Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Mồi Xảo Quyệt

Một vụ tai nạn xe cộ bất ngờ và đáng ngờ xảy ra với thượng nghị sĩ Porter Smalls và nhân tình Cecily Whitehead. Trên đường trở về sau thời gian nghỉ ngơi riêng tư, xe của Smalls bị một chiếc xe tải đâm phải và lao xuống dốc. Whitehead là người điều khiển chiếc xe đâm vào các hàng cây để giảm tốc độ lao của chiếc xe trước vực thẳm trước mặt. Xe dừng lại được trước bờ vực nhưng cũng chính một cành cây đã đâm qua cửa kính xe và khiến Whitehead nhận vết thương chí mạng ở đầu. Smalls thoát khỏi thảm kịch này trong gang tấc. Ông nghi ngờ đây là một âm mưu ám sát nhắm vào mình của đối thủ là thượng nghị sĩ Taryn Grant. Mụ ta từng tung đòn chơi xấu ông trước đây, làm tổn hại đến danh tiếng của ông và mở đường cho mụ vào Thượng viện. Nhưng đó chưa phải là đích đến cuối cùng của Grant. Cái mụ khao khát là thứ quyền lực tột cùng của chủ nhân Nhà Trắng và mụ sẵn sàng loại bỏ bất cứ chướng ngại nào trên con đường thực hiện mục tiêu. Lucas Davenport được đích thân Small nhờ điều tra vụ án vì phía cảnh sát không thể chứng minh chiếc xe của Smalls bị đâm bởi một xe khác. Họ cho rằng có thể chấn động từ vụ tai nạn đã làm ảnh hưởng đến trí nhớ của Smalls, thực chất là Whitehead đã không kiểm soát được tốc độ và tự mình lao xe xuống dốc. Lucas cũng cho rằng vụ tai nạn này có những điểm đáng ngờ, nhưng hơn hết, anh đồng ý tham gia điều tra vì ân oán trước đây với Taryn Grant. Anh không có đủ bằng chứng chứng minh mụ ta có liên quan đến vụ án mạng mà mình điều tra nên mụ đã thoát tội. Lần này anh quyết tâm bắt mụ phải trả giá cho tội lỗi của mình. Với sự giúp sức của hai đồng nghiệp thân thiết, Lucas lần lượt khám phá ra những bí mật đằng sau vụ tai nạn. Grant không đích thân ra tay mà sử dụng kẻ thân tín bên cạnh và những tay chân của gã để thực hiện vụ tai nạn nhắm vào Smalls. Những kẻ tòng phạm với Grant còn thực hiện hàng loạt các vụ mua bán vũ khí trái phép thông qua các công ty do bọn chúng điều hành. Khám phá này giúp Lucas có thể thương lượng để nhận sự trợ giúp từ FBI. Anh càng biết được nhiều sự thật hơn, tính mạng anh càng nguy hiểm khi các tay chân của Grant liên tục tìm cách giết anh và cản trở anh điều tra chi tiết vụ việc. Thậm chí vợ của Lucas cũng gặp phải tai nạn khiến anh buộc phải rời khỏi vụ án. Nhưng những việc làm của chúng không làm ảnh hưởng đến quyết tâm theo đuổi đến cùng của Lucas, chính chúng lại trở nên hoang mang, rối loạn và phải tìm cách trừ khử lẫn nhau để nhằm thoát tội. Trong quá trình điều tra, các bằng chứng Lucas thu thập được chỉ đủ để bắt những kẻ làm việc cho Grant còn khó lòng động đến mụ ta. Liệu lần này anh có lại thất bại dưới tay Grant và nhìn mụ bước lên vị trí Tổng thống? Thông tin tác giả: John Sandford tên thật là John Roswell Camp, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1944 tại tiểu bang Iowa, Hoa Kỳ. Ông đoạt giải thưởng Pulitzer cho lĩnh vực báo chí vào năm 1986. Sự nghiệp của ông vô cùng đồ sộ với hàng chục cuốn tiểu thuyết và truyện ngắn do ông sáng tác và đồng sáng tác, trong đó nổi bật là các series truyện trinh thám như Săn mồi, Virgil Flowers,…. *** Nhân vật nổi tiếng của John Sandford, Lucas Davenport, là điều tra viên chính của Cục điều tra tội phạm Minnesota. Davenport lần đầu tiên xuất hiện trong Rules of Prey năm 1989. Kể từ đó, Sandford đã viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết của Lucas Davenport. Davenport là loại thám tử thích làm việc bên ngoài các quy tắc được thiết lập của lực lượng cảnh sát. Anh ta lái một chiếc Porsche và là một người lăng nhăng. Một số cuốn sách trong bộ này thay thế cho bộ khác của Sandford tập trung vào Hoa Virgil. *** Chuyến đi lãng mạn chớp nhoáng của cặp tình nhân Whitehead cùng Thượng Nghị sĩ Smalls tưởng chừng sẽ kết thúc viên mãn. Ai dè xe của TNS Smalls gặp tai nạn trên xa lộ, bị hất văng khỏi mặt đường xém chút lao xuống vực nếu Whitehead không có tay lái lụa. Vì gắng sức cứu cả hai thoát chết nên Whitehead đã mất mạng. TNS Smalls một mực cho rằng ông là mục tiêu của một vụ mưu sát và hung thủ chính là kẻ đang muốn xanh chín với ông. Không ai tin tưởng xe ông bị sát thủ cố tình đâm phải, Smalls buộc lòng phải nhờ đến người quen cũ: Cảnh sát của Cục Cảnh sát Tư pháp Lucas Davenport. Con Mồi Xảo Quyệt khắc họa thế giới tàn nhẫn, điên cuồng, nhơ bẩn của giới chính trường Mỹ. Thật ra nó cũng chẳng khác gì truyện cung đấu bên Tàu. Các Thượng nghị sĩ lăm le hất cẳng nhau, không từ một thủ đoạn nào tiêu diệt nhau đến cùng chỉ nhằm một mục đích: Ngồi lên chiếc ghế Tổng thống của Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ. Lucas Davenport thấy mình bị lạc trong mớ bòng bong chết người của hận thù, âm mưu, dối trá, tham vọng và thù hận nhuốm màu chính trị và tiền bạc. Một thế giới không có tình thương, không có lòng tin, chỉ có máu và giấc mộng bá quyền. Lucas cùng hai đồng đội, Bob và Rae, chưa kể rất nhiều cảnh sát và đặc vụ khác cùng hợp tác nỗ lực đến cùng bắt những kẻ thủ ác phải đền tội trước công lý. Liệu rằng họ có thành công khi phải đương đầu với những kẻ vừa có tiền, vừa có quyền vừa ác độc, máu lạnh nhưng cũng rất xảo quyệt, thông minh? John Sanford đã dựng nên cuộc đối đầu gần như không cân sức giữa Lucas Davenport và đồng đội với những kẻ thủ ác được cả hệ thống chính trị hậu thuẫn. Chẳng khác nào trứng chọi đá, trong khi cảnh sát chỉ còn biết dựa vào từng mẩu bằng chứng, từng lời khai. Cả truyện là cuộc đấu trí song song giữa hai bên rất thú vị. Đối đầu với đối thủ quá mạnh, Lucas phải vận dụng hết trí tuệ, hết từng lợi thế mà mình có được dẫu nhỏ nhoi. Truyện cũng khắc họa toàn bộ quá trình điều tra, lần tìm bằng chứng, giám định pháp y, các chi tiết về luật hình sự dành riêng cho các đối tượng nằm trong hệ thống chính trị khá chi tiết. Phải đọc mới biết Lucas Davenport trong cuốn này bị trói chân trói tay như thế nào. Luật pháp sinh ra để trừng phạt những kẻ ác, nhưng khi một sức mạnh còn lớn hơn cả luật pháp ra tay phạm tội ác, thì luật pháp sẽ phải làm gì để đảm bảo thượng tôn pháp luật, đảm bảo cái thiện sẽ thẳng cái ác? Tình tiết Con Mồi Xảo Quyệt tuy không quá gay cấn, căng thẳng ở những pha đuổi bắt, gây án nhưng nó đặt ra những tình huống chứng tỏ cuộc chiến không khoan nhượng giữa pháp luật với chính trị gian nan nhưng hấp dẫn. Nguyen Quang Huy *** “Em mệt không?” Porter Smalls quay sang ghế lái. Tán cây mùa hè quanh chiếc Cadillac Escalade tối om khi họ tiến vào con đường bẩn thỉu. Bờ nam sông Potomac uốn lượn như con rắn dưới chân hai người; các cửa kính xe đều hạ xuống hết, trong xe tràn ngập mùi cá chết, mùi bùn từ con sông. “Một chút, không sao đâu mà,” Cecily Whitehead đáp. Whitehead đã tắm nước giếng lạnh trong cabin ngay trước khi họ lên đường, thoa một chút nước hoa Chanel số 5 khi mặc đồ. Hai mùi này kết hợp khiến cô có cảm giác còn hơn cả dễ chịu nữa, cô thấy mình cực kỳ gợi tình. “Anh sẽ lái nếu em muốn,” Smalls đề nghị. Ông có vóc người nhỏ bé, giống hệt như cái tên của mình, mảnh khảnh và sung sức, như thể ông từng dành thời gian đạp xe leo núi. Ông có mái tóc bạc, uốn quăn ngang cổ áo thun chơi golf, hàm răng bọc sứ trắng bóng với cặp mắt kính không gọng dùng xem ti vi trên đôi mắt xanh nhạt. “Không sao, em ổn mà,” Whitehead nói. Cô thắt dây an toàn qua chiếc váy hai dây lộng lẫy, bộ váy có thể khiến cô bị bắt nếu diện nó bên ngoài phòng ngủ vào thời xưa. “Anh uống rượu rồi - chẳng may vì chuyện nào đó mà tụi mình bị chặn lại...” “Được rồi,” Smalls nói. Ông ngả ghế xuống thêm hai phân nữa, khoanh tay trên ngực rồi nhắm mắt lại. TRÊN ĐẦU HỌ, nấp sau những tán cây, một người đàn ông đang theo dõi qua ống nhòm. Khi chiếc SUV bạc rời khỏi lối xe vào nhà, phóng qua hộp thư rồi rẽ trái vào con đường bẩn thỉu, hắn giơ chiếc điện đài lên ngang mặt và nói, “Anh sẽ về nhà ăn tối”. Một chiếc điện đài, bởi nếu không phải đúng người đang ở trên đúng kênh này trong bán kính ba dặm vào đúng lúc đó, sẽ rất khó lần ra cuộc gọi; kể cả nếu NSA có bắt được nó. Cũng như không thể lần ra được năm tiếng chuông nhanh hắn nhận lại, báo hiệu có tin nhắn mới. Hắn đi bộ, chiếc xe bán tải đỗ cách đó nửa dặm. Hắn bước vào đây từ con đường mòn do muông thú tạo nên rồi cũng đi ra bằng con đường ấy, di chuyển chậm rãi, cứ đi được ba mươi mét lại dừng để nhìn ngó và nghe ngóng. Khi theo dõi, hắn không bao giờ ngồi, chỉ đứng nguyên tại chỗ, bên cạnh lớp vỏ màu xám xương xẩu của cây tần bì già; chẳng có đài quan sát nào để ai đó lần ra hắn, không có mẩu đầu lọc thuốc lá hay giấy gói kẹo nào đánh rơi đem từ đó truy ra ADN. Hắn đi đôi giày đế êm đã cũ mòn: không để lại dấu chân trên nền đất mềm. Hắn là dân chuyên nghiệp. THƯỢNG NGHỊ SỸ MỸ PORTER SMALLS sở hữu một cabin trên các ngọn đồi ở tây Virginia, cách Washington D.C. hai tiếng rưỡi chạy xe - vừa đủ gần cho một chuyến đi thoải mái, vừa đủ xa để che giấu những hoạt động cần sự kín đáo. Ông cùng Whitehead, một trong những người bạn thân nhất của vợ ông - bà đang ở tận Minnesota - khóa cửa cabin rồi thẳng tiến về D.C. khi mặt trời thấp dần về phía đường chân trời vào buổi chiều Chủ nhật oi bức. Họ đã rất thận trọng chọn khoảng thời gian này: lợi dụng bóng tối đưa ông về tòa chung cư Watergate sang trọng của mình. Smalls cùng Whitehead tận hưởng hai ngày nghỉ tràn trề sinh lực, trò chuyện về triết học chính trị, lịch sử, lũ ngựa, tiền bạc, cuộc sống và những người bạn chung trong khi cùng xem hết bản bìa mềm rách nát cuốn Thú vui tình dục từ những năm 80 của Smalls. Smalls đã yên bề gia thất còn Whitehead vẫn độc thân, nhưng cô giành quyền lái xe vì thứ logic của Washington liên quan đến tình dục và rượu. Một vụ ngoại tình là chuyện không được cổ vũ tại Washington, nhưng chắc chắn sẽ không bị xử nặng theo luật hình sự như tội lái xe khi say xỉn. Qua đêm với đàn ông hoặc một phụ nữ nóng bỏng thì có khả năng - có thể - bạn sẽ phải chường mặt lên trang blog của tờ Washington Post. Nhưng chỉ có Chúa mới cứu được bạn khi Hội Bà mẹ phản đối lái xe khi say xỉn tấn công bạn đúng kỳ bầu cử. Thế nên người lái là Whitehead. Cô là người say mê chính trị và là nữ mạnh thường quân của đảng Cộng hòa. Ở