Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thanh Lâu - Tập 1

Tôi là người phụ nữ khổ nhất thế giới (Tự bạch của nhân vật chính) Tôi sinh ra vào thời kỳ đầu những năm 30 trong cuộc hỗn chiến quân phiệt. Vừa sinh ra cõi đời, tôi hoàn toàn không được lựa chọn, phải sống cảnh đói nghèo, khổ nạn và gian nguy. Bảy tuổi mất mẹ, tôi thành cô nhi, chín tuổi bị bán vào công quán làm kẻ hầu hạ, mười tuổi lưu lạc làm ăn xin, mười một tuổi vào đại vũ đoàn Hóa Nghinh tập võ học kịch, mười hai tuổi làm con dâu, mười bốn tuổi bị người ta gạt bán vào kỹ viện làm kỹ nữ. Tuy thân mang tuyệt kỹ, cũng từng thi triển võ công để phản kháng, nhưng tôi không thể thoát khỏi hắc động của xã hội ghê gớm đó. Trong cuộc sống bán thân bán nụ cười, tôi bị người ta bán như bán súc vật, từ Thành Đô đến Bảo Kê, đến Lan Châu, chuyển bán qua ba thành phố lớn, bốn kỹ viện. Tôi, thân nô lệ phải theo họ của chủ nhân, từng có sáu cái tên: Lưu Hồng Chi, Khang Tiểu Muội, Tô Thu Chi, Điền Thanh Đệ, Mã Hương Ngọc, Thù Hương Ngọc. Trong sáu tên này, thời gian gọi tên Khang Tiểu Muội là dài nhất, vì lúc này tôi mười một tuổi tập võ học kịch, trưởng đoàn ban ân, cho tôi giả làm cháu của Khang Tử Lâm thuộc hàng thái sơn bắc đẩu của võ học Tứ Xuyên. Tôi từng tiếp khách là sĩ quan Mỹ, cũng từng tiếp qua nhân vật trọng yếu của Quốc Dân Đảng là Hồ Tông Nam, Mã Bộ Phương. Cuối cùng tôi theo Ngụy Sấu Bằng lớn hơn tôi ba mươi tám tuổi, là thư ký của tướng quân Phùng Ngọc Tường. Từ đó tôi thoát khỏi hầm chông sống đời hoàn lương. Tháng 8 năm 1949, Lan Châu giải phóng, tôi bước lên bến bờ mới, làm lại con người mới, cũng từ đây tôi chính thức có một cái tên công dân thuộc về mình, trong nước Trung Quốc mới – Khang Tố Trân. Nhớ lại chuyện cũ, những chị em trong thanh lâu đã tử nạn luôn sống trong lòng tôi. Tôi vừa học văn hóa, vừa tập luyện võ công, tôi muốn tra tìm hung phạm để báo thù cho chị em tử nạn, nhưng tâm nguyện lớn nhất của tôi chính là viết một quyển sách, đem những chuyện bi thảm của chị em chúng tôi viết ra, truyền lại đời sau. Mùa xuân năm 1951, Sấu Bằng đi Tây An công tác, ông đưa tôi đến những nơi tôi từng chịu khổ: Bảo Kê, Thành Đô để khảo sát thực địa. Ở Tây An, tôi làm quen Điền Cửu Hồng là danh kỹ Tây An mà tôi gọi là cô cô. Cô cô giúp tôi tích lũy tài liệu phong phú hơn cho việc viết sách sau này. Năm 1957, tôi từ biệt Tây Bắc, theo người chồng đã về hưu trở lại quê hương làng Mộc Điếm, huyện Thúc Lộc (nay là thành phố Tân Tập) tỉnh Hà Bắc. Thoái ẩn điền viên, vốn muốn luyện võ viết sách, thay đổi nhanh chóng cuộc đời, tôi đến vùng đất công nghiệp Hải Hà, rèn luyện trong lao động gian khổ. Tôi dần mất đi hương thơm và dịu dàng của nữ tính, tay chân tôi trở nên thô kệch. Hàng ngày tôi cùng các dân công vật lộn trong con kênh mới đào, tôi có thể vật ngã hàng mấy thanh niên hai mươi mấy tuổi khỏe mạnh. Ngày tháng sau này là thời kỳ khốn khó: lũ lụt dìm huyện Thúc Lộc, thiên tai vừa qua, lại gặp phải cách mạng văn hóa. Tôi và Sấu Bằng cùng chịu đả kích trở thành phản cách mạng, bị nhốt vào chuồng bò. Hơn một trăm ảnh của chị em mà tôi trân quí cất giấu gần như toàn bộ bị Hồng Vệ binh lục xét tịch thu, coi là văn hóa phẩm độc hại, thảy vào lửa đốt. Sấu Bằng bị đàn áp đến nhảy giếng tự tử. Tôi cũng ba lần cải giá, từ Mộc Điếm đến Hình Gia Trang đến Quách Tây. Tôi chịu khổ tận cùng bị chồng đánh đập tàn nhẫn. Sau đó, tôi kiên quyết ly hôn, may là cán bộ của Quách Tây cho tôi con đường sống, cho tôi làm cấp dưỡng của đội sản xuất, chuồng bò trở thành nhà chính thức của tôi... Mãi đến sau đại hội toàn Tam Trung, tôi mới được giải phóng lần thứ hai. Ngày giờ vừa thong thả, giấc mộng cao xa mà tôi chôn vùi bao năm nay dần dà sống lại trong lòng tôi. Đúng lúc này, tôi nghe người ta đồn rạp phim Tân Tập đang chiếu bộ phim “Vọng hương”, tả lại cuộc sống của kỹ nữ, thế là tôi xin nghỉ phép một ngày vào thành phố xem phim. Quyết tâm viết sách lại sôi sục như núi lửa phun trào, tôi nghĩ rằng chuyện của tôi và các chị em so với “Vọng hương” của Nhật Bản phong phú hơn nhiều lắm, màu sắc hơn nhiều lắm. Người ta có thể quay thành phim, tôi không thể viết một quyển sách sao? Sau khi về làng, tôi lập tức đến quầy hàng mua giấy bút. Nửa đêm ở trong chuồng bò, bên cạnh ánh đèn dầu leo lét và đám bò ngựa hiền hòa, tôi âm thầm viết lại cuộc đời mình: Tôi không biết viết tiểu thuyết, chuyện xưa theo máu và nước mắt của tôi và các chị em mà chảy ra, khóc khóc viết viết, viết viết khóc khóc. Mặc dù viết đầy chữ sai tôi cũng viết xong mấy quyển lớn. Tôi nhảy lên xe đạp, đạp cả hai mươi lăm cây số, giao bản thảo cho Phòng Văn hóa huyện. Sau đó tôi biết bản thảo ấy như muối liệng vào biển. Tôi lại lần nữa chết cả lòng... Tháng 5 năm 1985, Liên hiệp Văn hóa thành phố được thành lập (năm 1986 Tân Tập được nâng thành thành phố cấp huyện). Đảng và Chính phủ giúp tôi cầm lại bút. Cấp trên cử người giúp tôi chỉnh bản thảo thành tiểu thuyết. Sự tích tôi “viết sách” từng vang dội một thời và việc người khác chỉnh lý bản thảo giúp tôi biên tập thành tiểu thuyết cũng gây xôn xao mấy năm. Nhưng khi đó tôi không xác định được rốt cuộc ai có thể đem cuộc đời truyền kỳ của tôi viết thành một bộ toàn tập có phong cách thống nhất, chân thực, cảm động lòng người. Mãi đến năm 1995, tôi mới biết hai bộ “Thanh lâu hận” và “Thanh lâu hận tục tập” có ảnh hưởng tương đối lớn. Vương Diên Niên là tác giả chấp bút cho tôi hoàn thành bộ tiểu thuyết này. Tuy ông đã chuyển sang viết trường thiên tiểu thuyết khác nhưng tôi nghĩ mình không thể mất đi người này. Tôi kiên trì trong một tháng viết cho ông ba bức thư. Tôi muốn ông tiếp tục viết toàn tập cho tôi. Đáng tiếc, tôi khổ nhọc