Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tây Xuất Ngọc Môn

"Phàm là người từng trải, nào có ai tránh được đôi chút nuối tiếc, có ai không ôm nuối tiếc mà tiếp tục sống (...) Những điều nuối tiếc này, giống như từng bậc thang, người sáng suốt sẽ giẫm lên đó, tìm con đường tốt đẹp hơn phía trước. Còn như đôi mắt thiển cận, chỉ chăm chăm phóng đại nuối tiếc cỏn con này, thì đừng mong có thể nhấc chân bước qua được nó." Đây là câu chuyện về một cô gái sau khi gặp ác mộng tỉnh dậy thấy mình bị treo cổ ở nơi hoang vu, cùng một chàng trai gánh trên lưng 18 sinh mạng, về hai kẻ vốn phải là hai đường thẳng song song, lại vì cõi u minh an bài mà gặp gỡ. Đây cũng là câu chuyện xoay quanh sa mạc mênh mông cát vàng, quanh Ngọc Môn quan cô quạnh trong truyền thuyết, là câu chuyện nồng ấm tiếng cười, cũng thấm đẫm nước mắt, mỗi sinh vật ở đó đều phải vật lộn với số mệnh của riêng mình. Một nam, một nữ, cùng một tòa thành, tưởng chừng hoàn toàn xa lạ, lại tựa như có ngàn vạn ràng buộc vào nhau. *** Lần này A Tử quay về với các với một bộ truyện vô cùng đặc sắc mang màu sắc huyền bí. Nếu như bạn là một mọt truyện, đặc biệt là một fan của thể loại huyền bí linh dị thì chắc chắn bạn không thể bỏ qua Vĩ Ngư và các tác phẩm của cô. Và đặc biệt là Tây Xuất Ngọc Môn này đây. Câu chuyện lần này Vĩ Ngư mang đến cho chúng là một câu chuyện về một chàng trai gánh trên vai 18 mạng người và một cô gái bị mất đi kí ức và tỉnh dậy lúc đang bị treo cổ trên một thân cây. Câu chuyện bắt đầu từ một rạp hát múa rối bóng trong một con hẻm nhỏ ở Tây An tấp nập khách tứ phương. Đó là một chàng trai trẻ trung phải ẩn mình sau lốt già nua yếu ớt của ông cậu mình, tiếp nối nghề múa rối bóng truyền thống của gia đình và tiếp tục chuỗi ngày sống chán ngán buồn thương và cô độc. Có lẽ mọi người đều thắc mắc, tại sao một người con trai đang ở độ tuổi nhiệt huyết nhất của trẻ, đáng lẽ phải sống rực rỡ chói chong đầy năng lượng như ánh mặt trời lại giả trang thành ông cậu gần đất xa trời của mình rồi chui vào góc tối tăm sau sân khấu để làm người điều khiển rối bóng. Đã từng, Xương Đông đã từng chói chang rực rỡ và nóng bỏng như ánh mặt trời trên các vùng đất sa mạc đầy nắng gió và cát vàng mênh mông. Trước kia người ta gọi anh là “Nanh Sa”, chiếc răng nanh cắm xuyên qua sa mạc, nhưng thú thật mình thích gọi anh ấy là “Vua Sa Mạc” hơn, bởi vì không vùng sa mạc nguy hiểm nào anh ấy không vượt qua, với sự hiểu biết sâu rộng về sa mạc, cường tráng bản lĩnh, cộng thêm máu liều táo bạo của tuổi trẻ anh trở thành một người dẫn đường hàng đầu mà bất cứ một đoàn thám hiểm sa mạc nào cũng mong được anh là người dẫn đường. Nhưng cái danh Nanh Sa hẳn như 1 cái răng nanh xuyên qua tim anh, giết chết 19 mạng người, 17 người là đoàn thám hiểm cuối cùng mà anh nhận dẫn đoàn, 1 người là người vợ sắp cưới mà anh yêu thương nhất, và người còn lại chính là bản thân Xương Đông, sau biến cố này, anh giống như một cái xác không hồn, chỉ vì quyết định hướng đi bị lệch, dẫn đến một kết cục thảm cảnh, cả đoàn không một ai sống sót, người yêu mất, sự nghiệp của tan thành mây khói, bị người đời sỉ vả. Sau khi bán hết gia sản của mình, bồi thường cho gia đình của các nạn nhân, anh đến Tây An nương nhờ người cậu của mình, sau khi ông mất, anh tiếp tục chui vào góc tối dẫn dắt các linh hồn rối bóng như một cách cho bản thân một động lực để sống tiếp, sống không phải vì tương lai tốt đẹp hơn đang chờ anh, mà là sống để chuộc tội, sống để tự trừng phạt chính mình. Cho đến một ngày, một cô gái xinh đẹp bí ẩn mang theo 1 tấm hình chụp lại thi thể của người yêu anh, đến xé tan cái bức màn đêm tối và lô anh đi tìm kiếm sự thật về thảm án 2 năm về trước. Còn về Diệp Lưu Tây, một cô gái bí ẩn, mất trí nhớ, tỉnh dậy trên một cái cây và đang bị treo cổ, trong túi tùy thân chỉ có một vài tấm ảnh, và 1 chiếc cốc Đầu thú mã não là hàng cổ hàng hiếm. Nếu như gọi Xương Đông là nguyên nhân trực tiếp của chuyến hành trình đi vào Ngọc Môn Quan thì Diệp Lưu Tây chính là nguyên nhân sâu xa của chuyến hành trình này và cả thảm án Sơn Trà Đen nữa. Ấn tượng đầu tiên về Diệp Lưu Tây là một cô gái xinh đẹp, tiếp theo là bản lĩnh không thua kém cánh đàn ông, và tổng xuyên suốt bộ truyện, ấn tượng cuối cùng là một Diệp Lưu Tây lòng dạ bao la nhưng tàn nhẫn đến đau nhói lòng. Thực ra nếu mà để nói về Lưu Tây thì không thể nói gì nhiều được, cũng không biết nói nhiều. Diệp Lưu Tây trước và sau khi mất trí nhớ giống như tách ra thành hai phân thân như trong truyện Bán Yêu Tư Đằng cùng tác giả. Diệp Lưu Tây sau khi mất trí nhớ mềm lòng nhẹ dạ hơn rất nhiều so với trước kia, dù cho bản chất tính cách không thay đổi mấy, chẳng hạn như cách cô xử lý tên dê xồm ở Tây An, hay cách cô tự đối với bản thân để tìm lại trí nhớ, thật sự đến đoạn đó, ruột mình quặn thắt lại, tay lạnh toát không cầm nổi quyển sách mà phải đặt xuống bàn để đọc tiếp. Nhưng