Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tiếng Chó Tru Trong Đêm - Erle Stanley Gardner

Truyện rất tuyệt, một trong những #Mason hay nhất tôi từng đọc. Tình tiết hấp dẫn, lôi cuốn, đoạn kết phải nói là: Hảo Hảo - Mỳ tép số 1 VN. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) *** - Xin mời vào, thưa ngài Cartrait, - Della Street mở cửa. - Ông Mason đang đợi ngài ạ. Người đàn ông cao lớn vai rộng gật đầu và đi vào văn phòng. - Ngài là Perry Mason? - Ông ta hỏi. - Ngài là luật sư ạ? - Vâng, - Mason đáp. - Xin mời ngài ngồi. Người đàn ông ngả xuống ghế bành, rút thuốc lá nhét một điếu vào miệng và chìa bao thuốc cho Mason. Trầm ngâm ngó bàn tay run rẩy, Mason lắc đầu từ chối. - Cảm ơn ngài, tôi thích loại thuốc khác hơn. Người đàn ông hấp tấp nhét bao thuốc vào túi. Quẹt diêm, tựa khuỷu tay vào tay vịn của ghế và châm thuốc hút. - Thư kí của tôi báo với tôi rằng. - Mason thong thả nói. - ngài muốn trò chuyện cùng tôi về con chó và về bản di chúc. - Về con chó và di chúc, - người đàn ông lặp lại như tiếng vọng. - Được rồi. Đầu tiên chúng ta bàn về bản di chúc, bởi vì tôi hiểu biết về chó ít lắm! Mason kéo cuốn sổ tay lại gần mình và cầm lấy bút máy. - Tên ngài là gì? - Artur Cartrait. - Tuổi? - Ba mươi hai. - Địa chỉ thường trú? - 4893, Milpas Draiv. - Có vợ hay độc thân? - Lẽ nào điều đó lại có ý nghĩa gì chăng? - Vâng, - Mason nói, ngước nhìn khách hàng. - Điều đó không quan trọng đối với di chúc, - ông kia cự lại. - Mặc dù thế vẫn cần. - Nhưng tôi đã nói rồi, điều đó không liên quan gì với di chúc của tôi. - Vợ ngài tên là gì? - Paula Cartrait. - Bà ấy sống với ngài chứ? - Không. - Vậy thì ở đâu? - Tôi không rõ. Mason ngẩng đầu lên khỏi cuốn sổ tay. - Được rồi, - ông nói sau một khoảng im lặng ngắn, - trước khi chúng ta quay lại những chi tiết về cuộc sống gia đình ngài, chúng ta hãy nói về việc ngài định làm gì với tài sản của ngài. Ngài có con cái không? - Không. - Ngài muốn để tài sản của mình lại cho ai? - Trước hết hãy nói với tôi, bất kể việc người viết ra di chúc chết như thế nào, nó có còn hiệu lực hay không? Mason im lặng gật đầu. - Chúng ta cứ cho rằng, - Cartrait tiếp tục. - theo phán quyết của toà vì vụ án mạng con người gây ra, y sẽ chết trên giá treo cổ hoặc trên ghế điện. Chuyện gì sẽ xảy ra với di chúc của y? - Con người có từ giã cuộc đời bằng cách nào đi nữa thì cũng không ảnh hưởng đến hiệu lực di chúc về mặt pháp lí, - Mason đáp. - Cần bao nhiêu người làm chứng cho một bản di chúc? - Hai, với một loại tình huống và không cần một ai, với những tình huống khác. - Ngài có ý gì? - Nếu di chúc được đánh máy và ngài kí, thì chữ kí được khẳng định bởi hai nhân chứng. Nếu bản di chúc được viết tay toàn bộ, kể cả ngày tháng và chữ kí, và không có một chữ nào được đánh máy, thì theo luật pháp của bang này, không cần đến nhân chứng. Bản di chúc như thế có hiệu lực pháp lí và việc thi hành nó là một điều tất yếu. Artur Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Gì đi nữa, thì ít nhất với điều này mọi thứ cũng đã rõ. - Ngài muốn để tài sản lại cho ai? - Mason nhắc lại. - Bà Clinton Fouli, sống tại Milpas Draiv, 4889. Mason sửng sốt nhướng lông mày. - Cho bà hàng xóm ư? - Cho bà hàng xóm, - Cartrait khẳng định. - Rất tốt. Nhưng hãy lưu ý, ngài Cartrait, ngài đang nói với luật sư của mình. Ngài không nên có bí mật gì đối với tôi. Xin đừng lo, tất cả những điều nói ra tại đây, sẽ ở lại giữa hai chúng ta mà thôi. - Thì tôi có giấu giếm gì đâu! - Cartrait kêu lên nôn nóng. - Tôi không tin chắc vào điều đó, - Mason nhận xét trầm tĩnh. - Thế nhưng chúng ta quay lại với di chúc của ngài đã. - Tôi nói hết rồi. - Hết là thế nào? - Sở hữu riêng của tôi tôi di chúc lại cho bà Clinton Fouli. Perry Mason đặt bút xuống bàn. - Nếu thế thì chuyển sang chuyện con chó vậy. - Con chó tru. Mason gật đầu vẻ khuyến khích. - Cơ bản là nó tru vào ban đêm, nhưng đôi khi cả ban ngày. Tiếng tru này đẩy tôi đến chỗ phát điên. Thì ngài cũng biết, lũ chó tru khi có ai đó chết. - Con chó này sống ở đâu? - Trong ngôi nhà bên cạnh. - Tức là bà Clinton Fouli sống một phía nhà ngài, còn từ phía khác, con chó đã tru? - Không, con chó tru trong nhà của Clinton Fouli. - Hiểu rồi, - Mason gật đầu. - Hãy kể cho tôi nghe về mọi chuyện đi, thưa ngài Cartrait. Người khách dụi đầu mẩu thuốc lá vào cái gạt tàn, đứng lên, đi đi lại lại trong văn phòng và