viết mười năm, gần hai trăm quyển viết tay của tôi thất lạc trong dân gian tìm lại không được. Mùa đông năm 1996, tôi u uất thành bệnh. Tôi dự cảm mình sắp làm “láng giềng” của Diêm vương rồi. Tối rất sợ một khi tôi xuôi tay nhắm mắt thì chuyện kể đầy lòng của tôi sẽ chui vào quan tài. Thời gian không cho phép chậm trễ, tôi lập tức nhờ chồng sau của tôi là Dã Hoài Khởi gửi thư cho Vương Diên Niên mời ông đến giường bệnh của tôi. Tôi đem một phần hình ảnh tư liệu quý giá cất giấu bấy lâu giao hết cho ông, ủy thác ông viết toàn tập cho tôi, tuy bản thảo viết tay thất lạc khó tìm lại được nhưng chuyện kể chân thật nhất nằm trong tim tôi. Đối diện với Vương Diên Niên cũng bằng như đối mặt với hàng ngàn hàng vạn độc giả trên xã hội, tôi muốn tố cáo với mọi người, muốn đem cả cuộc đời mình dùng chân tình, dùng nước mắt kể ra, khóc ra, ngâm ra, hát ra... Mở đầu của câu chuyện chính là năm đại tai nạn mà tôi ra đời. *** Năm 1931, huyện An Nhạc, tỉnh Tứ Xuyên lại hạn hán mất mùa. Đời sống của nông dân quá khó khăn, cha mẹ tôi phải rời quê nhà ở làng Hoàng Giác đi bộ đến Thành Đô, sống nhờ vào ông nội và bác tôi. Khi đó tôi còn nằm trong bụng mẹ. Ông nội và bác tôi bán đậu hủ ở Hậu Tể Môn, mua gánh bán bưng nên nuôi không nổi một nhà ba miệng ăn chúng tôi (sắp thành bốn miệng). Cha mẹ tôi lưu lạc đến kênh Đại Dương. Kênh Đại Dương là khu dân nghèo nổi tiếng ở Thành Đô, một con kênh nước đen hôi thối dài 1,5 cây số. Trên mặt nước đen lềnh bềnh rêu xanh. Suốt ba mùa xuân, hạ, thu ruồi muỗi ken dày. Có ba cây cầu ván bắc qua kênh. Hai bên bờ là những dãy nhà được dựng lên bằng cỏ sơ sài. Bảo trưởng Phan Điền Hải chuyên cho người nghèo chạy nạn thuê phòng, cũng chính mùa đông năm này mẹ sinh ra tôi trong một gian nhà cỏ. Vừa đến thế giới hắc ám, ác ôn, hôi thối này tôi liền nếm đủ mùi bần cùng đói rét khủng khiếp. Tôi chưa từng biết đường có vị ngọt, thịt là thơm. Mẹ tôi giặt quần áo cho Phan bảo trưởng, cha tôi thì kéo xe cho nhà Trần dinh trưởng. Cha mẹ làm việc quần quật nhưng chúng tôi vẫn thường chịu đói rách. Tôi nhớ lại, hưởng thụ lớn nhất là tết mỗi năm mẹ tôi bẻ mấy cây mía lau từ vùng ven về cho chúng tôi nhai nhóp nhép. Những ngày đông giá là những ngày tháng hành hạ chúng tôi khổ sở nhất, gió bấc lùa qua khe ùa vào nhà tranh, cả nhà bốn người đắp chung chiếc mền bông rách vá chằng vá đụp. Tôi lớn được năm sáu tuổi vẫn phải ở trần không có áo mặc. Ban ngày để lưng trần đen thui, cầm cái kẹp sắt nhỏ đi theo anh lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm để bới rác, lượm thức ăn giống như hai con chó hoang nhỏ. Cuộc sống khốn khổ đã thế mà cha tôi lại lao vào hút thuốc phiện, tiền kéo xe kiếm được càng lúc càng ít đem về nhà. Về sau hiếm hoi ông mới về nhà, nếu có về thì cũng say bét nhè, vừa đặt chân vào cửa đã nổi cơn ghiền, bắt buộc mẹ đưa tiền. Mẹ khóc lóc chống đối thì bị cha đánh đập, cuối cùng ông cũng giật nốt chút xíu tiền trong nhà rồi bỏ đi. Trước nay tôi không nhớ cha quan tâm tôi như thế nào. Những năm tháng đó, chết chóc là chuyện bình thường, cái chết như hình bóng bám sát con người, đặc biệt là người nghèo. Lũ quỷ Nhật xâm chiếm hơn phân nửa Trung Quốc, móng vuốt ma quỷ của chúng tuy chưa thò đến Thành Đô nhưng máy bay của giặc Nhật thường quần đảo trên không, ném bom xuống Thành Đô. Tôi nhớ có một chiều thu, tôi theo anh đi đường Nam Phủ lượm rau vụn. Cảnh báo vang lên, đông đảo người đi đường nhốn nháo cuống cuồng như chim sợ ná. Chớp mắt, máy bay địch quần đảo giống như bầy diều hâu hung hăng thả bom xuống liên hồi. Tiếng nổ ầm đùng vang không ngớt, khói bụi mịt mù, đất đai rung chuyển, tường ngã nhà sập. Tôi và anh kinh sợ chui vào trong một cái hầm chờ chết, cảm thấy lục phủ ngũ tạng sắp bị xé toang ra. Sau oanh tạc, không gian yên tĩnh khoảnh khắc rồi khắp đường phố vang rân tiếng khóc la. Tôi và anh từ trong hầm bò lên, đường Nam Phủ đã hoàn toàn biến dạng. Trong hố bom chằng chịt là ngổn ngang thi thể không toàn vẹn, đầy máu, trên cây cháy nám treo lòng thòng ruột người, trên tường đổ nát dính máu thịt óc của người, thật thê thảm! Không lâu, chính phủ Quốc Dân phái người tới, hai chiếc xe hơi xuyên qua đám cảnh sát da vàng chạy đến hiện trường. Họ đào từ một hầm phòng không đã bị sập bịt kín, lôi ra từng xác chết ngộp, lột tiền bạc, đồng hồ, dây chuyền... những vật đáng tiền trên thi thể cho vào một bao tải ném lên xe rồi chạy mất. Giữa ranh giới của sự sống và cái chết đó, tôi lây lất đến bảy tuổi. Con gái phải có áo che chỗ xấu hổ. Một tối, mẹ tôi gương mặt tiều tụy ôm tôi vào lòng, vuốt lưng trần của tôi, nói: — Tiểu Muội, con ráng lượm ve chai nhiều nghe, bán có tiền mẹ mua cho con một cái áo đầm bông. Tôi mừng nhảy tưng tưng như gặp chuyện vui nhất trong đời. Tôi muốn có áo đầm bông mới để mặc, thế là tôi cố sức lượm ve chai, tôi thức dậy sớm hơn cả anh mình. Chạng vạng hôm đó tôi vác một bao tải hí hửng đi về nhà. Đến kênh nước thối, xa xa nhìn thấy cửa nhà đông người chen chúc, tôi đoán trong nhà đã xảy ra chuyện lớn vội xoải bàn chân đen thui loạng choạng chạy vào nhà cỏ. Mẹ nằm trên giường, gương mặt trắng nhợt, mắt nhắm nghiền, miệng rên nho nhỏ, thân dưới của bà máu tuôn dầm dề. Anh đang ở bên cạnh mẹ khóc nức nở. Hàng xóm tốt bụng đứng chung quanh chắt lưỡi hít hà. Tôi ngơ ngác không biết đã xảy ra chuyện gì. Thì ra cha tôi lại về nhà, cha và mẹ gây một trận um sùm rồi cha gom đi hết hai đồng cuối cùng của mẹ. Mẹ không trả được tiền nhà tháng này cho Phan bảo trưởng. Phan bảo trưởng mang đôi giầy bốt màu đen, đội nón sa đen, giắt bên mình cây côn màu đen, đến nhà đòi nợ. Mẹ tôi nhỏ nhẹ xin khất. Phan bảo trưởng nổi lòng tà dâm, thô bỉ trêu chọc, mó máy tay chân nhưng mẹ tôi hết sức phản kháng. Phan bảo trưởng thẹn quá hóa giận giơ chân mang đôi giầy bốt đá vào bụng hơi nhô lên của mẹ khiến mẹ ngất xỉu tại chỗ, hạ bộ chảy đầy máu. Nhìn thấy mẹ gặp thảm cảnh như vậy nhưng tôi không khóc cũng không bi thương vì tôi cho rằng mẹ sẽ mau chóng mở mắt ra gọi tên tôi, mẹ đã hứa mua áo đầm mới cho tôi mà! Lúc này người tôi hận nhất chính là cha, chính cha đã gây nên đại nạn như vậy cho cả nhà, không biết cha lại chui vào tiệm hút nào nữa rồi? Mẹ rên rỉ hấp hối đến nửa đêm thì chết thật! Trong chiếc quần tuôn đầy máu, còn đẻ non một bé gái mới thành hình, nó là em gái của tôi. Khi tôi biết mẹ thật sự bỏ chúng tôi đi rồi, tôi mới bật gào khóc, thạm chí phát điên! Hôm sau, ông nội, bác trai, bác gái tôi đều đến. Ông nội và bác muốn tìm Phan bảo trưởng nói lý lẽ, muốn thưa kiện tên ác ôn này. Hàng xóm vừa nghe có thưa kiện ai nấy len lén tản đi, ngay cả thím Lưu nhân chứng cũng không thấy bóng dáng. Bác gái khẽ giật chéo áo bác trai ngăn cản: — Ôi, có bầu trời không có mặt trời, cáo trạng, nha môn chỉ mở ra cho kẻ có tiền! Chỉ nội hai con chó lông vàng to như trâu của nhà họ Phan thôi, anh cũng đừng mơ bước được vào cửa, trước mắt lo chuyện chôn người kìa! Bác trai thở dài ai oán, ông nội trợn mắt nhìn trời, miệng run run phún máu tươi. Ông nội kéo tôi và anh dập đầu với những chòm xóm nghèo xin giúp đỡ. Làng xóm giúp chúng tôi chôn mẹ trên một bãi tha ma phía tây bắc kênh nước thối. Gió thu hiu hắt thổi mấy tờ giấy tiền bị đốt bay lên trời. Tôi mơ hồ nhớ năm đó mẹ khoảng hai mươi tám tuổi, đôi má đầy đặn đôi mắt to vô cùng xinh đẹp. Tôi và anh từ đó thành cô nhi. Cùng lúc này chú họ từ quê hương chạy nạn cũng đến Thành Đô, vừa thấy tình cảnh trước mắt chú họ quyết định đến Trùng Khánh, đồng ý mang anh theo. Tôi bảy tuổi chỉ còn nước theo nội và bác. Bác gái mặt không vui, giật mạnh vạt áo bác trai một cái đề nghị cho tôi cùng đi Trùng Khánh, nhưng ông nội giữ tôi lại, ông đưa bàn tay thô ráp như cây táo già ôm tấm lưng trần của tôi, hai mắt đầy nước mắt, kiên quyết nói: — Cháu ngoan, cháu sẽ chẳng đi đâu, có gì ăn ông cháu ta cùng ăn. Anh ôm tôi khóc lóc đau khổ một hồi rồi thiểu não đi Trùng Khánh. Tôi theo ông nội, lần đầu giống một con người, mặc được bộ đồ vải thô mà ông mua cho tôi trong tiệm cầm đồ, chân cũng được mang đôi giày cỏ. Nhà ông nội lại thêm một miệng ăn, chân mày bác gái rõ ràng càng nhíu chặt. Bác gái là một phụ nữ thấp bé, chân nhỏ nhanh nhẹn, trên gương mặt nhỏ trắng trẻo suốt ngày giống như phủ lớp băng, trong đôi mắt to khá đẹp giống như có băng tuyết lấp lánh. Cứ nhìn sắc mặt và ánh mắt của bác gái là tôi liền luống cuống. Từ khi có tôi, ngày ngày cứ nửa đêm là đã nghe giọng nói lanh lảnh của bác gái dội vào cái ổ nhỏ của tôi: — Thức dậy! Thức dậy làm đậu hủ! Đông người ăn cơm như vậy ông trời không có rớt bánh, xuống đâu. Tôi đang mơ mơ màng màng vội dụi hai mắt, mặc đồ vào đi giúp ông nội, bác trai nấu đậu hủ. Bận rộn cho đến khi nấu đậu hủ thành hai sọt lớn, thừa lúc còn nóng ông nội và bác trai mỗi người gánh một gánh, trời còn tờ mờ phải đến được đại lộ Hậu Tể Môn, gõ thanh tre rao bán. Còn tôi ư, cũng bắt đầu đi lượm rau cải vụn, lượm ve chai. Con không mẹ muốn đáng thương cỡ nào thì có đáng thương cỡ đó, bác gái keo kiệt rất ghét tôi. Bà thường giấu đồ ăn chỉ cho tôi một ít nước rau, lại hay dùng ánh mắt sắc lạnh lườm nguýt tôi, riết róng: — Trong bụng mầy bộ có máy xay hả? Nhỏ mà không làm chỉ có nước ăn xin! Bác trai tốt bụng nhưng không dám hó hé với bác gái, có thể thương yêu tôi chỉ có ông nội. Tôi thường thấy đói, ông nội mò trong ngực áo lấy ra khi củ khoai lang, khi cái bánh nướng nóng mua trên chợ mang về lén lút giấm giúi vào tay tôi. Chưa bao lâu, một tai nạn lại rơi vào gia đình này cướp đi người thân duy nhất của tôi. Ông nội bị người ta đánh! Hai cảnh sát của Hậu Tể Môn lấy mấy miếng đậu hủ của ông nội mà không trả tiền. Chúng dùng báng súng đập ông một trận tàn nhẫn. Ông nội hơn bảy mươi tuổi được người ta cõng về nhà, nằm sóng soài trên giường. Ông vừa tức vừa giận thổ ra máu tươi, không mấy chốc ông nhắm mắt từ bỏ thế giới bất công này. Không có ông nội việc mua bán đậu hủ càng sa sút, bệ rạc. Bác gái đối với tôi càng thêm vô tình. Chúng tôi chịu đựng qua mùa đông khắc nghiệt. Đến năm sau, mùa xuân ấm áp hoa nở có người tìm được công việc lao công trong phi trường cho bác trai, bác gái, thế là tôi đi theo bác trai, bác gái dời đến một nơi gọi là Sa Hà Phố. Nơi đó có một khoảng rừng trúc nhỏ, trong rừng trúc có mấy căn nhà tranh. Đến hoàn cảnh mới, bác gái giỏi tính toán tuyệt đối không nuôi tôi ăn cơm suông, bảo bác trai làm một cái chuồng thỏ đặt chỗ râm mát trong vườn, mang về hai mươi thỏ con, tiếp theo ném cho tôi một cái liềm nhỏ, sầm mặt ra lệnh: — Cắt cỏ đi, hai mươi con thỏ này giao mầy nuôi. Thỏ no thì mầy no, đừng có làm biếng! Thân thể gầy gò của tôi vác cái sọt tre to đùng đi ra vùng ven trong ngày xuân. Trước kia, cắt rau dại chỉ cần dùng cái dao nhỏ, cắt cỏ phải dùng liềm. Đây là lần đầu tôi sử dụng liềm. Tôi cắt xuống dưới, cái liềm cắm vào trong đất giật lên trên, lưỡi liềm lướt trên rễ ngọn cỏ mà không cắm xuống dưới nên cứa vào ngón tay tôi, máu tươi chảy tuôn ra. Tôi đau quá gọi: — Mẹ ơi! Tôi xé một miếng vạt áo quấn ngón tay. Ngón tay bị thương làm việc không tiện, đến trưa về nhà chỉ cắt được một lớp cỏ. Bác gái thấy thế, miệng ngoác ra cười mỉa mai, oang oang nói: — Ồ, giỏi quá nhỉ! cắt thật không ít, đủ nuôi cào cào rồi. Ra công không chịu ra sức, mầy nói bữa cơm này mầy ăn thế nào đây? Tôi nín thinh gục đầu ôm ngón tay bị đứt, nước mắt rơi lộp độp. Bác trai ra mặt giải vây cho tôi: — Được