tuổi năm mươi, Cecily Whitehead có dáng người mảnh mai, làn da rám nắng và tàn nhang, với mái tóc đen ngắn mà người ta khó lòng nhận ra là đã được nhuộm tinh tế. Chiếc cằm vuông khiến cô trông hơi giống Amelia Earhart. Và giống như Earhart, cô cũng có một chuyên cơ riêng, chiếc Beechcraft King Air hai động cơ. Cô sở hữu một căn biệt thự nhìn ra một trong nhiều mặt hồ tại Minneapolis, cùng một trang trại nuôi ngựa Tennessee rộng hai ngàn mẫu ở phía nam thành phố Đôi. Bà xã của Smalls không chắc Whitehead có ngủ với chồng mình hay không, chủ đề này chưa bao giờ được xới lên. Suốt bốn năm qua, vợ của Smalls cũng đang ăn nem với tình nhân người Litva, trên căn gác lửng tại khu buôn bán kinh doanh Minneapolis, chủ đề này từng được bàn đi xới lại vô số lần. Những người Litva vốn nổi tiếng tại Bắc Âu như những vận động viên tình dục. Smalls nhận thức được thực tế này Nhưng ông không còn quan tâm chuyện vợ mình làm gì, miễn là bà ta không làm chuyện ấy trên phố. Thực ra ông hy vọng bà ta hạnh phúc, vì ông vẫn còn tình cảm với người mẹ của những đứa con ông. Ông tự nhủ lần tới khi đến thành phố Đôi, ông sẽ dẫn bà ta đi ăn tối. “MƯỜI GIỜ SẼ ĐẾN NƠI,” Whitehead nói. “Anh phải gặp thằng đần Clancy vào buổi trưa,” Smalls đáp, không buồn mở mắt ra. “Đần nhưng kiên trì,” Whitehead nói. “Hắn nói với Perez rằng nếu Medtronic chốt được thương vụ VA, Abbott sẽ phải cắt giảm biên chế trong hạt của ông ta. Perez tin tưởng hắn. Chuyện này thậm chí có thể là thật.” “Tiếc thật,” Smalls nói. “Chuyện cắt giảm sẽ không xảy ra đâu. Khi mà Porter Smalls biết rằng lãnh đạo phe đa số yêu quý của chúng ta có nghề đi đêm tại Rio Javelina.” “Nếu nghe được anh nói thế, hắn sẽ kiếm cái gì đó thật sắc moi ruột anh ra đấy.” Smalls mỉm cười. “Sao hả CeeCee... em không nghĩ rằng anh thực sự nói chuyện này cho hắn nghe đấy chứ?” Whitehead siết chặt đầu gối ông. “Em hy vọng là không. Không, em không nghĩ anh làm thế. Sao anh có thể để hắn biết rằng anh biết chứ?” “Kitten sẽ nghĩ ra đối sách,” Smalls nói. Whitehead mỉm cười với bóng tối đang dần đen đặc, ánh đèn pha từ xe họ chiếu xuyên qua hàng cây hai bên đường. Kitten Carter, trợ lý của Smalls, sẽ nghĩ ra kế đối phó. Cô ta thường trò chuyện với Whitehead hai lần một tuần, họ cùng nhau bàn mưu tính kế mang lại vinh quang vĩ đại hơn cho nước Mỹ nói chung và cho Porter Smalls nói riêng. Whitehead là người yêu yoga và thích đua ngựa vượt chướng ngại. Cô có một cơ thể khỏe khoắn, cặp giò và hai cánh tay rắn chắc, đặc biệt cô sở hữu đôi bàn tay to và khỏe hiếm thấy ở phụ nữ. Cô có thể điều khiển chiếc Escalade trên đường mòn nhanh hơn hầu hết những người khác, bắn tung bụi mù và sỏi đá lên bầu không khí buổi tối. Cô dành khá nhiều thời gian làm việc trên các cánh đồng, dùng xẻng hót phân ngựa rất gọn ghẽ, lái xe tải và máy kéo, không phải là lái cho vui mà cô hiểu rõ mình đang làm gì, luôn giữ các bánh xe bám chắc xuống hai vết hằn trên đường mòn. Mời các bạn đón đọc Con Mồi Xảo Quyệt của tác giả John Sandford & Nguyễn Quang Huy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhà Băng