cô đối xử với đồng đội mình rất khác xưa, những đồng đội bây giờ, cô dành cho họ tình cảm nhiều hơn rất nhiều so với người lúc trước. Dạy võ một cách cực tấu hài cho bạn Đường Mập, chăm sóc tận tình cho cái đầu bé nhỏ bị thương của bạn Đinh Liễu, quan tâm đến tình cảm yêu đương của bạn Liễu và bạn Cao Thâm, và hơn hết tình yêu bỗng dưng nảy nở với Xương Đông, nói thật mọi đừng cười, A Tử đọc hết hai tập truyện không bỏ sót một chữ nhưng không thể nhớ được hai người này bắt đầu yêu nhau từ lúc nào, tình yêu của hai người rất tự nhiên, không màu mè, cũng không gượng gạo, và cũng không mờ nhạt như trong một số truyện khác của Vĩ Ngư, A Tử đọc Bán Yêu Tư Đằng và Chuông gió của Vĩ Ngư rồi, cảm thấy hai truyện trên khá hay nhưng đào sâu các chi tiết kì bí linh di, xen lẫn âm mưu, ân oán cổ kim, thật sự không hề chú ý đến tình cảm nam nữ của hai nhân vật chính như trong Tây Xuất Ngọc Môn. Trong Tây Xuất Ngọc Môn lần này, Vĩ Ngư đã cho người đọc cực kì thỏa mãn khi nêm nếm các gia vị một cách vừa đủ để làm dậy lên mùi hương của tình yêu nhưng vẫn giữ trọn vẹn được vị ngon của nguyên liệu chính là kì bí linh dị và thêm một chút không khí lữ hành, đó là cách nấu rất riêng của Vĩ Ngư mà không ai có thể bắt chước được. Tây Xuất Ngọc Môn lần này thật ra thiên về âm mưu ẩn dấu, đo đếm nhân tâm, cuộc chiến giai cấp nhiều hơn là kinh dị, các yêu quái dù có loài hung ác, có loài hiền lành nhưng trong truyện này chúng hiện lên dưới ngòi bút của Vĩ Ngư một cách rất gần gũi, khi bạn đọc truyện có thể đọc xong về 1 loài yêu quái nào đó và nhìn quanh quất xung quanh mình xem có gì kì lạ không, rất kích thích . Suýt tí nữa mà quên một điều A Tử hơi bị thích trong Tây Xuất Ngọc Môn, đó là khả năm làm việc teamwork của team Đông Tây cực mạnh, từ khi bước vào trong quan nội, có rất nhiều phe kinh hiểm tưởng suýt chết nhưng với khả năng phối hợp ăn ý đến khó tin giúp cả 5 người trong team thoát chết 1 cách thần kì, có hai cảnh mà A Tử ấn tượng nhất trong truyện, cảnh đầu tiên là lúc mới vào Ngọc Môn Quan, chiến đấu với xác sống ở gò yardang, đó là lần đầu tiên cả đội phối hợp với nhau, tình cảm gắn kết mọi người bắt đầu từ đó, và cảnh thứ 2 là đi trộm tài liệu, đó là đoạn thót tim hồi hộp nhất trong truyện, Đinh Liễu gây chú ý đánh lạc hướng, Cao Thâm một mình đóng 2 vai gây nhiễu địch, Đường Mập dẫn gà đi gây hỗn loạn, và tất nhiên Đông Tây kết hợp một màn trộm đồ gay cấn nghẹt thở như Phi vụ thế kỷ luôn. Dành một chút xót xa cho người con trai ở ngoại truyện, A Tử không khóc cho anh ấy mà chỉ thấy lòng buồn xót xa, Lưu Tây gặp anh là “đúng người, sai thời điểm”, lúc anh gặp chị ấy là lúc lòng chị ấy lạnh nhất, là lúc cuộc sống khắc nghiệt là tôi ra một Lưu Tây lạnh lùng tàn nhẫn, lòng cao chí xa. Xương Đông là khoảnh khắc “đúng người, đúng thời điểm” của chị ấy, lúc cả tâm lẫn tình của chị ấy như một tờ giấy trắng, giống như chị đang làm lại cuộc đời mới. Cho nên không có gì phải buồn đâu ạ, số phận khắc nghiệt với anh ở kiếp này, nhưng sẽ đối xử dịu dàng hơn với anh ở kiếp sau, rồi anh sẽ có được cô gái của mình, vậy nên hãy cứ chúc phúc cho cô gái anh yêu ở kiếp này tìm được hạnh phúc nhé. Dành thời gian một chút để nói về chị Hàn Vũ Phi, dịch giả của truyện này, thật tâm mà nói, em chưa đọc truyện chị dịch nhiều lắm, em chỉ đọc vài bộ của Vĩ Ngư và Cửu Nguyệt Hy do chị dịch thôi, và em thấy gu chọn truyện của chị khá tốt, dù các truyện chị chọn chỉ dừng lại ở một vài tác giả, nhưng các cốt truyện không theo lối mòn, mỗi truyện đều có đặc sắc riêng không khiến người đọc nhàm chán. Về văn phong thì em không nhận xét gì nhiều, bởi vì nếu không phải là người hiểu sâu về lĩnh vực ngôn ngữ và văn học thì chẳng dám nhận xét là hay hay dở, chỉ có thể nói là văn phong của chị rất hợp với cách đọc của em. Nói tóm gọn lại đây là một bộ truyện đáng đọc. Hy vọng các bạn yêu ngôn tình đừng bỏ lỡ. – A Tử (Ngôn Tình Review Confession) *** Tây An.   Một dải tường thành cổ bao quanh khu vực trung tâm thành thị, chính giữa khu trung tâm là một cổ lâu, phía sau thành lâu là một khu phố trải dài, cho dù sầm uất hay ế ẩm, bất kể tháng nắng hay ngày mưa, nơi này mỹ thực luôn dồi dào, du khách luôn tụ họp.Read more…   Khu phố này tên gọi phố Hồi Dân, nổi tiếng với danh hiệu “Quảng trường văn hoá mỹ thực”, “Đại biểu cho phong thổ Tây An”, hay là “Nơi nhất định phải đến của Tây An”.   Dân cư đông đúc, tấc đất tấc vàng, các cửa hàng mặt tiền cố gắng chen chúc ra hướng đường chính —— nhưng mặt đường không đủ, đành phải quay mặt vào các hẽm nhỏ, chỉ cần bày ra trên đường mấy tấm biển hiệu, bên trên viết vài chữ như “Đi vào trong 15 mét” là được.   Cách cuối phố khoảng chừng một phần ba chiều dài cả khu phố, có một con hẻm nhỏ, đầu hẻm b*n n**c ô mai, phía trên có treo tấm biểu hiệu “Kịch rối bóng, biểu diễn đúng giờ”   Phía dưới dòng chữ có đính một con rối bóng hình dáng một cô gái, mặt mày yêu mị, vòng eo thon thả, phía sau đầu là mái tóc dài tết đuôi sam, động tác linh hoạt.   