Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Đường Đau Khổ - Aleksey Nikolayevich Tolstoy

Con đường đau khổ là đỉnh cao chói lọi của tài năng A.Tôlxtôi, là cuốn tiểu thuyết cổ điển của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. A.Tôlxtôi đã viết bộ tiểu thuyết này trong hơn hai mươi năm (từ 1919 đến 1941) và quá trình viết cuốn tiểu thuyết ấy cũng là quá trình lớn lên trong tầm nhận thức của nhà văn đối với cách mạng. Tập đầu của bộ tiểu thuyết, cuốn Hai chị em, có thể xem là một thiên tự sự về vận mệnh cá nhân của các nhân vật trí thức đang tìm đường giữa những biến động dữ dội của cuộc sống. Mở đầu cuốn sách, A.Tôlxtôi đưa ta vào không khí của kinh thành Pêtecburg năm 1914, những ngày trước chiến tranh. Pêtecburg và cả nước Nga đang sống trong những ngày tháng hấp hối của xã hội tư sản, những ngày tháng chán chường, phờ phạc, sặc nồng mùi vốtka và ái ân không tình yêu. Xã hội tư sản đang sống những ngày tàn của nó và những nguời trí thức tiểu tư sản, như "những con bướm", "không dính dáng gì đến khía cạnh nào của nước Nga cả", đang khắc khoải, hoảng hốt đi tìm "con đường thứ ba" làm giải pháp phá vỡ bế tắc của cuộc sống. Sống trong không khí xã hội ấy, những nhân vật của A.Tôlxtôi do bản chất của mình, cũng đã dấn mình vào những cuộc tình phù du, những cuộc "dạ đàm" triết học và nghệ thuật, vào những suy tư dằn vặt vô vọng và đau đớn để tìm cách thoát ra khỏi xã hội và thoát ra khỏi chính mình. Katia, Đasa, Rốtsin... kẻ ít người nhiều, đều đã sống như những "thân phận cô đơn", những kẻ bị "lưu đày" trong xã hội ấy. Cuối cùng, họ sẽ đi tới đâu với những ưu tư ấy? Như tác giả sau này sẽ cho thấy, con đường của họ sẽ là con đường lạc lối, nếu không có một giải pháp thực sự cách mạng. Mặc dù trong tập đầu này, A.Tôlxtôi không có ý định mô tả chính quá trình lịch sử và có ý định viết một cuốn tiểu thuyết sử thi về nội chiến và cách mạng, Hai chị em vẫn không phải là một cuốn tiểu thuyết thuộc loại sinh hoạt gia đình tầm thường. "Hai chị em không phải là tiểu thuyết lịch sử. Đó là hình ảnh thời đại qua những ấn tượng riêng tư" (A.Tôlxtôi). Trong tập đầu tác phẩm này, A.Tôlxtôi đã chú ý xác định mối quan hệ giữa trí thức và cách mạng hơn là mô tả những biến cố đang diễn ra trên dòng lịch sử. Vào thời bấy giờ, đây chính là vấn đề thời sự của toàn thể giới trí thức Nga. Âm điệu của cuốn tiểu thuyết là âm điệu triết lý xã hội đi đôi với trữ tình cá nhân và điều đó được thể hiện ngay từ những trang đầu của cuốn tiểu thuyết. Sức hấp dẫn của tác phẩm trước hết là ở chỗ này, ở chỗ vận mệnh cá nhân các nhân vật đã được A.Tôlxtôi thể hiện trong sự tha thiết đối với vận mệnh của nước Nga, trong nhiệt hứng cải biến cách mạng, mặc dù chính tác giả đã không hiểu rõ thực chất của cách mạng. Nghệ thuật của tác giả trong việc tạo ra những bức tranh giàu màu sắc, trong việc sử dụng ngôn từ và chất thơ trữ tình đằm thắm, sự "miêu tả lý thú và tinh tế tâm lý của một người con gái Nga đến tuổi yêu đương" như lời nhận xét của Gorki... tất cả đã góp phần tạo nên hứng thú đặc biệt của cuốn sách. Kết thúc tập I, tác giả, qua lời nhân vật Rốtsin như muốn nói lên một tư tưởng chính của tác phẩm: "Năm tháng sẽ trôi qua, những cuộc chiến tranh sẽ im ắng dần, những cuộc cách mạng sẽ thôi gào thét và sẽ còn lại không phôi pha tấm lòng em nhẫn nại dịu dàng và chan chứa tình yêu thương..." Các nhân vật trong tập I đã tìm đến với tình yêu và nghĩ rằng tình yêu ấy sẽ là điểm chót cùng của hạnh phúc và hi vọng. Tình yêu muốn vượt lên cao hơn cuộc sống, tự biến thành vương quốc của tự do, vịnh biển bình yên cho những con tàu trong bão táp. Đối với A.Tôlxtôi, đây là một tư tưởng không mới. Đây chỉ là một tư tưởng mà A.Tôlxtôi khẳng định lại một lần nữa trong hoàn cảnh khác. Trong phần mở đầu vở kịch Ngày chiến trận viết từ năm 1914, qua lời nhân vật của mình, A.Tôlxtôi cũng đã tuyên bố sức mạnh toàn năng của tình yêu: "Những ngày của chúng ta sẽ trôi qua, những cơn bão táp sẽ lắng dần, lúc bấy giờ niềm vui sẽ trở thành sức mạnh thống trị toàn năng... Cần phải tin vào thời đại trị vì của niềm vui và biết rằng con đường của nó dẫn đến những cánh cổng vàng của tình yêu...". Nhưng chủ đề đi tìm hạnh phúc cá nhân, chủ đề chủ yếu trong phần đầu của cuốn tiểu thuyết, về sau đã bị phủ định vì chính cuộc sống đã bác bỏ quan niệm cũ kỹ này. Và nếu như tác phẩm kết thúc ở đấy, thì chính A.Tôlxtôi đã bỏ rơi các nhân vật của mình vào lúc cuộc sống của họ bước vào một giai đoạn gay go hơn bao giờ hết trước những biến chuyển đột ngột của cuộc đời. Thực ra, đây là một vấn đề dễ hiểu vì chính bản thân A.Tôlxtôi cũng đang choáng váng trước những chuyển động cách mạng, bản thân ông cũng đang ở