Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Candide - Chàng Ngây Thơ

Từ khi ra đời, Candide hay chủ nghĩa lạc quan (Candide ou l’optimisme) đã gắn liền với tên tuổi của Voltaire và trở thành một trong những tác phẩm kinh điển cả về văn chương lẫn triết lý. Candide luôn có mặt trong tất cả các tuyển tập tác phẩm văn xuôi của Voltaire. Bên cạnh Zadig, Memnon, Micromégas, đó là tác phẩm lừng danh nhất của ông, nhiều khi được đánh giá là tác phẩm văn chương giàu tính triết học nhất mà Voltaire từng viết. Tuyển tập tác phẩm gần đây nhất của tủ sách La Pléiade, được tập hợp dưới cái tên “Romans et contes” (tiểu thuyết và truyện) có 26 tác phẩm, thì Candide được xếp thứ 11, nghĩa là ở vào khoảng giữa, và cũng thường được coi là được viết vào giai đoạn Voltaire đạt đến đỉnh cao của tài năng. Tác phẩm được viết để trả lời cho triết thuyết của Rousseau về Thượng đế và nhất là để phản đối chủ trương của triết gia Leibniz, theo đó mọi sự trên đời đều sẽ càng ngày càng hoàn thiện hơn, nên con người phải lạc quan. Ông đưa ra một nhân vật chính, có tính tình chất phác, quá lạc quan, thật thà đến mức ngây thơ nên người ta phải gọi là “chàng Ngây Thơ”. Chàng trải qua bao nhiêu tai biến, hoạn nạn mà vẫn cứ khờ khạo, tin vào lời của thầy là triết gia Pangloss dạy rằng cứ lạc quan, thế gian sẽ hoàn thiện. Chàng đã gặp bao nhiêu ngang trái, bao nhiêu bất công, nghịch cảnh, bị hoạn nạn, gian nan, chìm nổi song vẫn không tìm được hạnh phúc mà chàng đặt vào một người đẹp, người yêu tha thiết của chàng. Lưu lạc vào một thế giới hoàng kim (xứ Eldorado, một xứ tưởng tượng) chàng lấy về được ngọc vàng châu báu kim cương, đủ thành một tài sản đưa chàng lên địa vị người giàu mạnh nhất thế giới; vậy mà, đến khi tìm được người đẹp, thì nàng hết nhan sắc, trở thành nô lệ, từng bị bán đi bán lại nhiều lần; cuộc sống sóng gió của nàng đã làm cho nàng hết đẹp, lại còn sinh tính nóng nảy, cục cằn. Lúc này đã hết tiền, chàng chỉ có thể mua một miếng vườn để cùng vợ và các bạn cũ sống đời an phận thủ thường. Tuy nhiên, nếu cuộc sống là tồi tệ, thì một ngày nào đó, mọi việc rồi sẽ tốt, đó là hy vọng của chúng ta.” Chống đối một lý thuyết trừu tượng hão huyền, Voltaire đề xuất một hoạt động cho sự vận hành của loài người: “hãy trồng trọt khu vườn của chúng ta,” khu vườn ấy chính là thế giới. Sự khẳng định chủ đề này đảm bảo cho sự thống nhất của những cuộc phiêu lưu khác nhau của Candide, được thuật lại bằng một phong cách sinh động, được tạo nên từ sự chối tai khôi hài và lúc nào cũng thấm đượm sự mỉa mai, trào lộng. *** GIỚI THIỆU TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM VOLTAIRE (1694-1778) Voltaire (tên thật là François-Marie Arouet) sinh tại Paris (1694-1778) là văn hào Pháp đã sống một cuộc sống sôi nổi, có tính ham thích tìm hiểu những gì mới lạ và những trạng thái xã hội đương thời. Ông viết rất nhiều, đủ loại: tiểu thuyết, triết lý, truyện ngắn, kịch bản và thơ. Với một giọng văn châm biếm, ông nói lên những bất bình trước sự kỳ thị tôn giáo, trước sự xâm phạm tự do cá nhân; cuốn Correspondance (Thư tín) của ông gồm đến 18.000 bức thư. Vì thái độ không xu thời, ông đã bị các nhà quyền quý thù oán, muốn làm hại; đã có hồi ông phải trốn tránh ở nhà một phụ nữ có thế lực là bà du Châtelet ở Cirey trong một thời gian. Ông du lịch ngoại quốc khá nhiều, nhất là ở nước Anh, một nước mà ông tin tưởng là có chế độ xã hội hoàn thiện hơn nước Pháp; ông học văn chương Anh, viết sách bằng Anh ngữ để phát biểu tư tưởng. Cuốn Candide - Chàng Ngây Thơ của ông nhằm mục đích trả lời cho triết thuyết của Rousseau về Thượng đế và nhất là để phản đối chủ trương của triết gia Leibniz, theo đó mọi sự trên đời đều sẽ càng ngày càng hoàn thiện hơn, nên con người phải lạc quan.  Ông đưa ra một nhân vật chính, có tính tình chất phác, quá lạc quan, thật thà đến mức ngây thơ nên người ta phải gọi là “chàng Ngây Thơ”. Chàng trải qua bao nhiêu tai biến, hoạn nạn mà vẫn cứ khờ khạo, tin vào lời của thầy mình là triết gia Pangloss dạy rằng cứ lạc quan, thế gian sẽ hoàn thiện. Chàng đã gặp bao nhiêu ngang trái, bao nhiêu bất công, nghịch cảnh, bị hoạn nạn, gian nan, chìm nổi song vẫn không tìm được hạnh phúc mà chàng đặt vào một người đẹp, người yêu tha thiết của chàng. Lưu lạc vào một thế giới hoàng kim (xứ Eldorado, một xứ tưởng tượng) chàng lấy về được ngọc vàng châu báu kim cương, đủ thành một tài sản đưa chàng lên địa vị người giàu mạnh nhất thế giới; vậy mà, đến khi tìm được người đẹp, thì nàng hết nhan sắc, trở thành nô lệ, từng bị bán đi bán lại nhiều lần; cuộc sống sóng gió của nàng đã làm cho nàng hết đẹp, lại còn sinh tính nóng nảy, cục cằn. Lúc này đã hết tiền, chàng chỉ có thể mua một miếng vườn để cùng vợ và các bạn cũ sống đời an phận thủ thường. Cuốn Candide khai thác các thực tại xã hội, chiến tranh chết chóc, động đất, dịch hạch, một thuỷ sư đô đốc bị xử bắn, một nữ tài tử chết không có quan tài, một công nhân bị chủ chặt tay chân. Bao nhiêu bất công trong một chế độ phong kiến tàn ác. Tác giả đưa ra một bài học: sống trên đời, nên bác bỏ các thuyết lý viển vông, quá cao xa, nên sống thực tế và trông vào sự làm việc mới tạo được hạnh phúc. Cần nói thêm rằng cuốn Candide xúc phạm đến nhiều nhà quyền quý, nên tác giả khi xuất bản phải ký một biệt hiệu khác, chứ không ký là Voltaire, vì sợ bị trả thù. Ông lo xa cũng đúng vì cuốn Candide ngày 2 tháng Ba năm 1759 bị hội đồng Genève tố cáo và ra lệnh hỏa thiêu (đem đốt ở nơi công cộng).  *** VIẾT SỰ NGÂY THƠ Cao Việt Dũng Candide rời khỏi thiên đường: đó là motif lặp lại ít nhất hai lần trong Candide. Thiên đường đầu tiên chính là lâu đài của ngài nam tước Thunder-ten-tronckh xứ Westphalie, nơi hội tụ sự vĩ đại đáng kể của trần thế (hóa thân là ngài nam tước), tình yêu nồng nàn (với nàng Cunégonde xinh đẹp) và tri thức toàn vẹn (ở tiến sĩ Pangloss, người thầy của Candide) - “Chàng kết luận rằng sau cái diễm phúc được sinh ra là nam tước Thunder-ten-tronckh, đến cái diễm phúc bậc nhì là được sinh ra là cô Cunégonde; kế đến diễm phúc bậc ba là được nhìn thấy cô suốt ngày và sau chót diễm phúc bậc tư là được nghe những lời thuyết giảng của Pangloss tiên sinh, triết gia giỏi nhất trong tỉnh và do đó là triết gia giỏi nhất hoàn cầu” (tr.30). Thiên đường thứ hai, xứ Eldorado khó đến khó rời bên Nam Mỹ, là biểu tượng của tiền bạc. Vấn đề Candide phải đối mặt là những thiên đường đó không bền vững, lâu đài của ngài nam tước là nơi chàng không thể ở (vì bị đuổi đi), Eldorado là nơi chàng không muốn ở và tự nguyện rời đi. Cho đến cuối truyện, một thiên đường khác khiêm tốn hơn nhiều lần lại xuất hiện, và lần này thì chúng ta không biết Candide ở đó trong bao