Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuốn Sổ Vàng

Lần đầu tiên được xuất bản năm 1962 và hiện đã trở thành một trong các tác phẩm vĩ đại nhất thế kỷ hai mươi, Cuốn Sổ Vàng là câu chuyện của Anna Wulf, một người mẹ đơn thân với hàng loạt các mối quan hệ bế tắc, một nhà văn từng thành danh nhưng hiện cũng bế tắc với một cuốn tiểu thuyết dở dang. Sợ mình phát điên, cô đã ghi lại các trải nghiệm của mình trong bốn cuốn sổ có màu khác nhau. Nhưng cuốn sổ thứ năm, Cuốn Sổ Vàng, mới là thứ kết nối các mảnh cuộc sống của cô lại và là chìa khóa giúp cô bình phục về mặt tinh thần. Cuốn tiểu thuyết đồ sộ này là hành trình nội tâm của Anna qua những mảnh vỡ của bản thân trong một thế giới cũng đang tan rã: Tình yêu, tự do, cái chết, tín điều, đặt giữa hỗn loạn các hệ tư tưởng, trong tiếng ầm ì của chiến tranh, mối đe dọa hủy diệt của bom H, quá trình phi thực dân hóa của nước Anh, sự hình thành của các quốc gia mới. Phức tạp nhưng vẫn thanh tú đến kỳ lạ, tác phẩm dẫn người đọc theo bước Anna đến những trang cuối cùng, không phải tới một đáp án toàn năng cho toàn bộ các vấn đề của cá nhân và nhân loại, mà khả thi hơn thế, dễ chịu hơn thế, tới một chút khai sáng, cảm giác mới mẻ như vừa tái sinh, khi nhận ra những thất bại và thiếu sót trong quá khứ, cả hỗn loạn của hiện tại hay u ám của tương lai, vẻ đẹp và sự phù phiếm của chúng, tất cả đều đáng giá từng giây ta sống trên đời. *** Doris May Lessing (1919-2013) là nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch người Anh từng được trao giải Nobel Văn chương năm 2007. Bà là người lớn tuổi nhất khi được trao giải thưởng cao quý này. Bà cũng từng được trao giải David Cohen cho thành tựu trọn đời đóng góp cho nền văn học Anh và đứng thứ 5 trong danh sách “50 nhà văn Anh vĩ đại nhất kể từ năm 1945”. *** Tiểu thuyết “Cuốn sổ vàng” của nhà văn Doris Lessing, đạt giải Nobel Văn chương năm 2007, được liệt vào hạng kinh điển làm đau đầu không biết bao nhiêu thế hệ bạn đọc với một nỗi băn khoăn rất thực tế và rất hãi hùng: Ai và tại sao lại xếp nó vào kinh điển? Bởi câu hỏi ấy được khởi từ một khổ sở khác, thực tế không kém, Làm nào vượt qua được nỗi chán ngán vô tận để không vứt luôn cuốn sách từ hai chục trang đầu tiên? Sau rất nhiều nghị lực, tôi nghĩ mấu chốt nằm ở điểm này, xin trích lại lời của chính nhân vật chính, nhà văn Anna Wulf, trong một buổi sinh hoạt văn chương định hướng của Đảng, “điều tôi thấy quan trọng nhất, đó là câu chuyện đó có thể đọc theo lối giễu nhại, mỉa mai, hay nghiêm túc đều được.” Quả đúng như thế, “Cuốn sổ vàng” hoàn toàn có thể là một câu chuyện nửa nghiêm nửa nhại về những người phụ nữ tự nhận mình là tự do đầy nhiệt huyết cách mạng lang chạ với Chủ nghĩa cộng sản và đàn ông có vợ, với văn chương và ngôn ngữ. Song song với những cú đánh đu đó, lại là những ham muốn và lo lắng không bao giờ được giải đáp, kéo theo những hao tổn về tinh thần xuống đáy hố của điên loạn. Trước hết, “Cuốn sổ vàng” là một công trình đầy tham vọng về một đại tiểu thuyết mô tả cả một giai đoạn lịch sử những năm 1950 của nước Anh của những phụ nữ trung lưu không còn bị ràng buộc về những chuẩn mực giới tính. Ngay trong lời nói đầu cuốn sách, tác giả đã ấp ủ mình sẽ thành công hơn George Eliot, để sánh ngang Tolstoy và Stendhal, là một điểm bùng nổ, một bước ngoặc trong truyền thống văn chương Anh, khi phản ánh được hiện thực như hai tác gia kia đã làm với, lần lượt, Nga và Pháp. Dẫu có chối bỏ và nổi giận với những bài phê bình về sách của mình, một việc Lessing làm hơi bị thường xuyên, thì tiểu thuyết này đầu tiên và thứ đến, đề cập đến phong trào phụ nữ, và phòng trào của phụ nữ tham gia Chủ nghĩa xã hội. Và tiếp đến nữa, có lẽ, là quan hệ con người. Nhân vật chính của “Cuốn sổ vàng” là Anna Wulf, một nhà văn từng có tiểu thuyết đầu tay nổi tiếng “Những biên giới chiến tranh”, một bà mẹ đơn thân, Đảng viên, chơi thân với Molly một diễn viên chưa nổi, cũng li dị và cũng đơn thân, hay cãi nhau với Richard, chồng cũ của Molly, yêu Michael, một đàn ông có vợ, để rồi bị ruồng bỏ, tuyệt vọng, và quan trọng hơn, đang rơi