Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cò Súng Tử Thần

“Cò súng tử thần” là một tiểu thuyết trinh thám kể về nhân vật chính “James Bond” đã giành chiến thắng trước tên tội phạm đầu sỏ Auric Goldfinger, nhưng cả một cuộc chiến mới đã lại bắt đầu. Cùng với cô nàng Pussy Galore xinh đẹp, Bond từ Mỹ trở về nhà chỉ biết rằng SMERSH, tổ chức gián điệp Xô Viết đối thủ đang lên kế hoạch phá hoại một giải đua xe Grand Prix. Và thế lại là một nhiệm vụ mới cho Bond: ngăn chặn SMERSH. Nhưng trò chơi mèo đuổi chuột tốc độ cao đầy kích thích và nguy hiểm trên đường đua ấy hóa ra chỉ là khúc dạo đầu. Cuộc chạm trán tình cờ với một tay tỷ phú Triều Tiên bí ẩn còn dẫn Bond tới những âm mưu nhiều lần khủng khiếp hơn thế. James Bond đã giành chiến thắng trước tên tội phạm đầu sỏ Auric Goldfinger, nhưng cả một cuộc chiến mới đã lại bắt đầu. Cùng với cô nàng Pussy Galore xinh đẹp, Bond từ Mỹ trở về nhà chỉ để biết rằng SMERSH, tổ chức gián điệp Xô Viết đối thủ, đang lên kế hoạch phá hoại một giải đua xe Grand Prix. Và thế là lại một nhiệm vụ mới cho Bond: ngăn chặn SMERSH. Nhưng trò chơi mèo đuổi chuột tốc độ cao đầy kích thích và nguy hiểm trên đường đua ấy hóa ra chỉ là khúc dạo đầu. Cuộc chạm trán tình cờ với một tay tỷ phú Triều Tiên bí ẩn còn dẫn Bond tới những âm mưu nhiều lần khủng khiếp hơn thế *** Loạt tác phẩm James Bond xoay quanh một nhân vật mật vụ người Anh hư cấu, được sáng tạo bởi nhà văn Ian Fleming vào năm 1953. Fleming đã khắc họa Bond trong 12 cuốn tiểu thuyết và 2 tuyển tập truyện ngắn. Sau khi ông qua đời vào năm 1964, đã có tám tác giả tiếp tục viết tiếp các tác phẩm tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết chuyển thể về James Bond, bao gồm: Kingsley Amis, Christopher Wood, John Gardner, Raymond Benson, Sebastian Faulks, Jeffery Deaver, William Boyd và Anthony Horowitz. Forever and a Day của Anthony Horowitz, xuất bản vào tháng 5 năm 2018, là cuốn tiểu thuyết James Bond mới nhất. Ngoài ra, có thể kể đến loạt truyện viết về Bond thời trẻ của Charlie Higson hay Kate Westbrook với bộ ba tiểu thuyết dựa trên cuốn nhật ký của Moneypenny, một nhân vật từng xuất hiện trong loạt truyện. Nhân vật James Bond còn được biết tới với mã tên 007, được chuyển thể rộng rãi thành các tác phẩm truyền hình, phát thanh, truyện tranh, trò chơi điện tử và phim ảnh. Loạt phim về James Bond hiện đang là loạt phim liên tục dài nhất mọi thời đại và thu về tổng doanh thu 7.04 tỉ đô la Mỹ, trở thành loạt phim có doanh thu cao thứ sáu lịch sử. Nó được khởi đầu vào năm 1962 bằng phần phim Dr. No với ngôi sao Sean Connery trong vai Bond. Tính tới năm 2020, loạt phim do Eon Productions sản xuất đã có 24 phần. Spectre (2015) là bộ phim James Bond gần nhất, có sự tham gia diễn xuất của Daniel Craig với lần thứ tư anh thủ vai mật vụ Bond trong loạt phim của Eon. Ngoài ra, còn có hai tác phẩm độc lập: Casino Royale (một phiên bản giễu nhại ra mắt năm 1967, với sự tham gia của David Niven) và Never Say Never Again (bản làm lại bộ phim do Eon sản xuất trước đó của Thunderball, ra mắt năm 1965, cả hai bản đều có sự tham gia của Connery). Năm 2015, với trị giá ước tính 19.9 tỷ đô la Mỹ, James Bond trở thành một trong những thương hiệu truyền thông có doanh thu cao nhất từ trước tới nay. Các bộ phim về Bond nổi tiếng bởi một số điểm đặc trưng, như phần nhạc đệm với các bài hát chủ đề đã nhiều lần được đề cử Oscar và chiến thắng hai lần. Vài yếu tố xuyên suốt quan trọng khác bao gồm những chiếc xe hơi của Bond, các khẩu súng của anh và những thiết bị mà anh được Q Branch cung cấp. Mỗi phần phim cũng chú ý khắc họa mối quan hệ của Bond với nhiều phụ nữ khác nhau, đôi khi được gọi là các "Bond girl". *** Đó là lúc cả thế giới đã bão hòa. Mặt trời đã xuống tới đường chân trời, luồng ánh sáng đỏ mềm mại trườn trên lớp sóng triều, phía cao tít bên trên đàn chim đang vẽ nên những hình kỷ hà ngẫu nhiên trên bầu trời quang. Gió đã ngừng thổi và cái nóng buổi chiều trở nên ngột ngạt, ngập trong khói xăng và bụi. Xuyên qua bầu không khí đó, chiếc Crosley màu lam bất ngờ còn lại một mình chạy theo đường 13, hướng từ biển vào đất liền. Crosley là một chiếc xe nhỏ, xấu, mũi dài, khoang vuông, thân đã bị gỉ sét ăn thủng. Người lái xe, đang gập người trên vô lăng, mắt không rời khỏi con đường phía trước, đã mua nó với giá ba trăm đô la. Tay bán hàng thề thốt rằng chiếc xe có thể chạy sáu mươi cây số chỉ với ba lít xăng và còn có thể tăng tốc lên tám mươi ki lô mét một giờ. Tất nhiên là hắn nói dối… với hàm răng hoàn hảo và nụ cười thân thiện của một con phe tỉnh lẻ. Chiếc Crosley chẳng tăng tốc được thêm chút nào ngay cả trên đường lao dốc, nữa là ở đây, gần với bờ Đông Virginia, nơi địa hình đã trở nên bằng phẳng suốt nhiều cây số. Người lái xe có thể là một giáo sư hoặc một thủ thư. Gã có vẻ ngoài của một kẻ chủ yếu sống trong nhà với làn da xanh xao, những ngón tay ám nicotine và cặp kính theo thời gian đã từ từ chìm vào mũi cho đến khi trở thành một phần vĩnh viễn của khuôn mặt. Tóc gã đã thưa, lộ ra những vết đồi mồi trên trán. Gã là Thomas Keller. Mặc dù hiện đang mang hộ chiếu Mỹ, gã sinh ra tại Đức và vẫn nói tiếng mẹ đẻ trôi chảy hơn nói thứ tiếng của đất nước đã nuôi nấng gã. Không rời tay lái, Keller lật tay liếc nhìn chiếc đồng hồ quân sự Elgin 16 chân kính mà gã mua tại một cửa hiệu cầm đồ ở Salisbury, gần như chắc chắn bị vứt lại đó bởi một quân nhân đang gặp vận đen. Gã rất đúng giờ. Gã nhìn thấy lối rẽ ngay phía trước và bật xi nhan. Sau một giờ nữa thôi, gã nghĩ, gã sẽ có đủ tiền để mua một chiếc xe tử tế và một chiếc đồng hồ tử tế - đồng hồ Thụy Sĩ, tất nhiên, có thể là Heuer hoặc Rolex gì đó - và cuối cùng, một cuộc sống tử tế. Gã dừng lại trước một quán ăn, một cái hộp đẹp đẽ màu bạc trông như vừa mới lấy ra từ sau xe tải. Tên quán - Lucie - được uốn bằng đèn neon hồng ngay trên bốn món ăn đã định hình nền ẩm thực Mỹ đối với hầu hết cư dân của nó, bất kể là họ sống ở bang nào: Bánh kẹp, Xúc xích, Sữa lắc và Khoai chiên. Gã ra khỏi xe, áo sơ mi hơi bị dính vào lớp vỏ bọc ghế bằng nhựa vynil, và nhặt áo khoác để trên ghế trước. Gã đứng lặng một lúc trong không khí ấm nóng, lắng nghe một đoạn nhạc phát ra từ chiếc máy hát tự động, và nghĩ đến hành trình đã đưa gã đến đây. Thomas Keller vừa tốt nghiệp với tấm bằng vật lý và kỹ sư thì gặp được thứ rồi sẽ trở thành niềm đam mê lớn của đời gã. Chuyện xảy ra tại rạp Harmonie ở Sachsenhausen nơi gã cùng một cô gái xinh đẹp tới để xem bộ phim mới của Fritz Lang, Frau im Mond, Người đàn bà trên mặt trăng. Bộ phim bắt đầu được năm phút là gã đã quên tiệt cô gái, và vì thế, cả hy vọng được sờ soạng cô sau đó ngoài bãi đỗ xe của rạp. Thay vào đó, cảnh trên màn hình chiếu một quả tên lửa nhiều tầng đang rời khỏi quỹ đạo trái đất đã đánh thức thứ gì đó bên trong gã và từ đó trở đi hoàn toàn chiếm lĩnh gã. Có thể nói rằng gã đã được phóng đi, bằng một sức mạnh không thể cưỡng lại, đầu tiên là tới Đại học Tổng hợp Berlin, sau đó tới Verein für Raumschiffahrt - Hiệp hội Du hành Không gian - và cuối cùng là tới bờ biển Baltic và cảng biển Peenemünde. Khi đó, nghiên cứu tên lửa của Đức đã có tiến bộ hơn hẳn, vì mặc dù Hiệp ước Versailles bị nhiều người căm ghét đã đặt ra rất nhiều hạn chế đối với việc phát triển vũ khí nhưng du hành không gian lại được miễn trừ. Điều này tạo thuận lợi cho quân đội Đức, họ đã nhanh chóng nhận ra rằng tên lửa sử dụng nhiên liệu lỏng được phóng đi từ một bệ phóng tạm thời và tương đối đơn giản, có thể bay xa và nhanh hơn nhiều loại đạn pháo, đem tải trọng thuốc nổ của nó đến mọi thành phố lớn ở châu Âu. Keller ba mươi sáu tuổi khi gã gặp người phụ trách chương trình không gian của Đức: kỹ sư tên lửa (và là một thành viên SS-Sturmbannführer) Wernher von Braun. Con trai của một bá tước Phổ, von Braun xuất thân từ một gia đình đã từng tham chiến từ thế kỷ 13 và chưa bao giờ đánh mất những đặc trưng quý tộc của mình. Ông ta luôn đi lại khệnh khạng, quát mắng tất cả những ai tranh cãi với mình và có thể trở nên thô bạo lạnh lùng khi rơi vào một tâm trạng nhất định. Nhưng đồng thời ông ta lại vô cùng đam mê công việc, luôn đòi hỏi những điều tốt nhất từ bản thân và từ những người xung quanh. Keller kính trọng ông ta vậy nhưng cũng sợ hãi không kém. Tất nhiên, trong thời gian đó một tay hạ sĩ người Áo đã lên nắm quyền và nước Đức đang có chiến tranh. Nhưng chẳng có chuyện gì thực sự làm Keller quan tâm. Cũng giống như nhiều học giả và các nhà vật lý khác, những người