quay trở lại ghế bành. - Ngài nghe này, tôi rất muốn hỏi ngài thêm một câu về bản di chúc. - Tôi nghe đây. - Chúng ta cứ giả sử rằng, bà Clinton Fouli trong thực tế không phải là bà Clinton Fouli. - Ngài có ý nói gì? - Chúng ta cứ cho là bà ta sống với ông Clinton Fouli như một người vợ chính thức, nhưng đám cưới của họ không có đăng kí hợp pháp. - Điều đó không có ý nghĩa gì, - Mason chậm rãi đáp, - nếu trong bản di chúc của mình, ngài miêu tả bà ta như “bà Clinton Fouli, sống với ông Clinton Fouli, theo địa chỉ Milpas Draiv, 4889”. Nói đúng hơn, người làm di chúc có quyền để lại sở hữu của mình cho bất cứ ai, nếu bản di chúc xác định rõ ràng ý định của người đó. Ví dụ, người đàn ông để tài sản của mình cho vợ, nhưng sau đó hoá ra rằng họ đã không đăng kí một cách chính thức. Đôi khi gia tài được để lại cho các con trai, mà lại không phải là con trai họ... - Tôi không quan tâm điều đó, - Cartrait sốt ruột cắt lời ông. - Tôi muốn biết sự thế sẽ thế nào trong trường hợp cụ thể của tôi thôi. Bà Clinton Fouli có cần phải là vợ hợp pháp của Clinton Fouli hay không? - Điều đó không nhất thiết. - Thế nếu như, - cặp mắt Cartrait biến thành hai khe hẹp, - vẫn tồn tại bà Clinton Fouli đích thực? Nếu Clinton Fouli có vợ và chưa li dị với người vợ hợp pháp của mình, còn tôi di chúc lại sở hữu của mình cho bà Clinton Fouli đang sống với ông ta trong một ngôi nhà? - Tôi đã giải thích với ngài rồi, - Mason nhẫn nại đáp, - điều chủ yếu: Đó là dự định của người lập di chúc. Nếu ngài viết là ngài để lại sở hữu riêng của ngài cho người phụ nữ hiện đang sống theo địa chỉ được nêu như là vợ của Clinton Fouli là đủ. Nhưng như tôi hiểu, ông Fouli vẫn còn sống chứ? - Dĩ nhiên, ông ta vẫn sống. Ông ta là hàng xóm của tôi. - Hiểu rồi. Và ông Fouli có biết ngài sắp để lại tài sản cho vợ ông ấy không? - Tất nhiên không, - Cartrait cắt ngang. - Ông ta chẳng biết gì hết và sẽ không được biết gì cả. - Được rồi, với điều đó mọi sự đã rõ. Chúng ta chuyến sang chuyện con chó. - Ngài phải làm gì đó với con chó này. - Đề xuất của ngài? - Tôi muốn để người ta bắt Fouli vào tù. - Dựa trên cơ sở nào? - Trên cơ sở là tiếng chó tru làm tôi phát điên. Đó như là sự tra tấn. Lão dạy cho nó tru. Trước đây con chó không tru. Nó chỉ mới tru một, hai đêm vừa rồi thôi. Lão cố ý chọc tức tôi và vợ của lão. Vợ lão đang ốm, mà con chó cứ tru như trước cái chết của ai đó vậy, - Cartrait lặng đi, thở nặng nhọc. Mason lắc đầu. - Thật tiếc, thưa ngài Cartrait, tôi sẽ chẳng giúp gì được cho ngài. Trong lúc này tôi rất bận. Thêm nữa, lại vừa kết thúc một vụ tố tụng khó khăn và... - Tôi biết, tôi biết, - Cartrait cắt lời ông. - Và ngài nghĩ rằng tôi là một gã thần kinh. Ngài cho rằng tôi đề nghị ngài một thứ vặt vãnh gì đó. Đâu phải như thế. Tôi đề nghị ngài làm một việc cực kì quan trọng. Và tôi đến với ngài chính là bởi vì ngài đã thắng vụ tố tụng ấy. Tôi theo dõi tiến trình của nó, thậm chí đã đến phòng xử án để nghe ngài. Ngài là một trạng sư chân chính. Lần nào ngài cũng vượt lên trước biện lí tối thiểu là một nước đi. Mason mỉm cười yếu ớt. - Cảm ơn vì những lời tốt lành, ngài Cartrait ạ, nhưng xin ngài hiểu cho. Tôi là luật sư tư pháp. Việc lập các bản di chúc không phải là lĩnh vực của tôi, còn tất cả những gì dính líu đến con chó, thì chúng ta có thể điều chỉnh được mà không cần sự can thiệp của luật sư. - Không! - Cartrait kêu lên. - Ngài chưa biết Fouli đấy thôi. Ngài không tưởng tượng nổi đó là hạng người thế nào đâu. Có thể là ngài nghĩ rằng tôi không có tiền? Tôi có tiền, và tôi sẽ trả rất khá cho ngài, - ông ta lôi từ túi ra cái ví căng phồng, mở nó, bàn tay run rẩy rút ra ba tờ giấy bạc và đặt chúng lên bàn. - Ba trăm đôla. Đó là đặt cọc. Sau này ngài sẽ được nhận nhiều hơn. Các ngón tay của Mason đánh nhịp trên mặt bàn. - Thưa ngài Cartrait, - ông thốt ra dè dặt, - nếu ngài muốn để tôi làm luật sư cho ngài, tôi yêu cầu lưu ý tới điểm sau: Tôi sẽ chỉ làm điều gì mà theo niềm tin của tôi là đem lại lợi ích cho ngài. Chắc ngài hiểu? - Tôi mong được như thế. - Có nghĩa là tự tôi sẽ quyết nên làm gì để bảo vệ trọn vẹn nhất các quyền lợi của ngài. - Tốt, - Cartrait đáp. Mason cầm tiền ở bàn và bỏ chúng vào túi. - Đã thoả thuận xong. Tôi sẽ đại diện cho ngài trong vụ này. Nghĩa là ngài muốn Fouli bị bắt? - Vâng. - Đành thế, điều đó cũng không phức tạp gì lắm. Ngài cần đâm đơn kiện, và chánh