vào trạng thái tắc tị không sáng tác được. Ấy vậy mà, Anna vẫn ghi chép đều và không mệt mỏi, những trải nghiệm của cá nhân, vào bốn cuốn sổ, phân theo các màu khác nhau. Đủ cả, như Lessing đã tóm tắt, “Ràng buộc. Tự do. Tốt. Xấu. Có. Không. Tư bản chủ nghĩa. Xã hội chủ nghĩa. Tình dục. Tình yêu…” Tưởng như phân định được rạch ròi, như cách định vị của ngôn ngữ, bằng cách dùng một phần gọi là “Phụ nữ tự do” như một sợi chỉ đỏ cho người đọc lần theo, Anna phân cho cuốn sổ màu đen là những trang viết năm tháng 1940 ở châu Phi nơi cô sinh hoạt Đảng cùng một nhóm trung lưu phù phiếm khác, cuốn sổ màu đỏ ghi chép sinh hoạt Đảng của Anna ở Anh nơi cô dần thất chủ nghĩa Cộng sản là một cái giếng cạn khô, cuốn sổ màu vàng là cuốn tiểu thuyết ngoại tình nơi Anna lấy chính mình làm cảm hứng và nhân vật mẫu, còn cuối sổ màu xanh là những ghi chép thường nhật và những giấc mơ. Anna đã tách rời bốn cuốn sổ nhưng rồi trên thực tế chúng lại ới ời gọi nhau, với những cấu trúc song song, của đầy những ngổn ngang, ẩn ức, bất an, rối loạn, sụp đổ, của chính Anna Wulf. Các trải nghiệm của Anna, tuy bị ràng buộc bởi cái lực duy lí là tách biệt để tránh sự hỗn độn, lại vòng vo và rối như tơ vò, bện chặt tất cả lại với nhau, các hiện thân của Anna, các hiện thực khác, các cuộc đời và các tinh thần khác. Những cái tôi vừa giống vừa khác Anna, được kể bằng các phong cách, điểm nhìn, giọng văn, khác nhau, ở các cuốn sổ, cho phép độc giả và chính nhà văn trải nghiệm những gì mà Anna không thể trải nghiệm và hiểu được Anna ở nhiều khía cạnh hơn. Những mảnh tự sự này giúp cấu trúc một nhân cách nhiều mặt ở Anna và cũng là tham vọng kiến tạo một sự hoàn chỉnh mang tính chất hồi phục và hướng tới ổn định, mạch lạc và gắn kết, khi Anna ghép bốn cuốn sổ thành một. Nhưng liệu đây có phải là một niềm tin đầy ảo tưởng khác của Anna, rằng trật tự chống lại được hỗn loạn? Như bao ảo tưởng đã mai một, như chủ nghĩa cộng sản, như Phụ nữ tự do. Chính ở bốn cuốn sổ với hình thức truyện lồng trong truyện này mà người đọc nhận ra tham vọng vượt quá những giới hạn của văn chương của Lessing: không kiến tạo những định danh rạch ròi của trải nghiệm, và đẩy cao sự nhập nhằng giữa tiểu thuyết và sự thật, và vì thế tạo nên sự đọc đa dạng. Sự phân tách thành các mảnh tự sự, với một sự nghiêm túc hiếm có nhưng lại kể những câu chuyện lố bịch đến khó hiểu, mà cuốn tiểu thuyết đã xuất bản của chính Anna là một minh chứng: bối cảnh một châu Phi chủ nghĩa phân biệt chủng tộc nơi những con người không thuộc giới cần lao sinh hoạt Đảng đi kèm với sinh hoạt tình dục, với tiệc tùng và khiêu vũ. Trở lại London, đời sống của Anna cũng không thay đổi nhiều lắm, với đồng chí anna và đồng chí molly làm tình với đồng chí michael và đồng chí Ella làm tình với đồng chí Paul và nhiều đồng chí khác nữa. Tình cảm của phụ nữ trong “Cuốn sổ vàng” thì lên xuống như thủy ngân, khi có giai đoạn họ nhăng nhít với cộng sản một cách nghiêm túc, và khi họ dè nhau phải cẩn thận để không chuyển sang căm ghét Đảng. Và đây chính là một điểm quan trọng của “Cuốn sổ vàng” sự mâu thuẫn không bao giờ giải quyết được, sự phi lý đến từ nhân vật, cho đến hình thức của cuốn tiểu thuyết, bằng một giọng văn vừa chân thành, vừa lấp ló nhài nhại phù phiếm. Anna là hiện thân của một mẫu hình giới nữ, với những đau khổ dằn vặt thường nhật của yêu và không được yêu, của làm tình cực khoái và không cực gì cả, của cãi cọ và làm hòa, của buồn khổ chán chường, tuyệt vọng và hy vọng. Quan trọng hơn, của không thể giải thích, không thể hiểu, không thể tự thoát, mối trầm cảm không kiểm soát, để cuối cùng chính Anna nhận ra, vấn đề của cô, là không biết hạn chế cảm xúc. Với tham vọng như tiểu thuyết lịch sử, được sắp xếp theo trình tự thời gian, cuốn tiểu thuyết này của Lessing, trình bày các mối quan hệ bằng một lối viết chân thực ròng rã, của những trang viết dài dòng về làm tình và hành kinh, như thể đối chọi là với James Joyce và đại tiện. Giọng văn đều đều như máy khoan, chi tiết và cụ thể, phân tách và chì chiết, chảy hết từ tâm trạng này sang tâm trạng khác của nhân vật