trong tâm trạng hoài nghi, đau đớn. Với một tâm trạng như vậy làm sao có thể tìm thấy lối ra cho nhân vật? Tác giả bế tắc, thì nhân vật cũng bế tắc, đó là điều có tính quy luật trong nghệ thuật. Trong một bức thư viết sau này. A.Tôlxtôi đã giải thích sự kết thúc Hai chị em trong tâm trạng ấy: "Tôi đã viết xong Con đường đau khổ ở Campa, nơi đây tôi đã viết các chương cuối trong vòng một tháng. Đoạn cuối tôi đã thất bại, và tôi đã có lần xé nó đi, vứt qua cửa sổ. Sở dĩ tôi thất bại trong phần cuối là do một mẫn cảm sâu sắc có tính quy luật của nghệ sĩ, vì ngay từ lúc bấy giờ tôi hiểu rằng cuốn này chỉ là phần đầu của một thiên anh hùng ca và thiên anh hùng ca đó sẽ khai triển. Chính vì thế mà có sự thất bại ở phần cuối chứ không phải vì như người ta nói, hồi bấy giờ tôi chưa bước lên những đỉnh cao để nhìn lại những sự việc đã xảy ra. Người nghệ sĩ còn có thể bước lên đỉnh cao như thế nào khi mà anh ta bắt đầu hiểu rằng mình đang ở trong sương mù, đang mò mẫm trong bóng tối, rằng mọi sự đều trở thành mơ hồ, rối ren, và muốn hiểu được những điều ấy thì phải đợi đến một lúc nào đó trong tương lai. Ngay khi tôi đã chữa lại, cuốn tiểu thuyết này vẫn không thể nói là có một kết thúc. Vả chăng không thể có như thế được vì nó chỉ là phần đầu của một bộ tiểu thuyết ba tập". * K.Fêđin, một nhà văn Liên Xô nổi tiếng, đã có một nhận xét đáng chú ý về sự chuyển tiếp giữa Hai chị em và cuốn tiếp theo Năm 1918: "Trong Hai chị em ta nghe thấy bước đi của chính lịch sử, lúc đầu vang lên khe khẽ, sau đó rõ dần, kiên trì, kéo dài và cuối cùng lấn át tất cả. Trong khi xây dựng cuốn tiểu thuyết Năm 1918 tác giả đã để cơn bão táp tràn vào tất cả các cửa lớn, cuốn phăng đi tất cả những số phận cá nhân nhỏ bé, đáng yêu và tuyệt vọng của nhân vật tiểu thuyết". Hai chị em là tác phẩm về số phận của mình, của thế hệ mình. "Ấn tượng riêng tư về thời đại", tính chất "phi lịch sử" - nếu như có thể nói được như vậy - của cuốn Hai chị em lộ ra trong cách hình dung cách mạng, xem cách mạng như sự bùng nổ những sức mạnh tự phát tàn nhẫn. Các nhân vật của Hai chị em thấy cách mạng, chiến tranh, lịch sử như là một cái gì trớ trêu, thù địch, thay đổi bất thường, và họ cố đem đối lập tính chất "bấp bênh" của lịch sử với sự "vững vàng" của hạnh phúc cá nhân. Tính chất phi lịch sử đó cũng biểu lộ rõ qua việc mô tả phiến diện những người đại diện của cách mạng, những người cộng sản. Vaxilli Rubliôp trong Hai chị em, trong cách nhìn của Têlêghin, tuy là một con người tiêu biểu cho nước Nga đang thức tỉnh, cũng chỉ là một người được mô tả gọn lỏn trong mấy tiếng "rất thông minh, ác như quỉ". Viết cuốn Năm 1918, A.Tôlxtôi đã chuyển hẳn cách nhìn và cách miêu tả đời sống nhân vật. Quá khứ đang còn nóng bỏng được tái hiện và tác phẩm bản lề này chuyển hẳn tác phẩm ba tập thành tác phẩm sử thi, anh hùng ca. A.Tôlxtôi đã thể nghiệm lại cuộc sống của đất nước Xô viết trong một giai đoạn đột biến, ông phải suy nghĩ lại, cảm xúc lại tất cả dưới một cái nhìn mới và bản thân tầm rộng lớn của cuộc sống chiến đấu định tái hiện vào tác phẩm đã đòi hỏi một dung lượng tiểu thuyết rộng lớn, buộc A.Tôlxtôi phải chuyển sang sử dụng thể loại anh hùng ca. Nhưng bản thân tầm rộng lớn của dung lượng tiểu thuyết không phải bao giờ cũng dẫn đến tính chất sử thi, hoành tráng. Vấn đề là "với tư cách một sử gia" A.Tôlxtôi đã cảm thụ thời đại mình như là lịch sử. Ông đã nhìn thấy trong vô số biến cố của quá khứ những bước tiến của lịch sử, nhìn thấy ngọn nguồn của lịch sử hoành tráng trong hiện thực của đất nước Xô viết đang diễn ra sôi động từng ngày. Nếu như đi tìm hạnh phúc cá nhân là mô-típ chủ yếu của phần đầu cuốn tiểu thuyết thì trong Năm 1918 những sự kiện lịch sử dường như đối lập với số phận cá nhân các nhân vật. Trong tác phẩm này, các nhân vật của A.Tôlxtôi đã đi vào cuộc sống và sự tiếp xúc với nhân dân đã dần dần thủ tiêu những mâu thuẫn cá nhân và xã hội, cuối cùng hòa hợp lại trong tình yêu đối với Tổ quốc và nhân dân. Cùng với việc miêu tả chính quá trình lịch sử của đất nước Nga, trong Năm 1918 và sau đó trong Buổi sáng ảm đạm đã xuất hiện hàng loạt những nhân vật cộng sản đầy sức sống và có ý nghĩa lớn lao. Những con người này, những người đã cứu đất nước và nhân dân ra khỏi bàn tay của bọn phản động và bọn can thiệp nước ngoài, đã là "tinh hoa, lực lượng và tương lai của đất nước" (Lê Nin). Đấy là những người yêu nước chân chính, chiến đấu kiên định, những người thông minh mà giản dị, đôn hậu, được tôi luyện vững vàng trong chính cuộc chiến đấu sinh tử với kẻ thù. Ivan Gôra, người công nhân cộng sản có ý thức, người chính ủy đã dương cao ngọn cờ đỏ trong trận ác liệt trên bờ sông Manyts và khi hi sinh