Du khách nào hứng thú hay cảm thấy mệt mỏi, liền có thể thuận tay lấy bát ô mai, mua vé biểu diễn 10 đồng, xem được một vở kịch rối 10 phút.   Sân khấu kịch rối không lớn lắm, ở ngoài trời khoảng 10 mét vuông, bày ra 3 cái bàn, trên tường treo các loại con rối đủ sắc màu, khách xem nếu thích, bỏ ra 50 đồng có thể mang về 3 con.   Điều khiển rối bằng tay là một ông lão, tên gọi Đinh Châu, chừng 60 tuổi, tóc hoa râm, đi đứng không tiện lắm, nên không mấy xã giao tiếp khách, phần lớn thời gian lão chỉ ngồi sau bức màn sáng trên sân khấu, hai tay linh hoạt vừa điều khiển mấy con rối, vừa nhịp trống, tưng bừng múa ra vài câu chuyện xưa tích cũ.   Có khi là vở “Kẻ bán hàng rong hý lộng đại tiểu thư”, hoặc là vở “Na Tra ba lần đáo Thuỷ cung”   Đêm nay, kịch đèn chiếu 7 giờ bắt đầu diễn, mới 6h50 phút, dưới khán đài đã đầy người.   Đinh Châu xốc màn sân khấu lên xem.   Người xem đa số là cha mẹ dẫn theo con nhỏ, mấy đứa bé hầu hết đều ngồi không yên, mông nhấp nhổm, nhốn nháo ỏm tỏi: “Khi nào mới diễn phim hoạt hình vậy?”   Đinh Châu có thể đoán được tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì: Sau khi bắt đầu diễn rối, mấy đứa nhóc này sẽ mất hết hào hứng, nhận ra kịch đèn chiếu khác xa so với phim hoạt hình, toàn là hát mấy câu ê a khó hiểu, thể nào cũng làm loạn một trận đòi về, người lớn sẽ quát mắng, bọn chúng sẽ lại vừa khóc vừa làm ầm lên.   Trong lúc “gà bay chó sủa” như vậy, lão đành phải vận dụng giọng hát già nua của lão, cố gắng diễn cho xong vở kịch.   Ngẫm lại đúng là chán, nhưng hầu hết con người ta sống ở trên đời, vốn hay chán như vậy.   Bảy giờ kém hai phút, một cô gái trẻ ghé đến.   Đinh Châu giật mình. Mời các bạn đón đọc Tây Xuất Ngọc Môn của tác giả Vĩ Ngư.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mười Người Da Đen Nhỏ - Agatha Christie
Mười người phát hiện rằng mình đã bị lừa ra đảo để "trả giá" cho "tội ác" đã gây ra, họ ứng với 10 bức tượng nhỏ đặt trên bàn ở phòng khách. Những ngày sau đó từng người lần lượt thiệt mạng tương tự cái cách bài đồng dao trong phòng mỗi người đã mô tả. Kỳ lạ hơn là sau khi một người qua đời, số tượng trong phòng khách bằng cách nào đó đều giảm đi một. Người đầu tiên thiệt mạng là Anthony Marston, anh ta chết vì ngộ độc với triệu chứng tương tự người bị nghẹn. Sau Marston là Ethel Rogers, bà quản gia chết được chồng phát hiện đã chết vì dùng thuốc ngủ quá liều. Vị tướng Macarthur dường như linh cảm được cái chết sẽ đến nên đã bỏ ăn mà ngồi nhìn ra biển và lảm nhảm một mình, bác sĩ Armstrong sau đó phát hiện ông đã chết vì bị một vật cứng đập vào sau đầu. Người thứ tư thiệt mạng là Thomas Rogers, trong lúc bổ củi chuẩn bị cho bữa sáng, dường như Thomas đã để trượt tay và làm lưỡi búa bay thẳng vào đầu. Là người luôn tin rằng mình không làm gì trái với Đức tin, rằng những người khác chết là do bị Chúa trừng phạt, tuy nhiên Emily Brent cũng không thể sống sót, bà bị tiêm thuốc độc vào cổ sau bữa ăn trưa, vết tiêm trên cổ bà tương tự như vết ong đốt. Buổi tối hôm đó đến lượt quan tòa Wargrave được bác sĩ Armstrong phát hiện đã thiệt mạng vì bị bắn vào đầu trong khi đang đội bộ tóc giả của quan tòa. Bản thân bác sĩ vào ngày hôm sau cũng được những người còn lại phát hiện đã chết đuối ở vách đá. Blore là người thứ tám thiệt mạng trên đảo, viên thám tử tư bị bức tượng trong phòng cô Vera Claythorne rơi trúng đầu trong lúc hai người còn lại đang ở ngoài bờ biển bên xác bác sĩ Armstrong. Rơi vào trạng thái hoảng loạn, Claythorne lừa cướp được súng của Lombard và giết chết tay cựu lính đánh thuê. Cuối cùng cô trở lại phòng và treo cổ tự tử với chiếc ghế và dây thòng lọng do một ai đó đã bày sẵn… Đây là một vụ án mà không hề có sự hiện diện hay dấu vết của thủ phạm. *** Mười người da đen nhỏ, nguyên bản tựa gốc tiếng Anh: Ten Little Niggers (10 gã mọi đen nhỏ) hoặc And Then There Were None (Và rồi chẳng còn ai) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được nhà xuất bản Collins Crime Club phát hành lần đầu ở Anh ngày 6 tháng 11 năm 1939[2]. Tác phẩm đôi khi còn được xuất bản (và chuyển thể thành phim) dưới tên Ten Little Indians (10 gã da đỏ nhỏ). Tiểu thuyết nói về vụ án bí ẩn trên hòn đảo Soldier Island với 10 người bằng cách này hay cách khác đã thiệt mạng mà không hề có sự hiện diện hay dấu vết của thủ phạm. Đây được coi là một trong những tiểu thuyết hình sự xuất sắc và nổi tiếng nhất của Agatha Christie, trên 100 triệu bản sách đã được bán ra khiến tác phẩm này trở thành tiểu thuyết hình sự bán chạy nhất trong lịch sử xuất bản thế giới. Mười người da đen nhỏ cũng là tác phẩm của Agatha Christie được chuyển thể nhiều lần nhất, cả trực tiếp và gián tiếp, dưới dạng phim điện ảnh, truyền hình và kịch sân khấu. Mời các bạn đón đọc Mười Người Da Đen Nhỏ của tác giả Agatha Christie.