chính, trôi từ người tình này sang người tình kia, cuốn từ cuộc họp Đảng này sang cuộc họp Đảng khác, không sự kiện, không kịch tích, không giải trí, như năm tháng, như cuộc đời của Anna và Molly. Cho đến một ngày, truyện đột ngột kết thúc, không báo trước, không trông đợi, không gây hấn, với quyết định của nhân vật là trở thành anh của mọi nhà là em của mọi kiếp phôi pha. Bật lên trên cái nền đầy chán ngán này, là những trải nghiệm phụ nữ trong mối quan hệ đàn ông đàn bà nơi đàn bà thì liên tục thèm muốn cần chở che cần được yếu ớt còn đàn ông thì thù địch chối từ mọi nhu cầu của đàn bà. Anna Wulf nằm ở cái nan đề giữa là một người đàn bà ý thức rõ cái tình thế tiến thoái lưỡng nan kia và việc là một người đàn bà bình thường không chối lại cái tình thế đó, không giải phóng mình ra khỏi đó. *** Cuốn tiểu thuyết này được sắp xếp như sau: Có một bộ xương, hoặc bộ khung, tên là Phụ nữ tự do, là một tiểu thuyết ngắn viết theo lối truyền thống dài khoảng 60.000 từ, có thể đứng độc lập được. Nhưng nó được chia thành năm đoạn, xen giữa là các phần của bốn cuốn sổ có bìa màu đen, đỏ, vàng và xanh dương. Các cuốn sổ này thuộc về Anna Wulf, nhân vật trung tâm của Phụ nữ tự do. Cô viết vào bốn chứ không phải một cuốn bởi vì, như cô thừa nhận, cô phải tách rời các thứ với nhau, vì sợ sự hỗn loạn, sự vô định hình - sợ sụp đổ. Áp lực, từ bên trong lẫn bên ngoài, đã khép lại các cuốn sổ; một dòng đen đậm được kẻ ngang trang giấy từ cuốn này sang cuốn khác. Nhưng giờ khi bốn cuốn sổ đã kết thúc, từ các mảnh vỡ của chúng có thể xuất hiện một thứ mới mẻ, Cuốn Sổ Vàng. Từ đầu đến cuối các cuốn sổ, các nhân vật đã đưa ra những lời bàn luận, giả thuyết, giáo điều, dán nhãn, chia ngăn - đôi khi bằng một giọng chung chung và tiêu biểu cho thời đại tới mức họ trở thành ẩn danh, bạn có thể đặt cho họ những cái tên như trong các vở kịch luân lý thời trước, ông Giáo-Điều và ông Tôi-Tự-Do-Bởi-Vì-Tôi-Chả-Thuộc-Về-Nơi-Nào-Cả, cô Tôi-Phải-Có-Được-Tình-Yêu-và-Hạnh-Phúc và bà Tôi-Phải-Giỏi-Trong-Mọi-Việc-Tôi-Làm, ông Phụ-Nữ-Đích-Thực-Ở-Đâu? và cô Đàn-Ông-Đích-Thực-Ở-Đâu?, ông Tôi-Điên-Vì-Người-Ta-Bảo-Vậy, và cô Cuộc Đời-Qua-Trải-Nghiệm-Mọi-Việc, ông Tôi-Làm-Cách-Mạng-Vì-Vậy-Tôi-Tồn-Tại, và ông bà Nếu-Chúng-Ta-Xử-Lý-Tốt-Vấn-Đề-Nhỏ-Này-Thì-Có-Lẽ-Chúng-Ta-Có-Thể-Quên-Đi-Rằng-Chúng-Ta-Không-Dám-Nhìn-Vào-Những-Vấn-Đề-Lớn. Nhưng họ cũng phản ánh lẫn nhau, là các mặt của nhau, khai sinh ra suy nghĩ và hành vi của nhau - là nhau, tạo thành các chỉnh thể. Trong Cuốn Sổ Vàng bên trong cuốn sách này, tất cả đã tập hợp lại, mọi ngăn cách bị phá vỡ, tình trạng phân mảnh chấm dứt để lại sự vô định hình - sự chiến thắng của chủ đề thứ hai, tức là thống nhất. Anna và tay người Mỹ Saul Green đều “đổ vỡ”. Họ điên, họ rồ, họ tâm thần - muốn dùng từ gì cũng được. Họ “vỡ” vào nhau, vào người khác, phá tan những mô hình giả dối họ dựng lên từ quá khứ của mình, những mô hình và công thức mà họ tạo ra để chống đỡ cho bản thân và cho nhau, họ tan rã. Họ nghe thấy ý nghĩ của nhau, nhận ra người kia trong chính mình. Saul Green, con người từng ghen tị và là tác nhân hủy diệt Anna, giờ ủng hộ cô, khuyên nhủ cô, gợi ý chủ đề cho cuốn sách thứ hai của cô, Phụ nữ tự do- một cái tên mỉa mai, mở đầu bằng: “Chỉ có hai người phụ nữ trong căn hộ ở London.” Và Anna, từng ghen vì Saul đến mức phát điên, chiếm hữu và đòi hỏi, đã cho Saul cuốn sổ mới xinh đẹp, Cuốn Sổ Vàng, mà trước đó cô đã từ chối không cho, gợi ý cho anh chủ đề mới cho cuốn sách tiếp theo của anh, viết vào đó câu đầu tiên: “Trên một sườn đồi khô ráo ở Algeria, người lính ngắm ánh trăng lấp lánh trên khẩu súng trường.” Trong Cuốn Sổ Vàng bên trong Cuốn Sổ Vàng, do cả hai cùng viết, không còn phân biệt nổi đâu là Saul và Anna, hoặc đâu là họ và đâu là những người khác trong cuốn sách. Chủ đề “sụp đổ” này - rằng đôi lúc khi người ta “đổ vỡ” đấy cũng là một cách chữa lành bản thân, cách mà bản thể nội tại gạt bỏ những lưỡng phân và chia rẽ sai lầm - từ đó đến nay đã được nhiều người khác, cũng như chính bản thân tôi, đề cập tới. Nhưng nếu không tính đến vài cái truyện ngắn thi thoảng