rồi, anh vẫn còn "dang rộng hai tay ra như muốn ôm lấy đất, chết rồi mà vẫn không chịu để cho quân thù chiếm mảnh đất này" Tsugai, người cán bộ tổ chức quần chúng thông minh, giàu kinh nghiệm đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Số phận của Anyxya tượng trưng khát vọng vươn tới cái đẹp và chứng tỏ cách mạng đã mở rộng, thức tỉnh những khát vọng chưa từng có đối với văn học của nhân dân lao động, Cô thanh niên cộng sản Maruxya được miêu tả chỉ trong vài trang, nhưng hình bóng của cô thấm nhuần chất thơ của sự trong trắng và niềm tin ở lý tưởng... Qua tất cả những nhân vật này, cũng như qua việc thể hiện một cách chân xác hình tượng đám đông thủy thủ, hình tượng của những người lao động, A.Tôlxtôi muốn vạch rõ ảnh hưởng và tác động của họ đối với những người trí thức, vạch rõ sự xuất hiện con người mới. Năm 1939, Tôlxtôi viết cuốn Buổi sáng ảm đạm, tập cuối của bộ ba Con đường đau khổ và đã chấm dấu hết vào đúng ngày nổ ra chiến tranh vệ quốc vĩ đại - ngày 22-6-1941. Nối tiếp nhiệm vụ mô tả những biến cố lịch sử của Năm 1918, trong phần cuối này của bộ tiểu thuyết, A.Tôlxtôi đã sáng tạo một cách thể hiện độc đáo. Trong khi thu hẹp nhiệm vụ mô tả các sự kiện lịch sử vào vùng Ukrain và vùng xung quanh Xarítxưn, A.Tôlxtôi đi vào chiều sâu nội tâm của nhân vật, chiều sâu do cuộc cách mạng và nội chiến, do cuộc sống tác động vào ý thức và tâm lý của hàng triệu người. Trong Buổi sáng ảm đạm cũng như trong Năm 1918, A.Tôlxtôi đã sử dụng rộng rãi những tài liệu lưu trữ lịch sử. Và do đó có thể gọi Buổi sáng ảm đạm và Năm 1918 là biên niên sử của cuộc nội chiến. Dễ có ấn tượng là kết cấu của cuốn tiểu thuyết bị xé lẻ do sự mô tả luân phiên, chồng chéo nhau giữa hai tuyến sự kiện và con người, nhưng dụng ý của A.Tôlxtôi là muốn làm nổi bật tính chất bão táp của thời đại. Một bên là số phận cá nhân của các nhân vật, tình yêu, cuộc sống, những ưu tư dằn vặt, những tìm tòi đau đớn... và một bên là chính lịch sử đang chuyển động và soi bóng mình vào vận mệnh của mỗi cá nhân. Lịch sử không chỉ chuyển động trong các lớp tầng riêng tư của tiểu thuyết, chính lịch sử là một nhân vật lớn. Đã có nhiều nhà văn viết về nội chiến cách mạng của nước Nga. Nhưng sức mạnh của tài năng A.Tôlxtôi là ở chỗ ông đã miêu tả thành công những bức tranh sử thi rộng lớn, đồng thời đã mô tả một cách tinh tế, đầy cảm hứng thơ ca những tình cảm sâu kín nhất của con người. *** Nếu ví văn học Nga thế kỷ 19 như một cánh rừng đại ngàn thì Puskin, Lermantov, Gôgôl, Turghênhiev, Lev Tôlxtôi, Đôxtôiépxki, Tsêkhốv... là những đại thụ của rừng Nga mênh mông ấy. Các nhà văn Xô viết trong thế kỷ này cũng đã tạo ra một rừng Nga mới, trong đó cũng có những cây lớn mà bóng mát hẳn sẽ che rợp cho cả thế hệ mai sau. Lần lượt ta có thể điểm qua: Corki, con người khổng lồ của nền văn học Xô viết, cái gạch nối vĩ đại giữa văn học cổ điển Nga với nền văn học mới, người mở ra kỷ nguyên của nền văn học vô sản toàn thế giới. Maiacôvxki, nhà thơ Xô viết vĩ đại, Đăng tơ của thời đại mới, người bằng trái tim lớn đập mãnh liệt trong lòng ngực khỏe của mình, lần đầu tiên kết hợp thành công thơ ca và chủ nghĩa cộng sản. Sôlôkhôv, cánh chim đại bàng đã bất thần vẫy lên đôi cánh mênh mông trong văn học, người đã khắc họa vận mệnh của nhân dân Nga trong tiểu thuyết bằng những nét dao trổ tàn nhẫn, với một vẻ đẹp chói gắt, xốn xang... Và Phađêev, và Phuốcmanôv, và Axtơrốvxki... những nhà văn bước thẳng từ chiến trường nội chiến vào văn học, đã để lại những tiểu thuyết Chiến bại, Tsapaev, Thép đã tôi thế đấy như là những tượng đồng đen vững chắc trong văn học. Giữa những nhà văn ấy, con người có khuôn mặt hiền lành phúc hậu không lẫn với ai - A.Tôlxtôi - đã bước vào văn học Xô viết bằng con đường riêng của mình. Sinh năm 1889, A.Tôlxtôi đã qua thời thơ ấu tại một châu thành nhỏ trên bờ sông Vôlga nước Nga, con sông mà những người nông nô đã còng lưng kéo thuyền trong bức họa nổi tiếng của Rêpin   Ngoài tiểu thuyết Con đường đau khổ, trong thời gian từ 1923 đến khi mất (1945) A.Tôlxtôi đã lao động sáng tạo không ngừng, đạt đến những đỉnh cao của tài năng nghệ thuật với những cuốn "Piốt đệ nhất" (1925-1945), "Truyện của Ivan Xuđarep" (1942-1944), "Ivan Lôi đế" (kịch- 1943), "Bánh mì" (1937)... Là một người yêu mến nồng nhiệt Tổ quốc của mình không phải chỉ với tư cách là một công dân, một nghệ sĩ mà còn với tư cách một sử gia, A.Tôlxtôi đã viết về những bước ngoặt quan trọng nhất của lịch sử Nga: thời đại Ivan Lôi đế; thời đại Piốt đệ nhất; thời đại cách mạng Tháng Mười và nội chiến cách mạng, thời kỳ chiến tranh chống phát-xít xâm lược. Năm 1937, A.Tôlxtôi được bầu vào Xô viết tối cao của Liên Xô; năm 1938 ông được thưởng huân chương Lê Nin và được bầu vào Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, năm 1942 ông được trao giải thưởng Xtalin (sau này đổi thành giải thưởng Lê Nin, giải thưởng cao nhất về văn học của Liên Xô). Tổ quốc và nhân dân đánh giá rất cao những công trình sáng tạo nghệ thuật của A.Tôlxtôi. Tiếc thay cái chết quá sớm của ông đã làm nền văn học Xô viết mất đi những tác phẩm hùng vĩ mà ông chưa kịp viết hoặc còn đang viết dở dang. Mời các bạn đón đọc Con Đường Đau Khổ của tác giả Aleksey Nikolayevich Tolstoy.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mười Hai Chiếc Ghế - Ilya Ilf & E. Petrov