Xác Chết - Carter Brown
Cô gái tóc vàng đã có thể. Cô gái tóc nâu đã sẵn sàng. Và Al Wheeler đã sẵn sàng ... vì tình yêu. Cho đến khi tìm thấy ba xác chết. Cảnh sát California bắt đầu cuộc chạy đua truy tìm hung thủ khi xác chết đầu tiên xuất hiện. Xác chết thứ hai xuất hiện trong một căn nhà phòng. Và rồi người thứ ba. Xác chết là một câu chuyện về những cô gái tóc vàng, và những kẻ tống tiền. Và viên cảnh sát tên là Al Wheeler xuất hiện với mục tiêu ngăn chặn tên sát nhân. *** Annabelle Jackson sôi nổi quảng cáo, “Đó là một nơi ăn chơi thật độc đáo, rồi anh sẽ thấy!” Tôi như một thằng ngố mặc cho Annabelle muốn dẫn đi đâu thì dẫn. Khi Annabelle dừng lại trước tấm bảng cũ kỹ có hai chữ ‘Guốc Vàng’ chạy đèn néon vàng óng, tôi ngước nhìn lên và thấy rõ hàng chữ cũng được chạy đèn néon nổi bật “Minuit - nửa đêm”. Tôi giơ tay gãi đầu, hỏi, “Ở đây à?” Không trả lời, Annabelle chộp tay tôi lôi tới trước một cánh cửa, nơi có cầu thang dẫn xuống nhà hầm. Khi đã chọn được chiếc bàn sát tường ưng ý, tôi kéo ghế ngồi và bắt đầu quan sát xung quanh. Nhà hầm rộng mênh mông nhưng nom nó có vẻ giống một cái hang nhiều hơn là một nhà hàng, chẳng có tới một cái máy điều hòa không khí dù là loại tồi tàn nhất. Không khí nóng bức trộn lẫn mùi nước hoa lan tỏa càng tạo cho tôi một cảm giác khó chịu. Thêm vào đó là thứ ánh sáng lờ mờ của nhà hầm khiến tôi phải cố gắng căng mắt lắm mới nhìn thấy được một mái đầu với mớ tóc vàng đang lắc lư bên cạnh. Tôi chồm tới ghé sát mặt để yên chí rằng mình không nhìn lầm. Một gã hầu phòng béo mỡ, thứ lề mề bất cần việc, cặp mắt láo liên tiến đến, gã chống hai bàn tay bẩn thỉu lên mặt bàn và hỏi một cách xấc xược, “Hai người ăn uống ra làm sao? Kể mau nghe!” Tôi ngáp dài, “Hai scotch có đá. Mà này, lần sau nên lịch sự một chút nhé. Nhớ tráng sạch ly trước khi mang ra cho chúng tôi!” Gã nhe răng cười nhăn nhở, “Tại sao vậy? Đêm nay anh không định thầu hết chỗ này chứ?” Gã trả đòn, rồi nhún vai biến nhanh như gió. Tôi nheo một bên mắt, nhìn cô bạn, “Trước đó anh luôn thắc mắc, không hiểu em sẽ tìm đâu ra thứ hang ổ hắc ám trong Pin City này. Bây giờ mới hiểu ra. Thánh thật!” Cô nàng đáp nhanh, “Nếu chịu khó nhìn chung quanh, anh sẽ nhìn thấy tín đồ ở đây đều có trán bóng lưỡng và những tròng kính dày cộm. Chúng ta đang trong hậu cung của các nhà học giả đấy!” “Quí vị đó chui vào hốc bò tó này làm gì?” “Họ đến vì… Jazz. Đó là bộ sậu gồm Clarence Nesbitt đàn bass, Cubn Carter trống và Wesley Stewart kèn đồng, ba tay này trước đây là những kẻ vô danh tiểu tốt, giờ thì mọi người đều ngưỡng mộ họ.” “Hừ, không có tôi trong số đó đâu nhé.” “Chưa hết, còn một nguyên nhân nữa.” “Nguyên nhân gì?” “Cái này dứt khoái là anh ngưỡng mộ: Nàng Minuit, như tấm biển đề ngoài cửa.” “Chà, hấp dẫn đấy. Nàng trốn đâu, sao không thấy? Biệt danh à?” “Không, nàng có tên Minuit O’Hara, chỉ xuất hiện vào.nửa đêm. Lý do như thế nào, hiện giờ chưa rõ. Còn ít phút nữa…” Tôi cắt ngang, lay nhẹ khuỷu tay Annabelle. “Các ca sĩ lớn đang chờ em, ở nhà anh, trong băng nhựa. Máy thu băng của anh thuộc loại thượng hảo hạng, một trong những…” “Anh khoan kể nốt,” cô chặn lại giọng lạnh tanh. “Annabelle là cô gái không dễ mắc câu!” Rượu Scotch được mang ra và gã hầu phòng béo mỡ đang ném cái nhìn chòng chọc vào Annabelle, trước khi đặt chiếc ly trước mặt nàng. “Ối dào, phù… phù! Xin cho biết.” Gã hít một hơi thật sâu. “Cái gì đây?” “Một cô gái,” tôi quát vẻn vẹn ba chữ tạo thành câu. “Tôi nhắc nhở anh! Có cần hiểu rộng thêm ý nghĩa tôi muốn nói không?” “Mẹ kiếp, đêm nay mình gặp hên..” Thốt xong, hắn phe phẩy chiếc khăn trên tay như chó vẫy đuôi, rồi lỉnh vào bếp. Annabelle đầy hưng phấn, nói với vẻ háo hức, “Anh nghe đấy, ta còn thưởng thức dài dài. Từ New Orleans thuần nhất có thể rút tỉa ra vài câu thơ theo cung cách Chicago. Qua thể điệu Wing anh sẽ túy lúy bằng những tiếng ‘hí… hê’ thoát ra từ…” Lạy chúa, giọng lưỡi của cô nữ tín đồ sùng bái được bộ tam sên trên bục diễn che lấp mất qua bản “Có một đứa ngu”. Tôi lơ đãng nhấm nháp Whisky, những điều nghi ngờ tệ hại nhất của tôi về Annabelle Jackson đã được xác nhận rồi. Khi bài hát vừa dứt, Annabelle quay sang tôi, đôi mắt lóng lánh, cuồng nhiệt. Cô hăm hở, “Anh cảm thấy thế nào?” Tôi nhăn mặt, ngáp dài, “Ồn ào quá,” tôi đáp. “Trong khi anh chỉ cần ấn nhẹ cái nút, âm thanh đã vừa đủ nghe và hàng loạt ca sĩ nổi danh đương thời lần lượt cất giọng…” Annabelle vờ ngơ ngác, “Chúa ơi, ở đâu có?” “Trong băng nhựa! Xin nói thêm, tủ rượu của anh có vô số rượu khai vị. Còn Whisky thì khỏi nói, toàn là thứ còn nguyên con dấu và nhãn hiệu đàng hoàng, chưa hết…” ... Mời các bạn đón đọc Al Wheeler [#6]: Xác Chết của tác giả Carter Brown.