bạn hiếm hoi, gã không quan tâm nhiều đến thế giới xung quanh, và nếu như Hitler lại chuyển tiền - mười một triệu mác Đức trích từ Không lực và quân đội - vào các thiết bị đánh chặn bằng tên lửa và tên lửa đạn đạo thì gã sẵn sàng lờ đi những mối bận tâm kém hấp dẫn khác của đảng Quốc xã. Thực sự là khi cuối cùng đã đến được Peenemünde, lúc những quả tên lửa V-2 đầu tiên rời bệ phóng vào mùa hè năm 1944, gã chưa từng nghĩ đến sự chết chóc và tàn phá mà chúng sẽ đem đến với trọng tải một tấn của mình. Gã là một nghệ sĩ và đây là tấm toan của gã. Việc ngắm nhìn các vụ phóng đã cho gã một giây phút xuất thần tinh khiết: những đám mây khói trắng đầy những tia lửa nhỏ từ bộ đánh lửa đột nhiên đổ xô lại với nhau thành một ngọn lửa đỏ rực rỡ, dây cáp bung ra và một tạo vật xinh đẹp, lịch lãm được tung lên bầu trời. Những rung động xuyên qua gã. Làn da gã dường như sống dậy, gã cảm thấy phấn khích khi biết rằng mình là một trong số ít các kỹ thuật viên đã giúp tạo ra nó, rằng các động cơ sẽ tạo ra công suất đáng kinh ngạc 800.000 mã lực và rằng tên lửa sẽ sớm đạt được năm lần tốc độ của âm thanh. Đám dân thường London sẽ không thể biết gì về sự hoàn hảo, về thiên tài vĩ đại của thứ vũ khí đã giết họ. Thường thì Keller không thể kiềm chế được mình. Gã rơi những giọt lệ của niềm vui thuần khiết. Một thời gian ngắn sau khi chiến tranh kết thúc, Keller tự hỏi không hiểu gã có phải đối mặt với hậu quả nhất định nào đó hay không. Thực ra gã đã có mặt khi von Braun đầu hàng người Mỹ và sau đó bị họ thẩm vấn vì cũng nằm trong Danh sách Đen nổi tiếng, mật danh dành cho các nhà khoa học và kỹ sư Đức có vai trò quan trọng đặc biệt. Nhưng gã không quá lo lắng. Những gì von Braun và nhóm của ông ta đã tạo ra quá có giá trị đối với Đồng minh và gã tin rằng công việc của họ bằng cách nào đó vẫn sẽ được tiếp tục. Gã đã đúng. Hai người họ được thả cùng một ngày. Cùng với hơn một chục nhà khoa học và kỹ thuật viên khác họ đã được đưa ra khỏi nước Đức trên cùng một chuyến bay, và cuối cùng đã tới Fort Bliss, một căn cứ quân sự Mỹ gần Al Paso, nơi mà với những ông chủ mới và trong một số trường hợp ít ỏi khác - nhân thân mới, họ lại tiếp tục công việc từ đúng chỗ trước đó họ đã bị ngắt quãng một cách thô bạo. Giờ Keller năm mươi tư và đã đi gần hết sự nghiệp. Gã sống ở Mỹ đã mười hai năm nhưng chưa bị ai nhận nhầm là người Mỹ. Gã có diện mạo và hình thể của một người nước ngoài, vụng về và chậm chạp. Lối nói chậm rãi và nặng khẩu âm luôn tiết lộ nguồn gốc của gã ngay khi gã bắt đầu mở miệng. Cũng chẳng quan trọng lắm. Chiến tranh đã đủ xa rồi. Người ta cũng chẳng còn quan tâm nữa. Vả lại, trong ý thức gã đã đồng hóa theo cách tốt hơn - và điều đó làm cho gã hoàn toàn thỏa mãn. Ba năm sau khi đến Mỹ, gã lấy một cô tiếp viên Mỹ bán cocktail mà gã gặp ở El Paso làm vợ và hai người họ chuyển đến sống trong một ngôi nhà phong cách thuần Mỹ gần Salisbury, bang Maryland. Keller được thuê làm giám sát viên tổng hợp trong Phòng Thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân (NRL) tại bãi phóng tên lửa của cơ quan này trên đảo Wallops. Gã vừa ra khỏi văn phòng một giờ trước. Giờ thì gã đã đến nơi. Gã bước vào quán và ngay lập tức cảm thấy cái mát lạnh của điều hòa không khí, đúng lúc máy hát tự động phát một bài mới của Everly Brothers. Tạm biệt tình yêu Tạm biệt hạnh phúc… Keller không quan tâm đến âm nhạc Mỹ nhưng gần như không thể thoát được giai điệu này suốt mấy tháng nay. Gã cảm thấy lời bài hát có vẻ lạc quẻ một cách lạ lùng, vì gã đến đây với hy vọng và kỳ vọng vào điều hoàn toàn trái ngược. Người gã đến gặp đang chờ gã ở đúng chỗ mà hắn đã nói, cái bàn cạnh cửa sổ góc. Hắn mặc bộ vét hiệu Brooks Brothers, áo sơ mi cài hết cúc và đi giày lười, kiểu trang phục thường xuyên của hắn. Hắn đến sớm. Trên mặt bàn có một tờ báo và hắn đã điền được một phần trò ô chữ. Keller biết đến hắn với tên gọi Harry Johnson, nhưng gã không chắc đấy có phải tên thật của hắn hay không. Gã giơ tay chào, hơi lúng túng bước trên nền gạch đỏ trắng đến phía bên kia của cái bàn. Đến phút cuối gã mới nhận ra mình đã quên khoác áo vét. Thôi kệ, đằng nào thì cũng đã quá muộn. Gã quyết tâm không làm gì tỏ ra thiếu chuẩn bị hoặc vụng về. Gã đặt cái áo lên ghế bên cạnh. “Anh thế nào, Keller?” Johnson nói đều đều, giọng Manhattan. “Tôi ổn, cảm ơn anh.” Harry Johnson trẻ hơn gã đến mươi mười lăm tuổi, nhưng trông lại có vẻ già dặn hơn với khuôn mặt dài quá mức, má đầy nếp nhăn và mái tóc bạc cắt ngắn. Hắn đang xoay cái bút bi giữa những ngón tay. Trên một ngón tay, hắn đeo chiếc nhẫn vàng có khắc hình. “Thủ đô của Venezuela là gì?” hắn hỏi. “Sao cơ?” Keller sửng sốt. “Thứ chín từ trên xuống, thủ đô của Venezuela. Từ bảy chữ cái bắt đầu bằng chữ C.” “Tôi không biết,” Keller cáu kỉnh nói. “Tôi không chơi ô chữ.” “Này, không sao. Tôi chỉ hỏi thôi mà.” Johnson rời mắt khỏi ô chữ. “Thế nào, xong rồi chứ?” Lần này thì Keller hiểu ý hắn. Đây là lần thứ tư họ gặp nhau. Keller vẫn nhớ lần đầu tiên, một cuộc gặp có vẻ như tình cờ trong một quán rượu trung tâm Salisbury. Johnson bằng cách nào đó đã ở đó, ngay ghế bên. Không thể biết được hắn vào từ lúc nào. Họ đã nói chuyện với nhau. Johnson nói hắn là một doanh nhân, cũng có thể đúng là vậy thật nhưng thực sự thì nó cũng gần như chẳng có ý nghĩa gì. Hắn có vẻ phấn khích khi biết Keller là một nhà khoa học ngành tên lửa và sau ly thứ hai - Johnson đòi được trả tiền - hắn đưa ra một loạt câu hỏi đầy quan tâm nhưng vô hại, không có gì khiến cho gã phải nghi ngờ. Đương nhiên mọi thứ đã được sắp xếp từ trước. Hắn đã biết tất cả về Keller từ trước khi họ mở miệng nói chuyện với nhau. Đến cuối buổi tối hai người đã thu xếp gặp nhau lần nữa. Sao lại không cơ chứ? Johnson là một người bạn tốt, và khi ra về hắn gần như vô tình nói rằng mình có thể đề nghị việc này. “Có thể kiếm cho anh một ít tiền. Mới chợt nghĩ vậy thôi. Lần sau ta trao đổi nhé.” Nhưng đến lần sau đó hắn không nói gì. Họ so sánh vợ con, gia đình, lương lậu, khát vọng. Toàn là những câu chuyện của đàn ông, mặc dù người nói chính vẫn là Keller. Chỉ đến lần thứ ba khi họ đã hiểu nhau rõ hơn thì Johnson mới đưa ra lời đề nghị của mình. Đáng ra khi đó Keller phải tới gặp cảnh sát, hoặc hợp lý hơn nữa là phòng An ninh Hải quân ở phía Nam đảo Wallops. Tất nhiên là gã không làm thế. Johnson, hay những người đứng sau hắn, đã chọn Keller vì họ biết gã sẽ không làm thế. Có khi họ đã tìm hiểu gã nhiều tháng trời rồi. Chính xác thì họ là ai? Keller không quan tâm. Cũng chính chứng chỉ nhìn tầm gần này đã giúp gã qua được cuộc chiến. Gã không có nhu cầu nhìn toàn cảnh. Không quan trọng. Gã đơn giản chỉ tập trung vào đề nghị được đặt ra cho mình và hai trăm năm mươi ngàn đô la, miễn thuế, mà gã có thể có được nếu như làm theo đề nghị đó. Gã đồng ý gần như ngay lập tức và chỉ cần một buổi gặp nữa để thảo luận chi tiết. Rất thẳng thắn. Điều mà gã được đề nghị làm không hề dễ dàng. Nó cần có sự hiểu biết sâu sắc về cơ học chất rắn và ứng suất kéo - nhưng đó chính là lĩnh vực chuyên môn của gã. Và sau khi gã đã đo đếm tỉ mỉ mọi yếu tố thì bản thân công việc này vẫn là một vấn đề. Nhưng may mắn thì gã cũng sẽ có được bốn hoặc năm phút một mình. Có rủi ro đáng kể - nhưng phần thưởng cũng lớn. Đó là tính toán ban đầu của gã. “Thế là xong rồi chứ?” “Phải.” Keller gật đầu. “Nhiệm vụ hóa ra lại dễ hơn tội tưởng nhiều. Tôi từng được vào xưởng lắp ráp trong lúc tập dượt cứu hỏa.” Gã dừng lời. Gã đã lộ ra sự nhiệt tình quá mức và khiến điều gã đã làm được có nguy cơ mất giá. “Tất nhiên là tôi phải làm nhanh. Người ta luôn luôn tăng cường an ninh trong khi chuẩn bị phóng. Và phải làm rất cẩn thận. Có khả năng, anh hiểu chứ, người ta sẽ đi kiểm tra vào phút chót. Việc tôi làm cần phải… unsichtbar.” Gã tìm từ trong tiếng Anh. “Tàng hình.” “Động cơ sẽ hỏng chứ?” “Không. Nhưng nó sẽ không hoạt động tử tế. Lượng thuốc phóng được bơm vào buồng đốt sẽ không đủ. Tôi đã giải thích điều đó cho anh rồi. Kết quả sẽ đúng như mong muốn.” Hai người cùng im lặng khi hầu bàn đưa cà phê và nước lạnh đến. Hai cuốn thực đơn để mở trước mặt. Họ không có ý định ăn uống gì. “Thời điểm phóng thì thế nào?” Johnson hỏi. Keller nhún vai. Gã không thích cà phê. Gã đã nốc hết bao nhiêu lít món này từ khi đến Mỹ, trong lúc hút thuốc và làm việc thâu đêm? Gã đẩy cái cốc sang một bên. “Vẫn còn mười hai ngày nữa từ hôm nay. Tôi đã xem dự báo. Thời tiết tốt. Nhưng thời tiết thì không bao giờ chắc chắn được. Hướng và tốc độ gió rất