thì cuốn sách này là tác phẩm đầu tiên tôi viết về nó. Ở đây nó thô ráp hơn, gần với trải nghiệm thực hơn, trước khi trải nghiệm thực đã định hình thành ý nghĩ và mô hình - và có giá trị hơn có lẽ vì nó là nguyên liệu thô. Nhưng không ai để ý mấy đến chủ đề trọng tâm này, bởi vì cuốn sách này lập tức hoặc bị coi thường, bởi những nhà phê bình thân thiện cũng như thù địch, rằng nó chẳng qua chỉ viết về cuộc chiến giới tính, hoặc được những người phụ nữ chiếm lấy làm một thứ vũ khí hữu dụng trong cuộc chiến giới tính. Kể từ đó tôi ở vào một vị thế không thành thật, bởi vì từ chối ủng hộ những người phụ nữ không phải là một việc tôi muốn làm. Để chốt lại cái đề tài Giải phóng Phụ nữ này - tất nhiên là tôi ủng hộ phong trào đó, bởi vì phụ nữ là những công dân hạng hai, như người ta đang nói rất hay và rất hăm hở ở nhiều quốc gia. Có thể nói rằng họ đang thành công, dù thành công của họ chỉ đến mức là đang được nghiêm túc lắng nghe. Những người trước đây thù địch hoặc thờ ơ thì giờ đã nói: “Tôi ủng hộ mục tiêu của họ nhưng tôi không thích giọng nói the thé cũng như cái kiểu hành xử thô tục, xấu tính của họ.” Đây là một giai đoạn không thể tránh khỏi và dễ nhận thấy trong bất cứ phong trào cách mạng nào: những người cải cách phải chuẩn bị tinh thần bị chối bỏ bởi những người đang sung sướng hưởng thụ những thành quả mà họ đã giành được. Mặc dù vậy, tôi không nghĩ rằng phong trào Giải phóng Phụ nữ sẽ thay đổi được nhiều - không phải là vì mục tiêu của nó có gì sai, mà vì rõ ràng là những biến cố mà chúng ta đang trải qua đang khiến cả thế giới rung chuyển thành một mô hình mới: có thể là khi chúng ta trải qua xong chặng này, nếu chúng ta sống sót được, những mục tiêu của Giải phóng Phụ nữ trông sẽ rất nhỏ bé và kỳ khôi. Những cuốn tiểu thuyết này không phải là tiếng kèn cổ vũ cho Giải phóng Phụ nữ. Nó mô tả nhiều cảm xúc của phụ nữ như hung hăng, thù địch, oán giận. Nó đưa chúng ra trang giấy. Rõ ràng là những gì mà nhiều phụ nữ vẫn đang nghĩ, cảm nhận, trải nghiệm, đã đem đến một niềm kinh ngạc lớn. Ngay lập tức rất nhiều vũ khí cổ xưa được đem ra, những món chính, như thường lệ, chính là các câu kiểu như “Cô ta chả đàn bà tí nào”, “Cô ta là một mụ ghét đàn ông”. Dường như phản xạ này không thể nào bị phá hủy. Đàn ông - và nhiều phụ nữ, từng nói rằng phụ nữ đòi quyền bầu cử đầu thế kỷ 20 là phi nữ tính, là nam tính, là đã nhiễm thói hung bạo. Tôi chưa đọc được một tài liệu nào nói về một xã hội trong đó phụ nữ đòi hỏi nhiều hơn những gì tự nhiên ban phát cho mà lại không ghi nhận phản ứng này từ phía đàn ông - và một số phụ nữ. Nhiều phụ nữ nổi giận với Cuốn Sổ Vàng. Những gì phụ nữ vẫn nói với những phụ nữ khác, cằn nhằn trong nhà bếp, phàn nàn, buôn chuyện hoặc bộc lộ qua cái cách họ sung sướng với nỗi khổ của mình, lại không phải là những gì họ muốn nói lớn thành tiếng - vì sợ đàn ông có thể nghe lỏm thấy. Phụ nữ hèn nhát như thế bởi vì họ đã sống gần như là nô lệ trong thời gian quá dài. Số phụ nữ sẵn sàng đứng lên bảo vệ những gì họ thực sự nghĩ, cảm nhận, trải nghiệm với người đàn ông họ yêu vẫn còn ít ỏi. Hầu hết phụ nữ vẫn sẽ bỏ chạy như những chú cún con bị ném đá khi đàn ông nói: Em không nữ tính, hung hăng, em đang làm mất hết nam tính của anh. Tôi tin rằng bất cứ phụ nữ nào kết hôn với một anh chàng sử dụng kiểu đe dọa này, hoặc đặt niềm tin vào anh ta theo một cách nào đó, đều xứng đáng với những gì cô ta nhận được. Vì đàn ông như thế chỉ là một kẻ ức hiếp người khác, không biết gì về thế giới anh ta đang sống, hoặc về lịch sử của nó - đàn ông và phụ nữ đảm nhiệm vô số vai trò trong quá khứ, và cả hiện tại, trong các xã hội khác nhau. Vì vậy nên anh ta hoặc dốt nát, hoặc sợ bị lạc loài - một tên hèn… Tôi viết tất cả những nhận xét này bằng đúng cái cảm giác như thể tôi đang viết thư gửi vào quá khứ xa xôi: Tôi chắc chắn rằng mọi thứ chúng ta bây giờ coi là đương nhiên, sẽ bị quét sạch trong thập kỷ sau. (Thế thì tại sao lại viết tiếu thuyết? Thật sự đấy, tại sao! Tôi đồ rằng chúng ta phải tiếp tục sống như thể…) Một số cuốn sách không được đọc đúng cách bởi vì chúng đã