lâu; nhiều khả năng là vĩnh viễn, như việc kết thúc tác phẩm tại đó gợi ý. Có thể nói rằng Candide phải rời khỏi các thiên đường vì đức tính “ngây thơ” nằm ngay trong cái tên của chàng (“candide” trong tiếng Pháp là tính từ của “candeur”, dùng để chỉ phẩm chất ngây thơ và thuần khiết của một tâm hồn), còn sở dĩ chàng vẫn tiếp tục đến được các thiên đường sau này là nhờ phẩm chất thứ hai đặc trưng của chàng, “lạc quan” (nhan đề đầy đủ của tác phẩm là Candide ou l’optimisme, “Candide hay chủ nghĩa lạc quan”). Điều đáng ngạc nhiên là chủ đề kép mang đầy tính đạo đức này lại được xử lý dưới ngòi bút của một nhà văn như Voltaire, một người không mấy có danh tiếng về cả “ngây thơ” lẫn “lạc quan”. * Sự bi quan mà Voltaire dành cho cuộc đời nói chung bắt nguồn từ những sự kiện mà chính ông vấp phải. Khi còn trẻ, ông đã bị tống ngục Bastille vì viết các tác phẩm châm biếm đả kích quan Nhiếp chính thời đó, và sẽ nhiều lần nữa quay trở lại nơi đây, đến năm 1726 lại vì xích mích với hiệp sĩ de Rohan mà bị nhà quý tộc cho người lấy gậy đánh đập ngay trên phố, sau đó còn phải lưu vong sang Anh. Bi quan với con người và với xã hội vẫn chưa phải là tất cả, Voltaire còn bi quan cả với thiên nhiên. Năm 1759 khi Voltaire cho in Candide (các chuyên gia về Voltaire thống nhất cho rằng tác phẩm được viết một năm trước đó) cũng là khi triết gia mới tậu được cơ ngơi ở Genève và bắt đầu thực sự biết đến cảnh thoải mái về vật chất và thực hiện được “giấc mơ khu vườn” đã có trong đầu từ lâu nay (chúng ta hiểu vì sao “thiên đường thứ ba” trong Candide nhất thiết phải có khu vườn!) Tuy nhiên, trong cảnh điền viên đó, những tiếng vọng bi thảm từ thế giới bên ngoài dội về vẫn rất mạnh mẽ: hai thảm họa diễn ra liền trong hai năm: động đất lớn ở Lisbonne cuối năm 1775 và những viễn cảnh kinh hoàng của cuộc chiến tranh Bảy năm từ Đức lan tới. Cuộc động đất là nguồn gốc cho bài thơ dài thuộc loại nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác văn chương của Voltaire (ngoài các vở kịch và những tác phẩm văn xuôi giống như Candide, Zadig hay Memnori), và cũng được tái hiện trong Candide, được viết không lâu sau khi xảy ra sự kiện (các chương IV, V, VI của tác phẩm), nơi Candide mất đi nhà từ thiện Jacques và đồng thời tiến sĩ Pangloss bị treo cổ. Giọng văn của Voltaire cũng không bao giờ ngây thơ. Ngay trong Candide, ông cũng dành cả một chương dài (chương XXII) để đả kích cay độc thành phố Paris và như thể nhân tiện, tính sổ với một số đối thủ của mình, tiến sĩ triết học Gauchat (“Có cả trăm cuốn sách viết cẩu thả mà không cuốn nào lại cẩu thả bằng sách của Gauchat, tiến sĩ triết học” - tr.150), một tác giả tên là Truble (“Ông ta đã viết ra tất cả những điều mà ai cũng biết”), và đặc biệt, nhà báo Fréron nhận được cả một loạt những lời phỉ báng thực thụ: “Đó là một kẻ xấu miệng, hắn sống bằng nghề nói xấu tất cả các vở kịch, tất cả các diễn viên. Hắn oán ghét ai thành công, như kẻ hoạn quan ghét kẻ còn biết thụ hưởng; hắn là con rắn độc trong văn chương, sống trong nọc độc và bùn lầy. Hắn là kẻ “bán văn” vô loại. - Thế nào là kẻ “bán văn” vô loại? - Nó là một kẻ viết cho đầy giấy, một con rắn độc, kiểu như tên Fréron” (tr.148). Voltaire từng viết cả một vở kịch để chế nhạo riêng Fréron. Đến đây chúng ta nên nói một chút về nhân vật đặc biệt của lịch sử văn chương và báo chí Pháp này. Fréron (1718-1776), từng dạy học rồi bỏ nghề và bỏ luôn cả dòng tu của mình (dòng Tên), gia nhập hội Tam điểm, làm nghề báo và dành rất nhiều tâm trí và thời gian trong sự nghiệp để phản đối và bài xích Voltaire. Fréron không ít lần vào ngục vì thời đó viết báo chuyên để chỉ trích là một việc rất nguy hiểm (nhất là khi tờ báo quá thành công, có quá nhiều độc giả). Tuy nhiên Fréron cũng gây dựng được hai tờ báo rất lớn, không ngừng công kích các nhà triết học nói chung và Voltaire nói riêng, thậm chí cả công trình Bách khoa toàn thư đồ sộ cũng đã có lúc suýt đổ sập vì những lời phản đối của Fréron, vốn rất có uy thế và nhiều quan hệ thời đó. Ngày nay nhìn lại, cuộc đối đầu giữa Voltaire và Fréron thường được coi là cuộc chiến giữa hai bộ óc tuyệt vời nhất của thế kỷ XVIII, một bên là triết gia lừng danh, bên kia là nhà phê bình lớn nhất của thế kỷ. Một bài thơ nổi tiếng của Voltaire viết đại ý nếu có một con rắn cắn Fréron thì nó sẽ lăn ra chết chứ không phải Fréron; Fréron đáp lại sự khiêu khích đó như sau: “Trong câu chuyện này sẽ không có gì là lạ nếu Voltaire chính là con rắn. Quả thực với tôi ông ta đã lăn ra chết vì tức tối và một phần nhỏ vì nọc độc của tôi.” Candide là thêm một cơ hội nữa để đối thủ lớn của Voltaire bị đưa ra chế nhạo thậm tệ, những lời lẽ rất dễ khiến người phát ngôn phải ra tòa dưới hệ thống luật pháp hiện đại. Về sự “xấu tính” (và do đó, không ngây thơ trong trắng) của Voltaire, người ta còn có thể kể rất nhiều câu chuyện. Chẳng hạn như chỉ vì một cuộc tranh chấp một đống củi giữa hàng xóm tại Ferney mà Voltaire sẵn sàng tố cáo Charles de Brosses thiếu trung thực và trong suốt năm năm tiến hành một chiến dịch chống de Brosses, khiến cho nhà thông thái không thể vào được Viện Hàn lâm. Voltaire nhất định không phải là một Candide. Voltaire, đó là một người theo chủ thuyết bi quan (giống như nhà thông thái Martin trong Candide) đem lạc quan ra để bàn; là một người không chút ngây thơ, ông lại đặt tên cho một trong các nhân vật sẽ được hậu thế nhớ nhất từ ông là “chàng Ngây Thơ”. * Thế nhưng, con người Voltaire phức tạp hơn một số tính từ. Là một người có thể gọi là xấu tính, hay để bụng, nhưng đồng thời ông cũng lại chấp nhận đón một nữ hậu duệ nghèo đói của nhà thơ Corneille về Ferney nuôi nấng (cũng chính vì chuyện này mà Voltaire chịu sự chỉ trích của Fréron, người cho rằng triết gia chỉ làm vậy vì mục đích tốt đẹp cho danh tiếng của mình). Ông cũng đứng ra bênh vực Giulio Cesare Vanini, người bị kết tội chết vào năm 1619 vì viết một tác phẩm triết học, và nhất là đã thành công trong việc cứu mạng Jean Calas, một người theo đạo Tin lành ở Toulouse bị kết án giết con trai mình vì anh ta có ý định cải đạo. Vụ việc này kéo dài từ năm 1762 đến năm 1766, và cuối cùng nghị viện Paris đã quyết định gỡ tội cho Calas. Và không ai phủ nhận được vai trò của Voltaire trong công trình Bách khoa toàn thư, biểu tượng của phong trào Ánh sáng tại Pháp, cũng như một thái độ nhất quán chống lại những điều tầm thường, chống thế lực thần quyền cũng như thế quyền đương thời. Giai đoạn Voltaire viết Candide (cuối những năm 1750, như đã nói ở trên) nằm ở khoảng giữa cuộc lưu vong dài đằng đẳng của triết gia (từ 1750 đến 1778 - ông trở về Paris trong vinh quang, giống như một người bị lưu đày vĩ đại sau này, Victor