quan trọng, và nếu như điều kiện không thích hợp thì…” Gã hạ giọng bỏ lửng câu nói. “Nhưng đấy không phải chuyện tôi quan tâm. Tôi đã làm điều anh yêu cầu. Anh có đem tiền không?” Người đàn ông kia không nói gì. Hắn nhìn chằm chằm gã người Đức. Sau đó hắn chìa tay ra và gỡ cặp kính mát gài trên túi áo phía trước. Đó là tín hiệu cho thấy công việc của họ đã kết thúc. “Dưới gầm bàn có một cái cặp.” “Còn tiền thì sao?” “Trong đấy hết.” Johnson toan ra về nhưng Keller ngăn hắn lại. “Tôi phải nói với anh một chuyện,” gã nói. “Quan trọng đấy.” Gã đã tập dượt điều sắp nói. Gã khá tự hào về cách nói mà gã đã nghĩ ra, về việc gã đã suy nghĩ điều đó thật kỹ càng. “Tôi sẽ không đếm tiền. Tôi sẽ coi như đã đủ. Nhưng đồng thời, tôi phải cảnh báo anh. Tôi không biết ai thuê anh, tôi không quan tâm. Rõ ràng là anh làm việc cho những người nghiêm túc. Nhưng một phần tư triệu đô là rất nhiều tiền. Cược đặt rất cao. Và vì sự an toàn của bản thân mình anh có thể chọn cách bịt miệng tôi lại. Không phải khó lắm, phải không? Theo tôi hiểu, có thể trong cái cặp ấy có thuốc nổ và tôi có thể chết trước khi ra đến xe. Hoặc có thể sẽ có tai nạn giao thông.” “Thế nên tôi muốn anh biết rằng tôi đã ghi lại tất cả những gì xảy ra giữa chúng ta với nhau và tất cả mọi thứ tôi được yêu cầu thực hiện. Không những tôi miêu tả anh, tôi còn chụp ảnh. Tôi mong là anh sẽ tha thứ cho sự lừa đảo nhỏ này của tôi, nhưng tôi chắc chắn anh sẽ thông cảm cho tình thế của tôi. Tôi cũng ghi lại thông tin về xe của anh, biển số xe. Tất cả những thứ đó được gửi ở chỗ một người bạn của tôi và gã đã được dặn là sẽ chuyển tất cả cho cơ quan có thẩm quyền nếu có điều gì đó đáng ngờ xảy ra cho tôi. Anh hiểu tôi nói gì chứ? Sẽ không có chuyện tên lửa bị hỏng nữa. Và dù cảnh sát phải tốn chút thời gian để tìm ra anh thì họ cũng đã biết về sự tồn tại của anh và sẽ theo anh mãi mãi.” Johnson yên lặng nghe hết. Keller nói xong Johnson ngờ vực chằm chằm nhìn gã. Đó là lần đầu tiên hắn thể hiện cảm xúc thực của mình. “Anh nghĩ chúng tôi là ai?” hắn hỏi. “Anh nghĩ chúng tôi là gangster à? Tôi phải nói với anh, Tom, anh đọc nhầm loại sách rồi. Chúng tôi yêu cầu anh cung cấp cho chúng tôi một dịch vụ. Anh cung cấp cho chúng tôi dịch vụ đó và anh đã được trả tiền. Nhân tiện mà nói, anh nhầm rồi. Một phần tư triệu đô cũng không phải quá nhiều trong chuyện này. Anh sẽ gặp lại chúng tôi chỉ trong trường hợp anh không làm như chúng ta đã thỏa thuận - và nếu đúng như vậy, trong trường hợp ấy, cuộc sống của anh rất có thể sẽ bị nguy hiểm một chút. Nhưng cho dù anh không tin chúng tôi thì chúng tôi vẫn có niềm tin tuyệt đối nơi anh.” Hắn ném vài đồng xu ra bàn để thanh toán tiền cà phê, cuộn tờ báo lại rồi đứng lên. “Tạm biệt.” “Chờ đã…” Keller cảm thấy xấu hổ. “Caracas,” gã nói. “Caracas?” “Ô chữ còn thiếu của anh. Thủ đô Venezuela.” Johnson gật đầu. “Tất nhiên rồi. Cảm ơn anh.” Keller nhìn hắn đi khỏi. Đúng là bài phát biểu của gã có chút khoa trương, được lấy cảm hứng từ mấy bộ phim gã từng cùng xem với vợ. Và nó cũng không thật. Không có bản ghi nào về những gì đã xảy ra, không có ảnh, không có người bạn nào đang chờ để đến gặp cảnh sát. Gã chỉ nghĩ rằng sự đe dọa này có thể là đủ để bảo vệ mình khi cần. Liệu gã có sai không? Liệu gã có tự biến mình thành thằng ngốc không? Sau đó gã nhớ đến tiền. Gã mò mẫm dưới gầm bàn và cảm thấy các khớp tay mình va phải thứ gì đó đặt sát tường. Cái cặp! Gã kéo nó ra và bật khóa, hé mở vừa đủ để có thể liếc vào trong. Có vẻ có đủ tiền trong đó: tiền năm mươi đô, được buộc thành cọc gọn gàng. Gã đóng cặp, khoác áo vét lên rồi vội vã ra ngoài. Không có dấu hiệu nào của Harry Johnson ngoài bãi đỗ. Gã ra xe, ném chiếc cặp vào ghế trước rồi chui vào xe. Mất hai mươi phút để gã lái xe về đến nhà, nơi gã biết Gloria đang chờ gã. Nghĩ đến Gloria, gã mỉm cười và thư giãn một chút sau tay lái. Xét cho cùng, mọi thứ đều là cho nàng. Nàng trẻ hơn gã mười lăm tuổi, thấp và hơi mũm mĩm theo cái cách làm gã thấy phấn khích, ngực và hông lúc nào cũng căng đầy dưới lớp quần áo. Khi hai người gặp nhau thì nàng đã ở giữa độ tuổi hai mươi, và khi gã kể với nàng về mình thì nàng thấy rạo rực. Này là một người đàn ông được đưa lậu từ châu Âu đến, làm việc cho một cơ sở nghiên cứu tuyệt mật chế tạo tên lửa không gian. Nó giống như tình tiết trong những cuốn sách bìa mềm nàng thích đọc, và mặc dù thực ra gã là người Đức, thiếu hấp dẫn và đôi khi có những yêu cầu làm nàng đau, điều đó có vẻ cũng chẳng quan trọng gì. Họ đã hạnh phúc khi lấy nhau và cả hai đã cùng quyết định chuyển lên phía Bắc, chọn Salisbury vì gần đảo Wallops. Họ đã mua nhà và cùng chọn nội thất. Nhưng từ đó trở đi mọi việc giữa họ đã không còn mấy tốt đẹp. Họ không thể có con, nàng thì phát chán vì ngôi nhà, vì cái công việc quản lý một nhà hàng địa phương hầu như không có khách trừ những ngày cuối tuần. Nàng không muốn nghe bất cứ điều gì về tên lửa và dạo này nàng chỉ miễn cưỡng đến xem các vụ phóng. Nhưng Keller vẫn còn yêu nàng. Dĩ nhiên là gã si mê nàng. Theo một cách nào đó, gã coi nàng như biểu tượng cao nhất về vị thế, sự công nhận đối với công trình của đời người. Nàng là một người vợ Mỹ. Gã xứng đáng có nàng. Gã kể với nàng về người bạn mới của mình, Harry Johnson, về đề nghị gã nhận được. Có nằm mơ gã cũng không dám nhận nếu như không có sự chấp thuận của nàng. Gã mừng là gã đã làm như vậy. Tiền cược là vô cùng cao. Gã sẽ phạm một tội ác mà nếu bị phát hiện gã sẽ bị kết tội phản quốc. Nhưng ngay từ đầu Gloria đã tỏ ra quyết tâm hơn cả gã, thúc giục gã khi lòng dũng cảm của gã không còn. Hàng tuần nay hai người họ đã trao đổi về tương lai mà họ sẽ xây dựng cùng nhau, về việc họ sẽ làm gì với số tiền, họ phải thận trọng để không tiêu hết nó quá sớm ra sao. Keller thấy hình như vợ gã đã biến đổi. Giờ thì gã nhớ lại được nàng như thế nào khi lần đầu tiên gã để mắt đến nàng. Tất cả năng lượng và lebensfreude - sức sống - của nàng đã quay trở lại. Và nàng lại khôi phục được sự thèm khát giường chiếu, hiến dâng cho gã với sự buông thả như trong đêm tân hôn của họ. Nàng đang đợi gã ngoài cửa căn nhà gỗ một cửa sổ. Đó là một ngôi nhà như bước thẳng ra từ catalogue nhà đất với khu vườn gọn gàng phía trước và dãy hàng rào màu trắng. Keller đỗ xe trên lối vào nhà và lại với nàng, tay xách cặp. Họ hôn nhau trên ngưỡng cửa. Nàng mặc chiếc váy hoa ban ngày, chiết eo. Mái tóc vàng óng của nàng đổ những lọn xoắn lên vai. Ngay lúc đó Keller thèm muốn nàng hơn bao giờ hết. “Anh làm được rồi,” nàng nói. “Phải.” “Anh đếm chưa?” “Ở đây cả mà. Không cần.” “Anh phải đếm chứ.” “Mình có thể đếm trong nhà.” Họ cùng nhau vào nhà, vào phòng khách gọn gàng có sofa, bàn cà phê và chiếc ti vi phủ tấm che cửa lật. Họ mở cặp và đếm tiền. Gloria đứng tì vai và mông vào gã, gã vòng tay ôm nàng. Khi đã chắc chắn mọi thứ đều ổn, nàng vặn người hôn má gã. “Em đã để sâm banh sẵn trong tủ lạnh rồi đấy,” nàng nói. Gã theo nàng vào bếp, đứng đó trong khi nàng lục lọi ngăn kéo. “Không thấy cái mở nút chai chết tiệt ấy đâu cả,” nàng nói. Hắn lại chỗ nàng, và chỉ khi tới nơi thì hắn mới nhớ ra là để mở sâm banh thì đâu có cần đến mở nút chai, và đó cũng là lúc nàng quay lại còn gã thì cảm thấy có cái gì đó đè vào mình. Gã cúi nhìn và thấy, không thể nào như vậy, một cái cán dao thò ra từ bụng mình. Hẳn phải có nhầm lẫn gì rồi. Không thể như thế được. Nhưng khi ngẩng lên và nhìn thấy mắt nàng thì gã biết đây chính là sự thật. Gã cố gắng cất tiếng nhưng máu đã ộc ra từ cơ thể, và cùng với nó là hơi thở và sự sống của gã. Vẫn còn ôm lấy nàng, gã khuỵu xuống, rồi, khi nàng bước sang một bên, gã đổ vật xuống sàn. Gloria nhìn xuống gã và rùng mình. Không phải cảnh tượng máu gã tràn trên lớp vải sơn làm ả ghê sợ. Mà là ký ức về đôi bàn tay gã trên thân thể ả, mùi chua chua trong hơi thở của gã. Chẳng còn gì nhiều để làm. Ả đã mua sẵn xăng. Ả vẩy xăng lên tay chồng đã chết, lên bếp, phòng khách, cầu thang. Rồi ả lấy chiếc va li, đóng gói vài thứ định mang theo và đổ tiền vào trong. Cuối cùng, ả bật diêm. Ả lấy chiếc Crosley của chồng, cho dù đấy là một cái xe kinh khủng. Ít nhất thì ả cũng có thể trông chờ vào nó để đến California, nơi ả dự tính sẽ bắt đầu cuộc đời mới. Ả đi tới cuối con phố và rẽ ra đường lớn mà không nhìn lại. Và thế là không nhìn thấy những ngọn lửa đầu tiên khi chúng bùng lên phía sau mình và làn khói đang lan tỏa vào không khí ban đêm.   Mời các bạn đón đọc Cò Súng Tử Thần của tác giả Anthony Horowitz & Phạm Hồng Anh (dịch).  

