Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khuyến Học

Khuyến Học

Khuyến Học

Khuyến Học là tác phẩm có ảnh hưởng sâu rộng nhất đến công chúng Nhật Bản.

Khi mới đựơc in lần đầu, cuốn sách này có một số lượng ấn bản kỷ lục là 3,4 triệu bản, trong khi dân số Nhật Bản thời đó chỉ khoảng ba mươi lăm triệu người.

Fukizawa Yukichi đề cập tinh thần cơ bản của con người và mục đích thực thụ của học vấn. Với các chương viết về sự bình đẳng, ý nghĩa của nền văn học mới, trách nhiệm của nhân dân và chính phủ trong một quốc gia pháp trị… khuyến học đã làm lay chuyển tâm lý người Nhật Bản.

Với tuyên ngôn “trời không tạo ra người đứng trên người và cũng không tạo ra người đứng dưới người”, Fukuzawa Yukichi đã gây kinh ngạc và bàng hoàng cho đa số người Nhật Bản vốn quen phục tùng phó mặc và e sợ quan quyền.

Công Ty Nhật Bản Made In Japan: Chế tạo tại Nhật Bản Nghệ Thuật Bài Trí Của Người Nhật

Fukuzawa Yukichi phê phán lối học “từ chương” và nhấn mạnh Nhật Bản phải xây dựng nền học vấn dựa trên “thực tế”. Nền học vấn thực học phải gắn liền với cuộc sống hằng ngày, phải dựa trên tinh thần khoa học, tinh thần độc lập, tính thực dụng.

Việc tiếp thu văn minh phương Tây phải có chọn lọc. Quan điểm xuyên suốt cuốn sách là “làm thế nào để bảo vệ nền độc lập Nhật Bản” trong bối cảnh các cường quốc phương Tây đang muốn biến toàn bộ châu Á thành thuộc địa.

Khuyến Học sẽ giúp độc giả Việt Nam hiểu rõ hơn những đặc điểm về tính các và tinh thần của người Nhật Bản hiện đại, những người từ thân phận nông nô “ăn nhờ ở đậu” nhờ có sự khai sáng đã trở thành “quốc dân” của một đất nước Nhật Bản hiện đại.

