Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kinh Thánh Tân Ước

Kinh Thánh Tân Ước

Kinh Thánh Tân Ước

Kinh Thánh Tân Ước, còn gọi là Tân Ước Hi văn hoặc Kinh Thánh Hi văn, là phần cuối của Kinh Thánh Kitô giáo, được viết bằng tiếng Hi Lạp bởi nhiều tác giả vô danh trong khoảng từ sau năm 45 sau công nguyên tới trước năm 140 sau công nguyên (sau Cựu Ước).

Từ này được dịch từ tiếng Latinh Novum Testamentum, nguyên ngữ Hi văn Kainē Diathēkē (Καινή Διαθήκη), nghĩa là “Giao ước mới”.

Thuật ngữ “Tân Ước” lúc đầu được Kitô hữu dùng để miêu tả mối tương giao giữa họ và Thiên Chúa, về sau được dùng để chỉ một tuyển tập gồm 27 sách.

Những Câu Chuyện Kỳ Thú Trong Kinh Thánh Hành Trình Về Phương Đông Mật Mã Do Thái

Kinh Thánh Tân Ước được viết bởi các tác giả khác nhau, vào các thời điểm khác nhau và tại các nơi chốn khác nhau. Khác với Cựu Ước, Tân Ước được trước tác trong một quãng thời gian tương đối ngắn, khoảng chừng một thế kỷ hoặc hơn.

Bộ kinh điển Tân Ước lần đầu tiên được liệt kê bởi Anathasius, Giám mục thành Alexandria, vào năm 367, trong một bức thư gởi cho các giáo đoàn của ông tại Ai Cập.

Danh sách này ngày càng được chấp nhận rộng rãi cho đến khi có được sự đồng thuận tại công đồng lần thứ ba tại Carthage vào năm 397. Dù vậy, quyết định của công đồng này không phải là chung quyết. Vẫn còn tra vấn về thẩm quyền của một vài sách, đặc biệt là các sách Gia-cơ và Khải Huyền.

Thư viện Sách Mới trân trọng gửi đến bạn bộ Kinh Thánh Tân Ước. Hãy chia sẻ bộ sách này đến bạn bè và đừng quên đăng ký email nhận thông báo sách mới hàng tuần.

Nguồn: sachmoi.net

Đọc Sách

Xem Quẻ Chân Gà PDF
Theo phong tục tập quán, thì ngày mùng 3 Tết có tục cúng gà hóa vàng tiễn ông bà sau 3 ngày về nhà ăn Tết, nhưng cúng ở tại gia hay cúng tại đền đình (nơi thở các Thần Thánh), chứ cúng ở chùa thì không, vì chùa chỉ nhận cúng chay thôi. Tuy nhiên ở miền Bắc cũng có nhiều chùa thờ “Tiền Phật hậu Thánh” .Xem Quẻ Chân GàNXB Huế 1978Bảo Trai Đường56 TrangFile PDF-SCAN
Văn Hóa Là Gì - Đào Duy Anh PDF
Về ý nghĩa của chữ Văn-hóa và chữ Văn-minh (tương đương với tiếng Pháp là Civilisation và tiếng Đức là Kultur), các nhà học giả thế giới, nhất là Tây-phương, bàn cãi đã nhiều lắm ; ở đây tôi đã không thể nhắc lại tất cả những cuộc thảo luận ấy thì cũng xin gác bỏ hẳn ra ngoài, mà chỉ nói khái quát về cái ý nghĩa mà chính tôi đã thừa nhận. Người ta thường nói dân tộc văn-minh, thời đại văn-minh để đối với dân tộc dã-man, thời đại dã-man. Trái lại, người ta thường nói văn-hóa Tây-phương, văn-hóa Đông-phương (văn-minh), văn-hóa các dân tộc Da-đen, Da-đỏ (dã-man), văn-hóa đồ đá cũ, văn-hóa điện khí. Xem thế, ta nhận thấy ngay chữ văn-hóa khác với chữ văn-minh thế nào, tuy rằng theo các ý-niệm khác nhau ấy, tiếng Pháp đều nhất tề dùng một chữ CIVILISATION thôi.Văn Hóa Là GìNXB Tân Việt 1947Đào Duy Anh80 TrangFile PDF-SCAN
Lược Khảo Việt Ngữ PDF (NXB Mai Lĩnh 1942) - Lê Văn Nựu
Vấn đề tiếng Nam ở vào trong phạm vi một vấn đề rộng rãi hơn, phức tạp hơn - sự tiến hóa của dân tộc Việt Nam. Ngày nay vấn đề ấy tuy không khẩn cấp cho mọi vấn đề về kinh tế, hay chính trị, nhưng trái lại nó có tính cách phổ thông hơn hết. Thật vậy, đang khi những phong trào tư tưởng mới phôi thai, cùng những quyền lợi kinh tế, hầu gây nên những mối phân tranh mâu thuẫn trong xã hội, vấn đề ngôn ngữ vẫn giữ được tính cách quốc gia hoàn toàn.Lược Khảo Việt NgữNXB Mai Lĩnh 1942Tác giả: Lê Văn NựuSố trang: 89Kiểu file: PDF-SCANNgôn ngữ: Tiếng Việt
Hán Văn Qui Tắc PDF (NXB Trương Phát 1941) - Nguyễn Di Luân
Chữ Nho (chữ Hán) là thứ chữ đã thông dụng ở nước ta từ mấy ngàn năm đến nay, nó đã giúp cho ta được nhiều ích lợi về mọi phương diện của xã hội Việt-nam ta. Từ khi ta chưa có chữ quốc ngữ thì chữ Nho là thứ chữ thông dụng của nước nhà mà người Việt-Nam ta không ai là không học chữ nho, Chữ Nho là thứ chữ của Á Đông, tuy lối viết và cách đọc có khác nhưng bản pháp và văn thể thì cũng giống như các thứ chữ của Âu tây. Thế mà từ xưa đến nay, cả người Tầu và người Nam ta ai cũng đồng thanh cho là học chữ các nước thì dễ mà học chữ Nho thì khó. Bất cứ là học chữ nước nào, chỉ học ba bốn năm thì đã khá, mà học đến sáu bẩy năm thì phải giỏi.Hán Văn Qui TắcNXB Trương Phát 1941Nguyễn Di Luân106 TrangFile PDF-SCAN