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

14 Tập 1
Những cánh cửa khóa chặt. Đèn tường kỳ cục. Lũ gián biến dị. Có điều gì đó bất thường đang diễn ra trong căn hộ mới thuê của Nate! Đương nhiên anh có đầy thứ khác phải lo hơn là tìm hiểu mấy thứ trong căn nhà này. Công việc chán nản, tiền bạc không có, bạn gái cũng không, tương lai mù mịt, vì vậy dù căn nhà có không được hoàn hảo cho lắm, anh cũng chả quan tâm, chỉ cần ở được là đủ. Ít nhất là như vậy cho đến khi anh gặp Mandy - cô hàng xóm ở phòng đối diện và nhận ra vô số điều bất thường trong căn phòng cô đang ở… Và cả những căn phòng khác nữa. Tại nơi đã từng một thời là khu xa xỉ của Los Angeles này, mỗi căn phòng, mỗi bức tường đều đang che đậy những bí ẩn có thể đã tồn tại từ cả trăm năm trước. Một số hiển hiện ngay trước mắt, một số giấu mình đằng sau những cánh cửa đóng chặt. Và khi mọi mảnh ghép bí ẩn dần được phơi bày, khi bánh xe vận mệnh một lần nữa khởi động, Nate và “đồng bạn” sẽ phải đối mặt với những gì? Là tận cùng của sinh mạng… hay tận cùng của mọi thứ ? *** Peter Clines, sinh ra ở Cape Neddick, Maine là một tác giả và tiểu thuyết gia người Mỹ nổi tiếng với loạt truyện siêu anh hùng zombie, Ex-Heroes, và tiểu thuyết lấy cảm hứng từ Lovecraftian 14 và The Fold. *** Ông ta chạy. Ông ta cố chạy nhanh hết sức, như thể Chốn Địa Ngục kia đang đeo bám lấy mình, như thể toàn bộ cuộc đời của ông ta đang phụ thuộc vào việc này. Ông ta chắc chắn rằng điều đó đã xảy ra. Sự thật là ông ta đã chết rồi. Ông ta đã từng chứng kiến cảnh máu me trong phòng phẫu thuật mẫu, và cảm nhận rõ máu đang túa ra ướt đẫm mạng sườn. Con dao mổ đã thực hiện nhiệm vụ của nó một cách chính xác nhất. Mặc dù ông ta không thể nghĩ gì thêm về bản thân mình. Không phải là lúc này. Có quá nhiều điều đang đe dọa đến ông ta. Ông ta phải tiếp tục chạy. Nếu hội The Family tóm được ông ta, tất cả sẽ đều phải chết. Mời các bạn đón đọc 14 Tập 1 của tác giả Peter Clines.
Tiếng Cú Kêu
“Ý cô là cô tin vào số mệnh?” “Tất nhiên. Tôi cũng tin việc mỗi người là đại điện cho một điều gì đó.” Vậy anh là đại diện cho điều gì? Tình yêu? Hay cái chết? Bạn đã bao giờ có cảm giác giống như đang bị người khác theo dõi? Nhất cứ nhất động của bạn đều bị thu gọn vào tầm mắt của một kẻ nào đó? Con người ở trong bóng tối đó luôn dình dập bạn, hắn biết rõ về bạn, kể cả những điều riêng tư nhất. Không một nơi nào, không một lúc nào, không ở bên cạnh ai mà bạn cảm thấy an toàn. Đó cũng là những gì Jennifer Thierolf đã trải qua. Cô gái trẻ đang trong tâm trạng hạnh phúc khi chuẩn bị kết hôn với tình yêu của cuộc đời mình. Nhưng thời gian gần đây, cô nghe thấy những tiếng động kì lạ xung quanh nhà. Một dịp tình cờ, cô khám phá ra bí mật đằng sau những âm thanh đáng sợ đó. *** “Cho dù sẽ chẳng bao giờ có ai hiểu được việc chỉ quan sát một cô gái bình lặng làm việc nhà cũng khiến anh cảm thấy yên bình, khiến anh thấy rằng đối với một vài người trong cuộc sống cũng có thể có mục đích và niềm vui, và khiến anh đôi phần tin tưởng rằng mình cũng có thể tìm lại được mục đích và niềm vui và niềm vui sống đấy.” Đây là một câu tôi cực kỳ thích trong “Tiếng cú kêu” bởi nó đã làm bật lên được tâm tính đơn thuần của một người đang bế tắc trong cuộc sống như Robert Forester. Một cú lừa khi cứ nghĩ anh ta có định hãm hiếp cô gái kia nhưng không, tất cả chỉ là một ánh nhìn hy vọng nhỏ nhoi của một người đang bị nhấn chìm vào bóng tối sâu thẳm của cuộc đời. Đối với “Tiếng cú kêu”, một lần nữa, Highsmith lại đem chủ đề nhân cách và đạo đức làm màu chủ đạo cho quyển tiểu thuyết. Một kiểu khai tâm rất “Highsmith” được đặc trưng bởi các yếu tố tâm lý học tội phạm mà chúng ta đã thấy qua “The Talented Mr.Ripley”. Tôi dường như cảm nhận được sự cố tình trong cách xây dựng một màu sắc u tối trong quyển sách này của tác giả. Đó là một cảm giác đau khổ và tuyệt vọng tận cùng khi câu chuyện càng dần tiến tới hồi kết. Về một khía cạnh nào đó, nó gợi cho tôi liên tưởng đến mảng màu trong sách của Georges Simenon như series về thanh tra Jules Maigret. Nhưng dù thế nào thì đối với tôi, “Tiếng cú kêu” vẫn là một quyển sách tuyệt vời bởi một lại thêm một lần, tôi được đắm chìm vào cách kể chuyện của tác giả. “Tiếng cú kêu” xoay quanh cuộc sống của nhân vật Robert Forester – một người đàn ông 29 tuổi. Thời gian gần đây, anh ta chuyển tới một thị trấn nhỏ ở Pennsylvania để thoát khỏi nanh vuốt của người đối tác cũ độc ác là Nickie. Cô nàng Nickie đã quấy rối anh ta qua điện thoại với những chiêu trò ác ý. Khoảng thời gian sau đó, tuy là Robert tìm được một công việc tốt trong ngành kinh doanh hàng ngoại nhập nhưng anh ta vẫn phải chiến đấu với sự cô đơn và trầm cảm trong nhiều tháng trời đến nỗi một thói quen kỳ quặc đã hình thành là anh cứ thích theo dõi một phụ nữ trẻ vô danh khi cô đi công tác. Không những thế, khi đọc được tình huống Robert hay quan sát cô gái tên là Jenny qua cửa sổ nhà bếp khi cô đặt bàn và chuẩn bị một bữa ăn tối cho hai người. Một chút ý nghĩ sờ sợ xuất hiện trong tâm trí tôi vì có gì đó hơi biến thái ở nhân vật này nhưng khi đọc xong truyện thì tôi lại cảm nhận khác. Anh chàng Robert này không phải là loại người bị hấp dẫn bởi thể xác của Jenny mà đơn giản là anh ta muốn kiếm tìm sự an ủi và thoải mái khi nhìn mọi hành động của cô gái ấy. Như thế cuộc đời của Jenny là một bức tranh bình yên và hạnh phúc mà Robert lại rất khao khát cuộc sống ấy, anh tìm trong đó chút hy vọng bé nhỏ, cùng với đó là một cảm giác bình an và mong muốn tìm lại chính mình. Lúc đầu, tôi đã sai lầm khi nghĩ rằng Robert là nhân vật kỳ quặc nhất câu chuyện nhưng sau đó, tôi phát hiện việc anh ta thích theo dõi Jenny cũng chỉ minh chứng cho việc mất cân bằng trong cuộc sống. Thế nhưng những nhân vật khác thì sao? Họ không hẳn là không kỳ quặc. Chẳng hạn như đối với Jenny, mất anh trai khi còn rất trẻ, Jenny khá thường xuyên nghĩ về cái chết – một yếu tố đóng vai trò quan trọng trong các phản ứng của cô trước những sự kiện khủng khiếp đang xảy ra với Robert. Nickie là một kẻ cáu kỉnh, có xu hướng thù hằn cao. Trong trí nhớ của Robert thì anh ta chỉ nhớ đến những lời phàn nàn của cô ta và đó là một nỗi ám ảnh lâu dài. Cô nàng này đóng một vai trò quan trọng trong sự sụp đổ tiếp theo của Robert và cũng là nguyên cớ cho những chuyện kỳ lạ về sau. Khi kể câu chuyện này, Highsmith đã nổi trội trong việc nắm bắt những tin đồn trong một cộng đồng thị trấn nhỏ – những nỗi sợ hãi và nghi ngờ có thể xuất hiện khi những cá nhân biết một số người có liên quan bắt đầu tự xoay sở để thoát khỏi các tình huống nguy hiểm ấy. Cuối cùng, điều thực sự làm cho cuốn tiểu thuyết này trở nên hấp dẫn như vậy là nhờ chuỗi sự kiện dường như không thể ngăn cản được mà Robert đã ngây thơ coi thường chúng ngay từ giây phút đầu. Chúng ta chỉ còn cảm giác một người đàn ông bất lực đang cảm thấy như thế nào khi hành động của anh ta bị đánh giá và giải thích sai bởi những người được gọi là công dân đứng đắn xung quanh anh ta, đặc biệt là khi số phận can thiệp và nhân vật chính chẳng thế làm được điều gì ra trò cả. Tôi tin đây là quyển sách cực kỳ thú vị cho những ai thích những điều xoắn não và một cốt truyện tối tăm về bối cảnh và nhân vật. Trần Thông review *** Tiếng cú kêuTIẾNG CÚ KÊU Tác giả Patricia Highsmith Người review Bà Bô (mình hỗ trợ edit) Mình biết đến Patricia Highsmith đã lâu qua “Stranger on the train” và “Carol”, nhưng đều là phim chuyển thể từ tác phẩm của bà. Phim quá xuất sắc nên mình không tìm sách nữa. Thành ra “Tiếng cú kêu” là cuốn đầu tiên của bà mình đọc. Robert là một người đàn ông thất bại trong hôn nhân, sống một mình và có một công việc nhàm chán. Trong 1 buổi tối đi làm về khuya, anh bị cuốn hút dữ dội bởi hình ảnh 1 cô gái trẻ đang chuẩn bị bữa ăn bên khung cửa sổ. Sự cô đơn và thiếu thốn tình cảm trong cuộc sống thường ngày khiến cho anh cứ trở lại và rình rập nhìn trộm cô mỗi tối. Anh đứng ngoài vườn lén lút nhìn cảnh cô gái xinh đẹp nấu nướng, rồi cảnh cô đón người yêu đến ăn tối với 1 niềm hạnh phúc sáng ngời. Một ngày anh bị cô gái phát hiện, Jenny bỗng nảy sinh sự thương cảm đối với Robert và làm cho Greg – vị hôn phu của cô ghen tức lồng lộn. Đỉnh điểm của sự ghen tuông là trận ẩu đả bên bờ sông giữa Robert và Greg và Greg bỗng dưng mất tích. Mọi sự nghi ngờ đổ dồn vào Robert – người đàn ông đã chịu nhiều tổn thương trong cuộc sống riêng nay lại tiếp tục gánh chịu sự soi mói phán xét của mọi người xung quanh. Người đàn ông bị cho là biến thái vì “nhìn trộm”, đã từng hành hung vợ cũ, đã từng đánh người bên bờ sông… từng đó đã khiến cho mọi con mắt nhìn anh đầy định kiến. Biến cố tiếp tục xảy đến với Jenny và những người giúp đỡ anh làm cho hình ảnh của anh càng trở nên xấu xí, bất kể sự hợp tác tích cực của anh với cảnh sát. Robert quyết định tự tìm