Nguồn: sachmoi.net

Đọc Sách

Danh nhân toán học - Lê Hải Châu
Trong cuốn này tác giả giới thiệu những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp của các nhà toán học nổi tiếng trên thế giới. Công trình của họ đã đánh dấu những mốc phát triển của toán học từ thời trước công nguyên (với Pitago, Ơclit...) đến thời cận đại (với Lbaseprki, Galoa...). Cuộc đèri và sự nghiệp của các nhà toán học là những tấm gương sáng về tinh thần lao động say mê, bền bỉ, tinh thần thực sự cầu thị, óc dám nghĩ, đảm khai phủ những con đường mới đầy chông gai, đức tính hi sinh; tinh thần xả thân vì khoa học, vì lí tưởng; tình bạn chân thành; tinh thần nhân đạo cao cả v.v..Và vượt lên tất cả là tinh thần lao động sáng tạo không ngừng, đến phút cuối cùng của cuộc đời vẫn chưa ngừng lao động sáng tạo.Cuốn sách này nhằm phục vụ người đọc có trình độ phò thông vệ toàn, nên tác giả chủ yếu giới thiệu các nhà toán học cơ tin trong chương trình phù thủng.Ngoai ra tác giả cùng núi đến một sĩ, nhà toán học khác nhut Lobasepxki, Galoa, vì cuộc đời và sự nghiệp của họ có nhiều nút độc đáo, đầy kịch tinh, chúc chắn sẽ đem lại cho bạn đọc những bài học bồ ích.Đề tiện việc tra cứu, chúng tôi sắp xếp tên các nhà toán học theo thit t: chi củi,Nhà Xuất Bản Giáo Dục mong bạn đọc gửi cho những nhận xét vì nội dung sách đề có thể sửa chữa Trung lần in sau. Xin chân thành cảm ơn các bạn.
Sách Địa Dư (có bản đồ)
SÁCH ĐỊA DƯVề phép Địa dư1. Địa dư là phép dạy về Trái đất. 2. Địa dư có 2 thứ:Một là Địa dư Bác vật, dạy về mặt đất, biển, sông và núi là thế nào.Hai là Địa dư Bang giao, dạy giới hạn phương nọ, phương kia, các tỉnh và các thành.3. Sách nầy chia ra làm bốn phần:Phần thứ nhứt: Dạy chung về Trái đất.Phần thứ hai: Dạy về Đông phápPhần thứ ba: Dạy về Đại pháp và các miền thuộc địa Đại pháp.Phần thứ bốn: Dạy về các Phương, các nước khắp cả hoàn cầu.
Bổn Dạy Phép Toán
Ta in cuốn sách này, chẳng có ý in sách dạy cho đủ mọi sự về Phép Toán; có ý in bổn nhỏ tóm lại mọi đểu cần kíp hơn và có ích hơn trong Phép Toán mà thôi. Song ta muốn chỉ phải nói theo cách nào, mà làm các phép cho nhằm cho trúng. Ta đã bỏ những cách cho đặng biết, khi làm một Phép Toán rồi, mÌnh có làm cho nhằm cách h.I. không. Làm vậy vì sợ nói ra nhiều điều lắm, thì làm cho những học trò mới tập học Phép Toán lấy làm rối trí chăng.
EINSTEIN (1972) - NGUYỄN HIẾN LÊ
Tôi say mê theo lí tưởng công bằng và trách nhiệm đối với xã hội (…) nhưng hiển nhiên là tôi không thích trực tiếp hợp tác với người khác, đàn ông và đàn bà. Tôi là con ngựa chỉ quen với một cỗ yên cương, không chịu buộc chung với một con ngựa nào khác. Tôi không khi nào hết lòng tuỳ thuộc các bạn bè, ngay cả gia đình của tôi nữa. Những liên hệ đó luôn luôn lơi dần ra và tuổi càng cao, tôi càng muốn rút vào cái vỏ của tôi. Tôi say mê theo lí tưởng công bằng và trách nhiệm đối với xã hội (…) nhưng hiển nhiên là tôi không thích trực tiếp hợp tác với người khác, đàn ông và đàn bà. Tôi là con ngựa chỉ quen với một cỗ yên cương, không chịu buộc chung với một con ngựa nào khác. Tôi không khi nào hết lòng tuỳ thuộc các bạn bè, ngay cả gia đình của tôi nữa. Những liên hệ đó luôn luôn lơi dần ra và tuổi càng cao, tôi càng muốn rút vào cái vỏ của tôi. Học giả, tác giả hiệu Lộc Đình, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1912 tại Hà Nội (giấy khai sinh ghi ngày 8-4-1912 nhằm ngày 20-11 Tân Hợi 1911) quê làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây), gia đình song thân ngụ ở Hà Nội. Ông xuất thân trong một gia đình Nho học, thân phụ, bác ruột tham gia phong trào Duy tân ở Trường Đông Kinh nghĩa thục, người mất (bác cả) ở nước ngoài, người (bác Ba) bị thực dân truy nã lẻn vào Sài Gòn rồi ẩn mình ở Đồng Tháp Mười. Từ đó, bác Ba ông sống lập nghiệp luôn ở miền Tây Nam Bộ.Thuở nhỏ, Nguyễn Hiến Lê học ở Trường Tiểu học Yên Phụ, Trường Bưởi, Trường Cao đẳng Công chánh (Hà Nội). Năm 1934 tốt nghiệp được bổ làm việc tại các tỉnh miền tây Nam Bộ; kể từ đó ông làm việc và định cư luôn ở miền Nam cho đến ngày qua đời.Năm 1935 bắt đầu viết du kí, kí sự, tiểu luận, dịch thuật các tiểu phẩm văn chương đến năm 1954 ông có đến hàng chục cuốn, nhưng đã thất lạc trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Vì ông từng làm nhân viên Sở Công chánh thuộc ngành Thủy lợi (Hydraulique) thường đi thực địa ở các tỉnh miền Hậu Giang, Tiền Giang nên biết khá tường tận về đất đai và con nguời ở các địa phương thuộc khu vực này.Sau Cách mạng tháng Tám, rồi toàn quốc kháng chiến, ông bỏ đời sống công chức tản cư về Đồng Tháp, Long Xuyên đi dạy học. Năm 1952 thôi dạy, lên Sài Gòn sinh sống bằng ngòi bút và chuyên tâm vào công tác văn hóa.Tác phẩm đầu tay của ông là một cuốn du kí khoa học có tên: Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, sách mỏng (100 trang) mà tác giả đã bỏ ra nhiều công sức. Nguyên sách được viết nhân một chuyến về Hà Nội thi lấy bằng kĩ sư do đề nghị của bạn học hiện là Chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Thanh Nghị (Vũ Đình Hòe), sách viết xong nhưng gởi ra Hà Nội không được (vì chiến tranh), bản thảo bị mất trong Đồng Tháp Mười.Năm 1954 ông viết lại xuất bản trong năm đó và được tái bản nhiều lần. Từ đó, hằng năm ông có đôi ba tác phẩm ra mắt công chúng độc giả.Ngòi bút Nguyễn Hiến Lê đề cập đến nhiều lĩnh vực, mà ở lĩnh vực nào cũng có căn cứ khoa học, am tường cặn kẽ về các đối tượng, sâu sắc về các vấn đề được nhắc tới và không thiếu tính nghệ thuật, từ triết học, sử học đến các chuyên ngành khác Sử học: gồm một số cuốn về lịch sử và văn minh sử thế giới: Lịch sử thế giới (4 cuốn), Đông Kinh nghĩa thục (1954), Sử Trung Quốc (1996), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Tô Đông Pha...