nhảy cóc qua một giai đoạn phát triển quan điểm, giả định một sự kết tinh thông tin trong xã hội mà thực tế vẫn chưa xảy ra. Cuốn sách này được viết như thể mọi thái độ mà các phong trào Giải phóng Phụ nữ tạo ra đã tồn tại trong thực tế. Lần đầu tiên nó xuất hiện là cách đây ngót mười năm, 1962. Nếu ra mắt bạn đọc vào thời điểm hiện tại, có lẽ người ta sẽ thực sự đọc nó chứ không chỉ đơn thuần là phản ứng lại: tình hình đã thay đổi rất nhanh. Một số thói đạo đức giả nhất định đã biến mất. Chẳng hạn, mười, hoặc thậm chí năm, năm trước - một thời nổi loạn về mặt tình dục - tiểu thuyết và kịch được viết rất nhiều bởi những anh đàn ông giận dữ chỉ trích phụ nữ - đặc biệt là ở Mỹ, nhưng ở cả đất nước này cũng có - được mô tả như những người thích gây hấn và phản bội, nhưng đặc biệt là phá hoại và đào mỏ. Nhưng những thái độ này ở các nhà văn nam lại được coi là đương nhiên, được chấp nhận như là một cơ sở triết học đúng đắn, một điều khá bình thường, và chắc chắn không bị coi là ghét phụ nữ, hung hăng, hay loạn thần kinh. Điều này vẫn tiếp diễn, tất nhiên - nhưng mọi chuyện đã tốt hơn, không có gì phải nghi ngờ cả. Tôi chìm đắm vào việc viết cuốn sách này đến nỗi không nghĩ đến cảnh nó sẽ được đón nhận như thế nào. Tôi toàn tâm toàn ý với nó không chỉ đơn thuần là vì cuốn sách này khó viết - giữ dàn ý trong đầu, tôi viết liền tù tì từ đầu đến cuối, một việc không hề đơn giản - mà vì thứ tôi học hỏi được trong lúc viết. Có thể là bằng việc đưa ra cho bản thân một cấu trúc chặt chẽ, quy định những giới hạn cho bản thân, ta sẽ vắt ra được chất liệu mới nơi ít mong đợi nhất. Đủ loại ý tưởng và trải nghiệm mà tôi không nhận ra là của mình đã nổi lên khi viết. Vì thế, thời gian viết thực tế, chứ không chỉ những trải nghiệm đã đi vào việc viết lách ấy, thực sự là một kinh nghiệm có tính sang chấn: nó khiến tôi thay đổi. Bước ra từ quá trình kết tinh này, giao bản thảo cho nhà xuất bản và bạn bè xong, tôi được nói cho biết rằng mình đã viết một luận văn về cuộc chiến giới tính, và nhanh chóng khám phá ra rằng bất kể tôi nói gì cũng chẳng thể nào thay đổi được nhận định đó. Nhưng cốt lõi của cuốn sách, cách thức tổ chức của nó, mọi thứ trong đó, đã nói một cách cả thẳng thắn và ngầm ẩn rằng chúng ta không được tách rời mọi thứ, không được chia ngăn. “Ràng buộc. Tự do. Tốt. Xấu. Có. Không. Tư bản chủ nghĩa. Xã hội chủ nghĩa. Tình dục. Tình yêu…” Anna nói, trong Phụ nữ tự do, tuyên bố chủ đề của cuốn sách - gào lên, trống giong cờ mở thông báo một mô típ xuyên suốt… hoặc là tôi tưởng tượng như vậy. Cũng như khi tôi tin rằng trong một cuốn sách có tên Cuốn Sổ Vàng, cái phần bên trong đặt trùng tên với nó có thể được cho là tâm điểm, mang theo sức nặng của toàn bộ cuốn sách, và đưa ra một tuyên bố. Nhưng không. Còn có nhiều chủ đề khác cũng đi vào cuốn sách này, với tôi đây là một thời điểm quan trọng: những suy nghĩ và chủ đề mà tôi vẫn đang giữ trong đầu nhiều năm nay giờ đã được nối vào với nhau. Một trong số đó là không thể tìm thấy cuốn tiểu thuyết nào mô tả môi trường trí thức và đạo đức cách đây một trăm năm, vào khoảng giữa thế kỷ vừa qua, ở nước Anh, theo cách mà Tolstoy làm cho nước Nga, Stendhal làm cho nước Pháp. (Đến đây cần phải đưa ra những lời tạ sự không tránh được.) Đọc Đỏ và Đenvà Lucien Leuwen là biết về nước Pháp như thể ta đang sống ở đó, đọc Anna Karenina là biết nước Nga khi đó. Nhưng một cuốn tiểu thuyết thời Victoria rất hữu ích như vậy lại không bao giờ được viết nên. Hardy cho chúng ta biết cảm giác thế nào khi người ta nghèo, khi có một trí tưởng tượng lớn hơn những gì một thời đại chật hẹp như vậy cho phép, khi làm một nạn nhân. George Eliot, trong phạm vi của mình, cũng rất hay. Nhưng tôi nghĩ hình phạt mà bà phải trả giá khi làm một phụ nữ thời Victoria là bà vẫn phải tỏ ra là một phụ nữ tốt, ngay cả khi bà không “tốt” nếu chiếu theo những tiêu chuẩn đạo đức giả của thời đó - có rất nhiều điều bà không hiểu bởi vì bà chú trọng đạo đức. Meredith, nhà văn bị đánh giá thấp một cách đáng kinh ngạc, có lẽ gần đạt được điều này nhất. Trollope thử đề tài này nhưng thiếu tầm. Không có lấy một cuốn tiểu thuyết nào có đủ khí lực và thể hiện được sự xung đột giữa các tư tưởng đương thời như trong một cuốn tiểu sử đàng hoàng về William Morris. Mời các bạn đón đọc Cuốn Sổ Vàng của tác giả Doris Lessing & Lê Khánh Toàn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hồ Thùy Dương