công lý cho riêng mình. Nhưng với sự công kích từ những người xung quanh, từ báo chí và cả cảnh sát, liệu Robert sẽ tìm công lý ra sao ? Hay là vì định kiến này anh sẽ bất chấp tất cả ? “Tiếng cú kêu” có văn phong và mạch chuyện chậm rãi với tuyến nhân vật đơn giản, trên dưới 10 người. Hơn nửa đầu cuốn sách chủ yếu miêu tả những thay đổi tâm lý của bộ 3 nhân vật chính – Jenny, Robert và Greg. Thành công nhất của tác giả trong cuốn tiểu thuyết này là sự miêu tả tinh tế quá trình phát triển tâm lý của Robert, khi anh chao đảo giữa những phán xét của công chúng, khi anh bị thách thức bởi những kẻ đã hãm hại anh, và khi anh chứng kiến những người giúp đỡ anh bị hại, đỉnh điểm là anh bị săn đuổi mà cảnh sát lại bảo vệ anh 1 cách hời hợt (thật là mình cũng không biết cảnh sát làm cái quái gì trong cuốn sách này). Tuy vậy tâm lý của Jenny – nhân vật then chốt khiến cho bộ ba vướng vào rắc rối lại không được tác giả đầu tư kỹ hơn nên kết cục của Jenny khá bất ngờ đối với mình và có phần không thuyết phục. Các nhân vật phụ khác cũng được tác giả xây dựng bình thường, hơi mờ nhạt. Cuốn sách này không dành cho những ai thích motif hình sự ly kỳ và plot twist dồn dập, nhưng hợp với những người thích tâm lý tội ác phức tạp và u ám. Bìa vẽ đẹp nhưng không có chút liên quan gì đến nội dung truyện cả, ngay cái tựa đề cũng mông lung nốt. *** Tiếng cú kêu - Review Patricia Highsmith là một tiểu thuyết gia người Mỹ và nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng với những tác phẩm như Carol, Người lạ trên tàu, Quý ngài tài năng... Sở trường của bà là về mảng tâm lý kinh dị với cách xây dựng cốt truyện gay cấn và các nhân vật vô cùng độc đáo. Tài năng của bà một lần nữa được thể hiện qua cuốn sách Tiếng cú kêu, tiểu thuyết thứ tám của bà được ra đời cách đây hơn năm thập kỷ. Nội dung chính của tác phẩm xoay quanh cuộc sống của Robert Forester - một người đàn ông vừa kết thúc cuộc hôn nhân không mấy tốt đẹp và muốn chuyển đến một nơi ở mới để bắt đầu lại. Tại thị trấn nhỏ Langley của Pennylvania, anh đã gặp Jenny Thierolf - một cô gái “đặc biệt bình thường” theo một cách thức khác thường nhất mà người đọc có thể tưởng tượng: rình mò quanh nhà cô. Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã kéo theo sau đó rất nhiều sự kiện có ảnh hưởng sâu sắc đến số phận của các nhân vật.   Vậy Patricia Highsmith đã khai thác yếu tố tâm lý và kinh dị như thế nào ở một câu chuyện có vẻ thiên về tình cảm như Tiếng cú kêu? Bản thân nhan đề tác phẩm đã là một sự gợi ý khéo léo cho độc giả. Trong thần thoại Hy Lạp, cú là biểu tượng của trí tuệ thâm sâu và những kiến thức bí ẩn về thế giới tâm linh. Đối với Jenny Thierolf, cô có một niềm tin mạnh mẽ vào số phận, vào những điềm báo xảy ra trước các sự kiện quan trọng trong cuộc đời. Cô coi con cú là biểu tượng của cái chết, khi con cú cất tiếng kêu giữa buổi đêm tĩnh mịch và vắng lặng, một người nữa phải nói lời tạm biệt với cuộc sống này. Liệu thực sự có một số phận định sẵn cho tất cả mọi người hay là do chính tâm lý của nhân vật trước các biến cố đã đẩy họ đến một kết cục như được dự báo trước này?     Bàn đến khía cạnh tâm lý, đây là một điểm được tác giả chú trọng khai thác. Các nhân vật trong câu chuyện đều chịu đựng một tổn thương nào đó về mặt tâm lý trong quá khứ và điều đó đã ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đời họ sau này. Robert Forester đã trải qua một cú sốc khi chứng kiến người bạn thân thiết của mình chết ngay trước mắt, mới phút trước người đó còn vui vẻ cười nói, phút sau đã là một thi thể bất động nằm trên một vũng máu. Jenny Thierolf cũng có một ký ức đau thương liên quan đến cái chết của người em mà cô vô cùng yêu quý, khi một người đàn ông lạ mặt xuất hiện ở nhà cô ngay trước khi em trai cô qua đời. Và giờ đây khi một người đàn ông lạ mặt nữa lại xuất hiện ở nhà cô, mọi chuyện liệu có khác đi? Tiếng cú kêu không chỉ lôi cuốn người đọc khám phá tâm lý của những nhân vật chính trong truyện, như đã nói, một sở trường khác của Patricia Highsmith là kinh dị. Độc giả sẽ theo chân Robert Forester tham gia vào một cuộc điều tra đặc biệt: tìm kiếm cái xác của người chồng chưa cưới của Jenny Thierolf hay chính là tìm kiếm bằng chứng chứng minh sự trong sạch của chính anh. Những sự nghi ngờ, những sự không thống nhất trong lời khai của các nhân vật có liên quan, những sự bao che và lên kế hoạch tỉ mỉ... khiến độc giả không khỏi cảm thấy hoang mang, lo lắng thay cho nhân vật. Bản thân mỗi người đọc có thể đưa ra những giả thiết cho riêng mình, và tác giả cũng đã đưa ra một đáp án khiến tất cả phải ngỡ ngàng về chân tướng đằng sau. Ai mới là kẻ đã sắp đặt tất cả mọi chuyện? Liệu chính kẻ đó có được toại nguyện hay sẽ phải chịu trả một cái giá đắt cho hành động của mình?  Không chỉ một mà có rất nhiều nhân vật phải ra đi trong tác phẩm này của Patricia Highsmith. Cho đến cuối truyện những rắc rối vẫn liên tục xảy ra và tác giả vẫn không ngừng khiến cho người đọc phải hồi hộp dõi theo từng con chữ để biết chuyện gì đang và sắp diễn ra. Nếu có thể đưa ra một lời khuyên cho độc giả trước khi bước vào câu chuyện, thì đó sẽ là: đừng vội tin vào những gì đang diễn ra trước mắt, mọi sự vật và sự việc đều có một lớp ý nghĩa ẩn giấu của nó mà chỉ qua thời gian, mọi chuyện mới được sáng tỏ. Chỉ có một điều chắc chắn là mọi nhân vật trong câu chuyện  đều phải chịu trách nhiệm cao nhất cho hành động của mình.  Sau khi đọc xong tác phẩm Tiếng cú kêu của Patricia Highsmith, có thể độc giả sẽ cảm thấy bản thân vừa trải qua một chuyến tàu lượn với rất nhiều cung bậc cảm xúc thay đổi cùng diễn biến của câu chuyện. Có người còn nhận định rằng nếu như ban đầu Robert Forester không rình mò quanh nhà của Jenny Thierolf thì mọi chuyện đã phát triển theo một hướng khác. Nhưng nếu chuyện thực sự xảy ra như vậy thì người đọc sẽ lỡ mất cơ hội được cùng đồng hành cùng tác giả trong một hành trình vô cùng lý thú để khám phá những điều mới mẻ trong văn chương. Đừng chần chừ thêm mà hãy sẵn sàng bước vào thế giới của Tiếng cú kêu cùng Patricia Highsmith!  Mời bạn đón đọc Tiếng Cú Kêu của tác giả Patricia Highsmith & Mai Trang (dịch).
Quý Ngài Tài Năng
Hơn nửa thế kỉ trước, Patricia Hightsmith đã giới thiệu đến độc giả một trong những nhân vật phản anh hùng ấn tượng nhất, Tom Ripley. Cuốn sách kể lại hành trình của Tom từ một thanh niên hiền lành, rụt rè trở thành một kẻ giết người tâm thần, lạnh lùng. Câu hỏi đặt ra cho người sau khi khép lại câu chuyện là: ta nên chấp nhận một cuộc sống tầm thường hay đánh đổi bản thân để có cuộc sống đáng mơ ước? “Đầy mê hoặc... Cuốn sách vê Ripley không dành cho những tâm hồn yếu đuối và nhạy cảm.” Tờ Washington Post khen ngợi. Cuốn sách từng được chuyển thể thành phim, ra mắt năm 1999, đem về 5 đề cử giải Oscar và nhiều giải thưởng tại các liên hoan phim danh giá. *** “Bốn năm qua phần lớn là lãng phí, không thể phủ nhận điều đó. Những công việc lung tung, những khoảng thời gian dài không có việc làm và tình trạng thoái chí tất yếu vì không có tiền, rồi bắt đầu giao du với những kẻ ngu ngốc, ngớ ngẩn để không phải cô đơn, hoặc vì họ có thể tạm thời cung cấp cho anh một thứ gì đó, như Marc Priminger chẳng hạn.” Đây có lẽ là một trong những câu khiến tôi rất thích vì nó miêu tả được tình trạng chán chường của Tom Ripley - cũng chính là căn nguyên của mọi tội lỗi sau này mà anh chàng sẽ gây ra. Có lẽ rất hiếm khi các nhà văn dùng ác nhân làm nhân vật chính trong tác phẩm của mình. Ấy thế mà Patricia Highsmith thì đã tận dụng sự trái ngược ấy để tạo ra điểm nhấn khác lạ cho “Quý ngài tài năng” (The Talented Mr.Ripley). Nhưng chính vì sự kỳ lạ trong cách xây dựng hình tượng nhân vật đã làm cho đọc giả vô cùng tò mò và thích thú với nghi vấn: Liệu sự ngược đời này sẽ được thể hiện thế nào qua cốt truyện về cuộc đời của nhân vật Ripley – một kẻ tài năng như hắn liệu có đánh mất chính mình? Và các giá trị đạo đức và chuẩn mực cũ liệu có còn phù hợp khi đem vào phân tích tác phẩm này hay không? Dưới góc độ trực quan, chúng ta có thể xem cuốn sách này kể lại hành trình tẩu thoát của Mr.Ripley Tom chơi với Dickie – một công tử nhà giàu, chính vì cuộc sống xa hoa của Dickie đã vực dậy trong lòng Tom khao khát sống trong nhung lụa. Từ đó, ác tâm trỗi dậy và Tom sát hại Dickie với động cơ là thừa hưởng cuộc đời hoa mỹ từ nạn nhân. Biệt tài bắt chước người khác đã được Tom sử dụng triệt để nhằm giả danh thành Dickie. Từ khả năng giả giọng và mô phỏng chữ ký điêu luyện cho đến tài “tùy cơ ứng biến” trong mọi tình huống, anh ta đã trót lọt qua mặt được sự điều tra của cảnh sát. Sự nhẫn tâm trong tính cách của Tom đã khiến anh ta quyết tâm trở thành Dickie cho bằng được và thành công trong việc tạo hiện trường giả cho cái chết ấy đã chứng minh sự tỉ mỉ và khéo léo bên cạnh dã tâm vô cùng lớn của anh ta. Điều khiến tôi thích thú nhất với nội dung là rất nhiều lần Tom có nguy cơ bị lật tẩy nhưng trong những giây phút “ngàn cân treo sợi tóc” nhất thì hắn đều lươn lẹo thoát được và trở thành nhân vật phản diện hấp dẫn đọc giả một cách lạ kỳ. Chính vì các tình huống “mèo vờn chuột” xảy ra trong truyện như thế mà bất thình lình, tôi có lúc lo lắng rằng Tom sẽ bị bắt và thậm chí là hy vọng hắn đừng bị lộ tẩy vì nếu không thì câu chuyện sẽ kết thúc mất. Cảm giác kịch tính này tương tự như lúc xem phim “Trò chơi ma sói”, khi người xem lúc nào cũng lo lắng việc các con ma sói ẩn náu trong đám dân làng bị phát hiện và phim sẽ kết thúc sớm. Tôi nghĩ việc tạo ra được hiệu ứng trái ngược này đều là nhờ vào tài năng xây dựng nội tâm nhân vật của Patricia Highsmith. Chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy được sự mâu thuẫn trong tâm lý của Tom, một mặt hắn ta chỉ đơn giản là ước ao một cuộc sống giàu sang đúng nghĩa, mặt khác thì ác tâm trỗi dậy trong lòng là những giây phút cám dỗ quá lớn khiến hắn không kiểm soát được lý trí – tựa như thật sự không muốn làm nhưng vẫn ra tay vì một phút yếu lòng. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc xây dựng cuộc đấu tranh tâm lý của nhân vật thì quyển sách này đã không nổi tiếng đến vậy. Đằng sau sự tàn ác của nhân vật chính là sự mỉa mai và bóc trần của tác giả dành cho xã hội ấy. Tom có thể thoát khỏi việc bị bắt không chỉ nhờ âm mưu và sự lươn lẹo mà mọi thứ trở nên hoàn hảo như thế đều có sự góp phần của những người xung quanh. Bức tranh về một xã hội u tối đã được Patricia Highsmith vẽ ra đầy thuyết phục và chính sự thối nát về mặt đạo đức đã khiến cho tội ác nghiễm nhiên tồn tại mà không để lại dấu vết. Thực ra, nếu chiêm nghiệm kỹ về “Quý ngài tài năng”, chúng ta có thể nhìn thấy được chính mình ở nhân vật Tom Ripley. Một thời tuổi trẻ cuồng dại với khao khát được chứng tỏ bản thân và tìm kiếm giá trị sống cho cuộc đời. Ước mơ về một cuộc sống giàu sang thì tôi tin là ai cũng có và lòng tham luôn là một trong ba thói xấu tồn tại trong chúng ta. Chính vì tác giả xây dựng một nhân vật gần gũi với bản chất con người như thế nên đã tạo được sự đồng cảm cho bạn đọc. Có một câu nói của Tiến sĩ Lê Thẩm Dương như sau: “Bạn cảm thấy đạo đức là vì bạn chưa có cơ hội làm sai.” Khi chúng ta rơi vào tình huống như Tom, chắc gì trong lòng không trỗi dậy ác tâm vì một cuộc sống xa hoa phú quý. Và có thể nhiều người còn tàn nhẫn và tinh vi trong việc dàn dựng hơn cả Tom ấy, chẳng qua là chưa rơi vào tình huống ấy thì còn nghĩ bản thân cao đẹp mà thôi. Cái giá phải trả dĩ nhiên rất đắt vì khi đánh đổi mạng sống của người khác để giả danh và “sống hờ” cuộc đời của họ, chúng ta không còn là chính mình nữa. Vậy thì bạn có chấp nhận cách sống ấy như Mr.Ripley không?! Hãy nhớ thêm một điều kiện là bạn được sinh ra trong một hoàn cảnh thấp hèn, nghèo mạt, thiếu sự giáo dục về nhân cách, thiếu tình yêu thương của mọi người và luôn cảm thấy cuộc đời bất công. Dĩ nhiên là tôi không cổ xúy cho tội ác nhưng tôi thực lòng có chút đồng cảm cho cuộc đời của nhân vật. Về nguyên tắc, tôi ác nào cũng đáng bị trừng phạt dù có là vì nguyên cớ gì. Mà ở đây, Tom không chỉ phạm một tội ác, đáng lẽ ra không nên cổ vũ và thương cảm cho hắn. Nhưng một chút tình và một chút phân tích sâu xa hơn cần được đưa ra để có góc nhìn đa chiều hơn. “Quý ngài tài năng” là một quyển sách đáng đọc khi nó cho chúng ta thấy được khía cạnh đen tối nhất trong sâu thẳm tâm hồn con người cũng như góc tối của xã hội thời bấy giờ. Yếu tố tâm lý tội phạm đã được tác giả khai thác gần như hoàn hảo. Sự chân thật đến từng hành vi của nhân vật đã được bộc lộ một cách tinh tế khiến chúng ta cảm giác tâm tư của bản thân cũng hệt như Tom. Thế mới biết khi tham sân si là những điều không thể tránh khỏi thì việc một người bình thường hóa thành kẻ sát nhân cũng không có gì đáng kinh ngạc. *** Patricia Highsmith – nữ tác giả của loạt tiểu thuyết tội phạm này - đã thao túng lòng thương của chúng ta, lợi hại đến nỗi chúng ta dường như không thể ngừng cổ vũ cho gã sát nhân máu lạnh Tom Ripley — một nhân vật phản anh hùng, đầy mưu mô và toan tính.    Tôi biết điều này nghe có vẻ nhàm chán nhưng hãy thành thật đi, có phải bạn chỉ toàn đọc sách về những nhân vật mang lại cho bạn cảm giác họ là những người  “dễ thương” và “đáng mến”? Và bạn cũng sẽ sẵn sàng ném một cuốn sách sang một bên nếu như nó chẳng hề cho bạn thấy bất cứ một ai để bạn cưng nựng hay yêu thích cả? Trong cộng đồng văn học những năm gần đây, cuộc tranh luận về vấn đề này đã luôn diễn ra rất sôi nổi, nhưng thi thoảng, tôi vẫn luôn tự hỏi liệu có phải mọi người đang làm quá lên. Tôi rất hiếm khi nghe thấy người ta than thở về việc họ “không thích bất cứ một nhân vật nào” trong cuốn tiểu thuyết mà họ đọc, mà thay vào đó, tôi thường hay thấy người ta than thở về những người đã buông ra câu than thở này thì đúng hơn. Khi tôi mò vào Google và gõ cụm từ “những nhân vật đáng mến”, ngay lập tức tôi tìm thấy những kết quả đến từ những trang New York Times, The New Yorker, hay thậm chí ngay trong The Guardian, tất cả đều đặt những vấn đề như: Nhân vật của tiểu thuyết không nhất thiết lúc nào cũng phải dễ thương. Nhưng thực tế là, có rất ít những người đọc cảm thấy tức giận chỉ bởi vì họ không tìm thấy một người “đàng hoàng” nào trong tác phẩm để có thể đứng về phía người đó, mà hầu như chỉ toàn là những tin tức lên án hoặc chỉ trích đến từ những người đặt ra vấn đề về tầm quan trọng của một nhân vật “khó ưa” trong trong văn học cổ điển cũng như hiện đại. Việc bạn giới hạn bản thân mình, nhốt tù sự đọc vào những quyển sách chỉ viết về những nhân vật đáng mến thực chất là một việc làm dẫn bạn đi ra xa khỏi vùng đất văn chương trù phú và hay ho nhất. Nói cách khác, đó là bạn đã từ chối cảm thụ sự phức tạp trong tâm lý cũng như bản ngã về nhân tính của con người. Bạn cũng sẽ không thể nào bao dung nổi với những phận đời thảm hại, nhu nhược và nhút nhát. Nếu như bạn không thể chịu đựng được Hamlet với một chút đau thương hay căm hận, thế thì làm sao bạn có thể ứng phó được với những con người bằng xương bằng thịt ở ngoài đời thực bây giờ? May mắn ở chỗ, tôi đã biết được một liều thuốc tinh thần. Nếu như bạn biết được người nào thích đọc về những nhân vật đáng mến, những người không thể trở-nên-tồi-tệ, thì làm ơn hãy cho họ đọc “The Talented Mr.Ripley” của nữ tác giả Patricia Highsmith. Tôi tin chắc với bạn rằng, nó sẽ cho họ hết mọi thứ mà họ cần.  Rất khó để không đứng về phía của Tom Ripley, càng khó hơn để không thích anh ta, hoặc không muốn anh ta chiến thắng. Patricia Highsmith đã thể hiện điều này một cách xuất sắc, khi Ripley gần như chiếm trọn hết sự thương cảm từ bạn đọc. Đây là một câu chuyện kinh điển đến từ một người đàn ông có xuất phát điểm không mấy thuận lợi và hầu như không được bất kỳ ai tôn trọng, nhưng cũng chính người đàn ông này, bằng nghị lực và bản lĩnh, rốt cuộc đã tìm được chỗ đứng cho riêng mình. Hắn đã có một thuở thơ ấu vô cùng khắc nghiệt, mất đi đấng sinh thành và cuối cùng được nhận nuôi bởi một bà dì thường hay gọi hắn là một “thằng bóng ẻo lả”. Và phải, nhiêu đó vẫn không khiến Ripley từ chối trở thành một người đàn ông lịch thiệp, khiêm nhường, và cần mẫn. Hắn được miêu tả là một người rất hay ngại ngùng và lo lắng, thường xuyên suy nghĩ nhiều về ấn tượng của mình khi gặp người khác vào lần đầu tiên, lúc nào cũng tự kiểm điểm mình và luôn cố gắng tìm cách cải thiện bản thân.  