rồi, được rồi, nó mới tám tuổi, lại chưa làm qua chuyện này, vào nhà ăn cơm, chiều cắt thêm. Vì để không bị mắng, vì để được ăn cơm no, tôi gắng sức tìm kiếm khắp nơi để cắt cỏ, cỏ cắt càng lúc càng nhiều nhưng tôi vẫn thường bị đói. Bác gái bủn xỉn luôn luôn tiếc không cho nhiều cơm. Tôi ăn cơm bằng một chén gỗ nhỏ, không chờ tôi ăn xong một chén bác gái đã giật lấy bới thêm cơm, cơm còn lại trong nồi thì vét hết cho bác trai, khi tôi muốn ăn thêm trong nồi chỉ còn một lớp nước cơm. Từ từ tôi tìm được một cách, lần đầu tôi chỉ bới nửa chén, ăn nhanh cho xong rồi mới bới đầy chén, chỉ có ăn cơm no mới có đủ sức cắt cỏ nhiều. Sáng hôm nay, tôi cắt được đầy một sọt cỏ non xanh mướt, lưng đẫm mồ hôi vác nó về nhà. Nhưng chờ đón tôi là hai cánh cửa tre đan mắt cáo đã đóng chặt, được khóa bằng ống khóa lớn. Lúc này tôi mới hay trời đã quá trưa, bác gái chắc đi đưa quần áo cho phi trường rồi. Không có chìa khóa tôi không vào nhà được, bụng đói cồn cào, thế là tôi quyết định nhấc cánh cửa lên. Tôi đặt sọt xuống, nhấc trục cánh cửa lên, quả nhiên mở được một cánh. Tôi vào nhà, trước tiên chạy đến chuồng thỏ, hai mươi con thỏ như nước lũ tràn ra giành ăn cỏ xanh tôi đổ xuống. Tôi không màng rửa tay chạy ngay vào nhà bếp giở nắp nồi lên. Tôi chưng hửng, trong nồi trông trơn không còn một hột cơm. Tôi bất giác tức uất đến ngực đập thình thịch, bác gái nhẫn tâm không chừa cho tôi một chút cơm. Sục sạo khắp nơi cũng không tìm được chút thức ăn, cuối cùng tôi lôi ra được một cái khạp nhỏ cạnh bàn, bên trong còn phân nửa gạo trắng. Người đói khát cái gì cũng ăn được, tôi bốc gạo sống trong khạp nhét vào miệng giống như súc vật nhai nhóp nhép. Chạng vạng bác gái phát hiện trong khạp mất gạo, bà dằn mạnh nắp khạp, rít giọng: — Ồ... hay quá nhỉ... Gạo trong khạp đãi chuột rồi, một con chuột to! Bác trai nghe vậy hỏi thẳng tôi: — Cháu à, là cháu làm à? Tôi cũng tình thực kể buổi trưa tôi không có cơm ăn. Lần này chọc giận bác gái, đôi chân nhỏ của bác từ trong ngạch cửa nhảy phóc một cái xông tới mặt tôi xỉa xói: — Mầy là đứa mất dạy chết mẹ. Mầy dám nói dóc nói láo, nói tao không cho mầy ăn cơm, mầy ói đồ ăn ra đây xem, mầy ói ra đây cho mau! Bác gái gầm lên, ánh mắt lạnh băng, thuận tay chụp cây sào bên cửa đuổi đánh tôi, vừa đánh vừa rít: — Mầy ăn không ăn ói ra cho tao coi... Bác trai chạy qua giật lấy “hung khí” của bác gái, hét vào bộ mặt giận dữ của bác gái: — Bà không được đánh nó. Nó là đứa con mất mẹ. Bác gái lại nghiến răng ken két nói: — Không mẹ nhưng nó có cha, bảo nó đi tìm cha nó đi! Bác trai xuống giọng: — Thôi dừng gây nữa, không sợ người ngoài cười sao? Bác gái càng rống lên tru tréo: — Cười hả? Đứa nào cười đứa đó là con hà mã. Hỏi trời này, hỏi đất này, hỏi lương tâm của nó, hồi mẹ nó còn nó có được mặc áo không? Nó có được một ngày ăn ba bữa cơm không? ông thử thịt trên người nó là mập hay ốm? Được, tôi không thèm quản nữa, máu thịt họ Khang ông thì ông thương đi tôi không quản nữa. Bác gái quay ngoắt người phe phẩy đi ra trước cửa nhà ngồi phịch trên ngạch cửa, bù lu bù loa kể lể. Bảc trai vừa gấp vừa giận vừa bó tay đi loanh quanh hai vòng, cố gắng dằn cơn giận, lựa lời khuyên giải bác gái. Tôi âm thầm chảy nước mắt, căm hận người cha hút thuốc phiện của tôi. Vì để nuôi được bản thân, tôi chỉ đành nhẫn nhịn đi cắt cỏ nuôi thỏ. Có một ngày vì đói quá tôi cắt cỏ không nhiều về đến nhà ánh mắt lạnh băng của bác gái chiếu vào sọt tre của tôi mấy lượt, hừ một tiếng, cố ý không nói, liếc bác trai ra dấu xử lý tôi. Bác trai đang ngồi hút thuốc trước cửa sổ quả nhiên lên tiếng: — Cháu à, sao cắt ít cỏ vậy, ham chơi phải không? Tôi không dám nói đói, mím miệng cúi gục đầu. Bác gái trái lại giả làm người tốt: — Bỏ đi, ngày mai cắt nhiều một chút, chắc đã đói rồi mau ăn cơm thôi. Cháu nè, bưng cơm trên lò ra bàn đi. Tôi vừa nghe bác gái nói, nhất thời có vẻ được thương yêu mà hết hồn vội chạy thẳng vào lò mà bưng cơm. Cơm trong nồi đất chỉ là cơm cháy mà bác gái đem từ nhà ăn phi trường về, thêm nước nấu thành một nồi lớn. Tôi dùng sức bưng mép nồi đi ra ngoài bàn, chợt phát giác nồi cháo quá nóng giống như bưng phải sắt nung đỏ, tôi mau chân bước, cháo trong nồi sóng sánh trào ra hai lưng bàn tay đau như bị đốt, tôi giật mình “Cảng” nồi cháo rớt xuống đất bể tan tành thành đông vụn. Lần này bác gái nhảy nhổm lên: — Coi kìa, coi kìa, mầy làm chút việc cũng hư hỏng! Tụi tao hôm nay ngán đến tận cổ rồi. Bác trai lần đầu nổi giận, mặt hầm hầm xông vào tôi quát: — Làm gì vậy hả? Mầy thật không nên thân! Bác gái ở bên cạnh “đổ thêm dầu vào lửa” nói: — Hôm nay rớt nồi, ngày mai đập nồi. Tao có được cơm này dễ lắm hả? Tao phải dày mặt gọi người ta bằng ông bằng bà mới xin về đó... Mời các bạn đón đọc Thanh Lâu - Tập 1 của tác giả Vương Diên Niên.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Không Chiến Zero Rực Lửa - Naoki Hyakuta