án sẽ viết lệnh bắt giữ. Nhưng tại sao ngài lại nhờ cậy tôi? Ngài muốn để tôi giữ vai trò đại diện của nguyên cáo? - Ngài chưa biết Fouli, - Artur Cartrait nhắc lại. - Lão sẽ chẳng để cho yên thế đâu. Lão sẽ đâm đơn ra toà hặc tôi vì sự buộc tội giả trá. Có thể là lão bắt con chó tru, nhằm nhử tôi vào bẫy đấy. - Con chó giống gì? - Bécgiê cảnh sát to tướng. Perry Mason liếc nhìn Cartrait và mỉm cười. - Nếu người đưa đơn kiện đã sơ bộ nhờ đến luật sư, kể hết với ông ta tất cả không che giấu điều gì, và trong tương lai tuân thủ các lời khuyên của luật sư, thì trong khi xem xét tố tụng về sự buộc tội giả trá, điều đó sẽ có lợi cho người kiện. Còn bây giờ, tôi muốn làm để sao cho Clinton Fouli không có nguyên cớ đâm đơn kiện ngài lên toà. Tôi sẽ đưa ngài đến gặp trợ lí ngài biện lí khu, người phụ trách những vấn đề tương tự. Tôi muốn để ngài nhắc lại với ông ấy tất cả những gì liên quan đến con chó. Có thể không nhắc tới bản di chúc. Nếu ông ấy quyết rằng điều ngài nói là đủ để có lệnh bắt giam, thì lệnh sẽ được viết. Nhưng tôi cảnh báo trước, ngài không nên giấu giếm gì cả. Hãy đưa ra trước ông ấy tất cả các cứ liệu, và lúc ấy bất cứ đơn kiện nào của Fouli cũng không làm hại được ngài. Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Giờ ngài mới nói ra vấn đề. Chính tôi cần một lời khuyên như thế. Chúng ta tìm ông trợ lí ở đâu đây? - Bây giờ tôi sẽ gọi điện thoại cho ông ấy và thỏa thuận về cuộc gặp, - Mason đáp. - Xin thứ lỗi, tôi phải ra ngoài một lát. Xin ngài hãy cứ tự nhiên như ở nhà vậy. - Hãy cố thoả thuận với ông ấy vào ngay hôm nay. Tôi sẽ không chịu đựng thêm nổi một đêm nữa với con chó tru đâu. Khi Mason rời khỏi văn phòng, Cartrait lấy thuốc lá ra. Để châm thuốc, ông ta buộc phải lấy tay khác đỡ bàn tay cầm que diêm... Ở phòng tiếp khách Della Street ngẩng đầu lên. - Bị cắm sừng à? - Cô hỏi. - Tôi không biết, - Mason đáp, - nhưng tôi cố làm sáng tỏ điều đó. Hãy nối tôi với Pit Dorcas. Tôi dự định chuyển vụ này cho ông ta. Trong khi Della quay số, Mason đứng cạnh cửa sổ, ngó xuống cái giếng xi măng, từ đó vọng lại tiếng động của xe cộ. Dorcas ở đầu dây. Mason quay lại, đi đến chiếc bàn đặt trong góc phòng tiếp khách và nhấc ống nói. - Chào anh Pit. Perry Mason đây. Tôi sẽ đưa khách hàng của tôi tới chỗ anh, nhưng tôi muốn cho anh biết trước vấn đề nói về việc gì. - Ông ta cần gì? - Ông ta muốn đâm đơn kiện. - Về lí do gì? - Về con chó tru. - Về... - Phải, phải, con chó tru. Hình như trong khu chúng ta đã có một nghị định cấm giữ chó tru sủa trong vùng dân cư. - Đúng là có, nhưng có ai để ý đến nó đâu. Chí ít tôi cũng chưa vấp phải những lời than phiền như thế. - Đây là trường hợp đặc biệt. Khách hàng của tôi đang phát điên hoặc đã điên rồi vì tiếng tru này. - Chỉ vì tiếng chó tru ấy à? - Tôi muốn làm sáng tỏ chính cái điều đó. Nếu khách hàng của tôi cần đến sự giúp đỡ về y tế, hẳn tôi muốn để ông ta nhận được nó. Chính anh cũng hiểu, ở người này tiếng chó tru chỉ gây ra sự bực bội, với người khác có thể làm họ phát điên. - Điều đó là chính xác, - Dorcas đồng ý. - Anh đưa ông ta đến gặp tôi chứ? - Vâng. Và tôi muốn buổi trò chuyện của chúng ta diễn ra với sự có mặt của nhà tâm thần học. Không nên nói với ông ta đó là bác sĩ, anh cứ giới thiệu ông ấy như trợ lí của anh, và cứ để ông ấy đặt vài ba câu hỏi. Lúc đó, chắc chắn chúng ta sẽ rõ ngay trạng thái tâm lí khách hàng của tôi. - Tôi sẽ đợi các anh, - ngừng một chút, Dorcas nói. - Chúng tôi sẽ có mặt sau mười lăm phút. - Mason đặt ống nói xuống. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #04: Tiếng Chó Tru Trong Đêm của tác giả Erle Stanley Gardner.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chết Như Chơi - Agatha Christie
Chết Như Chơi (Murder is Easy) là tác phẩm tiểu thuyết trinh thám của Agatha Christie và được xuất bản lần đầu tiên ở Anh bởi Collins Crime Club vào ngày 5 tháng 6 năm 1939 và tại Hoa Kỳ bởi Dodd, Mead và Company vào tháng 9 cùng năm với tiêu đề Easy to Kill. Những vụ án mạng hàng loạt mà thủ phạm là nhân vật không ai ngờ đến. Một câu chuyện hồi hộp, kỳ bí, rùng rợn nhưng cũng đầy lãng mạn.  "...Waynflete cúi người xuống, nhếch mép cười, ánh mắt cuồng loạn... Lưỡi dao sáng quắc... Hai bên quần thảo, Bridget cố giật lấy con dao trên tay Wayflete..." *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Chết Như Chơi của tác giả Agatha Christie.