Hắn ta cũng là một người mơ mộng hão huyền. Ngay từ khi câu chuyện bắt đầu, chúng ta đã có thể thấy được hắn nghĩ về cuộc gặp mặt giữa mình với Mr. Greenleaf – một ông chú với khối tài sản khổng lồ – ví von nó giống như “ một cảnh vừa xảy ra trong phim điện ảnh”, và từ đó, hắn dường như không thể để đôi mắt tham lam và ngây thơ của mình ra khỏi những cơ hội tốt lành, để hắn có thể được dấn thân và thâm nhập vào xã hội thượng lưu hào nhoáng, rủng rỉnh tiền nong và đầy chất thơ đó. Tất cả những điều ấy không thể phủ nhận rằng, dĩ nhiên, Ripley là một tên khốn nạn. Việc hắn có thể tỏ ra lịch thiệp và quyến rũ, một phần đến từ bản chất khôn ngoan, có thể qua mặt được người khác chỉ bằng một vài lời nói dối đơn giản. Hắn cũng có khả năng bắt chước, nhại lại tính cách của người khác một cách tuyệt vời. Hắn đào thoát khỏi những vết tích tội lỗi mà mình gây ra với vẻ vô cùng bình tĩnh và đầy phong cách. Hắn cũng sở hữu sự thèm khát cho những chuyến phiêu lưu, bằng cách đưa bản thân mình vào tình huống khó nhằn hay những địa danh mới lạ. À, và hắn còn là tay “bo” rất dữ dội nữa! Gã sát nhân kinh điển có gì mà không thích chứ? Tôi nghĩ là ai trong chúng ta cũng có thể khẳng định được rằng : Tom Ripley là một kẻ sát nhân máu lạnh. Chẳng tốt lành gì khi câu chuyện dẫn dắt chúng ta đến với cảnh tượng đẫm máu đó, khi hắn đã xuống tay đánh đập Dickie Greenleaf đến chết, sau đó cột anh ta vào tảng đá to tướng ở giữa lưng, thả anh ta xuống biển và sau cùng là đánh chìm con thuyền nhỏ mà hai người mượn để ra khơi. Sự thật là, khoảnh khắc này nhập nhằng hơn chúng ta tưởng. Xuyên suốt câu chuyện, Highsmith đã dẫn dắt chúng ta đi vào đầu của Tom. Bà đã vô cùng khéo léo và cam đoan trong cách miêu tả, để chúng ta có thể thấy được thế giới được thu vào thông qua góc nhìn một chiều, cảm nhận được những cung bậc xúc cảm, hiểu được vấn đề và ham muốn cốt lõi của nhân vật này. Vô tình, chúng ta tự gắn mình vào nhân vật, và có cảm giác như Highsmith cũng vậy. Không bất ngờ khi biết được rằng, trong đời sống cá nhân, nữ tác giả cũng có một thói quen khá kì quặc –gần như là mất trí – khi bà chọn cách ký tên ở mỗi bức thư mà mình gửi đi với dòng chữ “thương mến từ Tom.”, y hệt như nhân vật của bà. Và phải, hầu như rất thường xuyên, luôn có một sự nhắc nhở không thoải mái về cách mà Tom nhìn về thế giới bên ngoài – giống như vụ giết người đó, nó thật không bình thường một chút nào. Đó là một tội ác và càng kinh tởm hơn khi Highsmith đã rất tinh tế trong cách mà bà khiến cho chúng ta cảm thấy thương xót cho nhân vật Dickie. Tất cả đều đến từ cách mà bà xây dựng nhân vật này. Tom đã giết chết một người đàn ông được miêu tả là tốt bụng, hiền lành, kể cả khi anh ta đang ở trong giai đoạn bị mất phương hướng, nhưng vẫn hạnh phúc ca thán rằng :”Tôi thề mình sẽ không bao giờ đốt trụi cả thế giới cho đến khi nào tôi còn là họa sĩ.” Dickie nói. “Nhưng chắc chắn tôi sẽ thích thú khi làm chuyện đó.” Mà thật ra, Dickie cũng có những tội lỗi của mình, và phải, đáng lẽ ra anh ta nên để ý đến người mẹ nghèo nàn, bệnh tật đang từng ngày trông ngóng mình ở nhà. Nhưng Dickie cũng đã tìm cách chuộc lỗi bằng việc đi ra khỏi cái bóng kiểm soát to tướng của cha mình để tìm đến một chút ánh nắng từ con đường họa sĩ dịu dàng, tô điểm cho thế giới chung quanh, làm nhạt đi vẻ ảm đạm vốn có. Ngay cả trong những giây phút cuối cùng, khi anh ta nhận ra được người bạn của mình, Tom Ripley, đã phản bội mình trên một chiếc thuyền dính đầy máu, Dickie chỉ có thể thốt lên : “Ôi Lạy chúa!” và lời cầu cứu trong bế tắc này đã lột rõ sự thất vọng hơn là một sự tố cáo cay nghiệt. Cái chết của Greenleaf khiến cho chúng ta, ngay tại lúc đó, từ thương cảm chuyển sang căm ghét và phẫn nộ với Ripley hơn cả. Nhưng rất may mắn đó là, Highsmith đã nhanh chóng đưa chúng ta quay trở lại với ẩn ý ban đầu – và ngay tại đây, chúng ta có thể nhận ra tài năng xoay chuyển tình thế của bà. Highsmith đã khiến cho chúng ta đứng ngồi không yên với sự xảo quyệt của Tom, nỗ lực của hắn khi ra sức che giấu tội ác hết lần này đến lần khác, và chúng ta một lần nữa leo lên chiếc thuyền tù tội ấy với hắn. Hoàn toàn tin vào khả năng lèo lái bởi vì hắn chính là thuyền trưởng.Câu chuyện nghiễm nhiên trở thành một chuyến hành trình đầy lắt léo, công phu và cực kỳ gay cấn. Tình tiết căng thẳng đến mức khiến chúng ta lo sợ rằng Tom sẽ có thể bị bắt vào một phút nào. Có một phân cảnh mà Tom bị đẩy vào tình thế nguy hiểm, đến mức người đàn ông này sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn tàn ác, rốt cuộc cũng chỉ để cho bản thân được cảm thấy an toàn. Dĩ nhiên, khoảnh khắc đó cũng nhắc nhở người đọc rằng Tom Ripley là một kẻ giết người tâm thần. Highsmith đã âm thầm nhấn mạnh điều này trong suốt câu chuyện bằng một loạt những chi tiết nhỏ gây khó chịu. Dẫn đến việc đọc cuốn sách không những mang lại một cảm giác không thoải mái, mà lại còn rất thú vị. Câu chuyện đã được xử lý để khiến chúng ta đặt nhầm sự thương cảm của mình vào kẻ sát nhân, cảm thấy vui, kể cả khi hắn đang gặp may mắn. Tom quả thật sự là “đáng mến”, và chúng ta đã bị dẫn dụ vào sâu bên trong đầu của hắn, đến nỗi cảm thấy tội lỗi với suy nghĩ “đồng phạm” của chính mình. Trong lúc bị ngấm vào câu chuyện này, tôi thường xuyên thấy mình hi vọng một cách nửa vời rằng Tom sẽ thoát khỏi mọi tội ác của mình, miễn nhiễm truy tố với mọi giết chóc. Điều đó thật kinh tởm! Tôi biết chứ, nhưng nó cũng thật là tuyệt vời. Biết nói sao nhỉ? Highsmith khiến bạn căm ghét chính mình bằng cách làm cho bạn đi cổ vũ Tom Ripley. Suy cho cùng, những người đọc yêu thích những kẻ “đáng mến”, họ thật sự cần phải cẩn thận với những gì họ ao ước…trước khi quá muộn. Điền Nguyên Mời bạn đón đọc Quý Ngài Tài Năng của tác giả Patricia Highsmith & Mai Trang (dịch).
Con Mồi Xảo Quyệt
Một vụ tai nạn xe cộ bất ngờ và đáng ngờ xảy ra với thượng nghị sĩ Porter Smalls và nhân tình Cecily Whitehead. Trên đường trở về sau thời gian nghỉ ngơi riêng tư, xe của Smalls bị một chiếc xe tải đâm phải và lao xuống dốc. Whitehead là người điều khiển chiếc xe đâm vào các hàng cây để giảm tốc độ lao của chiếc xe trước vực thẳm trước mặt. Xe dừng lại được trước bờ vực nhưng cũng chính một cành cây đã đâm qua cửa kính xe và khiến Whitehead nhận vết thương chí mạng ở đầu. Smalls thoát khỏi thảm kịch này trong gang tấc. Ông nghi ngờ đây là một âm mưu ám sát nhắm vào mình của đối thủ là thượng nghị sĩ Taryn Grant. Mụ ta từng tung đòn chơi xấu ông trước đây, làm tổn hại đến danh tiếng của ông và mở đường cho mụ vào Thượng viện. Nhưng đó chưa phải là đích đến cuối cùng của Grant. Cái mụ khao khát là thứ quyền lực tột cùng của chủ nhân Nhà Trắng và mụ sẵn sàng loại bỏ bất cứ chướng ngại nào trên con đường thực hiện mục tiêu. Lucas Davenport được đích thân Small nhờ điều tra vụ án vì phía cảnh sát không thể chứng minh chiếc xe của Smalls bị đâm bởi một xe khác. Họ cho rằng có thể chấn động từ vụ tai nạn đã làm ảnh hưởng đến trí nhớ của Smalls, thực chất là Whitehead đã không kiểm soát được tốc độ và tự mình lao xe xuống dốc. Lucas cũng cho rằng vụ tai nạn này có những điểm đáng ngờ, nhưng hơn hết, anh đồng ý tham gia điều tra vì ân oán trước đây với Taryn Grant. Anh không có đủ bằng chứng chứng minh mụ ta có liên quan đến vụ án mạng mà mình điều tra nên mụ đã thoát tội. Lần này anh quyết tâm bắt mụ phải trả giá cho tội lỗi của mình. Với sự giúp sức của hai đồng nghiệp thân thiết, Lucas lần lượt khám phá ra những bí mật đằng sau vụ tai nạn. Grant không đích thân ra tay mà sử dụng kẻ thân tín bên cạnh và những tay chân của gã để thực hiện vụ tai nạn nhắm vào Smalls. Những kẻ tòng phạm với Grant còn thực hiện hàng loạt các vụ mua bán vũ khí trái phép thông qua các công ty do bọn chúng điều hành. Khám phá này giúp Lucas có thể thương lượng để nhận sự trợ giúp từ FBI. Anh càng biết được nhiều sự thật hơn, tính mạng anh càng nguy hiểm khi các tay chân của Grant liên tục tìm cách giết anh và cản trở anh điều tra chi tiết vụ việc. Thậm chí vợ của Lucas cũng gặp phải tai nạn khiến anh buộc phải rời khỏi vụ án. Nhưng những việc làm của chúng không làm ảnh hưởng đến quyết tâm theo đuổi đến cùng của Lucas, chính chúng lại trở nên hoang mang, rối loạn và phải tìm cách trừ khử lẫn nhau để nhằm thoát tội. Trong quá trình điều tra, các bằng chứng Lucas thu thập được chỉ đủ để bắt những kẻ làm việc cho Grant còn khó lòng động đến mụ ta. Liệu lần này anh có lại thất bại dưới tay Grant và nhìn mụ bước lên vị trí Tổng thống? Thông tin tác giả: John Sandford tên thật là John Roswell Camp, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1944 tại tiểu bang Iowa, Hoa Kỳ. Ông đoạt giải thưởng Pulitzer cho lĩnh vực báo chí vào năm 1986. Sự nghiệp của ông vô cùng đồ sộ với hàng chục cuốn tiểu thuyết và truyện ngắn do ông sáng tác và đồng sáng tác, trong đó nổi bật là các series truyện trinh thám như Săn mồi, Virgil Flowers,…. *** Nhân vật nổi tiếng của John Sandford, Lucas Davenport, là điều tra viên chính của Cục điều tra tội phạm Minnesota. Davenport lần đầu tiên xuất hiện trong Rules of Prey năm 1989. Kể từ đó, Sandford đã viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết của Lucas Davenport. Davenport là loại thám tử thích làm việc bên ngoài các quy tắc được thiết lập của lực lượng cảnh sát. Anh ta lái một chiếc Porsche và là một người lăng nhăng. Một số cuốn sách trong bộ này thay thế cho bộ khác của Sandford tập trung vào Hoa Virgil. *** Chuyến đi lãng mạn chớp nhoáng của cặp tình nhân Whitehead cùng Thượng Nghị sĩ Smalls tưởng chừng sẽ kết thúc viên mãn. Ai dè xe của TNS Smalls gặp tai nạn trên xa lộ, bị hất văng khỏi mặt đường xém chút lao xuống vực nếu Whitehead không có tay lái lụa. Vì gắng sức cứu cả hai thoát chết nên Whitehead đã mất mạng. TNS Smalls một mực cho rằng ông là mục tiêu của một vụ mưu sát và hung thủ chính là kẻ đang muốn xanh chín với ông. Không ai tin tưởng xe ông bị sát thủ cố tình đâm phải, Smalls buộc lòng phải nhờ đến người quen cũ: Cảnh sát của Cục Cảnh sát Tư pháp Lucas Davenport. Con Mồi Xảo Quyệt khắc họa thế giới tàn nhẫn, điên cuồng, nhơ bẩn của giới