“NHÀ BĂNG” , nguyên tác tiếng Anh “The money changers”, người dịch Vũ Đình Phòng, Nhà Xuất bản Hà Nội, xuất bản năm 1996. Nếu anh giàu tức là anh nghèo Bởi anh sẽ giống như con lừa còng lưng Dưới những thỏi vàng đè nặng Anh phải vác tiền bạc của cải Nhưng chỉ trên một quãng đường Rồi cái chết sẽ giải tỏa cho anh khỏi nỗi nhọc nhằn đó. *** Nhiều người vẫn còn giữ lại ấn tượng lo âu, dai dẳng trong hai ngày hôm đó của tháng Mười. Hôm ấy là thứ Ba, Ben Rosselli, chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ, đồng thời là cháu nội của cố sáng lập viên nhà băng này đã công bố một tin ghê rợn. Tin này lập tức loan truyền khắp các phòng ban và ra cả bên ngoài. Hôm sau, thứ Tư, người ta phát hiện ra một vụ ăn cắp ngay tại chi nhánh chính của Ngân hàng đóng ngay ở trung tâm thành phố, sự kiện này mở đầu cho một loạt sự kiện nối tiếp nhau như phản ứng dây chuyền, đầy bất ngờ, dẫn đến một thảm họa tài chính, đến một bi kịch con người, đến một cái chết.   Khi Tổng giám đốc Ben Rosselli gọi điện cho một số các quan chức thân cận dưới quyền, chưa ai đoán được ông định nói điều gì. Một số nhận được lời triệu tập trong lúc họ ăn sáng ở nhà, số khác vào lúc họ bước vào phòng giấy. Dĩ nhiên đó là những quan chức cấp cao nhất nhà băng, nhưng Ben Rosselli còn triệu tập cả một số nhân viên kỳ cựu mà ông vẫn thường coi là bạn bè thân thiết. Tất cả đều nhận được câu triệu tập y hệt nhau: "Mời đến hội trường họp lớn trong Tòa nhà cao ốc vào mười một giờ sáng nay."   Đó là tên gọi trụ sở công khai của Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ. Đúng giờ quy định, khoảng hai chục người đã tề tựu trong phòng họp. Trong lúc chờ đợi, họ vẫn đứng bàn tán xôn xao, không ai quả quyết kéo ghế ra ngồi. Đột nhiên một tiếng nói to làm mọi người ngừng trò chuyện:   - Ai cho phép bác làm chuyện này? Các cặp mắt quay cả lại nhìn người vừa nói câu đó: Roscoe Heyward, Phó tổng giám đốc, đặc trách khu vực các tài khoản. Ông ta quát hỏi bác quản lý nhà ăn dành cho các quan chức cao cấp của nhà băng, lúc này đang rót rượu Xeres ra ly. Đây là thứ rượu quý đặc biệt của Tây Ban Nha. Là cấp lãnh đạo cao, Roscoe Heyward nổi tiếng là người nghiệt ngã trong công việc theo đúng các khuôn phép của nhà băng. ... *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Nhà Băng của tác giả Arthur Hailey.
Hồ Sơ Cuối
Bạn đã từng nghe đến một tổ chức tâm linh nhưng do nhà nước quản lý? Đã bao giờ nghe đến những vụ án bí ẩn chưa từng được công khai? Những vụ án đầy ly kỳ, những tên tọi phạm cực kỳ hung tàn và những góc khuất thối nát trong xã hồi sẽ được phơi bày qua cuốn tiểu thuyết này... Hãy thử trải nghiệm nỗi kinh hoàng tột cùng bị chôn giấu... *** 1000 năm trước, cái thời mà nhân giới vẫn còn cuồng tín thần linh, vẫn còn run sợ quỷ thần... Có một vị thần vì đi ngược tôn nghiêm của thiên giới nên bị trục xuất khỏi thiên cung, căm hận trước những gì mình phải trải qua, trước những bất công mình bị đày đọa nên vị thần này đã mở mang một thế giới mới... Thế giới của những á thần bị quên lãng và ruồng bỏ... Thế lực của y càng lớn thì sự hận thù trong y càng lúc càng tăng lên... Quyết tâm phải đánh sập thiên cung để trả thù nỗi nhục bị trục xuất năm xưa nên y đã liên minh với đại quỷ thần vương nước la sát đem quân thảm sát nhân giới làm bàn đạp đánh đế thích thiên... Nhưng cuối cùng chính y lại phản bội vua pandaka của la sát giới vào phút chót để đổi lấy một danh thần... Y chính là asura ( atula vương) Vị thần chiến tranh của thiên giới năm xưa... Bắt đầu kỷ nguyên của một huyền thoại bất diệt.... Các bạn có tin câu chuyện bên trên không?   Mời các bạn đón đọc Hồ Sơ Cuối của tác giả Nguyễn Điệp.