Thám tử Peter và Cái Chết Bí Ẩn
Một tai nạn đáng tiếc xảy ra đối với Dean - một biên tập viên của hãng quảng cáo Pym - bị ngã từ trên tầng xuống và chết ngay vì gãy xương cổ và rách vùng thái dương. Mọi việc cứ bình lặng trôi và cái chết của anh ta cũng dần trôi vào quên lãng, song có một người không nghĩ vậy. Em gái Dean đã nghi ngờ và cho rằng anh mình bị ám sát. Thám tử Peter Wimsey được mời về hãng điều tra. Anh dần phát hiện ra một đường dây buôn bán ma túy diễn ra khởi nguồn từ chuyên mục quảng cáo của hãng Pym. Vụ án xảy ra trong một xã hội thương mại phát triển mạnh, quảng cáo là phương tiện được mọi người quan tâm sử dụng để truyền bá, khuếch trương, tìm tòi và giao lưu tin tức. Bọn tội phạm ma túy đã tận dụng và khai thác triệt để mặt mạnh này. Thông qua cách thức quảng cáo một mặt hàng, chúng đã thông báo, phối hợp với nhau thời điểm và địa chỉ mua bán giao nhận ma túy. Một hệ thống chặt chẽ cho từng công đoạn buôn bán ma túy đã được thiết lập, không từ một thủ đoạn nào, những ai phát hiện ra sẽ bị thủ tiêu không thương tiếc. Mọi thủ đoạn ngụy trang, ẩn mình của chúng, cảnh sát không dễ gì phát hiện. Bằng những tình tiết nhẹ nhàng và thấm đẫm chất nhân văn, Dorothy Sayers đã dựng nên một Wimsey với khả năng suy đoán sắc sảo, kinh nghiệm điều tra dày dạn, và lòng nhân ái; với các biện pháp nghiệp vụ, anh đã thâm nhập vào hang ổ bọn tội phạm. Chỉ trong một thời gian ngắn, đường dây buôn bán ma túy của bọn chúng dần dần bị phát lộ, vụ án đã được phá và để lại trong người đọc những tình cảm tốt đẹp... Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc! NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN *** Dorothy Leigh Sayers (1893 - 1957) được độc giả yêu mến gọi là Dorothy L. Sayers. The Nine Tailors kể về câu chuyện Lord Peter Wimsey giải quyết tội ác mà không phải ai cũng làm được. Một tai nạn đáng tiếc xảy ra đối với Dean – một biên tập viên của hãng quảng cáo Pym – bị ngã từ trên tầng xuống và chết ngay vì gãy xương cổ và rách vùng thái dương. Mọi việc cứ bình lặng trôi và cái chết của anh ta cũng dần trôi vào quên lãng song có một người không nghĩ vậy. Em gái Dean đã nghi ngờ và cho rằng anh mình bị ám sát. Thám tử Peter Wimsey được mời về hãng điều tra. Thám tử Peter  dần phát hiện ra một đường dây buôn bán trao đổi, buôn bán ma tuý diễn ra khởi nguồn từ chuyên mục quảng cáo của hãng Pym. Vụ án xảy ra trong một xã hội thương mại phát triển mạnh, quảng cáo là phường tiện được mọi người quan tâm sử dụng để truyền bá, khuếch trương, tìm tòi và giao lưu tin tức. Bọn tội phạm ma tuý đã tận dụng và khai thác triệt để mặt mạnh này. Thông qua cách thức quảng cáo một mặt hàng, chúng đã thông báo, phối hợp với nhau thời điểm và địa chỉ mua bán giao nhân ma tuý. Một hệ thống chặt chẽ cho từng  công đoạn buôn bán ma tuý đã được thiết lập, không từ một thủ đoạn nào, những ai phát hiện ra sẽ bị thủ tiêu không thương tiếc. Mọi thủ đoạn nguỵ trang, ẩn mình của chúng, cảnh sát không dễ gì phát hiện. *** - A này, - Hankin níu lấy cô Rossiter ngay trên lối đi và nói. - Cô có biết hôm nay chúng ta có một biên tập viên mới về không? - Thế là thế nào ạ? - Một anh chàng Bredon nào đó. Tôi cũng chẳng biết anh ta là ai nữa. Anh ta được ban giám đốc tuyển dụng, chính ông Pym dẫn vào. Các bạn sẽ phải quan tâm đến anh ta đấy. - Vâng, thưa ông Hankin. - Phải xếp cho anh ta ngồi làm việc ở phòng của Dean. - Vâng, thưa ông Hankin. - Chính anh chàng Ingleby là người chịu trách nhiệm phải cho anh ta biết mọi việc ở đây, hẳn là cô đã muốn điều này xảy ra và đẩy anh ta đến với tôi còn gì. - Vâng, thưa ông Hankin. - Bây giờ cô hãy bảo cô Smayle mang lại cho tôi hồ sơ của văn phòng Dairefield được không? - Vâng, thưa ông Hankin. Cô Rossiter ôm lấy cuốn vở ghi chép của mình và với tay kéo cánh cửa khép lại phía sau, rồi nhẹ nhàng bước dọc theo hành lang. Liếc nhìn qua những ô kính trên cánh cửa ra vào của phòng làm việc cạnh đó, cô nhận ra Ingleby đang ngả người trên chiếc ghế bành, hai chân gác trên bộ tản nhiệt của lò sưởi, vừa nói chuyện phiếm với một cô gái mặc bộ đồ xanh, ngồi chênh vênh trên một góc bàn làm việc. Cô Rossiter đẩy cho cửa hé ra và nói với vào: - Xin lỗi đã làm phiền hai vị, - Cô ta nói với vẻ tinh nghịch. - Nhưng ông Hankin cho gọi anh, anh Ingleby ạ! - Tôi đoán chắc lại có chút cà phê Scout gì đây. - Ingleby nghi ngờ đáp. - Không phải thế đâu. Ông ấy muốn gặp anh vì một biên tập viên mới. - Sao cơ? Đã có người thay Dean rồi sao? - Cô gái