Hugo, và chết ngay sau đó; người ta nói rằng ông chết vì kiệt sức trước vinh quang của chính mình). Cuộc lưu vong của Voltaire còn cay đắng ở chỗ nó là một cuộc lưu vong “đúp”: ngoài việc bị hắt hủi khỏi nước Pháp, ông còn không có chỗ đứng bên cạnh một người từng một thời là bạn thân của mình, vua Frédéric II nước Đức, đành chọn một nơi trung gian là Thụy Sĩ để sống (Lausanne, Genève, Ferney). Một đòn đánh mạnh thêm nữa vào tình cảm của Voltaire là cái chết của người bạn thân, bà du Châtelet (1749). Trong thời gian lưu vong đó, Voltaire còn phải chứng kiến từ xa sự thay đổi của đời sống trí thức Paris: một thế hệ mới đầy tài năng đã xuất hiện, đó là những người như Diderot, d’Holbach, d’Alembert và Rousseau, những người tuy ông có nhiều liên lạc và cộng tác, nhưng mối quan hệ không phải lúc nào cũng tốt đẹp. Các mốt mới lên ngôi: tác phẩm của văn hào Anh Richardson (tác giả Pamela, một trong những người đầu tiên của văn học theo chủ nghĩa lãng mạn, mà cộng hưởng tại châu Âu là Goethe và Rousseau), nhạc Ý và kịch tư sản. Các sáng tác văn học của Voltaire không thể không có phần lỗi thời trong bối cảnh ấy. Voltaire là một người lưu vong chung thân, ngay cả khi đã có cơ ngơi ở Genève thì ông vẫn thấy như thể mình bị cắt đứt khỏi các giá trị phổ quát. Thực sự là không có thiên đường nào dành cho Voltaire cả. * Candide luôn có mặt trong tất cả các tuyển tập tác phẩm văn xuôi của Voltaire. Bênh cạnh Zadig, Memnon, Micromégas, đó là tác phẩm lừng danh nhất của ông, nhiều khi được đánh giá là tác phẩm văn chương giàu tính triết học nhất mà Voltaire từng viết. Tuyển tập tác phẩm gần đây nhất của tủ sách La Pléiade, được tập hợp dưới cái tên “Romans et contes” (tiểu thuyết và truyện) có 26 tác phẩm, thì Candide được xếp thứ 11, nghĩa là ở vào khoảng giữa, và cũng thường được coi là được viết vào giai đoạn Voltaire đạt đến đỉnh cao của tài năng. Có thể coi đó là một “tiểu thuyết”, một “truyện”, hoặc xét về dung lượng, một “truyện vừa” theo như cách gọi của ngày nay. Nhưng thực tế rất khó xếp thể loại cho Candide cũng như rất nhiều tác phẩm văn học khác của Voltaire, được viết ra trước khi các phương thức sắp xếp theo thể loại trở thành quy phạm, khi mà tiểu thuyết cũng chỉ mới ra đời và còn chưa được dành cho một vị trí mặt tiền. Vấn đề này từng làm đau đầu các chuyên gia về Voltaire, và trong lịch sử các tuyển tập Voltaire đã có rất nhiều khác biệt (để chỉ dẫn ra đây một số lần xuất bản quan trọng: bản của anh em nhà Cramer, 1776, cũng là bản toàn tập cuối cùng in khi Voltaire còn sống; bản của Bouillon, 1778; bản quan trọng của Kehl, 1784; và các bản hiện đại của Van Tieghem năm 1930, bản của Groos năm 1932, bản của Bénac năm 1949 và bản của Pomeau các năm 1961 và 1966). Ở đây sẽ không đi sâu vào vấn đề văn bản và các thay đổi về lựa chọn tác phẩm cho tuyển tập, cũng như thứ tự sắp xếp của chúng, nhưng cũng cần nhấn mạnh Voltaire trước hết là một triết gia (tác phẩm nổi tiếng nhất của ông ngày nay có lẽ là Từ điển triết học), ông còn là một nhà viết kịch danh tiếng, một nhà thơ, và, điều này không thể bỏ qua, một nhân vật lớn của thế kỷ XVIII. * Là một triết gia có sáng tác văn học (điều này cũng không khác mấy ở Diderot, tuy rằng ở Rousseau thì rất khác), các tác phẩm của Voltaire theo lẽ tất nhiên có một số đặc điểm liên quan nhiều đến triết học. Trong chúng có rất nhiều thứ, có thể nói là tất cả mọi thứ trong vũ trụ, có rất nhiều lời nói, nhưng luôn luôn thiếu vắng một số cột đỡ then chốt của tác phẩm văn chương: tâm lý nhân vật, sự dẫn dắt cốt truyện, và đặc biệt là các chuyển hóa. Nhân vật của Voltaire như chúng ta thấy trong Candide, xuất hiện và vĩnh viễn giữ nguyên tâm lý đã có, không có biến đổi. Do đó, các nhân vật ấy giống như các hằng số - rất có thể coi những nhân vật này gần với các quy luật phổ quát, cái đích hướng tới và chủ đề suy tư của các triết gia điển hình. Chúng ta có Candide (và đồng thời, thầy của chàng, Pangloss), người lạc quan. Cả hai đều khăng khăng tin rằng “mọi sự kiện đều có một cứu cánh, mọi sự việc đều nhất thiết phải đi đến một cứu cánh hoàn bích hơn” (tr.29). Trước sự tra vấn của nhà hảo tâm Jacques, Pangloss trả lời như sau: “những bất hạnh riêng biệt đã xây thành sự hữu hạnh của toàn thể; như vậy càng có nhiều sự bất hạnh riêng biệt bao nhiêu thì sự hữu hạnh công cộng càng hoàn thiện bấy nhiêu” (tr.49). Có những lúc triết thuyết cứng nhắc đó bị nghiêng ngả, chẳng hạn như khi nàng Cunégonde mà Candide gặp lại sau này nói rằng: “Hay là Pangloss tiên sinh đã lừa tôi một cách tàn ác, khi ông bảo tôi rằng: “Cứ yên tâm, mọi việc rồi sẽ tốt hơn”” (tr.68), hay thậm chí đã có lúc chính Canđide dao động: “Ông Pangloss ơi! Chàng Ngây Thơ la lên, ông đã không đoán được cảnh tượng ghê gớm như thế này… Thôi từ nay tôi không còn tin ở chủ nghĩa lạc quan của ông nữa” (tr.127). Thế nhưng, như một thứ cao su hay lò xo luôn quay trở lại trạng thái ban đầu sau khi chịu một số tác động của ngoại cảnh, Candide vẫn giữ một niềm tin chắc chắn vào cái tốt đẹp; không một cơn bão biển, không một trận động đất hay sự độc ác-hiển nhiên nào của con người khiến được chàng quên đi những gì đã được học (một sự “kiên định triết học”, với đầy đủ ý nghĩa hài hước của cụm từ này). Trong Candide, những câu chuyện (đúng hơn là các đối thoại) quan trọng hơn những gì xảy ra thực sự: vụ bắn nhau giữa hai con tàu trên biển ngay trước mặt chỉ phục vụ cho các lập luận trao đổi giữa Candide và Martin: với Martin người ủng hộ quan điểm cho rằng mọi thứ trên đời là xấu, và thế giới được dẫn dắt bởi cái ác, thì cuộc bắn giết đó càng cho thấy quan điểm đó không sai, còn với Candide, khi con cừu từ trên một con tàu kia dạt vào đúng con tàu chàng đang ở trên thì “lý thuyết lạc quan Pangđoss” bị lung lay nhiều khi lại được dịp sống dậy. Đó là một thế giới không chấp nhận thay đổi. Candide trở thành người bị đuổi khỏi thiên đường với tâm thức nhẹ nhõm nhất trong lịch sử văn học. Một “hằng số” khác là nhà thông thái Martin, người bi quan toàn phần. Martin biện luận như sau: “nhìn qua Trái đất này, hay nói đúng hơn là cái hạt bụi này, tôi phải tin là Thượng đế đã bỏ quên Trái đất cho một thứ ác quỷ nào đó. […] Tôi chả thấy thành phố nào mà lại không muốn tàn phá thành phố bên cạnh, chưa bao giờ nhìn thấy một gia đình nào mà lại không muốn tiêu diệt gia đình khác” (tr.136). Trong khi đó, nhà thông thái mà Candide gặp ở Paris lại là người nhìn mọi thứ qua lăng kính của sự mâu thuẫn: “Với tôi thì mọi việc trên đời đều mâu thuẫn hết: không ai biết được mình thuộc cấp bậc nào, nhiệm vụ của mình là gì, mình làm gì và phải làm gì? Ngoại trừ bữa ăn này khá vui vẻ và đoàn kết còn thì chỉ thấy những xung