“Các chiến cơ Zero thật sự rất đáng sợ. Zero nhanh đến mức không thể tin được. Sự chuyển động đó là thứ chúng tôi không thể dự đoán được, như ma trơi vậy. Mỗi lần chiến đấu, chúng tôi lại bị cảm giác yếu thế bao trùm. Thế nên, mới có mệnh lệnh rằng không để xảy ra không chiến với Zero. Chúng tôi biết việc chiến cơ tinh nhuệ mới của Nhật Bản được đặt tên mã là Zero. Cách đặt tên mới kỳ quặc làm sao. Zero nghĩa là không có gì cả, ấy vậy mà chiếc chiến cơ đó đã bỏ bùa chúng tôi với chuyển động không thể tin được. Tôi từng nghĩa đó chính là sự huyền bí của phương Đông. Chúng tôi đã từng nghĩ những phi công lái Zero không phải là người. Họ là ma quỷ. nếu không thì cũng là những cỗ máy chiến tranh.” *** Vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ 2, do sự tấn công của lực lượng Đồng Minh, phe trục phát xít Nhật- Đức-Ý lâm vào tình thế khó khăn. Trong cuộc chiến tranh trên biển Thái Bình Dương, Nhật Bản đã tỏ ra thua kém Mỹ về nhiều mặt, đặc biệt là vũ khí. Trước tình hình đó, quân đội Nhật Bản nghĩ mọi cách để cứu vãn tình thế. Họ lập ra các đội đặc công cảm tử hòng lấy lại thế trận. Bên cạnh đội đặc công trên không của Nhật ta thường biết đến với tên gọi Kamikaze - Thần Phong, còn có đội đặc công trên bộ, đặc công dưới nước…là những đội đặc công có nhiệm vụ tấn công đối phương theo dạng “cảm tử” đầy bi tráng. Cuốn Không chiến zero rực lửa của tác giả Naoki Hayakuta đã miêu tả lại đội đặc công Thần Phong và tâm trạng của những người lính cảm tử Nhật Bản khi đó. *** Review LeengKeeng: Không chiến ZERO rực lửa – Thần phong huyền bí Đông Phương – Naoki Hyakuta Đi đâu cũng bảo “Mắt biếc” của Nguyễn Nhật Ánh rất buồn, có thể rơi nước mắt, vì là thiểu số nên cũng lười nói ra, đúng đó là chuyện tình buồn nhưng chẳng đủ để làm tôi rơi nước mắt, nhiều lúc ngồi nghĩ chắc là bản thân bị mất cảm xúc rồi. Cuốn sách này chẳng phải là thể loại như “Mắt biếc” nhưng tôi đã đưa “Mắt biếc” vào để nói, thật đúng là một đứa thiếu logic, thôi kệ đi, việc này chỉ nhằm mục đích muốn nói là đến trang cuối cùng tôi đã rưng rưng mà rơi nước mắt. Đọc những dòng đầu đột nhiên nhớ tới ông ngoại, cũng giống như Kentaro và Keiko, ông ngoại tôi mất từ khi tôi còn chưa chào đời, trong ký ức không có một chút thông tin, hình ảnh nào về ông. Sau khi biết ông ngoại hiện nay không phải là ông ngoại ruột và mẹ cũng muốn biết về cha ruột của mình nên 2 chị em đã bước vào hành trình tìm hiểu về ông ngoại hay chính xác hơn họ đã bước vào cuộc chiến Thái Bình Dương – cuộc chiến mà sinh mạng của những người lính không bằng một chiếc máy bay. Một lối hành văn xen lẫn hiện tại và quá khứ, đã miêu tả rõ nét cuộc không chiến cùng cách nhìn của những người trẻ về nó. Trải qua 10 cuộc gặp cùng 10 câu chuyện về ông Miyabe và điều hay ở đây những lần gặp mặt được kể theo tiến trình hoạt động của ông, người cuối cùng họ gặp chính là ông ngoại hiện giờ. Ông Miyabe được vẽ lên là một kẻ hèn nhát, quý trọng mạng sống hơn bất cứ thứ gì. Chỉ vì câu “Tôi không muốn chết” của một quân nhân Hải quân Đế quốc lại bị khinh bỉ như thế đó. Họ đã rất thất vọng khi nghe điều đó nhưng thực ra ... chính những đau thương mà bản thân người kể phải chịu đựng đã áp đặt một người nào đó như thế nào hay sự ganh tỵ vì ông là người nghĩ về gia đình khi đang đâm chém trên chiến trường nhưng lại xuất sắc hơn bất kỳ ai. Nhiều người ghét Miyabe vì điều đó nhưng cuối cùng ai cũng muốn bảo vệ Miyabe và trong tâm khảm họ rất ngưỡng mộ ông – một con người thân thiện, tài giỏi, yêu gia đình, và có lòng trắc ẩn, là một người cố hết sức mình để bảo vệ mạng sống vì vợ con, là không muốn chết, là quyết tâm không thua chứ không phải hèn nhát. Nhưng đó không phải là tất cả những gì cuốn sách này muốn nói và cũng không phải tất cả cảm nhận mà bạn sẽ có khi đọc nó nhưng tôi sẽ không nói gì thêm để các bạn tự khám phá ha... *** Review Hōjō Akira: Có lẽ tôi sẽ sợ khi đọc những cuốn viết về chiến tranh vì nó quá ám ảnh. Tôi đọc xong cuốn sách lúc 2h sáng và trằn trọc chẳng thể nào ngủ được đành lên đây viết vài dòng về cuốn sách này. Chí ít tôi đã đọc trọn vẹn nó hơn so với “Phía Tây không có gì lạ” đã drop. Chiến tranh khiến cho không chỉ những nước thắng trận mà cả những nước bại trận đều trải qua những nỗi đau, tổn thương khủng khiếp. Như Nhật Bản, một nước chiến bại trong thế chiến thứ 2. Thần phong Kamikaze có lẽ quá nổi tiếng với nhiều người vì những phi đội máy bay cảm tử của quân Nhật. Nhưng tại sao họ lại cảm tử, họ có muốn cảm tử như vậy không thì Naoki Hyakuta đã đưa ra trong cuốn sách một cách bao quát. Mặc dù những nhân vật trong truyện là hư cấu nhưng tất cả được ông nhào nặn trên nguồn nguyên liệu có thật trong cuộc chiên tranh Thái Bình Dương của Nhật với Mỹ. Câu chuyện xoay quanh anh chị em nhà Saeki là Keiko và Kentaro muốn tìm hiểu về người ông ngoại “authentic” của mình đã hi sinh trong thế chiến thứ 2 với tư cách là một phi công cảm tử nhân kỉ niệm 60 năm kết thúc chiến tranh.Qua những câu chuyện chia sẻ của 9 người đồng đội đã từng kề vai sát cánh với ông ngoại Miyabe Kyuzo của họ trong chiến tranh, Kentaro và Keiko đã lắp ghép những câu chuyện hồi tưởng đó thành một bức tranh hoàn chỉnh về con người thật của người ông hịn quá cố đã qua đời 30 trước khi họ sinh ra. Mà thậm chí đến khi bà ngoại họ qua đời họ mới biết được sự thật này. Những dòng hồi tưởng về cuộc chiến tranh Thái Bình Dương của những người phi công của lực lượng Hải quân Đế Quốc Nhật Bản từ trận Trân Châu Cảng, Rabaul, Guadalcanal, Saipan, Okinawa đến khi Nhật Bản đầu hàng tháng 8/1945 được khắc họa một cách chân thực đến tàn khốc. Chiến tranh thật khủng khiếp quá sức tưởng tượng đối với tôi và chúng ta- những người lớn lên thời bình. Thông điệp phản chiến, phản đối kế hoạch hi sinh cảm tử của những người lính tuổi đôi mươi được khắc họa rõ nét. Lý tưởng hi sinh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ những người thân, phải sống sót để trở về với gia đình của Miyabe Kyuzo được đặt lên bàn cân phán xét hèn nhát hay là can đảm dẫn dắt câu chuyện. Có lẽ chỉ đến khi đọc xong ta mới có thể trả lời câu hỏi đó. Bên cạnh đó Hyakuta còn phê phán những góc tối của xã hội Nhật khi đó, những quan niệm phân biệt, vô trách nhiệm của những kẻ chỉ huy bất tài nhưng lại ích kỉ vì những quyết định sai lầm của cá nhân mà làm sẵn sàng biến người lính trở thành những kẻ hi sinh vô ích. Ông phê phán cả trách nhiệm của báo chí, xã hội khi lúc nâng những người phi công ấy thành anh hùng rồi vùi dập họ như những kẻ tội phạm sau chiến tranh chỉ vì đất nước thất bại mặc dù đó là những người cống hiến và hi sinh cho đất nước. Twist nhẹ chương cuối khi ghép bức tranh hoàn chỉnh vừa đủ đẩy lên cao trào của câu chuyện cùng với những giá trị nhân văn, yếu tố lãng mạn ngọt ngào và lí tưởng về tình yêu đôi lứa trong bom đạn chiến tranh khiến cho cuốn sách giàu cảm xúc và có thể rung động đến độc giả. Phải chăng vì lẽ đó cuốn sách này đã bán được 3,5 triệu bản và được dưng thành phim? Có thể, những người đang chạy trốn thực tại, đi tìm lí tưởng sống và phân vân lựa chọn giữa con tim và lí trí có thể tìm thấy phần nào đó câu trả lời cho sự phân vân, mông lung của mình.   Mời các bạn đón đọc Không Chiến Zero Rực Lửa của tác giả Naoki Hyakuta.