mặc bộ đồ xanh ngạc nhiên kêu lên. - Người ta vừa mới mai táng người giúp việc đáng thương của mình chẳng được bao lâu mà! - Ồ, cô em gái thân mến, đó là hành vi hiện đại đấy. - Ingleby nói. - Cuối cùng thì... Tôi sẽ cho anh chàng mới này biết mọi thứ. Tôi cứ tự hỏi là tại sao người ta lại cứ bắt tôi phải làm cái trò ngu ngốc này mãi chứ? Cô gái nhún vai: - Ồ, công việc của anh cũng chẳng phức tạp gì lắm đâu... Người mới xin vào đây chỉ cần biết hai điều, đó là sử dụng những chiếc chậu rửa tay đặt trong toa lét cạnh phòng làm việc của ban giám đốc và phải thật cẩn thận đừng để ngã mà vỡ mật trong chiếc cầu thang nhỏ bé kia thôi! - Cô Metayard, cô thật tệ... Miễn là cô đừng có xếp cho anh chàng mới về đó ngồi chung phòng với tôi đấy nhé... - Không phải lo, - Cô Rossiter nói chen ngang. - Bọn em sẽ xếp cho anh ta ngồi trong phòng của chàng Dean. - A, thế ra cô đã thấy anh ta rồi sao? Trông anh ta thế nào? - Em cũng chưa thấy anh ta mà, ông Hankin nói với em là bản thân ông ta cũng chưa biết mặt anh chàng mới này, chính ông Pym là người nhận anh ta về đây làm việc. - Tôi nghĩ là đã thấy anh ta lúc nãy rồi, - Cô Metayard nói - anh ta có mái tóc như con gái, đeo kính gọng đồi mồi, dáng vẻ điệu đà, là thứ người dành cho ảnh viện. Ingleby lại tiếp tục công việc của mình, còn hai cô gái rời chỗ đứng, đi về phía căn phòng các nhân viên đánh máy. Căn phòng này, cũng nhỏ và chật chội, là một thứ đại để như một thứ Phòng-Chờ hay Phòng-Đợi gì đó của hãng quảng cáo, nơi mà mọi người đều có thể lai vãng qua lại để bàn luận về mọi thứ trên đời vì bất kỳ một lý do nào đó. Vào lúc này, cuộc họp càng long trọng thì lại càng ồn ào hơn, vì giờ uống cà phê thường lệ đã đến và vì người ta đã chuẩn bị số lượng phiếu phát ra cho cuộc xổ số ngay trước lúc cuộc đua ngựa của Derby bắt đầu. Đó là một ngày lễ nhỏ hàng năm, qua đó tất cả mọi nhân viên của cơ quan đều được chia sẻ những cảm xúc dân tộc của mình bằng việc mua hàng hoá theo khả năng của mỗi người. Một nữ nhân viên đánh máy, cô Parton, đôi mắt nheo tít lại vì khói từ đầu điếu thuốc cô đang ngậm trên môi phả vào mặt, đang gõ liên hồi tên những con ngựa tham gia thi đấu, do một cô khác đọc. Willis cắt rời tên từng người góp tiền cá cược và xếp vào trong một chiếc mũ. Người đồng chí của cô, Garret, ngồi trên một chiếc giỏ bằng giấy úp ngược, đang buông lời nhạo báng một anh chàng to con, tóc đen, nằm ngả người trong chiếc ghế bành, chăm chú đọc một cuốn tiểu thuyết. Cuối cùng, một cặp đứng tựa vào hai thanh cái của cánh cửa ra vào, vừa hút thuốc lá, vừa tranh luận về cuộc đấu cuối cùng trên sân Wimbledon. - Chào các cô cậu bé bỏng tốt bụng. - Cô Rossiter vui vẻ nói. - Đây là cô Metayard, người sẽ tiến hành xổ số và... tôi cũng báo để các bạn biết là chúng ta sẽ có một biên tập viên mới... - Ngừng một lát, rồi cô nói tiếp. - Hãy nghe một chút đây, ai là người còn chưa đóng góp phần mình cho vòng hoa viếng anh Dean đáng thương đây? Này Garret, cậu sẽ trả công cho tôi chứ? - Tôi sẽ chẳng trả cho chị một đồng xu cạch nào trước ngày thứ bảy. - Anh chàng Garret nói cộc lốc. - Thế còn cà phê này thì sao đây? - Cô Willis hỏi. - Nào, Jones, hãy xem đây, nếu như người phụ việc đem danh mục đến, thì cô, cô em thân mến, cô hãy đánh dấu tên trong danh mục đó với tôi. Chúng ta hãy tiếp tục chọn những con ngựa đã được giao ước... - Hiệp đấu dự định đã bị tuyên bố bãi bỏ rồi, - Garret nói. - Bãi bỏ là thế nào?... thôi được, tôi đã cho ông ấy thắng trong cuộc thi của tờ Morning Star... Ai đã nói cho ông ấy vậy? - Tất cả đều đăng trên mặt báo sáng nay, có một sự cố trong đàn ngựa đua. - Chán không thể chịu được! - Cô Rossiter bật ra tiếng than vãn. - Mình lại vừa mất một cuộc thi hay. Và quay về phía chú bé phụ việc mang cà phê tới, cô ta nói: "Này, cậu có thấy chị dại dột không cơ chứ? Có chứ nhỉ? Đấy, đây mới là điều quan trọng này: bao nhiêu? Một si-ling ăn năm phải không nào? Này cô Parton, cô hãy nói xem, đồng ý cho chị vay một pen-ny đi. Còn bây giờ, ai có bút chì, hãy viết tên của nhân vật mới đó đi xem nào? - Tên anh ta là gì nhỉ? - Bredon. - Anh ta từ đâu đến? - Ông Hankin chẳng biết gì hết trọi; nhưng cô Metayard, người đã nhìn thấy anh ta lại khẳng định rằng trông anh ta giống như một nhân vật của ngành điện ảnh vậy. - Đó là một kẻ ngu ngốc đã giành mất những gì mà chỉ mới ngày hôm qua thôi vẫn còn là của Derby. Với địa vị của anh ta, thì ngày kia tôi mới đến nhận nhiệm vụ. A! Ingleby đến kia rồi, tin gì anh ta cũng biết