Mười hai chiếc ghế" của hai nhà văn Liên Xô I.Ilf và E.Petrov là một kiệt tác của nền văn học Liên Xô thuộc thể loại tiểu thuyết trào phúng, được xếp vào hàng các tác phẩm kinh điển khi các tác giả còn sống. Lấy bối cảnh năm 1927, bộ truyện kể lại một phi vụ làm ăn đầy kịch tính giữa I. Vorobyaninov , một cựu quí tộc của chế độ Sa hoàng và O.Bender, một tay lừa đảo có hạng.  Tác phẩm được viết bởi ILF, Ilia Arnoldovich (1897 – 1937) cùng với PETROV, Evgeny Petrovich (1903 – 1942) là hai nhà văn trào phúng người Odessa. Valentin Petrovich Kataev ( tiểu thuyết gia và nhà soạn kịch Nga và Liên Xô) được biết tới là người đã đề xuất ý tưởng tiểu thuyết "Mười hai chiếc ghế" cho em trai Yevgeni Petrov và Ilya Ilf. Đổi lại, Kataev yêu cầu tất cả các ấn bản và bản dịch tiểu thuyết này đều cần phải đề là tặng ông. Sức tưởng tượng, sự rung cảm và sức sáng tạo không ngừng của Kataev đã khiến ông trở thành một trong những nhà văn Xô Viết xuất sắc nhất. Sau "12 chiếc ghế" Ilf và Petrov còn viết tiểu thuyết "Con bê vàng" (Золотой телёнок). "Con bê vàng" là phần II (tiếp theo) của "12 chiếc ghế". Ostap Bender không chết sau khi bị cắt cổ trong "12 chiếc ghế" và lại bắt đầu cuộc phiêu lưu mới của một kẻ du thủ du thực. Vẫn những mánh lừa đảo, cách kiếm tiền rất thông minh như trong phần I, Ostap Bender làm phần II cũng không kém phần thú vị và hấp dẫn. Nhận định: “Toàn bộ cuốn truyện toát ra sự phê phán rất thâm thúy, sắc bén, nhưng rất nhẹ nhàng, thú vị, đối với các thói hư tật xấu của con người.” -Dịch giả Lê Khánh Trường *** Ilya Ilf (Ilya Arnoldovich Feinsilberg, tiếng Nga: Илья Арнольдович Файнзильберг, 1987-1937) và Yevgeny Petrov (Yevgeniy Petrovich Kataev/Katayev, tiếng Nga: Евгений Петрович Катаев, 1903-1942) Là hai nhà văn và nhà báo Nga, được biết đến qua cuốn tiểu thuyết trào phúng, “Mười Hai Chiếc Ghế" (1928). Ilya Ilf và Petrov cũng xuất bản một số lượng lớn các câu chuyện và phác thảo dưới bút danh "Tolstoyevsky" trong Xô viết tạp chí và báo chí. Nền văn học danh tiếng của hai nhà văn phụ thuộc chủ yếu vào tác phẩm hợp tác của họ - những cuốn sách khác đã không đứng trước sự thử thách của thời gian. Ilya Ilf (bút danh của Ilya Arnoldovich Fainzilberg), sinh tại Odessa, con trai của một nhân viên ngân hàng. Sau khi tốt nghiệp từ một trường học kỹ thuật vào năm 1913, sau đó ông làm việc trong văn phòng một kiến trúc sư, một nhà máy hàng không và một nhà máy lựu đạn tay. Ông cũng góp phần đóng góp cho một tạp chí hài, tên là Sindektikon. Năm 1923, ông chuyển đến Moskva, nơi ông được nhận là một thủ thư và ông đã viết bài cho các tờ báo và tạp chí hài hước khác. Hai năm sau đó ông trở thành một nhà báo cho các tạp chí Gudok và Moriak. Trong chuyến thăm của ông ở Trung Á, ông đã chứng kiến cuộc đụng độ giữa hải quan cũ và hệ thống mới, mà đã trở thành một trong những chủ đề Trung tâm của “Mười Hai Chiếc Ghế". Sau khi họp bàn với Petrov, ông bắt đầu viết với những mảng hài hước cho tờ Pravda và các ấn phẩm khác. Nghiên cứu khoa học kéo dài gần chục năm. Ilya Ilf qua đời ngày 13 tháng 4 năm 1937 do bị bệnh lao, nơi ông đã ký hợp đồng trên hành trình của mình ở Hoa Kỳ. Yevgeny Petrov (bút danh của Yevgeny Petrovich Kataev) sinh tại Odessa, con trai của một giáo viên lịch sử. Ông tốt nghiệp năm 1920 từ một phòng tập thể dục cổ điển và bắt đầu sự nghiệp của mình như một nhà báo. Năm 1921 ông trở thành phóng viên báo tiếng Ukraina. Trước khi chuyển tới Moscow vào năm 1923, ông làm việc tại Cục điều tra hình sự Odessa. Petrov được bổ nhiệm làm phó tổng biên tập của tạp chí châm biếm Krasnyi perets và vào năm 1923, ông gia nhập đội ngũ nhân viên của tờ báo Gudok, một ấn phẩm cho các nhân viên đường sắt. Petrov đã không có tham vọng trở thành một nhà văn. Tuy nhiên, anh trai ông, nhà văn Valentin Kataev (1897-1986), khuyến khích ông soạn truyện ngắn, và một bộ sưu tập nhỏ đã được xuất bản vào năm 1924. Petrov kết hôn vào năm 1929. Từ năm 1932 ông đã góp phần vào tờ Pravda Krokodil. Năm 1925 Petrov đã trở nên quen với Ilya Ilf, người cũng làm việc cho Gudok. Cuốn