Cuộc Trốn Chạy Của Josef Mengele
Cái ác liệu có khi nào không phải đền tội? Mặc dù đã chạy trốn sang Mĩ Latinh, không có bản án của cộng đồng quốc tế, nhưng bác sĩ của trại Auschiwitz, Josef Mengele, vẫn phải chịu đựng những gì còn hơn một bản án: một cuộc đời trốn chui trốn lủi, cô đơn, tuyệt vọng trong cái cái nóng như thiêu đốt của miền nhiệt đới Nam Mĩ, trong nỗi lo sợ đến cùng cực. Những thứ còn tệ hơn cả cái chết. Ngòi bút tỉ mỉ của Guez đã miêu tả cả một khung cảnh thiên nhiên hoang dã ở phía Tây bán cầu và hành trình khổ nhục của Josef Mengele từ sau khi rời khỏi châu Âu đến ngày từ giã cõi đời. Giọng văn của ông khéo léo đến độ, nếu không biết đó là Mengele, hẳn khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã không khỏi xót thương cho số phận buồn bã cô đơn của một kiếp người ở xứ sở cách chúng ta nửa vòng trái đất. “Một thành công lớn trong việc mô tả một con quỷ lăn lộn trong cái tầm thường xoàng xĩnh sau cái thời là Thiên thần chết ở Auschwitz.”       - Jean-Christophe Buisson *** Trốn chạy có phải là cách để cái ác không phải đền tội. Thế nhưng, trốn chạy cả đời vẫn khó có thể thoát khỏi bán án của lương tâm mình… Cuốn sách kể lại câu chuyện về hành trình bỏ trốn tới Nam Mỹ của Josef Mengele – một bác sĩ thời Đức quốc xã. Bằng ngòi bút sắc bén của một nhà báo kết hợp cùng sự điêu luyện của một nhà văn, Olivier Guez đã lột tả hết sức chân thực cuộc đời của một kẻ trốn chạy cả đời cũng không thoát khỏi bản án của lương tâm mình. Để đến cuối cùng, cuốn tiểu thuyết để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc mãnh liệt hơn bao giờ hết về tội ác của Đức quốc xã cùng những nỗi đau âm ỉ dai dẳng khôn nguôi. Cái ác liệu có khi nào không phải đền tội? Mặc dù đã chạy trốn sang Mỹ Latinh, không phải chịu sự trừng phạt của cộng đồng quốc tế, nhưng bác sĩ của trại Auschwitz, Josef Mengele, vẫn phải chịu đựng những thứ còn hơn cả một bản án: một cuộc đời trốn chui trốn lủi, cô đơn, tuyệt vọng trong cái nóng như thiêu đốt của miền nhiệt đới Nam Mỹ, trong nỗi lo sợ đến cùng cực. Những thứ còn tệ hơn cả cái chết. Để hoàn thành tác phẩm Cuộc trốn chạy của Josef Mengele, Guez đã phải tìm tài liệu về bác sĩ quốc xã trong suốt ba năm. Trong suốt quá trình thai nghén cho cuốn sách, ông cũng tự mình đi tới Günzburg, Argentina và Brazil (đặc biệt là trang trại Santa Luzia ở ngoại ô Serra Negra), nghiên cứu rất nhiều tư liệu, gián tiếp tiếp cận các cuốn nhật ký của viên bác sĩ bỏ trốn để hiểu rõ cách nhìn thế giới của quốc xã. Về quá trình này, ông từng chia sẻ với tờ Le Monde: “Tôi đã sống cùng ông ta, với cái nhân vật đê tiện, tầm thường tột bực đó. Tôi đã bước lên sàn đấu. Tôi đối diện với ông ta. Sáu tháng đầu tiên, có lúc tôi đã kêu tên ông ta trong đêm.” Với ngòi bút tỉ mỉ của mình, Guez đã miêu tả cả một khung cảnh thiên nhiên hoang dã ở phía Tây bán cầu và hành trình khổ nhục của Josef Mengele từ sau khi rời khỏi châu Âu đến ngày từ giã cõi đời. Giọng văn của ông khéo léo đến độ, nếu không biết đó là Mengele, hẳn khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã không khỏi xót thương cho số phận buồn bã cô đơn của một kiếp người ở xứ sở cách chúng ta nửa vòng trái đất. Auschwitz là một trong những trại tập trung do Đức Quốc xã xây dựng ở Ba Lan để hành hạ và sát hại dã man người Do Thái trong Thế chiến 2. Rất ít người Do thái đến các trại tập trung này có cơ hội được trở về *** Olivier Guez là nhà báo, nhà văn người Pháp. Ông lớn lên ở Strasbourg, một thành phố gần Đức. Ngay từ khi còn nhỏ, bà ngoại ông đã cho ông đọc rất nhiều. Sau khi học tại Sciences-Po Strasbourg, London School of Economics và Collège e’Europe de Bruges, ông làm nhà báo tự do cho nhiều tờ báo quốc tế như New York Times, Le Monde, Frankfurter Allgemeine Zeitung, Le Figaro Magazine, L’Express, etc. Ông viết chung tác phẩm đầu tay La Grande Alliance với Frédéric Encel. ***   Lão gia “Hạnh phúc chỉ nằm ở những gì khuấy động, và chỉ có tội ác mới khuấy động được; đức hạnh... không bao giờ có thể dẫn tới hạnh phúc.” SADE Con tàu North King rẽ nước trên dòng sông đầy bùn. Trên boong tàu, hành khách chăm chú ngắm nhìn đường chân trời từ khi bình minh lên, và giờ đây, khi những cây cần cẩu ở công trường đóng tàu và vạch kẻ đỏ của khu nhà kho cảng hiện ra trong màn sương, đám khách người Đức cùng hát một khúc quân hành, người Italia làm dấu thánh giá, còn người Do Thái thì cầu nguyện dù trời đang có mưa bụi, các cặp đôi hôn nhau, con tàu cập bến Buenos Aires sau ba tuần lênh đênh trên biển. Một mình dựa vào thành tàu, Helmut Gregor suy tư. Hắn từng hy vọng rằng một chiếc tàu tuần tra của cảnh sát mật sẽ tới đưa hắn đi và giúp hắn tránh khỏi những phiền nhiễu của hải quan. Khi lên tàu ở Gênes, Gregor đã xin Kurt đặc ân này, hắn tự giới thiệu là một nhà khoa học, một chuyên gia tầm cỡ về di truyền học và đề xuất với Kurt hắn sẽ trả tiền (Gregor có rất nhiều tiền), nhưng kẻ tổ chức vượt biên cười và né tránh: quyền ngoại lệ này chỉ dành cho những nhân vật tai to mặt lớn, những quan chức của chế độ cũ, chứ không mấy khi dành cho một đại úy của SS*. Dù sao thì Kurt cũng sẽ đánh điện tới Buenos Aires, Gregor có thể trông cậy vào ông ta. Kurt đã bỏ túi một số bền, nhưng chiếc tàu tuần tra thì không hề xuất hiện. Gregor phải kiên nhẫn chờ đợi trong sảnh đường rộng mênh mông của hải quan Argentina cùng với những người di cư khác. Hắn giữ chặt hai chiếc va li, một to một nhỏ, và khinh khỉnh nhìn đám dân châu Âu lưu vong đứng quanh đó, những hàng dài người vô danh lịch lãm hay nhếch nhác mà hắn luôn tránh xa trong suốt hành trình. Gregor thà ngắm nhìn đại dương và các vì sao hoặc đọc thơ Đức trong cabin của mình còn hơn; hắn đã nhìn lại bốn năm vừa qua trong đời mình, từ khi hắn chạy khỏi Ba Lan một cách thảm hại vào tháng Một 1945 và trà trộn vào lực lượng Vệ quốc Đức Quốc xã để thoát khỏi nanh vuốt của Hồng quân: hắn bị giam vài tuần trong một trại tù của Mỹ, sau đó được thả vì hắn có giấy tờ giả mang tên Fritz Ullmann, rồi hắn ẩn náu trong một nông trang đầy hoa ở Bavière, cách thành phố Gunzburg