tuốt, chắc hẳn anh ta đến nói cho chúng ta đây. Này Ingleby, uống cà phê chứ? Hẳn là cậu có nguồn tin về cái anh chàng có tên là Bredon chứ? - Tóc hoe vàng này, dáng dấp thì cao một mét bảy lăm, mũi dài ngoẵng này, chưa bao giờ làm công tác quảng cáo và đã qua đại học Oxford. - Ô là la!... - Cô Metayard kêu lên. Đúng lúc đó, cánh cửa bật mở và tất cả nghe thấy giọng nói khôi hài của ông Hankin, thủ trưởng của bộ phận. - Này, Ingleby, anh có để cho tôi nói một lát không đây? Ngay tức thì, như có một phép màu, hai người đứng tựa cửa và cô gái đang đọc văn bản cho cô Parton đang đánh máy kia, đều lẩn đâu mất tăm. Còn Willis vớ ngay lấy một tờ giấy và cắm mặt vào đó nghiên cứu với vẻ vô cùng chăm chú, say mê; điếu thuốc lá cô Parton đang hút dở, vụt biến mất. Chỉ còn mình Garret, không kịp tống khứ tách cà phê của mình đi đâu, liền ra vẻ dửng dưng, cô Metayard để tờ danh sách ngựa lên một chiếc ghế tựa và ngồi đè lên, còn cô Rossiter gõ liên hồi trên bàn phím chiếc máy chữ. Như vậy, chỉ còn mỗi mình lngleby là vẫn coi thường sự có mặt của sếp lớn. Anh này cậy có mưu cao, biến báo giỏi, lúc này quay ngay về phía tiếng nói vọng lại với nụ cười kiêu kỳ nở rạng trên môi, đáp lại tiếng của sếp và bước ra hành lang đón ông ta. Hankin đi cùng biên tập viên mới, ông ta nói: - Xin giới thiệu với các bạn đây là anh Bredon, - Ông ta nói, tỏ ra không có điều gì bất thường. - Anh Ingleby, tôi mong anh cho anh đây rõ mọi sự trong cơ quan ta. Tôi vừa cho mang đến phòng làm việc của anh toàn bộ các hồ sơ sản phẩm. Ông ta quay sang phía Bredon. - Anh hãy cố làm cho chúng tôi những chiếc cột quảng cáo thật rực rỡ. Đó là món quà có ý nghĩa nhất cho sự ra mắt đồng thời cho sự khởi đầu công việc của anh. Một khi anh có ý tưởng nào đó, hãy tới phòng làm việc của tôi, trình bày cho tôi rõ. - Hẳn là vậy rồi. - Bredon trả lời. Ông Hankin quay người, bước đi như đang nhảy một vũ điệu. - Còn bây giờ, - Ingleby bước vào phòng đánh máy vừa dắt theo biên tập viên mới, vừa nói: - Ngay bây giờ, tôi xin giới thiệu các bạn với anh Bredon. Trước hết, đây là cô Rossiter và cô Parton, hai thiên thần hộ mệnh của chúng ta. Chúng ta chỉ cần viết, còn các cô sẽ gõ thành văn bản và sửa lỗi chính tả, hai cô còn cấp phát cho chúng ta đồ dùng văn phòng phẩm và cả cà-phê nữa. Cô Parton có bộ tóc hoe vàng, còn cô Rossiter, có mái tóc đen. Mời các bạn đón đọc Thám tử Peter và Cái Chết Bí Ẩn của tác giả Dorothy L. Sayer.
Cánh Cửa Mặt Trăng - Asami Ishimochi
Vào ngày xảy ra hiện tượng nguyệt thực toàn phần, khi mặt trăng bị che khuất hoàn toàn, cánh cửa dẫn tới một thế giới khác tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn sẽ mở ra. Ishimine Takashi muốn bước qua cánh cửa đó và sống mãi mãi hạnh phúc cùng những học trò của ông. Nhưng một rủi ro đáng tiếc đã xảy ra khiến ông bị bắt trước thời điểm quan trọng đó đúng ba ngày. Ba người học trò thân tín nhất của Ishimine lên một kế hoạch táo bạo – cướp máy bay – nhằm mục đích buộc Sở cảnh sát tỉnh Okinawa phải thả Ishimine vào đúng buổi tối diễn ra nguyệt thực toàn phần. Liệu kế hoạch của họ có thành công? Liệu Ishimine và những học trò của ông có kịp bước qua khi cánh cửa mặt trăng mở ra? Một câu chuyện mang nhiều tình tiết kỳ lạ và bí ẩn với cái kết đầy ly kỳ sẽ khiến bạn không thể rời mắt khỏi từng trang sách. *** Cánh cửa mặt trăng - Asami Ishimochi Cảm nhận đầu tiên sau khi đọc xong: Tuyệt vời Đọc những dòng đầu tiên tôi suýt nữa không nhận ra đây là truyện Nhật bởi lối viết rất lạ, nội dung hấp dẫn. Cuốn truyện kể về hành động táo bạo của ba người học trò của Ishimine Takashi, với ước nguyện "sư phụ" sẽ dẫn được mình và những người của hội trại mở ra cánh cửa mặt trăng vào ngày nguyệt thực toàn phần, tất cả sẽ tới một thế giới khác tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Có lẽ đây là một đề tài lạ. ( SPOIL: Ishimine Takashi là người tổ chức hội trại nhằm "hàn gắn tổn thương tâm lý của thiếu niên", ông đã cứu giúp được nhiều người nhưng vì một lý do ngoài ý muốn nên bị tạm giam trước ngày mở ra cánh cửa mặt trăng, cánh cửa đi tới cõi vĩnh hằng.) Cuốn truyện chỉ chia làm hai chương: chương mở đầu và chương kết thúc, một điểm lạ trong cách thể hiện truyện, nhưng có lẽ đã thực hiện được đúng "âm mưu" của tác giả và biên tập: mạch truyện cuốn người đọc. Đọc truyện như không thể dứt ra được để đi làm việc khác, đơn giản mà cuốn hút, tình tiết kỳ lạ và bí ẩn. Tác giả viết đan xen giữa thực tại và hồi tưởng, sự kỳ bí trong tâm lý nhân