sách đầu tiên của họ, “Mười Hai Chiếc Ghế" đã đạt được một thành công lớn. “Mười Hai Chiếc Ghế" xuất hiện trong thời gian tương đối tự do, khi kinh tế chính sách mới (NEPNEP) cho phép giới hạn doanh nghiệp tư nhân. Ý tưởng về những câu chuyện đã được đề xuất bởi Valentin Kataev. Ostap Bender - nhân vật chính đáp ứng trong cuộc phiêu lưu của mình là một kẻ cơ hội, quan chức, và kẻ lừa đảo và Sinbad thời kỳ NEP. Câu chuyện “Mười Hai Chiếc Ghế" đã lấy cảm hứng chuyển thể từ sân khấu và điện ảnh, không chỉ ở Liên Xô, nhưng cũng có ở Hoa Kỳ. Phiên bản phim của Mel Brooks từ năm 1970 đã nhận được nhiều sự đánh giá lẫn lộn của các nhà phê bình. Brooks là đạo diễn, viết kịch bản, tác giả của bài hát và tham gia trong một vai nhỏ. Mặc dù với tất cả các nỗ lực, sự hài hước của ông đã không mạnh như các nhà sản xuất (1968). 1933-1934 Ilf và Petrov viếng thăm Tây Âu. Họ đã gặp các nhà báo Nga nổi tiếng Ilya Ehrenburg ở Paris, và đã viết với ông một bộ phim hài, không tạo thành. Theo Ehrenburg, hài hước của Ilf là cay đắng; Petrov đã lạc quan, hài hước của mình là nhân đạo hơn và ông muốn tốt cho tất cả mọi người. Cái chết của Ilya Ilf là một sự khó khăn với Petrov, ông sau đó chỉ viết viễn tưởng. Tác phẩm của ông chủ yếu giới hạn là kịch bản phim và chỉnh sửa một bộ sưu tập của Ilf trong máy tính xách tay riêng (1937-1938). Năm 1940, ông gia nhập Đảng Cộng sản và trở thành biên tập viên của tạp chí Ogonyok. Vào năm 1941 Petrov viếng thăm Đức, nửa năm trước khi Đức Quốc xã tấn công Liên Xô, và nói: "Người Đức đang mệt mỏi của chiến tranh...". Trong thế chiến II Petrov đã phục vụ như là một phóng viên chiến tranh. Ông qua đời trong một máy bay rơi ở Sevastopol vào ngày 2 tháng 7 năm 1942. Báo cáo của Petrov từ trước đã được xuất bản dưới tiêu đề Frontovoi dnevnik (1942). ”Mười Hai Chiếc Ghế" được coi là một tôn giáo cổ điển và đã được tái bản nhiều lần.   Mời các bạn đón đọc Mười Hai Chiếc Ghế của tác giả Ilya Ilf & E. Petrov.
Anthem Bài Ca Cho Tôi (Bài Ca Tư Tưởng) - Ayn Rand
Câu chuyện này được viết năm 1937. Tôi đã biên tập lại nó cho lần xuất bản này (năm 1946-LND), nhưng đã chỉ sửa về văn phong; tôi sửa lại từ ngữ trong một số đoạn và cắt bỏ một vài chỗ dư thừa ngôn từ. Không hề có một ý tưởng hay một sự biến nào được thêm vào hay bỏ đi; chủ đề, nội dung, và cấu trúc được giữ nguyên. Câu chuyện vẫn được duy trì như lúc đầu. Tôi đã chỉ gọt dũa bề mặt chứ không động gì tới cốt lõi hay tinh thần của quyển sách; vì không cần phải sửa sang gì đối với những điều này. Một số người đọc câu chuyện ngay lần xuất bản đầu tiên đã có ý cho rằng tôi bất công đối với những lý tưởng của chủ nghĩa tập thể; họ nói, chủ đích hay giáo điều của chủ nghĩa tập thể không phải như trong sách đã nêu; những người theo chủ nghĩa tập thể không hề có ý cổ xúy hay chủ trương như thế; không ai biện hộ cho họ cả. Tôi sẽ đơn giản chỉ ra rằng cái câu khẩu hiệu "Sản xuất để sử dụng chứ không vì lợi nhuận" giờ đây (tác giả viết lời bạt này năm 1946 -LND) đang được nhiều người chấp nhận như một điều hiển nhiên, và đây là điều hiển nhiên khẳng định một mục tiêu cụ thể đáng khao khát. Nếu có thể tồn tại một ý nghĩa thông thái nào đó trong khẩu hiệu này thì nó là cái gì nếu không phải là cái ý cho rằng động cơ làm việc của con người phải là vì nhu cầu của người khác, chứ không phải nhu cầu, hay mong muốn, hay quyền lợi của chính anh ta? Lời hiệu triệu lao động cưỡng bức giờ đây đang được thực hiện hay cổ xúy ở nhiều quốc gia trên trái đất này. Nó dựa trên cái gì nếu không phải là trên ý tưởng cho rằng nhà nước là người xứng đáng nhất trong việc định đoạt xem một người có thể hữu ích cho người khác hay không, cái điều hữu ích ấy là điều đáng quan tâm duy nhất, và những mục tiêu, khao khát, hạnh phúc của chính anh ta nên bị gạt sang bên vì chẳng có chút quan trọng nào? Chúng ta có Hội đồng Nghề nghiệp, Hội đồng Ưu sinh, đủ thứ hình thức Hội đồng, bao gồm cả một Hội đồng Thế giới và nếu những thứ này chưa nắm giữ toàn bộ quyền lực trùm phủ chúng ta thì phải chăng đó là do chưa có dụng ý? "Những thành quả xã hội", "mục tiêu xã hội"… đang trở thành thuốc an thần trong ngôn ngữ hàng ngày của chúng ta. Sự cần thiết của tính hợp lý xã hội đối với mọi hoạt động và mọi dạng thức tồn tại giờ đây đang được tin là hiển nhiên. Một người vẫn có thể được lắng nghe đầy thán phục và được tán đồng nếu như anh ta tuyên bố theo một kiểu mơ hồ rằng đó là vì "điều tốt đẹp cho mọi người" dù thực ra anh ta chẳng nêu được đề xuất nào đáng chú ý. Một số người có thể nghĩ (còn tôi thì không) là chín năm trước đã có một vài biện hộ cho những người không muốn nhìn thấy con đường mà thế giới đang theo đuổi. Ngày nay có những chứng