tìm thấy trong căn hầm trữ đông, một khối kiến trúc cổ nằm giữa điền trang heo hút ở miền quê nước Anh. Trần truồng. Rữa nát. Dường như bị xâu xé bởi con gì đó, hoặc kẻ nào đó. Dân làng hoảng loạn, cảnh sát nháo nhào, nhưng người trong cuộc lại giữ thái độ hết sức thản nhiên, ung dung trước những lời đồn đoán. Bởi họ vô can, hay không ai khác, họ chính là hung thủ? Vụ mất tích kì quái mười năm trước được lật lại. Những nghi ngờ một lần nữa dấy lên. Lẽ nào lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên đến thế? Người chết không thể cất tiếng, kẻ sống lại quá gian manh. Nghi phạm biến thành nạn nhân. Mọi giả thuyết đều đi vào ngõ cụt. Kẻ thủ ác thì vẫn đang lẩn lút, đợi chờ cơ hội để tiếp tục ra tay. Điền trang - địa điểm thu hút các thi hài, với ba người phụ nữ bị ví như phù thủy và cái xác thối rữa cứ thế đưa tất cả vào cơn ác mộng kinh hoàng. Không chỉ đơn thuần là trinh thám, Hầm trữ đông còn chứa đựng vô vàn ý nghĩa về niềm tin vào cuộc sống, về bản chất con người. Khi bị dồn đến chân tường, một con thỏ hiền lành cũng có thể mọc nanh mọc vuốt. *** Minette Walters là một nhà văn chuyên viết truyện trinh thám tội phạm người Anh. Các tác phẩm của tác giả Minette Walters đã được dịch, xuất bản tại Việt Nam: Hầm Trữ Đông Kẻ Nặn Sáp ... Mời các bạn đón đọc Hầm Trữ Đông của tác giả Minette Walters.