vật. Tôi không phải fan ruột của các tác phẩm trinh thám nên đánh giá yếu tố trinh thám của tác phẩm khá là ổn, lập luận logic. Kết thúc truyện khá bất ngờ, nhưng đủ làm độc giả thỏa mãn, có lẽ nếu còn gì tiếc nuối thì chỉ là gợi nhiều hơn đào sâu vào sư phụ Ishimine Takashi. Giấy ổn, cỡ chữ đủ to rõ ràng dễ đọc, bìa siêu đẹp Tôi là người tốt nên đánh giá 9/10 :)) Review Linh Lee *** Định nghĩa hạnh phúc mà ta vẫn biết là định nghĩa của thế giới, ngay từ khi sinh ra ta đã bị áp đặt và mải miết chạy theo nó. Nhưng hạnh phúc có thực sự là “hạnh phúc”? Cánh cửa mặt trăng là câu chuyện lạ kỳ, khó có thể phân định rạch ròi đây là một tác phẩm trinh thám hay một cuốn tiểu thuyết giả tưởng đậm chất trinh thám. Chỉ có điều, một khi đã bắt đầu với câu chuyện này, thật khó để dứt ra khỏi những trang sách cho đến khi đọc dòng kết để trả lời cho câu hỏi “Liệu có thật hay không, một thế giới tái sinh - nơi con người ta sẽ vĩnh viễn hạnh phúc?” Nhân vật chính trong cuốn sách là cô gái 24 tuổi Satomi, người đàn ông Makabe 37 tuổi và Kakizaki 46 tuổi. Họ đều là tình nguyện viên trong một hội trại dành cho những em nhỏ không thể hòa nhập với xã hội. Nhiều năm trước, họ cũng nằm trong số những người đã tham gia hội trại này và được người thầy Ishimine Takeshi chữa lành tổn thương. Từ đó, họ vẫn luôn gọi người đàn ông có khả năng hàn gắn vết thương tâm hồn ấy là “sư phụ”. Cả ba người Satomi, Makabe và Kakizaki đều mong ước sẽ cùng với sư phụ của họ bước đến một thế giới khác thông qua cánh cửa mặt trăng. Họ đã tin rằng: “Vào ngày xảy ra hiện tượng nguyệt thực toàn phần, khi mặt trăng bị che khuất hoàn toàn, cánh cửa dẫn tới một thế giới khác tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn sẽ mở ra”.  Họ lấy đó làm mục tiêu sống của mình trong những ngày còn lại trước khi nguyệt thực diễn ra. Thế nhưng, chỉ 3 ngày trước ngày đã định, sư phụ Ishimine Takeshi đột nhiên bị cảnh sát bắt vì một tội mà ông không hề làm. Với khao khát từ bỏ thế giới này, ba con người đã lên kế hoạch tỉ mỉ về một vụ cướp máy bay, bắt các hành khách làm con tin để đe dọa cảnh sát phải đưa Ishimine Takeshi đến gặp họ. Kế hoạch tưởng như diễn ra đúng như dự đoán, nhưng không ngờ, cái chết đột ngột, không rõ ràng của một con tin trong số 240 hành khách trên máy bay đã làm mọi sự vượt cả tầm kiểm soát… Trong phòng vệ sinh của máy bay, một người phụ nữ nằm trong vũng máu. Tắc thở. Trong tất cả hành khách, phi hành đoàn đều đang ngồi yên trước sự chứng kiến của ba kẻ bắt cóc. Là chị ta đã tự sát? Có thể nào còn một kẻ khả nghi đã ẩn nấp trong máy bay từ trước? Hoặc tên giết người, thậm chí có thể ra tay ngay cả khi không cần trực tiếp đối mặt với nạn nhân? Và cái chết đột ngột của người đàn bà liệu có làm chùn chân những kẻ bắt cóc không-định-giết-người? Với cách kể xen kẽ giữa hiện tại và quá khứ, câu chuyện của nhà văn Ishimochi Asami dẫn dắt người đọc vào từng chi tiết diễn biến. Từ cách mà ba nhân vật chính chuẩn bị cho cuộc “không tặc” của họ.  Họ mang theo vũ khí đi qua được cửa kiểm soát, phương án dự phòng không kẽ hở để bắt con tin, gửi tin cho báo chí để tạo sức ép dư luận lên phía cảnh sát... cho đến cách các nhân vật suy luận để lật từng lớp từng lớp bí ẩn của vụ án bất ngờ trên máy bay. Tất cả vụ việc hé mở từng chút một, bao gồm cả diễn biến của cuộc không tặc lẫn nguyên nhân cội nguồn của tất cả. Cùng với diễn biến của sự việc, cảm xúc và tâm lý của từng nhân vật cũng dần bộc lộ. Trong đó, quan điểm về thế giới hạnh phúc vĩnh hằng được đưa ra cũng khiến người đọc phải suy nghĩ: “Mọi người đã sinh ra trong cuộc đời này, phải đuổi theo niềm hạnh phúc theo cách của thế giới này”. Định nghĩa về hạnh phúc mà chúng ta vẫn biết là định nghĩa của thế giới, của đám đông, ngay từ khi sinh ra ta đã bị áp đặt những định nghĩa đó lên mình và mải miết chạy theo nó. Nhưng hạnh phúc có thực sự là “hạnh phúc”? Với những người như Satomi, Makabe và Kakizaki, hạnh phúc vĩnh hằng là “có thể đi đến được “phía bên kia’”, là “rời khỏi thế giới với vô số những thứ dơ bẩn đang tích tụ, để đến một thế giới tĩnh lặng”- một “thế giới hòa bình nơi chỉ có sự trong sạch”. Cánh cửa mặt trăng đã được xuất bản tại Nhật vào năm 2003. Tác phẩm được đề cử giải thưởng của Hội Nhà văn Trinh thám Nhật Bản. Đây cũng là tác phẩm thứ hai của tác giả Ishimochi Asami sau truyện dài Đóa hồng Ireland được đề cử giải KAPPA-ONE của Nhà xuất bản Kobunsha.   Mời các bạn đón đọc Cánh Cửa Mặt Trăng của tác giả Asami Ishimochi.