Tại Nam bộ châu Á có một bán đảo nhỏ tên Oa-ly-đà, núi non hiểm trở dân cư phần đông tụ tập ở miền đồng bằng phía Đông Nam ngay sát bờ biển. Tại miền Bắc Oa-ly-đà ngay chính giữa khoảng núi non trùng điệp rừng cây sầm uất, có một cái hồ thật rộng, xung quanh mọc thuần một thứ cây thùy- dương, vì vậy người Oa-ly-đà gọi là Hồ Thùy Dương. Các ông già bà cả xứ Oa-ly-đà trước đây vẫn thường kể cho con cháu nghe về sự tích cái hồ đó, lời các cụ kể mộc mạc. Về sau các thi sĩ Oa- ly-đà bèn kể lại thành khúc trường ca phổ nhạc, lời thơ chải chuốt bóng bẩy với nhiều tình tiết tỉ mỉ. Rồi vào những đêm xuân mở hội có trăng tròn, người ta vừa gẩy đàn vừa kể hoặc vừa hát chodân chúng nghe. Thường thường dân chúng tụ tập để nghe chuyện từ lúc trăng rằm vừa nhô cao lên khỏi dãy núi ngoài khơi. Dân chúng lặng yên nghe lời ca, nghe tiếng đàn, nhiều khi cùng vỗ tay giữ nhịp đồng ca với thi sĩ hoặc đứng lên làm điệu bộ hợp với lời thơ. Đêm dài thành ngắn. Khi câu chuyện vừa chấm dứt, dân chúng ra về thì trăng rằm thường cũng vừa kịp lặn, vừng đông hơi ửng hồng, cỏ hai bên đường đẫm sương. Những hình ảnh đó như nhắc nhở dân chúng nhớ lại biết bao tình tiết trong câu chuyện kể thâu đêm vừa qua. Khúc nhạc-thi này chia làm ba hồi rõ rệt. *** Ngày xưa khoảng Hồ Thùy Dương này là một khu rừng quế tuyệt đẹp. Thân quế cao vút, cành quế ẻo lả rủ xuống như cánh tay của bầy tiên nghiêng múa. Tới mùa xuân năm kia có một con sói về đó ở. Nguyên nó là một con sói tu luyện lâu ngày đã thành tinh, hiện hình người, đi trên hai chân, duy cái đuôi vẫn còn. Sở dĩ con sói tu luyện được như vậy vì nó là con sói dị tướng lông ba sắc, đầu đen mình hung hung đỏ, và đặt biệt đuôi trắng xòe ra như bông lau. Trước đây hồi còn tu luyện trên núi Li-biêng, một ngọn núi cao quanh năm tuyết phủ miền cực Bắc, con sói có lần thấy một khối đá bị nước soi mòn để lộ bên trong thỏi ngọc quý dài như chiếc đũa, óng ánh màu biếc. Nó bèn đem thỏi ngọc đến Hang Trời. Hang Trời là một động đá thông suốt hai bề, hình hàm rồng. Chính là nơi tụ tập khí thiêng của trời đất. Gió từ bốn phương rừng núi lùa lại ngát hương. Ánh sáng mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao ngày đêm phản chiếu lấp lánh muôn mầu trên thành thạch nhũ khiến bất cứ giờ nào tại nơi đây cũng có một màu ánh sáng huyền ảo lân lâng đạc biệt của chốn thần tiên. Ngay giữa động Hang Trời có một phiến đá phẳng màu trắng trong. Phiến đá này trước đây chỉ là một phiến đá thường. Tục truyền, sau lần Thượng Đế giáng lâm an tọa trên đó qua mấy ngàn năm sau nó biến thành trắng phau và hầu như trong suốt như vậy. Do linh tính đặc biệt của loài yêu, con sói đuôi xòe đem thỏi ngọc đến đặt ngay chính giữa phiến đá. Nó biết rằng chờ ba trăm năm sau, thỏi ngọc sẽ thu hút tinh khí mặt trời ban ngày, trăng sao ban đêm, cùng hương gió bốn phương của núi rừng để biến thành chiếc đũa vạn năng. Ba trăm năm qua. Con sói đã tu luyện hiện được thành hình người nhưng nó chưa thể sử dụng được chiếc đũa vạn năng vì nó chưa thành người thật, mà còn là loài sói với cái đuôi xòe đằng sau. Vẫn với linh tính loài yêu, con sói đuôi xòe biết rằng nó cần phải uống máu hai giống người khác nhau thì cái đuôi của nó mới biến đi được. Nhưng nó không dám tự mình đi vồ hai giống người kia vì nó biết chiếc đũa vạn năng sẽ mất hết linh ứng dưới tay một kẻ phạm tội hung ác. Nó chợt nghĩ ra được một quỷ kế, không tự tay giết ai mà vẫn có đủ máu hai giống người để uống cho đuôi xòe biến đi. Lập tức nó từ giã đỉnh núi Li-biêng đằng vân bay mãi… bay mãi xuống miền Nam. Tới khu rừng quế nước Oa-ly-đà, nó xem kỹ hình thế rồi quyết định dừng lại. Sở dĩ con sói đuôi xòe chọn rừng quế này làm nơi thi hành xảo kế vì ngang qua khu rừng có con đường lớn đưa ra biển, các giống người ở giữa đại lục vẫn mượn con đường này để liên lạc thông thương cùng các giống người khác ở ven đại dương.   Mời các bạn đón đọc Hồ Thùy Dương của tác giả Doãn Quốc Sỹ.