Không Có Gì & Không Một Ai - Nguyễn Đông Thức
Ba nhân vật chính là ba người bạn than là Phong, Tiềm và Thương. Giữa họ vừa là tình bạn vừa lấn cấn chút tình yêu. Tuy mỗi người xuất thân từ mỗi hoàn cảnh khác nhau, nhưng vượt lên trên tất cả tình yêu thương, sự tin tưởng họ dành cho nhau không gì lay chuyển nổi. Vì thế họ đã sống và sẵn sàng hi sinh tình cảm cá nhân để bạn mình được hạnh phúc. Ba người bạn bước đi trên ba lối rẽ, mỗi người một cách vào đời, cùng trắc trở theo những thăng trầm của đất nước sau ngày giải phóng. Sau những khó khăn chia lìa họ càng quý trọng tình bạn và dẫu mỗi người ở một phương trời cuối cùng họ vẫn hội ngộ, bởi vì không có gì và không một ai có thể chia cắt tình bạn của họ. *** Mỗi lần cầm trên tay tác phẩm của nhà văn Nguyễn Đông Thức, trong tôi lại có cảm giác gần như là bồi hồi, chờ đợi. Như thể chính mình sẽ được cùng các nhân vật trở về thời mà nhà văn đã sống, đã cống hiến bằng tất cả lý tưởng của tuổi trẻ, thời đại có lẽ rồi sẽ chẳng bao giờ trở lại thêm một lần nữa trong cuộc sống đã nhiều bôn ba, vội vã này. Một năm trước, khi đọc Không quên - tập truyện ngắn cũng từ ký ức của nhà văn về những năm tháng thanh niên xung phong - tôi đã chia sẻ với ông niềm cảm phục về một thế hệ thanh niên sống thiếu thốn mọi bề nhưng sao tràn đầy nhiệt tâm, lý tưởng đến vậy. Chừng như những câu chuyện của quá khứ được nối dài bằng thời gian trở thành những con chữ bao giờ cũng mang giá trị của sự chiêm nghiệm, của một hành trình đã nhìn thấu được những vạn biến quanh đời. Lần này cũng vậy, với tiểu thuyết Không có gì và không một ai, nhà văn Nguyễn Đông Thức lại gửi đến độc giả một hành trình đã được minh chứng bằng thời gian, có hồn nhiên tinh khôi, rồi chia ly, nước mắt; có nông nổi, sai lầm và cả những tiếc nuối, đau xót. Và thứ tha… Sẽ không ai biết được ngày mai sẽ như thế nào, những lựa chọn của hiện tại rồi sẽ dẫn bước chân người về đâu. Hôm nay hạnh phúc hay khổ đau, vẫn chẳng thể nói lên được điều gì ở phía cuối con đường. Với Không có gì và không một ai, tác giả của Ngọc trong đá, Vĩnh biệt mùa hè, Trăm sông về biển… chọn một lát cắt để lý giải tất cả những điều đó. Cuộc đời, dài mấy mươi năm đó, nhưng có khi cũng chỉ là một cái chớp mắt của số phận, để những người từng thương yêu nhau được gặp lại nhau. "Không có gì và không một ai có thể thay đổi tình bạn tụi mình", một phần câu nói được chọn làm tựa truyện, và đó cũng là nguyên tắc "số 1" trong mối quan hệ giữa 3 người bạn thân, nhân vật chính: Phong, Tiềm và Thương. Gắn bó với nhau từ thời còn học đệ nhất (lớp 12 bây giờ), những tưởng cả 3 người sẽ có được những ngã rẽ hạnh phúc khi họ tràn đầy sức sống của niềm tin, của lý tưởng tuổi trẻ. Nhưng câu chuyện không chỉ xoay quanh mối tình tay ba của các nhân vật. Giữa thời đại vẫn còn đầy những biến động của thời cuộc, nhà văn đã để cho những nhân vật của mình có những ngã rẽ không ngờ tới được của lựa chọn và cả mất mát. Nếu như ở Vĩnh biệt mùa hè, Nguyễn Đông Thức từng khiến người đọc xót lòng khi “xuống tay” chọn cái chết cho nhân vật, thì ở Không có gì và không một ai, lý do cho cuộc chia ly giữa Tiềm và Thương, một tình yêu thiết tha mà không dám ngỏ, đau đớn theo một cách khác. Phong làm báo, Thương làm cô giáo vùng cao, Tiềm đi thanh niên xung phong. Phong yêu Thương, Thương lại dõi theo Tiềm, Tiềm vì không muốn Phong đau khổ mà chọn cách ra đi. Mỗi người một lý lẽ, một lựa chọn hy sinh vì hạnh phúc của bạn thân nhưng không ai nghĩ rằng cũng sẽ “không có gì và không một ai” có thể làm thay đổi khi trái tim đã chọn yêu thương một người. Hạnh phúc là một món quà, nhưng cũng là một ẩn số trong cuộc đời của mỗi người. Không có gì và không một ai là một câu chuyện đầy những ẩn số. Những câu hỏi, những con chữ bỏ lửng của nhà văn: “Nếu ngày mai ta không còn nhìn thấy nhau… Có phải cuộc đời này cuối cùng sẽ không còn lại gì? Có những sai lầm thật quá khó để lấy lại những gì đã mất”, “Hãy ngồi xuống đây, cho nhau lần này…” khiến người đọc như bị dẫn dụ, phải đi tìm câu trả lời, những lý giải trong từng trang viết của nhà văn. “Đây là cuốn tiểu thuyết mà ba nhân vật đã trôi theo dòng nhạc, từ Cho lần cuối của Lê Uyên Phương đến You’ve got a friend của Carole King. Có hay không một tình bạn giữa người nữ và người nam? Bạn đọc sẽ có câu trả lời khi cùng trôi theo dòng nhạc - dòng đời đó, để hiểu về tình bạn và tình yêu của chính mình”, nhà văn Đoàn Thạch Biền đã chia sẻ như vậy về tác phẩm. Thật vậy, cuốn sách đã đưa người đọc đi theo hành trình của 3 nhân vật chính, khóc cười cùng họ, thấu hiểu và chia sẻ, mong chờ một cái kết ít nhất là trọn vẹn cho hai con người trái tim vốn dĩ thuộc về nhau. Rồi thì có lẽ cũng được “toại nguyện” khi nhà văn đã chọn sự đoàn tụ cho kết thúc của những hành trình đi dài trong suốt mấy mươi năm. Nhưng có lẽ “không một ai” đọc tác phẩm lại nghĩ rằng các nhân vật sẽ có một kết thúc như thế, trong sum vầy nhẹ hẫng, trong nụ cười của bình yên. Dẫu rằng nếu phải quay nhìn lại thì đôi chân nào cũng đã đi qua gian nan, khắc nghiệt và đau đớn tưởng như đến tận cùng của một cuộc đời. Khép lại tác phẩm, tôi vẫn nhớ câu nói: “Không có gì và không một ai…”. Ừ, mọi thứ có thể bị bào mòn, nhưng tình thương sẽ mãi mãi ở lại. Tiểu Quyên *** Nhà văn Nguyễn Đông Thức sinh ngày 18 tháng 10 năm 1951 tại Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Hiện nay ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp đại học. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1988). Sau ngày miền Nam giải phóng, Nguyễn Đông Thức tham gia thanh niên xung phong và làm báo, viết văn. Hiện nay anh công tác tại báo Tuổi Trẻ thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm chính đã xuất bản Ngọc trong đá (tiểu thuyết, 1986) Mưa khuya (truyện ngắn, 1987) Tình yêu thường không dễ hiểu (truyện ngắn, 1987) Trăm sông về biển (tiểu thuyết, 1988) Con gái vốn phức tạp (truyện ngắn, 1988) Mối tình đầu tiên và cuối cùng (truyện ngắn, 1989) Bản án trước khi chào đời (truyện ngắn, 1989)... Vĩnh biệt mùa Hè Vĩnh biệt facebook Như Núi Như Mây ... Mời các bạn đón đọc Không Có Gì & Không Một Ai của tác giả Nguyễn Đông Thức.
Chỉ Tại Con Chim Bồ Câu - Patrick Suskind
Nhân vật chính của cuốn sách là Jonathan Noel, 53 tuổi, sống một mình trong một căn hộ nhỏ của Paris. Ông là bảo vệ của một ngân hàng, cách nơi ở khoảng 5 phút đi bộ. Ông không có bạn bè, không có bất kỳ mối liên kết nào với hàng xóm. Ông tính toán rằng cho đến lúc nghỉ hưu, ông đã dành khoảng 75 nghìn giờ để đứng trên ba bậc đá cẩm thạch ở cửa ngân hàng. Ông cũng tin chắc, ông sẽ là người duy nhất ở Paris, thậm chí ở nước Pháp, đứng lâu nhất chỉ ở một vị trí. Ông sống một cuộc sống được lập trình sẵn, và mục đích của ông chính là duy trì trạng thái trật tự ấy cho đến khi cái chết mang ông đi. Nhưng, con chim bồ câu đã đột ngột xuất hiện trong cuộc đời ông. Vào buổi sáng khi trông thấy con chim bồ câu bên ngoài cánh cửa phòng, ông dựng tóc gáy, mồ hồ vã ra đầm đìa, trái tim đập liền hồi, sợ hãi. Ông đóng sập cửa lại và ngã gục trên giường, như vừa trải qua một cơn đau tim hay đột quỵ. Nỗi sợ hãi đã khiến ông quyết định chọn những đồ vật quan trọng nhất bỏ vào vali xách đến chỗ làm. Ông tính toán số tiền mình có được để đủ thuê khách sạn trong bao lâu. Và ông lấy hết sức can đảm để ra khỏi nhà, đến cơ quan ngày hôm ấy. Câu chuyện kể tỉ mỉ những sự kiện diễn ra trong ngày con chim bồ câu xuất hiện của cuộc đời Noel. Thật tệ khi ông bắt đầu bứt rứt trong lúc đứng thực hiện nhiệm vụ, ông lơ đễnh trong sự bối rối đến mức không nhận biết chiếc xe quan trọng của ngân hàng xuất hiện đúng giờ như mọi ngày, rồi lại bần thần làm chiếc quần bị rách, phải đi khắp chốn tìm nhờ người khâu lại… Những sự kiện bất ngờ ấy từ lâu không xuất hiện trong cuộc sống của ông, khiến ông tưởng như đã chạm đáy sự tuyệt vọng. Câu chuyện Chỉ tại con chim bồ câu có thể là lời cảnh tỉnh về sự ơ hờ trần trụi ở đời sống xã hội hiện đại này, khi con người chọn cách khép chặt mọi cách cửa liên hệ với xã hội, cự tuyệt xã hội, sống qua ngày như cỗ máy, khước từ sự nghe, nhìn, đối thoại. Hay nó là một lời biện hộ cho những kẻ cô lẻ trong đời, bị đời “tra tấn” đến độ phải chạy trốn, lựa chọn bỏ rơi thay vì trở thành kẻ bị bỏ rơi, bởi đã đầy những vết thương của li tán, phản bội. Cuộc đời trầm lặng tưởng mờ nhạt của lão Noel còn khiến độc giả phải trăn trở, ngẫm nghĩ rất nhiều. Chỉ tại con chim bồ câu là cuốn tiểu thuyết ngắn của nhà văn Patrick Süskind, đã từng rất nổi tiếng với tiểu thuyết Mùi hương. Ông là một người sống khép kín. Năm 1987, ông từ chối tất cả các giải thưởng, né tránh các phương tiện truyền thông và từ từ rút khỏi công chúng. Patrick Süskind sống ở Munich và Pháp. *** Patrick Süskind (sinh năm 1949) là một nhà văn và nhà viết kịch bản người Đức. Ông học đại học về lịch sử tại München và Aix-en-Provence và hiện nay sống tại München và Paris. Cha của ông, Wilhelm Emanuel Süskind, là nhà văn, người biên dịch và cộng tác viên lâu năm của tờ báo Süddeutsche Zeitung. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Mùi hương (Das Parfum, 1985) đã được dịch ra trên 20 thứ tiếng và năm 2005 đã được đạo diễn Tom Tykwer chuyển thể phim sau khi hãng Constantin-Film đảm nhận phí tổn sản xuất và mua quyền sở hữu với tròn 10 triệu Euro. Ngoài ra Süskind còn tham gia viết các kịch bản cho bộ phim truyền hình nhiều tập Monaco Franze (1982) và Kir Royal (1986) cũng như cho các phim truyện Rossini - oder die mörderische Frage, wer mit wem schlief (1997) và Vom Suchen und Finden der Liebe (2005), được đạo diễn Helmut Dietl quay thành phim. Der Kontrabaß, vở kịch độc thoại một hồi trong năm 1981, với hơn 500 lần diễn trong mùa diễn 1984/1985 là vở kịch được diễn nhiều nhất trên sân khấu tiếng Đức. Có rất ít người khước từ cao độ các mong đợi từ đời sống văn học như Süskind. Ông gần như không tiếp nhận phỏng vấn mình, không xuất hiện trong giới công chúng và đã từ chối nhiều giải thưởng khác nhau như Giải Gutenberg, Giải Tukan và giải thưởng văn học của tờ báo Frankfurter Allgemeine Zeitung. Ông đã có một vai diễn xuất nhỏ trong bộ phim truyền hình 10 tập Monaco Franze. Tác phẩm Der Kontrabaß, 1981 Mùi hương (Nguyên tác tiếng Đức: Das Parfum, 1985, ISBN 3-8044-0392-1) Chỉ tại con chim bồ câu (Nguyên tác tiếng Đức: Die Taube, 1987) Chuyện về chú Sommer (Nguyên tác tiếng Đức: Die Geschichte von Herrn Sommer, 1991) Rossini – oder die mörderische Frage, wer mit wem schlief, 1997 Drei Geschichten, 2005, ISBN 3-257-23468-6 Mời các bạn đón đọc Chỉ Tại Con Chim Bồ Câu của tác giả Patrick Suskind.