đột khả ố: giáo phái này chống giáo phái kia, quốc hội chống giáo hội, văn nhân chống văn nhân, nịnh thần chống nịnh thần, tài phiệt chống dân chúng, vợ chống chồng, bà con chống bà con” (tr.152). Liên quan trực tiếp hơn cả đến cuộc đời của Candide, ngài nam tước anh trai Cunégonde thì đóng đinh vào sự phân biệt tầng lớp xã hội và vin vào đó để nhất định không cho Candide lấy em gái mình. Các nhân vật chính phụ của Candide không bao giờ thay đổi ý kiến. Các thái độ khác nhau cũng có khi được đặt liền kề nhau, giống như một “thủ pháp” của Voltaire, chẳng hạn như ở đoạn sau: “Tên thủy thủ miệng vừa huýt gió vừa chửi thề: - Ở đây tất phải có gì làm lợi lộc cho mình. Ông Pangloss lẩm bẩm trong miệng: - Nguyên nhân của tai nạn này là do đâu? - Đây là ngày tận thế rồi, chàng Ngây Thơ la lớn.” (tr.52) Xét về diễn ngôn mà tác phẩm sử dụng, Candidenằm ở giữa đối thoại triết học thuần túy và kịch hài (mà điển hình và khuôn mẫu là kịch của Marivaux). Một đặc điểm về hình thức quan trọng của hài kịch là sự tập hợp đông đảo các nhân vật chính và phụ ở kết thúc, mà ở đây là đoạn ở khu vườn Propontide. Kịch hài cũng thường không để nhân vật chết, và thường sử dụng cái chết như là một yếu tố đầy tính nhẹ nhõm: nhân vật liên tục bị tưởng là đã chết nhưng sau này sẽ gặp lại trong một hoàn cảnh khác. Cái chết ở đây giống như một cuộc di trú, nó đưa nhân vật di chuyển một cách vô hình trong không gian, sự nặng nề của cái chết được giảm trừ hoàn toàn tính chất bi thảm. Thêm một đặc điểm nữa là yếu tố ngẫu nhiên được tận dụng tối đa, điều này giúp tác giả tạo được nhiều tình tiết hơn, nhưng mặt trái của nó là khiến cho câu chuyện luôn bị đẩy ra xa khỏi “sự tự nhiên”. Tuy nhiên, cũng có thể nghĩ rằng Voltaire đã đề xuất ở cuối truyện cũng như rải rác trong Candide một “giải pháp” nhất định cho tính chất ngồn ngộn ngôn từ của các tác phẩm văn học theo hơi hướng triết học, đó là từ bỏ triết lý: “Hãy làm việc mà đừng lý sự, Martin nói, đó là phương tiện duy nhất để có được cuộc sống tàm tạm. Cả cái xã hội thu nhỏ bước vào dự định đáng khen ấy; mỗi người làm việc theo khả năng của mình. Mảnh đất nhỏ bé mang đến nhiều điều” (tr.211). Thế nhưng, với triết học từ bỏ triết lý cũng là từ bỏ thiên đường, và không có gì chắc chắn sự từ bỏ đó sẽ được thực hiện với một tâm thức nhẹ nhõm…   Mời các bạn đón đọc Candide - Chàng Ngây Thơ của tác giả Voltaire & Tế Xuyên (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tro Tàn Sắc Đỏ
“Anh”, nhân viên một công ty hóa phẩm, bất ngờ được cử sang công ty mẹ tại nước C công tác bởi lý do hết sức lạ lùng: có khả năng bắt chuột. Tại đất nước đang chìm trong cơn khủng hoảng vì một căn bệnh lạ, vướng phải nghi án về một vụ giết người, “anh” tự trút bỏ nhân phẩm, đánh mất danh tính, để tuột quá khứ, và bị cuốn vào một cuộc trốn chạy chưa biết về đâu. Ngắn và sốc, “Tro tàn sắc đỏ” chỉ xoay quanh một nhân vật không tên, tại một thành phố chưa xác định – “anh” có thể là bất kỳ ai và thủ đô nước C có thể là bất kỳ đô thị tư bản nào đang ngập trong rác thải và các quyền lực y tế. Tàn nhẫn, độc đáo, mẫu mực, tác phẩm của Pyun Hye-Young như một lăng kính kỳ dị đã nhìn thấu suốt một thời đại, liên tiếp đưa người đọc qua những “cơn rùng mình” khi chứng kiến sự xoay vần của xã hội và con người trong vòng quay bánh xe số phận. "Các cảnh báo nguy hiểm bao giờ cũng nhiều hơn so với những nguy hiểm xảy ra trên thực tế, vậy nhưng khi mối nguy thực sự xảy đến thì thường lại chẳng có một cảnh báo nào. Cũng chính vì lẽ đó mà những tờ hướng dẫn kiểm dịch và quy định phòng chống bệnh truyền nhiễm dán đây đó khắp sân bay, anh cũng chỉ nhìn qua rồi ngó lơ như chẳng có gì quan trọng. Cứ nhìn cảnh báo nhiều thế kia thì rõ ràng là chẳng có gì nguy hiểm hết. Như thể đọc được ý nghĩ của anh, nhân viên kiểm dịch trong bộ đồ phòng dịch kín mít từ đầu đến chân, tay lăm lăm nhiệt kế, khẽ nhăn mặt. Không biết vì nhiệt kế báo sốt nhẹ, hay vì mùi rượu tỏa ra từ người anh. Anh cắn môi, đưa tay sờ lên trán. Trán anh hâm hấp sốt như nhiệt độ của nồi cơm điện đặt ở chế độ hâm nóng. Chuyến bay ngắn nhưng thật mệt mỏi. Ngay trước ngày bay anh vẫn liên tục làm việc quá sức, rồi cơn say váng vất đêm qua giờ vẫn còn nguyên vẹn. Tay anh còn nóng hơn cả trán. Cổ tay anh buốt nhói, còn lòng bàn tay thì bỏng rát như thể đã gồng hết sức nắm chặt vật gì đó quá lâu. Nhìn lại thì thấy lòng bàn tay anh đầy những vết bầm tím. Chỉ hơi gắng sức một chút là đã dội lên một cơn đau nhức nhối. Lần này, nhân viên kiểm dịch kê nhiệt kế vào tai phải anh. Tiếng nhiệt kế hoạt động bên tai nghe hệt âm thanh báo động. Như phản ứng lại âm thanh đó, anh bật ra một cơn ho ầm ĩ. Nhân viên kiểm dịch lập tức đứng lùi lại một bước. Phát sinh ra thủ tục kiểm dịch thế này là vì đang có một căn bệnh truyền nhiễm. Còn chưa xác định được con đường lây truyền, căn bệnh đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia đầu tiên phát hiện mầm bệnh, lan nhanh và bùng phát ở hầu khắp các nước trên thế giới, hệt như một cái đệm rơm bắt lửa. Con đường lây nhiễm chưa rõ, thuốc điều trị còn đang trong giai đoạn nghiên cứu, mức độ lây lan cao, thêm vào đó, để đảm bảo nguồn vắc xin còn khan hiếm, một cuộc đấu đá ngấm ngầm giữa các nước đã nổ ra và đang trong hồi quyết liệt... vậy nhưng cũng may là tỷ lệ tử vong không cao lắm. Theo như thời sự trong nước đưa tin, anh thấy dù cho căn bệnh đó có nguy hiểm đến đâu đi nữa, chỉ cần giữ gìn vệ sinh cá nhân thật tốt thì cũng chẳng có gì đáng lo cả. Vị khách trước đó ngồi kế bên anh trên máy bay đang đứng xếp hàng ở lối bên cạnh, vẫn cứ ho liên tục không ngừng suốt từ lúc ở trên máy bay đến tận bây giờ. Người này mặc áo khoác vải tuýt kiểu cũ, dày quá mức so với thời tiết hiện tại, trên chuyến bay kéo dài năm giờ đồng hồ đến nước C đã phải uống tới bốn viên aspirin vì có triệu chứng ớn lạnh và đau đầu nghiêm trọng. Tiếp viên nói chắc là do máy lạnh, rồi mang tới hai cái chăn tự tay đắp cho vị khách đó. Có vẻ như đã uống thuốc mà cơn sốt vẫn không hạ, vị khách bên cạnh mặt đỏ gay. Nếu biết thủ tục kiểm dịch gắt gao thế này, chắc anh đã uống trước một viên aspirin, và nếu biết mức độ lây lan cao như vậy thì anh đã sớm đề nghị đổi chỗ ngồi rồi. Nhân viên kiểm dịch khẽ liếc nhìn anh một cái rồi đưa máy bộ đàm lên miệng nói gì đó. Lẫn trong tạp âm, giọng trả lời của ai đó vang lên rồi tắt phụt, ngay sau đó, từ bên cạnh khu vực chốt kiểm tra, hai người đàn ông bước lại. Hai người này mặc bộ đồ phòng dịch to phồng, lại đeo mặt nạ kín mít, trông như mấy chiếc xuồng cao su hay cưỡi dòng nước bập bềnh trồi lên ngụp xuống. Trước ngực bộ đồ phòng dịch in khá rõ dòng chữ “Trung tâm kiểm soát bệnh dịch”. Có vẻ là nhân viên