Chỉ Tại Vợ Tôi Gợi Tình
Đàn ông sinh ra là dành cho đàn bà, sự thật ấy ai dám chối cãi. Thế mà Hector lại không như thế. Gã sinh ra là để... dành cho đồ vật. Bởi gã ấy, từ thuở cha sinh mẹ đẻ, phàm là đồ vật, cái gì gã cũng sưu tầm, từ tem thư, huy hiệu, giấy gói sô cô la đến giấy khai sinh, xiên hoa quả, hộp đựng xà phòng, ngạn ngữ Croatia, vỏ sò Ấn Độ Dương, những thanh âm lúc 5 giờ sáng... Người ta cũng nói thế này: “cố quá thành quá cố”. Gã suýt “quá cố” vì cái thú sưu tầm quái gở ấy. Và gã quyết chí: LẤY VỢ! Cái quyết định được kỳ vọng sẽ hướng cuộc đời gã về bến bờ bình yên của hạnh phúc lứa đôi ai ngờ lại đẩy gã vào những tình huống tai quái mới, tất cả đều cùng một nguyên nhân: “CHỈ TẠI VỢ TÔI GỢI TÌNH!" Nhận định Chỉ tại vợ tôi gợi tình! là một bộ sưu tầm những trang sách buồn cười, nơi cái điên và cái hài tranh chấp nhau từng dòng một. Thậm chí, có lúc còn tằng tịu với nhau!” - (La Libération) “Vẫn luôn hài hước, chưa bao giờ lạc điệu, David Foenkinos nổi bật lên trong làng văn chương theo một cách thật thú vị.”- (Livres Hebdo) “David Foenkinos đã có một bộ sưu tầm những từ đắt và những phản ứng kỳ cục.” - (Télérama) *** Không khí hài hước ngập tràn trong tác phẩm "Chỉ tại vợ tôi gợi tình!", không chừa một nhân vật chính phụ nào, một cái hài rất "dị" nhưng đã được tiết chế một cách logic hơn so với 2 tiểu thuyết đầu tay của David Foenkinos. Chọc cười độc giả không bao giờ là đơn giản đối với một tiểu thuyết, vốn bị tước mất những hiệu ứng sinh động từ điệu bộ hay sự trầm bổng của giọng nói. Một tiểu thuyết đã được coi là “hài hước” khi có thể khiến người đọc mỉm cười hoặc cảm thấy “âm ỉ sướng” chứ chưa cần bắt được người bật cười ha hả. Thế nhưng "Chỉ tại vợ tôi gợi tình!" lại vượt qua được thách thức đó và độc đáo hơn, chỉ bằng lối trần thuật đơn giản. Bởi không việc gì phải cố hiểu ra đầu ra đũa, ta quá thường xuyên lãng phí hạnh phúc khi cố phân tích nó. Trái ngược với hai tiểu thuyết đầu tay, ở "Chỉ tại vợ tôi gợi tình!", David Foenkinos đã chế ngự thành công chất “dị” trong cách viết của mình với một cốt truyện logic, tránh được những lúc dông dài và “mất tự chủ”. Mọi chuyện bắt đầu từ một điều khó tin: nhân vật chính, Hector, quyết định tự kết liễu đời mình! May thay, anh thoát chết và thế là độc giả được tận mắt chứng kiến cái chứng bệnh quái gở của anh: hội chứng cuồng sưu tầm. Để “cai nghiện”, anh quyết định lấy vợ. Bởi người ta không thể sống cả đời với một cái xiên hoa quả. Nhưng sự đời đâu có giản đơn như thế. Hector, một con người vốn quen với nỗi cô đơn, xa lánh người đời, giờ phải sống chung với một người phụ nữ có thể nói là “xa lạ” (họ đã trúng tiếng sét ái tình), phải tập quen với những chuyến viếng thăm định kỳ gia đình đôi bên. Tất nhiên, chuyện rồi sẽ kết thúc tốt đẹp, nhưng theo cách như thế nào thì có thể dám chắc rằng không ai ở đây có thể tưởng tượng nổi những diễn biến quái gở ấy. Cái tài của Foenkinos có lẽ chính là việc tạo dựng được không khí hài hước cho toàn bộ câu chuyện, không chỉ với nhân vật chính Hector, mà còn với dàn nhân vật phụ hùng hậu và “cực chất”. Đầu tiên phải kể đến bố mẹ Hector, một người cha sống chết với bộ ria của mình (để ria là có ý cả, kiểu như một hành động tuyên truyền) còn bà mẹ dành cả đời chỉ tâm huyết với việc nấu sao cho món xúp thật ngon, nhưng đến cuối lại rơi vào một cơn trầm cảm không thể có lối thoát chừng nào chưa trút hơi thở cuối cùng bởi bà nhận ra rằng xã hội hiện đại đã cung cấp những món xúp ăn liền ngon tuyệt. Và tất nhiên, không thể không nhắc đến Ernest, anh trai của Hector, nhà vô địch về hạnh phúc và người anh cao cả với tinh thần anh em như thể tay chân. Đặc biệt là Gérard, ông anh rể khù khờ, cua rơ huyền thoại của giải đua xe đạp Ouarzazate-Casablanca (xin độc giả đừng thắc mắc vội, bởi cái giải này từ trước tới nay chỉ có duy nhất một nhà vô địch là anh ta, người đã bịa ra nó.) Có thể nói "Chỉ tại vợ tôi gợi tình!" là độc đắc trong thể loại của