cớ hiển nhiên cho thấy không ai có thể biện hộ gì được nữa. Những người từ chối không chịu nhìn thấy giờ đây đã rõ là không phải mù, cũng chẳng phải ngây thơ. Tội lỗi lớn nhất ngày nay là do ở những người chấp nhận chủ nghĩa tập thể theo kiểu mặc nhiên giáo điều; những người tìm kiếm sự bảo vệ từ tính cần thiết của việc có một chỗ đứng, bằng cách phủ nhận với chính họ cái bản chất của những gì họ đang chấp nhận; những người ủng hộ mấy kế hoạch được thiết kế đặc biệt để đạt tới chế độ nông nô, nhưng điều này được che giấu bên dưới vỏ ngoài mỹ miều rằng họ là những người yêu chuộng Tự do, một từ ngữ được dùng mà chẳng có chút ý nghĩa cụ thể nào; những người tin rằng nội dung của lý tưởng ”của chủ nghĩa tập thể" là không cần khảo sát, rằng các nguyên tắc không cần phải định nghĩa, và rằng có thể lược giản sự kiện thực tế bằng cách nhắm một bên mắt lại. Họ kỳ vọng rằng, khi họ tìm thấy mình trong một thế giới của những tàn phá đẫm máu và của trại tập trung, họ có thể thoát khỏi trách nhiệm đạo đức bằng cách gào lên: "Tôi có định làm thế này đâu!" Những ai muốn chế độ nô lệ chắc hẳn đã có đủ lịch lãm để gọi nó bằng cái tên chính xác của nó. Họ phải đối diện với ý nghĩa đầy đủ của những gì họ đang cổ xúy hay dung thứ; cái ý nghĩa chính xác, đầy đủ, cụ thể của chủ nghĩa tập thể, của những ẩn ý luận lý của nó, của những nguyên lý hình thành nó, và của những mắt xích cuối cùng mà những nguyên lý này nhắm tới. Họ phải đối diện với nó, rồi quyết định xem đó có phải là những gì họ muốn hay không. Tháng tư, 1946 Ayn Rand *** Ayn Rand là một nhà tiểu thuyết và triết gia quốc tịch Mỹ sinh tại Nga. Bà nổi tiếng vì đã phát triển học thuyết Chủ nghĩa khách quan và vì đã viết một số tác phẩm như We the Living (Chúng ta những kẻ sống), The Fountainhead (Suối nguồn), Atlas Shrugged (Người khổng lồ nghiêng vai), For the new Intellectual (Vì giới tri thức mới) và tiểu thuyết ngắn Anthem. Là người gây ảnh hưởng rộng lớn tới nước Mỹ hậu chiến tranh thế giới thứ 2, các tác phẩm của Rand đã tạo nên sự mến mộ nhiệt thành cũng như phê phán nghiêm khắc. Tác phẩm của Rand nhấn mạnh các quan niệm tư tưởng về hiện thực khách quan, lý trí, chủ nghĩa vị kỷ, và chủ nghĩa tư bản tự do, trong khi tấn công những gì mà bà coi là không hợp lý và phi đạo đức của lòng vị tha, chủ nghĩa tập thể (collectivism) và chủ nghĩa cộng sản (communism). Bà tin rằng con người phải chọn cho mình các giá trị và hành động theo lý trí; và rằng cá nhân có quyền để tồn tại vì lợi ích của chính bản thân mình, không hy sinh bản thân cho người khác hoặc người khác vì mình; và rằng không ai có quyền chiếm đoạt những gì thuộc về người khác bằng bạo lực hay lừa dối, hoặc áp đặt tiêu chuẩn đạo đức của mình lên người khác bằng bạo lực. Tính chất lý luận của Rand được mô tả là chủ nghĩa tiểu chính phủ (minarchism) và theo chủ nghĩa tự do (liberalism), mặc dù bà không bao giờ sử dụng thuật ngữ minarchism và ghê tởm chủ nghĩa tự do. Mục tiêu rõ rệt của tiểu thuyết của Rand là miêu tả anh hùng của mình được lý tưởng hoá, một người có những khả năng và sự độc lập mâu thuân với xã hội, nhưng luôn bền gan quyết chí đạt được mục đích của mình. *** Ngay khi được đọc quyển sách đầu tiên tìm thấy trong ngôi nhà, tôi thấy từ "tôi." Và đến khi hiểu được cái từ ấy, quyển sách rơi khỏi tay, và tôi khóc. Tôi, kẻ chưa từng bao giờ biết đến nước mắt. Tôi đã khóc trong sự giải thoát và trong niềm thương xót đối với con người. Tôi hiểu được cái điều phúc mà tôi đã gọi là lời nguyền của tôi. Tôi đã hiểu được tại sao những gì tốt nhất của tôi lại trở thành tội lỗi và phạm giới; và tại sao tôi không bao giờ có cảm giác tội lỗi đối với lỗi lầm của mình. Tôi đã hiểu được rằng nhiều thế kỷ của xiềng xích và roi vọt không hề hủy diệt được tinh thần của con người cũng như cảm nhận về sự thật trong anh ta. Tôi đọc rất nhiều sách trong nhiều ngày. Rồi tôi gọi Kim Nhân, và tôi nói với cô ấy rằng tôi đã đọc và tôi đã hiểu. Cô ấy ngước nhìn tôi và từ đầu tiên mà cô ấy thốt ra là: "Em yêu người." Rồi tôi nói: "Người thương quý nhất của ta, thật không phải lối chút nào khi con người ta không có tên. Đã từng có một thời trong đó mỗi người có một cái tên để phân biệt anh ta với những người khác. Vậy thì hãy chọn tên cho chúng ta. Ta có đọc về một người đã sống cách đây nhiều ngàn năm, và trong số rất nhiều tên trong mấy quyển sách này thì tên của người đó là cái tên mà ta thích nhất. Anh ta đã lấy ánh sáng của các vị thần để trao cho loài người, và anh ta chỉ cho loài người cách để trở thành thần thánh. Và anh ta đã phải chịu hình phạt nặng nề. Tên anh ta là Prometheus." ... Mời các bạn đón đọc Anthem Bài Ca Cho Tôi (Bài Ca Tư Tưởng) của tác giả Ayn Rand.