bên y tế công cộng của sân bay. Hai người đó không những phục trang giống nhau mà ngay cả chiều cao, khổ người cũng tương tự, chẳng có điểm gì khác biệt. Mặt nạ che kín không nhìn thấy mắt, nhưng chắc chắn là họ đang chú mục vào anh. Tim anh bắt đầu đập loạn nhịp. Chẳng biết vì sao nhưng tự nhiên anh có ý nghĩ không thể đứng yên chịu trói thế này được. Anh vội vàng đưa mắt nhìn quanh. Trong chớp mắt, nhân viên kiểm dịch túm lấy cánh tay anh. Bất ngờ bị nhân viên kiểm dịch giữ chặt một cách đáng ngờ như vậy, anh đành bất lực đứng im. Hai nhân viên y tế công cộng vừa tiến đến áp sát hai bên, nhân viên kiểm dịch liền buông tay anh ra. Tuy không bị túm tay nữa nhưng giờ lại bị kẹp cứng giữa hai gã cao lớn, anh toát mồ hôi, trông không khác gì bị bắt. Những người đang đứng chờ kiểm dịch và làm thủ tục nhập cảnh nhìn anh chằm chằm. Có lẽ vì cảm nhận được những ánh nhìn đó mà anh toát mồ hôi lạnh, hốt hoảng nuốt khan đến phát sặc, cơn ho khiến máu dồn lên làm mặt anh nóng bừng. Sau khi đi dọc theo một hành lang kéo dài chẳng có gì đặc biệt, anh được đưa tới một căn phòng trông như thể vừa bị nhúng vào thùng sơn trắng rồi nhấc ra. Sàn nhà lát gạch trắng, bốn vách tường và trần đều sơn một màu trắng. Chăn đệm phủ trên cái giường thấp cũng một màu trắng, bên cạnh giường, đặt chơ vơ một bộ bàn ghế cũng màu trắng nốt. Tất cả mọi thứ trong phòng đều tỏa ra thứ ánh sáng giống một cái bồn rửa vừa được tẩy trắng và sát khuẩn. Vì vậy căn phòng trông thật lạnh lẽo, mà thực tế là ở đây cũng đang bật điều hòa ở nhiệt độ thấp nhất tới mức có thể cảm nhận rõ cái lạnh, khiến anh mấy lần phải xoa xoa bắp tay đang nổi da gà mà bật ho một tràng. Một trong hai nhân viên y tế công cộng bảo anh ngồi xuống ghế, rồi cũng chậm rãi ngồi xuống ghế đối diện. Giọng anh ta nhẹ nhàng, lịch sự nên anh cũng thấy yên tâm phần nào. Anh đã tưởng vừa bước vào phòng là sẽ bị vật ra ngay. Nhân viên y tế công cộng cho biết thân nhiệt của anh cao hơn bình thường nên cần kiểm tra kỹ hơn, vì thế buộc phải đưa ra biện pháp là giữ anh lại như thế này, mong anh thông cảm. Câu nói chẳng có gì khó, vậy mà anh nghe không hiểu họ đang nói gì. Anh chưa thạo tiếng nước C, lại đang trong lúc hoang mang, rối trí nên ngay cả những từ đã biết, anh cũng không nghe ra được. Nhân viên y tế công cộng lặp lại lần nữa, nhưng anh cứ đờ ra nhìn như thể đã biến thành con cá trong bể cá cảnh, nhân viên còn lại có vẻ sốt ruột nên đã kiếm đâu ra ngay một cái từ điển điện tử. Với sự trợ giúp của từ điển, hai bên vừa nói vừa viết mà trao đổi câu chuyện... " *** Các cảnh báo nguy hiểm bao giờ cũng nhiều hơn so khi mối nguy thực sự xảy đến thì thường lại chẳng có một cảnh báo nào. Cũng chính vì lẽ đó mà những tờ hướng dẫn kiểm dịch và quy định phòng chống bệnh truyền nhiễm dán đây đó khắp sân bay, anh cũng chỉ nhìn qua rồi ngó lơ như chẳng có gì quan trọng. Cứ nhìn cảnh báo nhiều thế kia thì rõ ràng là chẳng có gì nguy hiểm hết. Như thể đọc được ý nghĩ của anh, nhân viên kiểm dịch trong bộ đồ phòng dịch kín mít từ đầu đến chân, tay lăm lăm nhiệt kế, khẽ nhăn mặt. Không biết vì nhiệt kế báo sốt nhẹ, hay vì mùi rượu tỏa ra từ người anh. Anh cắn môi, đưa tay sờ lên trán. Trán anh hâm hấp sốt như nhiệt độ của nồi cơm điện đặt ở chế độ hâm nóng. Chuyến bay ngắn nhưng thật mệt mỏi. Ngay trước ngày bay anh vẫn liên tục làm việc quá sức, rồi cơn say váng vất đêm qua giờ vẫn còn nguyên vẹn. Tay anh còn nóng hơn cả trán. Cổ tay anh buốt nhói, còn lòng bàn tay thì bỏng rát như thể đã gồng hết sức nắm chặt vật gì đó quá lâu. Nhìn lại thì thấy lòng bàn tay anh đầy những vết bầm tím. Chỉ hơi gắng sức một chút là đã dội lên một cơn đau nhức nhối. Lần này, nhân viên kiểm dịch kê nhiệt kế vào tai phải anh. Tiếng nhiệt kế hoạt động bên tai nghe hệt âm thanh báo động. Như phản ứng lại âm thanh đó, anh bật ra một con ho ầm ĩ. Nhân viên kiểm dịch lập tức đứng lùi lại một bước. Phát sinh ra thủ tục kiểm dịch thế này là vì đang có một căn bệnh truyền nhiễm. Còn chưa xác định được con đường lây truyền, căn bệnh đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia đầu tiên phát hiện mầm bệnh, lan nhanh và bùng phát hầu khắp các nước trên thế giới, hệt như một cái đệm rơm bắt lửa. Con đường lây nhiễm chưa rõ, thuốc điều trị còn đang trong giai đoạn nghiên cứu, mức độ lây lan cao, thêm vào đó, để đảm bảo nguồn vắc xin còn khan hiếm, một cuộc đấu đá ngấm ngầm giữa các nước đã nổ ra và đang trong hồi quyết liệt... vậy nhưng cũng may là tỷ lệ tử vong không cao lắm. Theo như thời sự trong nước đưa tin, anh thấy dù cho căn bệnh đó có nguy hiểm đến đâu đi nữa, chỉ cần giữ gìn vệ sinh cá nhân thật tốt thì cũng chẳng có gì đáng lo cả. Vị khách trước đó ngồi kế bên anh trên máy bay đang đứng xếp hàng ở lối bên cạnh, vẫn cứ ho liên tục không ngừng suốt từ lúc ở trên máy bay đến tận bây giờ. Người này mặc áo khoác vải tuýt kiểu cũ, dày quá mức so với thời tiết hiện tại, trên chuyến bay kéo dài năm giờ đồng hồ đến nước C đã phải uống tới bốn viên aspirin vì có triệu chứng ớn lạnh và đau đầu nghiêm trọng. Tiếp viên nói chắc là do máy lạnh, rồi mang tới hai cái chăn tự tay đắp cho vị khách đó. Có vẻ như đã uống thuốc mà cơn sốt vẫn không hạ, vị khách bên cạnh mặt đỏ gay. Nếu biết thủ tục kiểm dịch gắt gao thế này, chắc anh đã uống trước một viên aspirin, và nếu biết mức độ lây lan cao như vậy thì anh đã sớm đề nghị đổi chỗ ngồi rồi. Nhân viên kiểm dịch khẽ liếc nhìn anh một cái rồi đưa máy bộ đàm lên miệng nói gì đó. Lẫn trong tạp âm, giọng trả lời của ai đó vang lên rồi tắt phụt, ngay sau đó, từ bên cạnh khu vực chốt kiểm tra, hai người đàn ông bước lại. Hai người này mặc bộ đồ phòng dịch to phồng, lại đeo mặt nạ kín mít, trông như mấy chiếc xuồng cao su hay cưỡi dòng nước bập bềnh trồi lên ngụp xuống. Trước ngực bộ đồ phòng dịch in khá rõ dòng chữ “Trung tâm kiểm soát bệnh dịch”. Có vẻ là nhân viên bên y tế công cộng của sân bay. Hai người đó không những phục trang giống nhau mà ngay cả chiều cao, khổ người cũng tương tự, chẳng có điểm gì khác biệt. Mặt nạ che kín không nhìn thấy mắt, nhưng chắc chắn là họ đang chú mục vào anh. Tim anh bắt đầu đập loạn nhịp. Chẳng biết vì sao nhưng tự nhiên anh có ý nghĩ không thể đứng yên chịu trói thế này được. Anh vội vàng đưa mắt nhìn quanh. Trong chớp mắt, nhân viên kiểm dịch túm lấy cánh tay anh. Bất ngờ bị nhân viên kiểm dịch giữ chặt một cách đáng ngờ như vậy, anh đành bất lực đứng im. Hai nhân viên y tế công cộng vừa tiến đến áp sát hai bên, nhân viên kiểm dịch liền buông tay anh ra. Tuy không bị túm tay nữa nhưng giờ lại bị kẹp cứng giữa hai gã cao lớn, anh toát mồ hôi, trông không khác gì bị bắt. Những người đang đứng chờ kiểm dịch và làm thủ tục nhập cảnh nhìn anh chằm chằm. Có lẽ vì cảm nhận được những ánh nhìn đó mà anh toát mồ hôi lạnh, hốt hoảng nuốt khan đến phát sặc, cơn ho khiến máu dồn lên làm mặt anh nóng bừng. Sau khi đi dọc theo một hành lang kéo dài chẳng có gì đặc biệt, anh được đưa tới một căn phòng trông như thể vừa bị nhúng vào thùng sơn trắng rồi nhấc ra. Sàn nhà lát gạch trắng, bốn vách tường và trần đều sơn một màu trắng. Chăn đệm phủ trên cái giường thấp cũng một màu trắng, bên cạnh giường, đặt chơ vơ một bộ bàn ghế cũng màu trắng nốt. Tất cả mọi thứ trong phòng đều tỏa ra thứ ánh sáng giống một cái bồn rửa vừa được tẩy trắng và sát khuẩn. Vì vậy căn phòng trông thật lạnh lẽo, mà thực tế là đây cũng đang bật điều hòa ở nhiệt độ thấp nhất tới mức có thể cảm nhận rõ cái lạnh, khiến anh mấy lần phải xoa xoa bắp tay đang nổi da gà mà bật ho một tràng. Mời các bạn mượn đọc sách Tro Tàn Sắc Đỏ của tác giả Pyun Hye Young & Kim Ngân (dịch).