chính trường Mỹ. Thật ra nó cũng chẳng khác gì truyện cung đấu bên Tàu. Các Thượng nghị sĩ lăm le hất cẳng nhau, không từ một thủ đoạn nào tiêu diệt nhau đến cùng chỉ nhằm một mục đích: Ngồi lên chiếc ghế Tổng thống của Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ. Lucas Davenport thấy mình bị lạc trong mớ bòng bong chết người của hận thù, âm mưu, dối trá, tham vọng và thù hận nhuốm màu chính trị và tiền bạc. Một thế giới không có tình thương, không có lòng tin, chỉ có máu và giấc mộng bá quyền. Lucas cùng hai đồng đội, Bob và Rae, chưa kể rất nhiều cảnh sát và đặc vụ khác cùng hợp tác nỗ lực đến cùng bắt những kẻ thủ ác phải đền tội trước công lý. Liệu rằng họ có thành công khi phải đương đầu với những kẻ vừa có tiền, vừa có quyền vừa ác độc, máu lạnh nhưng cũng rất xảo quyệt, thông minh? John Sanford đã dựng nên cuộc đối đầu gần như không cân sức giữa Lucas Davenport và đồng đội với những kẻ thủ ác được cả hệ thống chính trị hậu thuẫn. Chẳng khác nào trứng chọi đá, trong khi cảnh sát chỉ còn biết dựa vào từng mẩu bằng chứng, từng lời khai. Cả truyện là cuộc đấu trí song song giữa hai bên rất thú vị. Đối đầu với đối thủ quá mạnh, Lucas phải vận dụng hết trí tuệ, hết từng lợi thế mà mình có được dẫu nhỏ nhoi. Truyện cũng khắc họa toàn bộ quá trình điều tra, lần tìm bằng chứng, giám định pháp y, các chi tiết về luật hình sự dành riêng cho các đối tượng nằm trong hệ thống chính trị khá chi tiết. Phải đọc mới biết Lucas Davenport trong cuốn này bị trói chân trói tay như thế nào. Luật pháp sinh ra để trừng phạt những kẻ ác, nhưng khi một sức mạnh còn lớn hơn cả luật pháp ra tay phạm tội ác, thì luật pháp sẽ phải làm gì để đảm bảo thượng tôn pháp luật, đảm bảo cái thiện sẽ thẳng cái ác? Tình tiết Con Mồi Xảo Quyệt tuy không quá gay cấn, căng thẳng ở những pha đuổi bắt, gây án nhưng nó đặt ra những tình huống chứng tỏ cuộc chiến không khoan nhượng giữa pháp luật với chính trị gian nan nhưng hấp dẫn. Nguyen Quang Huy *** “Em mệt không?” Porter Smalls quay sang ghế lái. Tán cây mùa hè quanh chiếc Cadillac Escalade tối om khi họ tiến vào con đường bẩn thỉu. Bờ nam sông Potomac uốn lượn như con rắn dưới chân hai người; các cửa kính xe đều hạ xuống hết, trong xe tràn ngập mùi cá chết, mùi bùn từ con sông. “Một chút, không sao đâu mà,” Cecily Whitehead đáp. Whitehead đã tắm nước giếng lạnh trong cabin ngay trước khi họ lên đường, thoa một chút nước hoa Chanel số 5 khi mặc đồ. Hai mùi này kết hợp khiến cô có cảm giác còn hơn cả dễ chịu nữa, cô thấy mình cực kỳ gợi tình. “Anh sẽ lái nếu em muốn,” Smalls đề nghị. Ông có vóc người nhỏ bé, giống hệt như cái tên của mình, mảnh khảnh và sung sức, như thể ông từng dành thời gian đạp xe leo núi. Ông có mái tóc bạc, uốn quăn ngang cổ áo thun chơi golf, hàm răng bọc sứ trắng bóng với cặp mắt kính không gọng dùng xem ti vi trên đôi mắt xanh nhạt. “Không sao, em ổn mà,” Whitehead nói. Cô thắt dây an toàn qua chiếc váy hai dây lộng lẫy, bộ váy có thể khiến cô bị bắt nếu diện nó bên ngoài phòng ngủ vào thời xưa. “Anh uống rượu rồi - chẳng may vì chuyện nào đó mà tụi mình bị chặn lại...” “Được rồi,” Smalls nói. Ông ngả ghế xuống thêm hai phân nữa, khoanh tay trên ngực rồi nhắm mắt lại. TRÊN ĐẦU HỌ, nấp sau những tán cây, một người đàn ông đang theo dõi qua ống nhòm. Khi chiếc SUV bạc rời khỏi lối xe vào nhà, phóng qua hộp thư rồi rẽ trái vào con đường bẩn thỉu, hắn giơ chiếc điện đài lên ngang mặt và nói, “Anh sẽ về nhà ăn tối”. Một chiếc điện đài, bởi nếu không phải đúng người đang ở trên đúng kênh này trong bán kính ba dặm vào đúng lúc đó, sẽ rất khó lần ra cuộc gọi; kể cả nếu NSA có bắt được nó. Cũng như không thể lần ra được năm tiếng chuông nhanh hắn nhận lại, báo hiệu có tin nhắn mới. Hắn đi bộ, chiếc xe bán tải đỗ cách đó nửa dặm. Hắn bước vào đây từ con đường mòn do muông thú tạo nên rồi cũng đi ra bằng con đường ấy, di chuyển chậm rãi, cứ đi được ba mươi mét lại dừng để nhìn ngó và nghe ngóng. Khi theo dõi, hắn không bao giờ ngồi, chỉ đứng nguyên tại chỗ, bên cạnh lớp vỏ màu xám xương xẩu của cây tần bì già; chẳng có đài quan sát nào để ai đó lần ra hắn, không có mẩu đầu lọc thuốc lá hay giấy gói kẹo nào đánh rơi đem từ đó truy ra ADN. Hắn đi đôi giày đế êm đã cũ mòn: không để lại dấu chân trên nền đất mềm. Hắn là dân chuyên nghiệp. THƯỢNG NGHỊ SỸ MỸ PORTER SMALLS sở hữu một cabin trên các ngọn đồi ở tây Virginia, cách Washington D.C. hai tiếng rưỡi chạy xe - vừa đủ gần cho một chuyến đi thoải mái, vừa đủ xa để che giấu những hoạt động cần sự kín đáo. Ông cùng Whitehead, một trong những người bạn thân nhất của vợ ông - bà đang ở tận Minnesota - khóa cửa cabin rồi thẳng tiến về D.C. khi mặt trời thấp dần về phía đường chân trời vào buổi chiều Chủ nhật oi bức. Họ đã rất thận trọng chọn khoảng thời gian này: lợi dụng bóng tối đưa ông về tòa chung cư Watergate sang trọng của mình. Smalls cùng Whitehead tận hưởng hai ngày nghỉ tràn trề sinh lực, trò chuyện về triết học chính trị, lịch sử, lũ ngựa, tiền bạc, cuộc sống và những người bạn chung trong khi cùng xem hết bản bìa mềm rách nát cuốn Thú vui tình dục từ những năm 80 của Smalls. Smalls đã yên bề gia thất còn Whitehead vẫn độc thân, nhưng cô giành quyền lái xe vì thứ logic của Washington liên quan đến tình dục và rượu. Một vụ ngoại tình là chuyện không được cổ vũ tại Washington, nhưng chắc chắn sẽ không bị xử nặng theo luật hình sự như tội lái xe khi say xỉn. Qua đêm với đàn ông hoặc một phụ nữ nóng bỏng thì có khả năng - có thể - bạn sẽ phải chường mặt lên trang blog của tờ Washington Post. Nhưng chỉ có Chúa mới cứu được bạn khi Hội Bà mẹ phản đối lái xe khi say xỉn tấn công bạn đúng kỳ bầu cử. Thế nên người lái là Whitehead. Cô là người say mê chính trị và là nữ mạnh thường quân của đảng Cộng hòa. Ở tuổi năm mươi, Cecily Whitehead có dáng người mảnh mai, làn da rám nắng và tàn nhang, với mái tóc đen ngắn mà người ta khó lòng nhận ra là đã được nhuộm tinh tế. Chiếc cằm vuông khiến cô trông hơi giống Amelia Earhart. Và giống như Earhart, cô cũng có một chuyên cơ riêng, chiếc Beechcraft King Air hai động cơ. Cô sở hữu một căn biệt thự nhìn ra một trong nhiều mặt hồ tại Minneapolis, cùng một trang trại nuôi ngựa Tennessee rộng hai ngàn mẫu ở phía nam thành phố Đôi. Bà xã của Smalls không chắc Whitehead có ngủ với chồng mình hay không, chủ đề này chưa bao giờ được xới lên. Suốt bốn năm qua, vợ của Smalls cũng đang ăn nem với tình nhân người Litva, trên căn gác lửng tại khu buôn bán kinh doanh Minneapolis, chủ đề này từng được bàn đi xới lại vô số lần. Những người Litva vốn nổi tiếng tại Bắc Âu như những vận động viên tình dục. Smalls nhận thức được thực tế này Nhưng ông không còn quan tâm chuyện vợ mình làm gì, miễn là bà ta không làm chuyện ấy trên phố. Thực ra ông hy vọng bà ta hạnh phúc, vì ông vẫn còn tình cảm với người mẹ của những đứa con ông. Ông tự nhủ lần tới khi đến thành phố Đôi, ông sẽ dẫn bà ta đi ăn tối. “MƯỜI GIỜ SẼ ĐẾN NƠI,” Whitehead nói. “Anh phải gặp thằng đần Clancy vào buổi trưa,” Smalls đáp, không buồn mở mắt ra. “Đần nhưng kiên trì,” Whitehead nói. “Hắn nói với Perez rằng nếu Medtronic chốt được thương vụ VA, Abbott sẽ phải cắt giảm biên chế trong hạt của ông ta. Perez tin tưởng hắn. Chuyện này thậm chí có thể là thật.” “Tiếc thật,” Smalls nói. “Chuyện cắt giảm sẽ không xảy ra đâu. Khi mà Porter Smalls biết rằng lãnh đạo phe đa số yêu quý của chúng ta có nghề đi đêm tại Rio Javelina.” “Nếu nghe được anh nói thế, hắn sẽ kiếm cái gì đó thật sắc moi ruột anh ra đấy.” Smalls mỉm cười. “Sao hả CeeCee... em không nghĩ rằng anh thực sự nói chuyện này cho hắn nghe đấy chứ?” Whitehead siết chặt đầu gối ông. “Em hy vọng là không. Không, em không nghĩ anh làm thế. Sao anh có thể để hắn biết rằng anh biết chứ?” “Kitten sẽ nghĩ ra đối sách,” Smalls nói. Whitehead mỉm cười với bóng tối đang dần đen đặc, ánh đèn pha từ xe họ chiếu xuyên qua hàng cây hai bên đường. Kitten Carter, trợ lý của Smalls, sẽ nghĩ ra kế đối phó. Cô ta thường trò chuyện với Whitehead hai lần một tuần, họ cùng nhau bàn mưu tính kế mang lại vinh quang vĩ đại hơn cho nước Mỹ nói chung và cho Porter Smalls nói riêng. Whitehead là người yêu yoga và thích đua ngựa vượt chướng ngại. Cô có một cơ thể khỏe khoắn, cặp giò và hai cánh tay rắn chắc, đặc biệt cô sở hữu đôi bàn tay to và khỏe hiếm thấy ở phụ nữ. Cô có thể điều khiển chiếc Escalade trên đường mòn nhanh hơn hầu hết những người khác, bắn tung bụi mù và sỏi đá lên bầu không khí buổi tối. Cô dành khá nhiều thời gian làm việc trên các cánh đồng, dùng xẻng hót phân ngựa rất gọn ghẽ, lái xe tải và máy kéo, không phải là lái cho vui mà cô hiểu rõ mình đang làm gì, luôn giữ các bánh xe bám chắc xuống hai vết hằn trên đường mòn. Mời các bạn đón đọc Con Mồi Xảo Quyệt của tác giả John Sandford & Nguyễn Quang Huy (dịch).