Tiếng Chó Tru Trong Đêm - Erle Stanley Gardner
Truyện rất tuyệt, một trong những #Mason hay nhất tôi từng đọc. Tình tiết hấp dẫn, lôi cuốn, đoạn kết phải nói là: Hảo Hảo - Mỳ tép số 1 VN. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) *** - Xin mời vào, thưa ngài Cartrait, - Della Street mở cửa. - Ông Mason đang đợi ngài ạ. Người đàn ông cao lớn vai rộng gật đầu và đi vào văn phòng. - Ngài là Perry Mason? - Ông ta hỏi. - Ngài là luật sư ạ? - Vâng, - Mason đáp. - Xin mời ngài ngồi. Người đàn ông ngả xuống ghế bành, rút thuốc lá nhét một điếu vào miệng và chìa bao thuốc cho Mason. Trầm ngâm ngó bàn tay run rẩy, Mason lắc đầu từ chối. - Cảm ơn ngài, tôi thích loại thuốc khác hơn. Người đàn ông hấp tấp nhét bao thuốc vào túi. Quẹt diêm, tựa khuỷu tay vào tay vịn của ghế và châm thuốc hút. - Thư kí của tôi báo với tôi rằng. - Mason thong thả nói. - ngài muốn trò chuyện cùng tôi về con chó và về bản di chúc. - Về con chó và di chúc, - người đàn ông lặp lại như tiếng vọng. - Được rồi. Đầu tiên chúng ta bàn về bản di chúc, bởi vì tôi hiểu biết về chó ít lắm! Mason kéo cuốn sổ tay lại gần mình và cầm lấy bút máy. - Tên ngài là gì? - Artur Cartrait. - Tuổi? - Ba mươi hai. - Địa chỉ thường trú? - 4893, Milpas Draiv. - Có vợ hay độc thân? - Lẽ nào điều đó lại có ý nghĩa gì chăng? - Vâng, - Mason nói, ngước nhìn khách hàng. - Điều đó không quan trọng đối với di chúc, - ông kia cự lại. - Mặc dù thế vẫn cần. - Nhưng tôi đã nói rồi, điều đó không liên quan gì với di chúc của tôi. - Vợ ngài tên là gì? - Paula Cartrait. - Bà ấy sống với ngài chứ? - Không. - Vậy thì ở đâu? - Tôi không rõ. Mason ngẩng đầu lên khỏi cuốn sổ tay. - Được rồi, - ông nói sau một khoảng im lặng ngắn, - trước khi chúng ta quay lại những chi tiết về cuộc sống gia đình ngài, chúng ta hãy nói về việc ngài định làm gì với tài sản của ngài. Ngài có con cái không? - Không. - Ngài muốn để tài sản của mình lại cho ai? - Trước hết hãy nói với tôi, bất kể việc người viết ra di chúc chết như thế nào, nó có còn hiệu lực hay không? Mason im lặng gật đầu. - Chúng ta cứ cho rằng, - Cartrait tiếp tục. - theo phán quyết của toà vì vụ án mạng con người gây ra, y sẽ chết trên giá treo cổ hoặc trên ghế điện. Chuyện gì sẽ xảy ra với di chúc của y? - Con người có từ giã cuộc đời bằng cách nào đi nữa thì cũng không ảnh hưởng đến hiệu lực di chúc về mặt pháp lí, - Mason đáp. - Cần bao nhiêu người làm chứng cho một bản di chúc? - Hai, với một loại tình huống và không cần một ai, với những tình huống khác. - Ngài có ý gì? - Nếu di chúc được đánh máy và ngài kí, thì chữ kí được khẳng định bởi hai nhân chứng. Nếu bản di chúc được viết tay toàn bộ, kể cả ngày tháng và chữ kí, và không có một chữ nào được đánh máy, thì theo luật pháp của bang này, không cần đến nhân chứng. Bản di chúc như thế có hiệu lực pháp lí và việc thi hành nó là một điều tất yếu. Artur Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Gì đi nữa, thì ít nhất với điều này mọi thứ cũng đã rõ. - Ngài muốn để tài sản lại cho ai? - Mason nhắc lại. - Bà Clinton Fouli, sống tại Milpas Draiv, 4889. Mason sửng sốt nhướng lông mày. - Cho bà hàng xóm ư? - Cho bà hàng xóm, - Cartrait khẳng định. - Rất tốt. Nhưng hãy lưu ý, ngài Cartrait, ngài đang nói với luật sư của mình. Ngài không nên có bí mật gì đối với tôi. Xin đừng lo, tất cả những điều nói ra tại đây, sẽ ở lại giữa hai chúng ta mà thôi. - Thì tôi có giấu giếm gì đâu! - Cartrait kêu lên nôn nóng. - Tôi không tin chắc vào điều đó, - Mason nhận xét trầm tĩnh. - Thế nhưng chúng ta quay lại với di chúc của ngài đã. - Tôi nói hết rồi. - Hết là thế nào? - Sở hữu riêng của tôi tôi di chúc lại cho bà Clinton Fouli. Perry Mason đặt bút xuống bàn. - Nếu thế thì chuyển sang chuyện con chó vậy. - Con chó tru. Mason gật đầu vẻ khuyến khích. - Cơ bản là nó tru