quê hương hắn không xa, ở đây hắn làm công việc cắt cỏ cho gia súc và phân loại khoai tây trong ba năm với cái tên Fritz Hollmann, rồi sau đó hắn chạy trốn tới Pâques cách đây hai tháng, vượt qua dãy núi Dolomites bằng đường mòn trong rừng của những kẻ buôn lậu, rồi đến vùng Nam Tyrol ở Italia, ở đây hắn đổi tên thành Helmut Gregor, cuối cùng hắn tới Genova, nơi tên buôn lậu Kurt đã giúp hắn làm các thủ tục với chính quyền Italia và cơ quan nhập cảnh Argentina. Tại hải quan, kẻ đào tẩu xuất trình giấy thông hành của Hội Chữ thập đỏ quốc tế, giấy phép lên bờ và visa nhập cảnh: Helmut Gregor, cao 1,74 mét, mắt nâu xanh lá cây, sinh ngày 6 tháng Tám 1911 tại Termeno, tiếng Đức là Tramin, tỉnh Nam Tyrol, công dân Đức quốc tịch Italia, theo Thiên Chúa giáo, nghề nghiệp kỹ sư cơ khí. Địa chỉ tại Buenos Aires: 2460 phố Arenales, khu phố Florida, nhà của Gerard Malbranc. Nhân viên hải quan kiểm tra hành lý của hắn, quần áo gấp cẩn thận, tấm ảnh chân dung một phụ nữ tóc vàng mảnh dẻ, vài cuốn sách và một số đĩa hát opera, rồi anh ta cau mày khi thấy các món đồ trong chiếc va li nhỏ: ống tiêm hạ bì, vài cuốn sổ ghi chép và bản đồ giải phẫu, các tiêu bản máu, tiêu bản tế bào: không liên quan gì tới một kỹ sư cơ khí. Anh ta bèn gọi nhân viên y tế của cảng tới. Gregor run rẩy. Hắn đã mạo hiểm một cách điên rồ để giữ chiếc va li nhỏ gây liên lụy, kết quả quý giá của biết bao năm trời nghiên cứu, của cả đời hắn, mà hắn đã mang lên tàu khi vội vã rời khỏi nơi làm việc ở Ba Lan. Nếu bị quân Xô viết bắt được khi đang giữ cái va li đó, hắn sẽ bị xử tử ngay lập tức mà chẳng cần xét xử gì. Trên đường trở lại Tây Âu mùa xuân 1945, khi quân đội Đức Quốc xã rút chạy tán loạn, hắn đã gửi va li cho một nữ y tá có lòng trắc ẩn, rồi sau đó tìm lại cô ở Đông Đức, trong vùng Liên Xô kiểm soát, một chuyến đi điên rồ sau khi hắn được thả khỏi trại giam Mỹ và ba tuần đi đường. Sau đó, hắn đưa va li cho Hans Sedlmeier, một người bạn từ thuở nhỏ và là người được cha hắn, một nhà công nghiệp, hết mực tin cậy, Sedlmeier mà hắn thường xuyên gặp gỡ trong khu rừng xung quanh nông trang nơi hắn ẩn náu suốt ba năm. Gregor không thể rời khỏi châu Âu mà không đem theo chiếc va li này: Sedlmeier đã trả lại va li cho hắn trước khi hắn đi Italia cùng với một chiếc phong bì dày đầy tiền mặt, và giờ đây một gã ngớ ngẩn móng tay bẩn thỉu đang bới tung mọi thứ, Gregor thầm nghĩ, còn nhân viên y tế của cảng thì xem xét các tiêu bản và những ghi chép viết bằng kiểu chữ gothic sin sít. Vì không hiểu gì cả, nên nhân viên hải quan hỏi hắn bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Đức, tay kỹ sư cơ khí giải thích với ông ta về thiên hướng trở thành nhà sinh vật nghiệp dư của mình. Hai người đàn ông khinh bỉ nhìn nhau, còn nhân viên y tế đang muốn đi ăn trưa nên ra hiệu cho nhân viên hải quan cho hắn qua. Ngày 22 tháng Sáu 1949 ấy, Helmut Gregor đặt chân tới nơi ẩn náu mới: Argentina. Mời bạn đón đọc Cuộc Trốn Chạy Của Josef Mengele của tác giả Olivier Guez & Hoàng Mai Anh (dịch).