Chân Trời Đảo Ngược
Ý thức của chúng ta nằm ở đâu? Liệu chúng ta có thể sao chép và lưu giữ ký ức bên ngoài thân xác con người không? Liệu tình yêu có thể đảo ngược quy luật khắc nghiệt về sự hữu hạn của cuộc sống trong thời gian và không gian? Xúc động, ly kỳ nhưng cũng đầy hài hước và lạc quan, Marc Levy đưa chúng ta đến với câu chuyện tình thách thức thời gian, không gian và bệnh tật, khiến ta trân trọng hơn những điều tưởng chừng nhỏ bé trong cuộc sống. "Một trong những tiểu thuyết xúc động nhất của Marc Levy. Người đẹp ngủ trong rừng phiên bản 2.0, với một trong những nhân vật nữ thành công nhất." - RTL *** Tình yêu và cái chết, điều nào sẽ lớn hơn? Trong những quyển sách tình cảm lãng mạn, kẻ ngạo nghễ chiến thắng luôn là tình yêu – dù là cái chết, là không gian hay thời gian cũng không thể chia lìa đôi lứa. Nhưng có một câu chuyện khác, các nhân vật dám thách thức cả tử thần, thách thức cả không gian và thời gian. Đó là ba sinh viên khoa thần kinh học Luke, Josh và Hope. Họ gặp nhau tại khuôn viên trường Đại học, cùng học tập, vui đùa, nghiên cứu. Như một lẽ tự nhiên, Josh và Hope phải lòng nhau. Bộ ba theo đuổi một dự án khoa học: sao chép ý thức của con người vào máy tính, vượt qua mọi sự điên rồ không tưởng và những chuẩn mực đạo đức. Nhưng cho đến một ngày, chính Hope lâm nguy, họ không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc sao chép lại ý thức cho cô, để bốn mươi năm sau, Josh và Hope tuy trong hình hài khác nhưng đã được gặp lại một lần nữa, yêu nhau một lần nữa. Josh và Hope yêu nhau bằng tất cả những cuồng nhiệt của tuổi trẻ, gắn bó sâu đậm, là người duy nhất và không thể thay thế, đồng hành qua mọi khó khăn và bệnh tật, quan tâm nhau chân thành và sẵn sàng dâng tặng những điều mà mình thiếu. Trong suốt quá trình Hope chống chọi với căn bệnh và thời gian sống chỉ tính bằng tháng, Josh vẫn luôn tận tình ở bên cô bằng sự mạnh mẽ và lạc quan, bởi họ biết vẫn luôn có một hy vọng. Với tình yêu, không có gì là có giới hạn. Và vì người mình yêu, có gì mà con người ta không dám làm không? “Hãy nói với cái chết rằng tình yêu của chúng ta mạnh hơn nó bởi vì tình yêu của chúng ta vẫn sống ngay cả khi chúng ta đã lìa đời.” Khi thề nguyền trong lúc kết hôn, họ đã không nói “cho đến khi cái chết chia lìa” bởi vốn dĩ chẳng có gì chia lìa được họ. Chẳng có gì mau chóng xảy ra bằng điều bất khả, và chẳng có gì là bất khả trong tình yêu. Truyện diễn biến nhanh nên đôi khi không đọng lại nhiều cảm xúc ở nửa đầu quyển sách. Lời thoại nhiều và liên tiếp khiến truyện đôi khi bị loãng hẳn. Các kiến thức khoa học đáng ngạc nhiên thay lại khá dễ hiểu trong khi chủ đề thần kinh học luôn đòi hỏi sự nghiên cứu chuyên sâu rất khó để phân tích cho đại chúng. Bìa Việt Nam đẹp và rất ý nghĩa. Với mình, Marc Levy được xếp ở mức “nhà văn đại chúng” và quyển sách cũng chỉ dừng lại ở mức “khá thú vị”. Đánh giá: 3.5/5. Yêu thích: 4/5. Winny *** Marc Levy (sinh ngày 16 tháng 10 năm 1961, tại Boulogne-Billancourt, nước Pháp) là nhà văn người Pháp gốc Do Thái. Ở tuổi 18, ông gia nhập Hội Chữ Thập Đỏ ở Pháp, nơi ông đã dành 6 năm hoạt động. Trong cùng thời gian, Ông học ngành quản lý máy tính ở trường Đại học Paris-Dauphine và sau đó sinh sống tại Hoa Kỳ từ năm 1984 đến năm 1991. Tại đây, ông đã đặt nền tảng cho hai công ty - một đặt cơ sở tại California và một ở Colorado - chuyên về đồ họa tin học. Vào năm 1991, ông hợp tác lập ra một công ty thiết kế và xây dựng ở trong nước mà sau này đã trở thành một trong những hãng kiến trúc dẫn đầu ở Pháp. Marc Levy viết quyển tiểu thuyết đầu tiên của mình với tên Và nếu như chuyện này là có thật... vào năm 1998. Ông viết cuốn sách này cho con trai mình, khi đã là một thương gia thành công. Năm 1999, sau khi bán bản quyền phim Et si c'était vrai... cho hãng Dreamworks, ông kết thúc công việc ở hãng kiến trúc