Vì Em Yêu Anh - Debbie Macomber
Tập trung vào chuyện tình của Christie và Bobby, chính là chuyện cổ tích về một nàng Lọ Lem hiện đại, duy mỹ và siêu thực.  Không có ai tầm thường và thiếu hi vọng như Christie khi nàng cặm cụi để tuổi xuân trôi trong tiệm thẩm mỹ, nhưng nàng vụt sáng thành công chúa khi tình yêu của Bobby đến như mặt trời tỏa rạng quanh nàng.  *** Debbie Macomber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạn và Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng văn học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật. Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do Amazon.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do BordersBooks.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất do BarnesandNoble.com bình chọn - Top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, USA Today, Publishers Weekly, Wall Street Journal, Waldenbooks, Los Angeles Times, Chiacago Tribune, Seattle Times… Truyện mở ra tại Vịnh Cedar, một thị trấn mơ mộng nằm trên bờ vịnh cùng tên, nơi mỗi sớm nắng nhuộm màu hồng mặt nước và mỗi đêm hải đăng hắt ánh vàng trên những lớp sóng lô xô, Đâu phải vì yêu là vở nhạc kịch tình say đắm về 2 đôi uyên ương mà số phận dun dủi kéo họ lại chung một lối. Olivia Lockhart đã tưới lọ nước hoa hạnh phúc cho Ian và Cecillia Randall, rồi chính bản thân nàng cũng nhận được cho mình vài giọt trong veo, nồng nàn quyến rũ. Ian và Cecil tìm lại nhau nhờ sự thu hút xác thân mãnh liệt, còn Jack đến với Olivia vì nàng nổi bật trên muôn người. Vượt qua mọi đam mê bản năng giữa đàn ông và đàn bà, chàng giục ngã trước vẻ đẹp tâm hồn và cá tình nàng. Họ sẽ đi về đâu với những đam mê ấy? Bằng ngòi bút lãng mạn và lôi cuốn, Debbie Macomber từng bước xây dựng cả một thiên đường tình ái đầy thiết tha mời gọi giữa chốn nhân gian này... *** Chiều tối thứ Năm, trên đường về nhà, Teri Polgar ghé vào cửa hàng tạp hóa. Vừa tha thẩn mua thức ăn, cô vừa nghĩ đến món đặc biệt sẽ làm tối nay - món thịt hầm mì ống và pho mát. Nghe có vẻ hợp với một tối mùa đông hơn là một tối giữa tháng Bảy, nhưng Teri thích món này vào mọi thời điểm trong năm. Và còn Bobby nữa chứ, Bobby thì hầu như chẳng bao giờ để ý đó là mùa gì, hay thậm chí là giờ nào trong ngày. Về đến nhà, Teri thấy chồng mình đang ngồi trước bàn cờ, tập trung cao độ. Điều này chẳng có gì là lạ. Nhưng lần này, cái bàn cờ lại đặt trên bàn ăn và em trai cô đang ngồi đối diện Bobby. Cả hai việc này đều bất bình thường. Johnny cười ngượng ngập khi Teri bước vào phòng với một túi đầy thực phẩm trên tay. “Em chỉ định rẽ qua nhà chị chơi một chút nhưng anh Bobby lại nằng nặc đòi chỉ cho em vài nước”, cậu giải thích. Bobby lẩm bẩm điều gì đó, có lẽ là để công nhận sự xuất hiện của cô. Anh rất hay nói chuyện một mình, chìm trong thế giới của những quân cờ của riêng anh. Nói là chồng cô hơi đặc biệt chưa đủ. Bobby vốn là người rất giỏi trong làng cờ quốc tế và anh là một trong những tay cờ hàng đầu thế giới. “Thế nào rồi?”. Teri vừa đặt túi đồ lên quầy bếp vừa hỏi. Johnny nhún vai, “Vẫn chưa có manh mối nào. Hỏi anh Bobby ấy”. “Chào anh, anh yêu”, cô vừa lướt sang phía bàn bên kia vừa hỏi chồng. Cô nhẹ nhàng vòng tay ôm cổ anh và đặt lên đó một cái hôn thật nồng nàn. Bobby siết chặt tay vợ và nhìn sang phía Johnny. “Em nhớ phải luôn bảo vệ hậu đấy nhé!”, anh khuyên cậu em trai vợ và cậu ta kiên nhẫn gật đầu. “Em ở lại ăn tối nhé?”. Cô bảo Johnny. Việc em trai cô ghé thăm vào một ngày trong tuần thế này là một ngạc nhiên thú vị. Teri rất tự hào về Johnny nhưng luôn cảm thấy cần phải bảo vệ cậu em trai của mình. Cô cho rằng điều này là hoàn toàn tự nhiên vì cô đã một mình nuôi dạy cậu. Giống Bobby, nhưng theo một cách hoàn toàn khác, gia đình cô cũng khá đặc biệt. Gần đây nhất, cô tính ra là mẹ mình đã lấy chồng tới sáu lần. Hay là bảy lần nhỉ? Teri không thể nhớ chính xác. Em gái cô cũng giống mẹ, chỉ có điều Christie đủ minh mẫn để không cưới những kẻ dễ dãi từng bước chân vào cuộc đời mình rồi lại nhanh chóng ra đi. Bản thân Teri cũng không tránh khỏi những bài học cay đắng nhất của cuộc đời, đặc biệt là những bài học liên quan tới loại đàn ông “dùng và lợi dụng”. Teri vẫn khó mà tin rằng Bobby Polgar có thể yêu cô. Cô làm việc ở một tiệm làm tóc và móng nghệ thuật. Cô luôn cho rằng bản thân có sự cách biệt lớn so với những người trí thức. Bobby luôn nói rằng cô có một thế giới tri thức thật sự, thiết thực và nhạy bén hơn những người làm việc trí óc như anh. Cô yêu anh vì lời nói ấy và thậm chí bắt đầu tin rằng đó là sự thực. Thật ra, cô yêu con người anh và yêu tất cả những gì thuộc về anh. Với cô, hạnh phúc này vẫn mới mẻ và nó làm cô hơi lo sợ. Cô có lý do để lo lắng, xuất phát từ thực tế, mặc dù không đến mức khiến cô mất ăn mất ngủ. Gần đây có hai người đàn ông đã tiếp cận cô, đó là kiểu người giống như những nhân vật trong một đoạn của bộ phim Sopranos . Cả người họ toát lên vẻ găng-xtơ. Mặc dù họ chưa thực sự làm gì cả, ngoài việc làm cô sợ hãi trong vài phút. Rõ ràng những tên khủng bố này được thuê để đe dọa Bobby. Dường như thông điệp của chúng là, dù Bobby có là ai đi chăng nữa, thì bất kể lúc nào, ông chủ của chúng cũng có thể tiếp cận cô. Tệ thật. Teri rất có ý thức cảnh giác khi đi trên đường phố và cô biết cách tự lo cho bản thân mình, tuy nhiên cô cũng phải thừa nhận là hai gã đó đã khiến cô phải lo lắng một chút. Nếu Bobby biết ai là kẻ phải chịu trách nhiệm về mối đe dọa nhằm vào cô, anh cũng không nói. Nhưng cô để ý thấy rằng anh chồng yêu quý của mình không hề tham gia vào cuộc đấu cờ nào kể từ khi những gã đàn ông đó tiếp cận cô. “Em phải về,” Johnny trả lời khi Teri mời ở lại ăn tối. ... Mời các bạn đón đọc Vì Em Yêu Anh của tác giả Debbie Macomber.