vào ban đêm, nhưng đôi khi cả ban ngày. Tiếng tru này đẩy tôi đến chỗ phát điên. Thì ngài cũng biết, lũ chó tru khi có ai đó chết. - Con chó này sống ở đâu? - Trong ngôi nhà bên cạnh. - Tức là bà Clinton Fouli sống một phía nhà ngài, còn từ phía khác, con chó đã tru? - Không, con chó tru trong nhà của Clinton Fouli. - Hiểu rồi, - Mason gật đầu. - Hãy kể cho tôi nghe về mọi chuyện đi, thưa ngài Cartrait. Người khách dụi đầu mẩu thuốc lá vào cái gạt tàn, đứng lên, đi đi lại lại trong văn phòng và quay trở lại ghế bành. - Ngài nghe này, tôi rất muốn hỏi ngài thêm một câu về bản di chúc. - Tôi nghe đây. - Chúng ta cứ giả sử rằng, bà Clinton Fouli trong thực tế không phải là bà Clinton Fouli. - Ngài có ý nói gì? - Chúng ta cứ cho là bà ta sống với ông Clinton Fouli như một người vợ chính thức, nhưng đám cưới của họ không có đăng kí hợp pháp. - Điều đó không có ý nghĩa gì, - Mason chậm rãi đáp, - nếu trong bản di chúc của mình, ngài miêu tả bà ta như “bà Clinton Fouli, sống với ông Clinton Fouli, theo địa chỉ Milpas Draiv, 4889”. Nói đúng hơn, người làm di chúc có quyền để lại sở hữu của mình cho bất cứ ai, nếu bản di chúc xác định rõ ràng ý định của người đó. Ví dụ, người đàn ông để tài sản của mình cho vợ, nhưng sau đó hoá ra rằng họ đã không đăng kí một cách chính thức. Đôi khi gia tài được để lại cho các con trai, mà lại không phải là con trai họ... - Tôi không quan tâm điều đó, - Cartrait sốt ruột cắt lời ông. - Tôi muốn biết sự thế sẽ thế nào trong trường hợp cụ thể của tôi thôi. Bà Clinton Fouli có cần phải là vợ hợp pháp của Clinton Fouli hay không? - Điều đó không nhất thiết. - Thế nếu như, - cặp mắt Cartrait biến thành hai khe hẹp, - vẫn tồn tại bà Clinton Fouli đích thực? Nếu Clinton Fouli có vợ và chưa li dị với người vợ hợp pháp của mình, còn tôi di chúc lại sở hữu của mình cho bà Clinton Fouli đang sống với ông ta trong một ngôi nhà? - Tôi đã giải thích với ngài rồi, - Mason nhẫn nại đáp, - điều chủ yếu: Đó là dự định của người lập di chúc. Nếu ngài viết là ngài để lại sở hữu riêng của ngài cho người phụ nữ hiện đang sống theo địa chỉ được nêu như là vợ của Clinton Fouli là đủ. Nhưng như tôi hiểu, ông Fouli vẫn còn sống chứ? - Dĩ nhiên, ông ta vẫn sống. Ông ta là hàng xóm của tôi. - Hiểu rồi. Và ông Fouli có biết ngài sắp để lại tài sản cho vợ ông ấy không? - Tất nhiên không, - Cartrait cắt ngang. - Ông ta chẳng biết gì hết và sẽ không được biết gì cả. - Được rồi, với điều đó mọi sự đã rõ. Chúng ta chuyến sang chuyện con chó. - Ngài phải làm gì đó với con chó này. - Đề xuất của ngài? - Tôi muốn để người ta bắt Fouli vào tù. - Dựa trên cơ sở nào? - Trên cơ sở là tiếng chó tru làm tôi phát điên. Đó như là sự tra tấn. Lão dạy cho nó tru. Trước đây con chó không tru. Nó chỉ mới tru một, hai đêm vừa rồi thôi. Lão cố ý chọc tức tôi và vợ của lão. Vợ lão đang ốm, mà con chó cứ tru như trước cái chết của ai đó vậy, - Cartrait lặng đi, thở nặng nhọc. Mason lắc đầu. - Thật tiếc, thưa ngài Cartrait, tôi sẽ chẳng giúp gì được cho ngài. Trong lúc này tôi rất bận. Thêm nữa, lại vừa kết thúc một vụ tố tụng khó khăn và... - Tôi biết, tôi biết, - Cartrait cắt lời ông. - Và ngài nghĩ rằng tôi là một gã thần kinh. Ngài cho rằng tôi đề nghị ngài một thứ vặt vãnh gì đó. Đâu phải như thế. Tôi đề nghị ngài làm một việc cực kì quan trọng. Và tôi đến với ngài chính là bởi vì ngài đã thắng vụ tố tụng ấy. Tôi theo dõi tiến trình của nó, thậm chí đã đến phòng xử án để nghe ngài. Ngài là một trạng sư chân chính. Lần nào ngài cũng vượt lên trước biện lí tối thiểu là một nước đi. Mason mỉm cười yếu ớt. - Cảm ơn vì những lời tốt lành, ngài Cartrait ạ, nhưng xin ngài hiểu cho. Tôi là luật sư tư pháp. Việc lập các bản di chúc không phải là lĩnh vực của tôi, còn tất cả những gì dính líu đến con chó, thì chúng ta có thể điều chỉnh được mà không cần sự can thiệp của luật sư. - Không! - Cartrait kêu lên. - Ngài chưa biết Fouli đấy thôi. Ngài không tưởng tượng nổi đó là hạng người thế nào đâu. Có thể là ngài nghĩ rằng tôi không có tiền? Tôi có tiền, và tôi sẽ trả rất khá cho ngài, - ông ta lôi từ túi ra cái ví căng phồng, mở nó, bàn tay run rẩy rút ra ba tờ giấy bạc và đặt chúng lên bàn. - Ba trăm đôla. Đó là đặt cọc. Sau này ngài sẽ được nhận nhiều hơn. Các