để theo đuổi sự nghiệp viết văn của mình. Năm 2001, ông cho xuất bản quyển sách thứ hai, Em ở đâu?, tiếp theo là quyển Bảy ngày cho mãi mãi... vào năm 2003, Kiếp sau vào năm 2004 và quyển Gặp lại vào năm 2005. Năm 2005 cũng là năm trình chiếu bộ phim Just like Heaven của hãng Dreamworks - phỏng theo tiểu thuyết Et si c'était vrai... bởi các diễn viên chính: Reese Witherspoon và Mark Ruffalo. Xuyên suốt sự nghiệp viết văn kéo dài gần 20 năm của mình, nhà văn người Pháp Marc Levy sáng tác được tổng cộng 14 quyển tiểu thuyết. Trong số đó có 13 tác phẩm đã được dịch ở Việt Nam. Điểm thu hút trong văn chương của Marc Levy nằm ở chỗ lãng mạn, ngọt ngào. Ông bao giờ cũng khai thác những câu chuyện tình yêu ở khía cạnh tròn trịa và hấp dẫn nhất. Bên cạnh đó, vì tiểu thuyết của Marc Levy bao giờ cũng kết thúc bằng "happy ending" nên nó được xem là "kinh thánh" của những tâm hồn đang yêu. Và ngay cả những người đã mất lòng tin ở tình yêu cũng sẽ dễ dàng có lại được niềm tin đó ở sách của Marc Levy. Một số tác phẩm đáng chú ý: Nếu em không phải một giấc mơ, Gặp lại, Em ở đâu, Mọi điều ta chưa nói…   Các tác phẩm của Marc Levy đã được xuất bản tại Việt Nam: Nếu Như Được Làm Lại - Marc Levy Chuyện Chàng Nàng - Marc Levy Mạnh Hơn Sợ Hãi - Marc Levy Nếu Em Không Phải Một Giấc Mơ - Marc Levy Mọi Điều Ta Chưa Nói - Marc Levy Bảy Ngày Cho Mãi Mãi - Marc Levy Em Ở Đâu - Marc Levy Gặp Lại - Marc Levy Kiếp Sau - Marc Levy Đêm Đầu Tiên - Marc Levy Ngày đầu tiên - Marc Levy Những Đứa Con Của Tự Do - Marc Levy Bạn Tôi Tình Tôi - Marc Levy Chuyến Du Hành Kỳ Lạ của Ngài Daldry - Marc Levy Người Trộm Bóng - Marc Levy Một Ý Niệm Khác Về Hạnh Phúc Cô Gái Cuối Cùng Của Dòng Họ Stanfield Chân Trời Đảo Ngược Cô Gái Như Em .... Mời các bạn đón đọc Chân Trời Đảo Ngược của tác giả Marc Levy.
Vịt Nhỏ Xấu Xí, Em Là Của Tôi! - Lê My
-Phạm Ngọc Trân (cô) – 20 tuổi, nhà nghèo, khuôn mặt không được xinh lắm nhưng dễ nhìn, dễ thương, tốt bụng. -Trịnh Bảo My – 20 tuổi, là tiểu thư của tập đoàn Trịnh Gia lớn thứ 3 thế giới, xinh đẹp, dễ thương, tốt bụng, tuy là tiểu thư nhưng không hề kênh kiệu hay chảnh chọe, là bạn thân từ nhỏ của nó, luôn bên cạnh nó -Trần Minh Phong (anh) – 25 tuổi, là tổng giám đốc của công ty Trần Gia đứng đầu thế giới về mọi mặt, rất đẹp trai, lạnh lùng, kiêu ngạo, tài giỏi -Nguyễn Minh Kiệt – 25 tuổi, là thiếu gia của tập đoàn Nguyễn Gia đứng thứ 2 thế giới, là bạn thân chí cốt của hắn, đẹp trai, sát gái, tài giỏi, phong lưu -Đặng Duy Khang – là mối tình đầu của nó. -Còn một số nhân vật sẽ giới thiệu sau ^^ ********************************************************************************************* Truyện mình còn tệ lắm, mong các bạn đọc rồi góp ý dùm mình ^^ Sự góp ý của các bạn là động lực để mình viết truyện….. Yêu các bạn nhiều!!!! *** Em đó, sao không gọi cho anh, nếu lúc đó anh không đi theo thì mọi chuyện sẽ ra sao – anh mắng yêu, tay nhẹ nhàng sát trùng băng bó cho cô -Em xin lỗi, tại lo cho con quá – cô cúi đầu -Ngốc, mai mốt đừng như vậy nữa, anh sẽ lo đó – anh ôm cô, phải anh rất sợ, rất sợ mất cô -Em biết rồi – cô cười tươi -Anh yêu em – anh -Em cũng vậy, rất yêu anh – cô cười, rồi chủ động hôn anh, anh trố mắt ngạc nhiên, rồi cũng đáp trả, cô ngốc này, bây giờ còn biết chủ động… ******************************************************** -Thông tin được cánh nhà báo đưa rất nhanh, đúng như anh nói, tập đoàn phá sản, ba trúc đi tù, trúc làm gái, còn kèm theo hình ảnh, mẹ trúc đau lòng nhìn nhà tan cửa nát sinh bệnh mà qua đời. Anh thở dài, họ thật bất hạnh, nếu họ không có đứa con hiếu thắng như trúc, thì giờ đây kết cục không đau lòng như vậy…. -Anh, tội họ quá, anh nặng tay đấy – cô thương cảm -Tại cô ta, họ có trách thì trách đứa con hiếu thắng, độc ác của mình – anh cười ... Mời các bạn đón đọc Vịt Nhỏ Xấu Xí, Em Là Của Tôi! của tác giả Lê My.