Vẫn Mãi Yêu Anh - Debbie Macomber
“Vẫn mãi yêu anh” của nữ nhà văn Debbie Macomber là cuốn truyện thứ 5 trong bộ tiểu thuyết lãng mạn dành cho phụ nữ, đã được dịch ra hơn 23 thứ tiếng khác nhau, với hơn 100 triệu bản sách đã được bán và được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. Quá khứ có cách để song hành cùng hiện tại, “Vẫn mãi yêu anh” chứa đựng sự tương giao giữa rộng mở và bí ẩn. Lần đầu tiên trong cả series, người đọc thấy mình bị thách thức chứ không chỉ tận hưởng. Bởi khói ám của sự nghi ngờ bỗng nhen nhóm trong không gian tươi tắn thường thấy của Vịnh Cedar. Mọi việc bắt đầu khi những giỏ quà và bưu thiếp nặc danh thình lình xuất hiện một cách khó hiểu trước thềm nhà McAfee. Dò theo dấu vết của sự thách thức, Roy bị dẫn vào miền ký ức, với bao giằng co giữa hiện tại ấm áp và quá khứ chông chênh, với bao trăn trở giữa con người hưởng thụ và con người phấn đấu. “Vẫn mãi yêu anh”, như một dòng sông vừa nhận được thác nguồn bỗng phải đối mặt với một địa thế hiểm nghèo. Liệu Roy có vượt lên được dòng cuồng lưu nguy hiểm mà đầy cám dỗ ấy không? Tập truyện “Vẫn mãi yêu anh” là diễn biến của những va chạm, xung đột và thử thách, để các nhân vật tìm được tình yêu đích thực của mình. Đây còn là một câu chuyện đẹp, sâu sắc và cảm động trong mỗi cửa hàng của hiệu ở vịnh Cedar, khi luôn có bạn mới để gặp, còn những người bạn cũ thì luôn hân hoan chào đón... “Vẫn mãi yêu anh” chứa đựng vừa đủ tình yêu và tiếng cười, nỗi buồn và sự thanh thản của tâm hồn, sự lãng mạn và nồng nàn, thấm đẫm tình cảm gia đình. Người đọc như bị cuốn hút với diễn tiến của câu chuyện khi các nhân vật đi từ nỗi thất vọng cùng cực đến chỗ học cách để mỉm cười lần nữa. Còn những người phụ nữ trong truyện tìm thấy - nếu không phải tình yêu - thì chắc chắn là sự thanh thản trong tâm hồn để sống hạnh phúc mãi mãi về sau ... Cuộc sống với những câu chuyện tại vịnh Cedar thực sự là một thế giới tuyệt diệu, mà tác giả của nó, Debbie Macomber, nữ nhà văn hàng đầu ở thể loại tiểu thuyết dành cho phụ nữ, đã là một người dẫn đường tuyệt vời. Giọng văn tình cảm, lãng mạn và tinh tế của bà là lý do khiến bộ sách được hàng triệu phụ nữ trên thế giới yêu thích và đồng cảm. Cũng giống như các tập truyện khác của “Chuyện tình Vịnh Cedar”, “Vẫn mãi yêu anh” tiếp tục là một câu chuyện đẹp, nhẹ nhàng về về đề tài phụ nữ, trong đó mỗi người có những khát khao yêu thương và có bạn đồng hành, nương tựa lẫn nhau, giúp nhau tìm thấy mục đích sống trong mỗi cuộc đời. *** Debbie Macomber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạn và Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng văn học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật. Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do Amazon.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do BordersBooks.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất do BarnesandNoble.com bình chọn - Top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, USA Today, Publishers Weekly, Wall Street Journal, Waldenbooks, Los Angeles Times, Chiacago Tribune, Seattle Times… Truyện mở ra tại Vịnh Cedar, một thị trấn mơ mộng nằm trên bờ vịnh cùng tên, nơi mỗi sớm nắng nhuộm màu hồng mặt nước và mỗi đêm hải đăng hắt ánh vàng trên những lớp sóng lô xô, Đâu phải vì yêu là vở nhạc kịch tình say đắm về 2 đôi uyên ương mà số phận dun dủi kéo họ lại chung một lối. Olivia Lockhart đã tưới lọ nước hoa hạnh phúc cho Ian và Cecillia Randall, rồi chính bản thân nàng cũng nhận được cho mình vài giọt trong veo, nồng nàn quyến rũ. Ian và Cecil tìm lại nhau nhờ sự thu hút xác thân mãnh liệt, còn Jack đến với Olivia vì nàng nổi bật trên muôn người. Vượt qua mọi đam mê bản năng giữa đàn ông và đàn bà, chàng giục ngã trước vẻ đẹp tâm hồn và cá tình nàng. Họ sẽ đi về đâu với những đam mê ấy? Bằng ngòi bút lãng mạn và lôi cuốn, Debbie Macomber từng bước xây dựng cả một thiên đường tình ái đầy thiết tha mời gọi giữa chốn nhân gian này... *** Corrie McAfee đang lo lắng và chị biết rằng Roy, chồng mình cũng vậy. Không biết đó là ai nhỉ? Từ tháng Bảy, thám tửRoy bắt đầu nhận được một loạt các tấm thiệp không đề tên người gửi mà nội dung không hẳn là những lời đe dọa, song rõ ràng nó khiến người nhận phải ăn không ngon ngủ không yên. Đầu tiên là thông điệp được gửi đến văn phòng nói về sự ăn năn hối tiếc. Tiếp theo là một vài thông điệp khác rải rác suốt tuần. Corrie đã đọc kỹ không sót một tấm thiệp nào đến mức chị có thể nhớ nội dung từng chiếc một. Tấm thiệp đầu tiên viết: “Ai cũng có điều gì đó phải ăn năn. Có điều gì anh đã làm và ước mình có thể làm lại không? Hãy nghĩ về điều đó”. Không bao giờ có chữ ký người gửi trên những tấm thiệp này và chúng được gửi rải rác từ các địa điểm khác nhau. Những thông điệp bí ẩn cứ vẩn vơ trong tâm trí chị. Thời gian trôi qua mà vẫn chẳng đi đến đâu, Corrie thấy mình dần chìm vào mông lung, y như hồi mới nhận tấm thiệp đầu tiên, dù bây giờ đã là tháng Mười. Tiếng những giọt cà phê tí tách rơi xuống cốc làm Corrie giật mình, tạm quên những lo âu - chị đưa mắt nhìn qua ô cửa rộng trông ra vịnh Cedar, Washington. Làm thư ký và trợ lý của Roy cũng có cái lợi riêng, nhưng trường hợp này lại có những bất lợi. Có những chuyện không biết lại tốt hơn, và điều đó đúng với Corrie lúc này. Hẳn chị đã không phải thao thức hằng đêm nếu không biết gì về những tấm thiệp bí ẩn kia. Cho dùRoy cố giấu thì chị vẫn có thể biết, vì tấm thiệp mới rồi được đưa tới tận cửa nhà của hai vợ chồng thay vì gửi tới văn phòng như mọi khi. Một buổi tối muộn, có người đã tới tận cửa nhà khi Roy và Corrie đang mời khách dùng cơm tối. Họ mở cửa và thấy có người nào đó đã để một giỏ hoa quả cùng lời nhắn. Một cảm giác lành lạnh chạy dọc sống lưng Corrie khi chị nghĩ rằng kẻ giấu mặt đã biết nơi ở của hai vợ chồng. “Cà phê đã pha xong chưa em?”