Sức Mạnh Tiềm Thức - Joseph Murphy
Là một trong những quyển sách về nghệ thuật sống nhận được nhiều lời ngợi khen và bán chạy nhất mọi thời đại, Sức mạnh tiềm thức đã giúp hàng triệu độc giả trên thế giới đạt được những mục tiêu quan trọng trong đời chỉ bằng một cách đơn giản là thay đổi tư duy. Sức mạnh tiềm thức giới thiệu và giải thích các phương pháp tập trung tâm thức nhằm xóa bỏ những rào cản tiềm thức đã ngăn chúng ta đạt được những điều mình mong muốn. Sức mạnh tiềm thức không những có khả năng truyền cảm hứng cho người đọc, mà nó còn rất thực tế vì được minh họa bằng những ví dụ sinh động trong cuộc sống hằng ngày. Từ đó, Sức mạnh tiềm thức giúp độc giả vận dụng năng lực trí tuệ phi thường tiềm ẩn trong mỗi người để tạo dựng sự tự tin, xây dựng các mối quan hệ hòa hợp, đạt được thành công trong sự nghiệp, vượt qua những nỗi sợ hãi và ám ảnh, xua đi những thói quen tiêu cực, và thậm chí còn hướng dẫn chúng ta cách chữa lành vết thương về thể chất cũng như tâm hồn để có được sự bình an, hạnh phúc trọn vẹn trong cuộc sống. *** Tôi đã từng chứng kiến phép lạ xảy đến với rất nhiều người thuộc những tầng lớp khác nhau trên thế giới. Và tôi đoan chắc điều kỳ diệu cũng sẽ đến với bạn nếu bạn biết cách vận dụng sức mạnh thần kỳ của tiềm thức. Quyển sách này sẽ giúp bạn hiểu được rằng chính lối suy nghĩ và những hình tượng quen thuộc sẽ định hình và tạo nên số phận của bạn; vì đơn giản là suy nghĩ trong tiềm thức của một người thế nào thì họ sẽ như thế ấy. Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao người này buồn rầu còn người kia thì vui vẻ? Tại sao người này sung sướng và thành đạt còn người khác thì nghèo đói và khốn khổ? Tại sao người này sợ hãi và lo lắng còn người kia lại tràn đầy lòng tin và sự tự tin? Vì sao người này có nhà cửa khang trang, lộng lẫy trong khi người kia sống cuộc đời cùng khổ trong một khu nhà ổ chuột? Tại sao người này cực kỳ thành công còn người kia thất bại thảm hại? Tại sao người này đạt được nhiều thành tựu trong công việc trong khi người kia lao nhọc vất vả cả đời mà chẳng làm nên trò trống gì? Tại sao rất nhiều người lương thiện phải chịu những nỗi thống khổ đày đọa tinh thần và thể xác? Tại sao có nhiều kẻ đồi bại và vô đạo lại thành công, giàu sang và có sức khỏe tráng kiện? Tại sao cuộc hôn nhân của người này hạnh phúc còn của người kia thì bất hạnh? Phải chăng trong sự vận hành của ý thức và tiềm thức sẽ có câu trả lời cho những vấn đề này? Dĩ nhiên là có. Và chính niềm mong mỏi sâu xa được chia sẻ những đáp án mà tôi đã khám phá ra là động lực thôi thúc tôi viết quyển sách này. Tôi đã cố minh giải những điều căn bản và lớn lao về tâm trí bằng một ngôn ngữ giản dị, đời thường nhất có thể. Tôi tin rằng sau khi nghiền ngẫm và áp dụng những phương pháp được đề cập trong quyển sách này, bạn sẽ nắm giữ một sức mạnh thần diệu để tự vực mình dậy khỏi bối rối, khổ sở, u sầu và thất bại. Nó sẽ dẫn đưa bạn đến vị trí đích thực của bạn, giúp bạn giải quyết những khó khăn, ngăn bạn khỏi sự câu thúc về xúc cảm và thể chất, và đặt bạn trên con đường thẳng tắp dẫn đến tự do, hạnh phúc và sự thanh thản tâm hồn. Năng lực thần diệu của tiềm thức tồn tại trước khi chúng ta được sinh ra. Những chân lý và nguyên tắc vĩnh cửu vĩ đại trong cuộc sống cũng được hình thành từ lâu đời. Chính vì vậy mà tôi rất muốn bạn hãy vận dụng sức mạnh biến đổi huyền diệu, thần kỳ này để chữa lành những vết thương trong tâm hồn và thể xác, giải phóng bạn khỏi những hạn định của sự nghèo khổ, thất bại, cơ cực… Tất cả những gì bạn phải làm là hợp nhất tinh thần và cảm xúc với những điều tốt đẹp nhất mà bạn mong muốn, sức mạnh của tiềm thức sẽ đáp ứng phù hợp. Hãy bắt đầu ngay hôm nay. Để những điều kỳ diệu xảy đến trong đời bạn! *** Giáo sư Joseph Murphy (1898 - 1981), đã viết sách, giảng dạy, tư vấn và diễn thuyết cho hàng ngàn người trên thế giới. Ông từng là Phó chủ tịch của Hội nhà thờ Thánh khoa học ở Los Angeles trong 28 năm, nơi các bài diễn thuyết của ông có từ 1300 đến 1500 người đến nghe mỗi Chủ nhật. Tư tưởng của ông ảnh hưởng từ Ernest Holmes và Emmet Fox - những tác giả nổi tiếng theo nguyên tắc New Thought. Ông viết hơn 30 quyển sách, đưa ra những kĩ thuật đơn giản nhưng được chứng minh một cách khoa học, và đưa một sự thật đầy kinh ngạc là sức mạnh trong tiềm thức mỗi người có thể mang đến những điều vô cùng kì diệu, chữa lành mọi vết thương tâm lý. Một số quyển sách nổi tiếng của ông có thể kể đến như “Peace within yourself” (1956), “Your infinite power to be rich” (1966), “Within you is the power” (1977), “The power of your subconscious mind” (1963). Các tác phẩm nổi tiếng: - Khai Thác Sức Mạnh Tiềm Thức - Sức mạnh của tiềm thức - Phép màu của tâm trí - Câu trả lời hoàn hảo - Tình yêu là sự tự do - Điều kỳ diệu của niềm tin - Sức mạnh vũ trụ bên trong bạn Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Tiềm Thức của tác giả Joseph Murphy.