ngón tay của Mason đánh nhịp trên mặt bàn. - Thưa ngài Cartrait, - ông thốt ra dè dặt, - nếu ngài muốn để tôi làm luật sư cho ngài, tôi yêu cầu lưu ý tới điểm sau: Tôi sẽ chỉ làm điều gì mà theo niềm tin của tôi là đem lại lợi ích cho ngài. Chắc ngài hiểu? - Tôi mong được như thế. - Có nghĩa là tự tôi sẽ quyết nên làm gì để bảo vệ trọn vẹn nhất các quyền lợi của ngài. - Tốt, - Cartrait đáp. Mason cầm tiền ở bàn và bỏ chúng vào túi. - Đã thoả thuận xong. Tôi sẽ đại diện cho ngài trong vụ này. Nghĩa là ngài muốn Fouli bị bắt? - Vâng. - Đành thế, điều đó cũng không phức tạp gì lắm. Ngài cần đâm đơn kiện, và chánh án sẽ viết lệnh bắt giữ. Nhưng tại sao ngài lại nhờ cậy tôi? Ngài muốn để tôi giữ vai trò đại diện của nguyên cáo? - Ngài chưa biết Fouli, - Artur Cartrait nhắc lại. - Lão sẽ chẳng để cho yên thế đâu. Lão sẽ đâm đơn ra toà hặc tôi vì sự buộc tội giả trá. Có thể là lão bắt con chó tru, nhằm nhử tôi vào bẫy đấy. - Con chó giống gì? - Bécgiê cảnh sát to tướng. Perry Mason liếc nhìn Cartrait và mỉm cười. - Nếu người đưa đơn kiện đã sơ bộ nhờ đến luật sư, kể hết với ông ta tất cả không che giấu điều gì, và trong tương lai tuân thủ các lời khuyên của luật sư, thì trong khi xem xét tố tụng về sự buộc tội giả trá, điều đó sẽ có lợi cho người kiện. Còn bây giờ, tôi muốn làm để sao cho Clinton Fouli không có nguyên cớ đâm đơn kiện ngài lên toà. Tôi sẽ đưa ngài đến gặp trợ lí ngài biện lí khu, người phụ trách những vấn đề tương tự. Tôi muốn để ngài nhắc lại với ông ấy tất cả những gì liên quan đến con chó. Có thể không nhắc tới bản di chúc. Nếu ông ấy quyết rằng điều ngài nói là đủ để có lệnh bắt giam, thì lệnh sẽ được viết. Nhưng tôi cảnh báo trước, ngài không nên giấu giếm gì cả. Hãy đưa ra trước ông ấy tất cả các cứ liệu, và lúc ấy bất cứ đơn kiện nào của Fouli cũng không làm hại được ngài. Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Giờ ngài mới nói ra vấn đề. Chính tôi cần một lời khuyên như thế. Chúng ta tìm ông trợ lí ở đâu đây? - Bây giờ tôi sẽ gọi điện thoại cho ông ấy và thỏa thuận về cuộc gặp, - Mason đáp. - Xin thứ lỗi, tôi phải ra ngoài một lát. Xin ngài hãy cứ tự nhiên như ở nhà vậy. - Hãy cố thoả thuận với ông ấy vào ngay hôm nay. Tôi sẽ không chịu đựng thêm nổi một đêm nữa với con chó tru đâu. Khi Mason rời khỏi văn phòng, Cartrait lấy thuốc lá ra. Để châm thuốc, ông ta buộc phải lấy tay khác đỡ bàn tay cầm que diêm... Ở phòng tiếp khách Della Street ngẩng đầu lên. - Bị cắm sừng à? - Cô hỏi. - Tôi không biết, - Mason đáp, - nhưng tôi cố làm sáng tỏ điều đó. Hãy nối tôi với Pit Dorcas. Tôi dự định chuyển vụ này cho ông ta. Trong khi Della quay số, Mason đứng cạnh cửa sổ, ngó xuống cái giếng xi măng, từ đó vọng lại tiếng động của xe cộ. Dorcas ở đầu dây. Mason quay lại, đi đến chiếc bàn đặt trong góc phòng tiếp khách và nhấc ống nói. - Chào anh Pit. Perry Mason đây. Tôi sẽ đưa khách hàng của tôi tới chỗ anh, nhưng tôi muốn cho anh biết trước vấn đề nói về việc gì. - Ông ta cần gì? - Ông ta muốn đâm đơn kiện. - Về lí do gì? - Về con chó tru. - Về... - Phải, phải, con chó tru. Hình như trong khu chúng ta đã có một nghị định cấm giữ chó tru sủa trong vùng dân cư. - Đúng là có, nhưng có ai để ý đến nó đâu. Chí ít tôi cũng chưa vấp phải những lời than phiền như thế. - Đây là trường hợp đặc biệt. Khách hàng của tôi đang phát điên hoặc đã điên rồi vì tiếng tru này. - Chỉ vì tiếng chó tru ấy à? - Tôi muốn làm sáng tỏ chính cái điều đó. Nếu khách hàng của tôi cần đến sự giúp đỡ về y tế, hẳn tôi muốn để ông ta nhận được nó. Chính anh cũng hiểu, ở người này tiếng chó tru chỉ gây ra sự bực bội, với người khác có thể làm họ phát điên. - Điều đó là chính xác, - Dorcas đồng ý. - Anh đưa ông ta đến gặp tôi chứ? - Vâng. Và tôi muốn buổi trò chuyện của chúng ta diễn ra với sự có mặt của nhà tâm thần học. Không nên nói với ông ta đó là bác sĩ, anh cứ giới thiệu ông ấy như trợ lí của anh, và cứ để ông ấy đặt vài ba câu hỏi. Lúc đó, chắc chắn chúng ta sẽ rõ ngay trạng thái tâm lí khách hàng của tôi. - Tôi sẽ đợi các anh, - ngừng một chút, Dorcas nói. - Chúng tôi sẽ có mặt sau mười lăm phút. - Mason đặt ống nói xuống. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #04: Tiếng Chó Tru Trong Đêm của tác giả Erle Stanley Gardner.