. Roy hỏi vọng ra từ trong văn phòng. Tất nhiên chị chưa thể pha xong nhanh như vậy. “Anh chờ chút đi chứ!”. Corrie không muốn gắt với chồng và chị vốn không phải người nóng nảy, song những điều bí ẩn gần đây khiến chị không khỏi bồn chồn. Corrie thở dài, rót cà phê ra tách và mang vào cho Roy, những làn khói bay lên nghi ngút. “Thôi được, chuyện là thế này”, chị vừa nói, vừa đặt tách cà phê lên góc bàn. “Chúng ta cần phải nói chuyện”. Như thể chẳng có gì phải lo nghĩ, Roy dựa vào ghế, tay đan vào nhau, đặt ở sau đầu. Họ đã cưới nhau được 27 năm, cho đến giờ Corrie vẫn thấy Roy hấp dẫn như hồi chị gặp anh ở trường đại học. Hồi đó Roy ở trong đội bóng của trường Đại học Washington và mọi người thường ca ngợi anh là chàng sinh viên của khu ký túc. Anh cao to, vai rộng, cơ bắp săn chắc và dáng người cứng cáp. Corrie cảm thấy hơi ghen tị vì dường như anh luôn giữ được vóc dáng như vậy mà chẳng cần chút nỗ lực kiêng khem gì. Mái tóc đen, mỏng của anh đã điểm bạc, nhưng điều đó càng làm tăng thêm vẻ đạo mạo cho người đàn ông điển trai này. Trong số tất cả những cô gái anh hẹn hò hồi ở đại học, anh đã phải lòng Corrie. Tuy vậy, chưa hề có một cuộc tán tỉnh dễ dãi nào. Họ chia tay hơn một năm và khi quay lại, cả hai đã nhận ra rằng họ yêu nhau và tình cảm của họ bền chặt biết nhường nào. Không lâu sau khi tốt nghiệp, hai người đã kết hôn và sau nhiều năm, tình yêu của họ đã nếm trải đủ cả thử thách lẫn niềm vui hạnh phúc. “Nói về điều gì cơ?”. Roythờ ơ hỏi. Sự thờ ơ đó không làm Corrie nản chí. Chồng chị đã biết rõ chị đang nghĩ gì. “Tin nhắn QUÁ KHỨ CÓ CÁCH ĐỂ SONG HÀNH CÙNG HIỆN TẠI có gợi cho anh điều gì không?”. Corrie ậm ừ, vừa nói vừa ngối xuống chiếc ghế dành cho khách hàng. Chị muốn chồng biết rằng mình không bỏ cuộc dễ dàng. Chị sợ rằng anh sẽ giả vờ tỏ ra không quan tâm lắm đến những tấm thiệp. Có vẻ như anh muốn ra sức làm chị nhụt chí, ngừng tìm hiểu về những rắc rối đang diễn ra.Roy nhíu mày: “Những thông điệp đó chẳng có gì liên quan đến em nên đừng để ý đến chúng làm gì”. ... Mời các bạn đón đọc Vẫn Mãi Yêu Anh của tác giả Debbie Macomber.
Số Phận Một Con Người - Mikhail Aleksandrovich Sholokhov
Số phận một con người là một truyện vừa của nhà văn Mikhail Sholokhov, ra đời năm 1956. Andrey Sokolov là chiến sĩ Hồng quân trong thời gian nổ ra cuộc Chiến tranh Vệ quốc. Chiến tranh tàn khốc đã đem tới cho cuộc đời anh những đau thương khôn xiết: Bản thân bị thương, bị tù đày, vợ và hai con gái chết vì bom đạn, con trai duy nhất hi sinh đúng vào ngày chiến thắng. Chiến tranh qua đi, Andrey xuất ngũ, không còn nơi nương tựa, anh phải đến ở nhờ nhà bạn và làm lái xe chở hàng. Trong những ngày chìm trong nỗi day dứt khôn nguôi về số phận mình, Andrey bắt gặp Vania - một chú bé mồ côi, bụi đời. Anh nhận chú bé làm con nuôi, bên nhau hai bố con đã sống thật hạnh phúc. Nhưng số phận cơ cực vẫn chưa buông tha họ. Trong một chuyến chở hàng, Andrey Sokolov gặp rủi ro, bị tước bằng lái xe. Thế là mất việc, hai bố con dắt nhau đi lang thang "khắp nẻo đường nước Nga" kiếm kế sinh nhai, dù phải vật lộn với muôn vàn khó khăn song những con người bị chiến tranh xô đẩy vẫn tràn trề niềm tin yêu cuộc sống, vào sức mạnh ý chí của con người. Và cho đến khi kết thúc câu chuyện, người cựu binh già Andrey Sokolov vẫn giấu không cho cậu con trai biết về những nỗi đau khổ riêng tư của mình. *** Mikhail Aleksandrovich Sholokhov (24/5/1905 - 21/2/1984) là một nhà văn Liên Xô nổi tiếng và là người được trao Giải Nobel Văn học năm 1965. Mikhail Sholokhov được biết tới nhiều nhất qua bộ tiểu thuyết sử thi Sông Đông Êm Đềm, tác phẩm được Jorge Amado cho rằng có thể sánh với Chiến Tranh Và Hòa Bình của Lev Tolstoy. Ngoài ra Sholokhov còn có nhiều sáng tác về những người Cozak vùng Sông Đông và về cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Sholokhov bắt đầu sáng tác ở tuổi 17. Ông cho ra đời tác phẩm đầu tiên, truyện ngắn Cái bớt năm 19 tuổi. Mikhail Sholokhov là một trong số ít nhà văn Xô viết được tặng thưởng Giải Nobel Văn học, ông được đánh giá cao cả trong và ngoài Liên Xô. Nhiều bức tượng của nhà văn đã được dựng lên ở các thành phố Nga trong đó bức tượng mới nhất được dựng ngày 25 tháng 4 năm 2007 ở Moskva. Tên của ông được dặt cho một tiểu hành tinh trong vành đai chính, 2448 Sholokhov. Tác phẩm: Những câu chuyện sông Đông (1925, tập truyện ngắn) Thảo nguyên xanh (1926, tập truyện ngắn) Sông Đông êm đềm (1928-1940, tiểu thuyết 4 tập) Đất vỡ hoang (1932-1960, tiểu thuyết 2 tập) Họ đã chiến đấu vì Tổ quốc (1942, phần đầu tiểu thuyết) Khoa học căm thù (1942, tập truyện ngắn) Số phận một con người (1956-1957, truyện vừa) Sobranie Sochinenii (1956-1958, tuyển tập các tác phẩm gồm 8 tập) Họ đã chiến đấu vì Tổ quốc (1959, phần tiếp theo) *** Số Phận Một Con Người gồm có: Cái bớt Người chăn bò Iliukha Trái lim Aliôsa Con đường Thằng con nhà hư đốn Chủ tịch hội đồng quân sự Chuyện về Ủy ban Lương thực sông Đông Con đường chông gai Gái hai chồng Một lần ức hiếp Đôi giầy cao su Câu chuyện về Kôntsác Cánh đồng xanh thẳm Những người cố nông Dòng máu lạ Chung một tiếng nói Yếu mềm Khoa học căm thù Số phận con người Mời các bạn đón đọc Số Phận Một Con Người của tác giả Mikhail Aleksandrovich Sholokhov.