Tôi Du Hành Một Mình - Samuel Bjørk
Sáu năm trước, một bé gái sơ sinh bị bắt cóc tại bệnh viện Ringerika ở Honefoss. Sáu năm sau, một bé gái sáu tuổi bị treo lơ lửng trên cây bởi sợi dây nhảy quanh cổ. Cô bé mặc kiểu váy búp bê kỳ lạ. Trên ngực đeo mảnh giấy ghi dòng chữ: Tôi du hành một mình. Khi đó, Mia Krüger, nữ cảnh sát điều tra tài năng, đang ẩn mình trên hòn đảo cô lập ngoài biển. Đắm chìm trong ký ức buồn đau, cô đã tự ấn định thời hạn cuộc đời mình. Bất ngờ, Holger Munch xuất hiện, đem theo những bức ảnh. Khi nhìn thấy số 1 khắc trên móng tay bé gái, Mia biết đây mới chỉ là khởi đầu một chuỗi án mạng bi thảm. Và dù không còn thiết tha cuộc sống, cô nhận lời trở về Oslo, cùng đồng đội đối đầu tên sát nhân xảo trá từng phút giây nghẹt thở… cho đến tận kết thúc sững sờ! Tiểu thuyết Tôi Du Hành Một Mình được dịch ra 22 thứ tiếng trên thế giới, được nhiều tạp chí có uy tín xếp vào danh mục sách bán chạy của thế giới, đứng đầu danh sách sách bán chạy của báo Đức Der Spiegel. *** “Nếu đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay, nó chẳng khác nào một hiện tượng văn chương.” – Bergens Tirende (Na Uy) “Một hơi thở mới trong cộng đồng văn học trinh thám đông đúc của vùng Scandinavia, cuốn tiểu thuyết hồi hộp sẽ cuốn hút độc gia, khiến họ nôn nóng không yên đến tận trang cuối cùng.” – Library Journal *** Một bé gái được phát hiện chết trong tư thế bị treo cổ, mặc một chiếc váy búp bê màu trắng và đeo cặp sách chuẩn bị lần đầu tiên đi học. Mia Kruger, một nữ điều tra viên tài năng đang có ý định tự kết liễu chính mình đã hoãn lại ý định và trở lại với công việc cùng đội trọng án khi phát hiện rằng cái chết của đứa bé này chỉ là khởi đầu cho một loạt bi kịch. Truyện được kể từ rất nhiều góc nhìn của nhiều nhân vật, mỗi nhân vật giữ một mảnh ghép nhỏ để những điều tra viên tìm ra và lắp ghép chúng thành một bức tranh hoàn chỉnh. Cách này vừa giúp tạo ra cái nhìn đa diện và toàn cảnh cho vụ án vừa là cách tung hỏa mù khá sơ đẳng để người đọc tha hồ đoán già đoán non – nhưng đừng nên đoán quá sớm. Tuy nhiên viết kiểu này dễ gây cảm giác khó chịu dông dài và tác giả đã vướng phải lỗi đó. Quá nhiều nhân vật và góc nhìn sinh ra quá nhiều sự kiện và mâu thuẫn mà đến cuối cùng thì tác giả đã không xử lý hết và để lại một cái kết dở dang. Khu nhà thờ với những nhân vật bí ẩn sau đó như thế nào? Phát súng giết người kia cũng không liên quan đến mạch truyện chính, mối liên kết giữa nhà thờ và thủ phạm cũng khá yếu, kể cả động cơ của thủ phạm liên quan đến vụ án mất tích sáu năm về trước cũng không thuyết phục. Văn phong bình thường không có gì chê cũng không có gì khen, không hề hài hước ở những đoạn nên hài hước, không khí toàn truyện cũng không gây cảm giác lạnh lẽo rùng mình cần có. Mạch truyện rất chậm ở phần đầu do dàn trải qua nhiều góc nhìn, đến phần cuối thì lại kết thúc vội vã cho xong truyện. Việc chuyển góc nhìn qua nhiều nhân vật làm cảm xúc bị ngắt quãng nên rất khó tạo sự hồi hộp. Tâm lý nhân vật quá bình thường nếu không muốn nói là còn hời hợt. Hai điều tra chính của truyện là Mia và cấp trên Holger Munch được xây dựng là những người tài năng, thông minh và nhiều kinh nghiệm nhưng những gì họ thể hiện trong phần này chưa xứng tầm với lời khen đó. Mia đôi khi có linh cảm rất tốt và theo đuổi đúng hướng vụ án nhưng tâm trí bị vướng bận quá nhiều trong chứng nghiện rượu và thuốc nên chưa thể hiện được hết bản lĩnh, đã thế còn bị thủ phạm khống chế hoàn toàn. Thủ phạm không phải là quá thông minh mà ăn điểm ở việc lên kế hoạch kỹ càng, và cứ thế nghiễm nhiên qua mặt hết cả đội trọng án.    Quyển sách dừng lại ở mức bình thường, motif không mới mẻ, không có gì quá ấn tượng đặc sắc để có thể tự tin giới thiệu đến người khác. Đánh giá: 3/5. Yêu thích: 2.5/5. Review Winny Nguyễn Mời các bạn đón đọc Tôi Du Hành Một Mình của tác giả Samuel Bjørk.