Sợi Chỉ Mỏng Manh - Yakov Naumov & Aleksandr Yakovlev
Thiếu tá KGB Andrey Mironov và các đồng sự khám phá ra kế hoạch gián điệp do một nhóm phản động âm mưu thực hiện vào những năm đầu sau chiến tranh vệ quốc. *** Đã một giờ trôi qua và có lẽ là hơn nữa, thiếu tá An-đrây Mi-rô-nốp miệng vẫn không rời điếu thuốc lá – hết điếu này anh lại châm ngay điếu khác. Mi-rô-nốp đi đi, lại lại từ góc này sang góc kia trong căn phòng làm việc. Anh đếm mười bốn bước đi, quay lại mười bốn bước, rồi lại đi mười bốn bước nữa. “Đi bao nhiêu bước rồi: năm trăm, một ngàn, năm ngàn hay mười ngàn?” – ý nghĩ đó thoáng đến rồi vụt biến đi vì nó có nghĩa lý gì đâu. Mi-rô-nốp dừng lại bên cửa sổ, anh mở rộng hai cánh cửa. Không khí mát mẻ mùa thu ùa vào căn phòng. Những làn khói thuốc lá đang luẩn quẩn quanh bàn, xao động và tan dần. Tỳ tay vào khung cửa, Mi-rô-nốp nhìn ra đường. Trước mắt anh là những khung cảnh quen thuộc: bên phải là đường phố hẹp mang tên Đgiéc-gin-xki ngược về phía trước, đường hơi dốc thoai thoải. Về buổi chiều, đường phố náo nhiệt hẳn lên với những ô tô du lịch, tơ-rô-lây-buýt và xe khách loại lớn. Bên trái, trông rõ một phần quảng trường Đgiéc-gin-xki với cửa hàng bách hóa “Thế giới thiếu nhi” đang tấp nập người ra vào. Từ trên tầng năm của tòa nhà Ủy ban an ninh nhà nước, có thể trông rõ dòng người vô tận trên các vỉa hè, đường rẽ… Mi-rô-nốp trầm ngâm ngắm nhìn cảnh người, xe tấp nập, nhộn nhịp. Nhưng khung cảnh gần gũi và quen thuộc thường ngày ấy hôm nay đối với anh không thể gợi lên được một niềm vui nào như mọi hôm. Anh đang bận tâm suy nghĩ một vấn đề quan trọng. Mi-rô-nốp thở dài, đóng cửa sổ lại và quay về bàn làm việc. Ngồi xuống chiếc ghế mềm, Mi-rô-nốp lại kéo cặp tài liệu và dở tập ” Hồ sơ số…” Bìa tập hồ sơ màu nâu mỏng dính. Trong đó chỉ có mười đến hai mươi trang. Chính những vấn đề trong cặp hồ sơ ít ỏi đó đã làm cho người thiếu tá an ninh mất ăn mất ngủ suốt ba hôm nay. Anh mở cặp giấy và lại một lần nữa, không hiểu là lần thứ mấy rồi, chăm chú đọc hết trang này sang trang khác. Nhưng tất cả đều vô ích, vì không có gì sáng sủa hơn. Càng đọc bao nhiêu anh càng thấy bế tắc bấy nhiêu (và quả là Mi-rô-nốp hầu như đã gần thuộc lòng) anh không làm sao lần ra đầu mối của cuốn chỉ để theo đó có thể tiến hành cuộc điều tra. Còn nhiều điều chưa rõ ràng, chưa được xác minh. Phải tập trung chú ý ai trước? Phải nghiên cứu ai trước? Mi-rô-nốp suy nghĩ. Xa-môi-lốp-xcai-a ư? Điều này chẳng cần phải nói vì chính là đã bắt đầu từ mụ ta, tuy nhiên Mi-rô-nốp cũng tin là Xa-môi-lốp-xcai-a chỉ là một con cờ ngẫu nhiên không đáng được các cơ quan an ninh nhà nước chú ý. Trê-nhi-a-ép chăng? Rất mơ hồ. Quả thật nếu như tin vào lời khai của Xa-môi-lốp-xcai-a (nhưng có nên tin mụ ta không?) thì trường hợp của Trê-nhi-a-ép quả là lạ lùng thật. Tại sao ông ta, một con người sống phong lưu, dư dật lại phải đi bán những quần áo phụ nữ nhập cảng. Nếu quả như vậy thì dù chỉ là một giả thuyết tồi nhất: điều đó có khác gì một kẻ đầu cơ. Bản thân Trê-nhi-a-ép lại là một đảng viên, từng tham gia cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại, một trung tá kỹ sư, một người đã được thưởng nhiều huân chương, một nhà xây dựng cỡ lớn. Không thể nào ông ta lại giống một kẻ có thể gây nên những tội lỗi chống Tổ quốc, chống Nhà nước xô-viết. Vậy thì là ai bây giờ? Tác giả của mẩu thư còn sót lại chăng? Cũng có thể lắm. Nhưng, nên bắt đầu với anh ta như thế nào nếu như chưa biết rõ anh ta, hay đúng hơn là cô ta, là ai? Phải tìm tác giả bức thư đó ở đâu? Tìm như thế nào? Nếu như trong tay Mi-rô-nốp đã có được một mối chỉ nào đấy thì nó cũng rất mỏng manh, rất rời rạc… ... Mời các bạn đón đọc Sợi Chỉ Mỏng Manh của tác giả Yakov Naumov & Aleksandr Yakovlev.