nó, như tiếng chuông lanh lảnh, hoang dại, điên khùng rung lên theo phần nhạc đệm êm đềm nhưng nhí nhố, đôi khi lại vống lên những nhịp cao trào cuồng nhiệt. Đây cũng là tác phẩm mang lại cho David Foenkinos thành công lớn với Giải Roger-Nimier năm 2004. *** Hector rất có tướng người hùng. Nhìn gã, người ta tưởng đâu hừng hực khí phách “giữa đường thấy chuyện bất bằng chẳng tha”, bất chấp mọi hiểm nguy của cõi nhân tình thế thái chúng ta, tưởng đâu phải hớp hồn hết thảy đám đàn bà con gái, phải sẵn sàng tổ chức những kỳ nghỉ gia đình, phải xởi lởi bắt chuyện với bà con chòm xóm đi chung thang máy, hay, cao cấp hơn, phải cảm được phim của David Lynch. Gã ắt hẳn sẽ thuộc hạng người hùng của thời đại chúng ta, nếu có thêm cơ bắp cuồn cuộn. Thế mà bỗng đâu gã quyết định tự tử. Tạ ơn trời, có thế người ta mới nhìn nhận tốt hơn về người hùng. Hẳn là có chút tâm đắc nào đó với những cảnh phim, gã chọn ga tàu điện ngầm. Tất cả mọi người đều sẽ biết đến cái chết của gã, đó sẽ giống như một buổi họp báo giới thiệu một bộ phim không bao giờ khởi quay. Hector đung đưa người khe khẽ khi lắng nghe, vì lịch sự, những lời khuyến cáo sang sảng để không vội mua vé xem phim; rủi gã chết hụt, nhớ lại điều này cũng sẽ hữu ích. Người ta chẳng biết gì về gã, vậy nên người ta ít nhiều mong sự rủi này, ít nhất cũng để biết liệu có nên trông mặt mà bắt hình dong hay không. Cái gã tướng tá người hùng này thế mà điên. Gã bắt đầu nhìn mờ dần, những viên thuốc nhằm mục đích gây ngủ đã được nốc sớm quá. Chết trong lúc ngủ thì vẫn tốt hơn. Rốt cuộc, chuyện đó thành ra may mắn, bởi vì Hector lăn ra ngất. Trong mắt gã, người ta chẳng nhìn thấy điều gì. Gã được phát hiện nằm sõng soài trên hành lang ga tàu điện ngầm, gần Châtelet-Les Halles hơn là gần cái chết. Cơ thể gục xuống của gã trông như một thai nhi bị phá bỏ. Hai người khiêng cáng tướng tá như mấy tay vận động viên dùng đẫy thuốc kích thích (nhưng giờ không thể trông mặt mà bắt hình dong được) vừa giải cứu gã khỏi mọi cái nhìn của đám dân lao động đang âm ỉ sướng khi trông thấy cái tình cảnh còn thảm hơn của họ. Hector chỉ nghĩ độc một điều: vì tự tử hụt, gã vừa bị ép phải sống. Gã được chuyển đến một bệnh viện mới vừa được sơn sửa lại; nên dễ hiểu là người ta có thể thấy khắp nơi dòng chữ “sơn mới”. Vài tháng tới, gã sẽ tha hồ buồn chán trong cái khoa dành cho người hồi sức này. Chẳng mấy chốc, cái thú duy nhất của gã đã định hình: vừa ngắm cô y tá vừa tơ tưởng được vuốt ve bầu ngực nàng. Gã cứ đắm đuối với cái thú này, cho đến khi thừa nhận cô ả quá xấu. Gã lay lắt sống trong cái tình cảnh sự xấu phải nói là huyền thoại. Nói thế có phần nghiệt ngã quá; vì cô ả có thể rất gợi tình giữa hai mũi moóc phin. Và còn có tay bác sĩ, chốc chốc lại lướt qua như thể đi vũ hội. Những cuộc gặp gỡ hiếm khi quá một phút, và nhất định phải ra cái vẻ vội vội vàng vàng để chăm chút cho tiếng tăm của hắn (tiếng tăm, đó đúng là thứ duy nhất hắn chăm chút). Cái tay có nước da rám nắng đáng ngạc nhiên này bắt gã thè lưỡi ra chỉ để kết luận rằng gã có một cái lưỡi đẹp. Kể cũng tốt nếu có một cái lưỡi đẹp, ta cảm thấy thoải mái với một cái lưỡi đẹp, với Hector, thế chẳng khác gì có cặp chân đẹp. Gã không biết chính xác mình đang chờ đợi gì, đó là cơn trầm uất rền rĩ từ sâu thẳm lòng gã. Người ta đề nghị gã liên hệ với gia đình hoặc bạn bè nếu như may mắn còn ai đó (một cách kín đáo, người ta bóng gió về khả năng nên thuê lấy một người). Những gợi ý này đều bị từ chối bằng một sự im lặng kém lịch duyệt, cũng phải châm chước cho gã. Hector không muốn gặp bất kỳ ai. Chính xác hơn, và giống như hết thảy người ốm, gã không muốn để ai thấy gã như lúc này. Gã xấu hổ phải là thằng người mấp mé giữa chả là cái thá gì và còn không bằng cả cái thá gì. Gã đã gọi cho một người bạn và lòe anh ta rằng gã đang ở nước ngoài, khe núi Grand Canyon tuyệt vời, cái vết nứt đáng mặt vết nứt ấy; và gã gác máy, trong khi, chính gã, mới nứt toác như Grand Canyon. Cô y tá thấy gã đáng mến, cô thậm chí đã nói với gã rằng gã là một người đàn ông đặc biệt. Liệu ta có thể ngủ với một người phụ nữ thấy ta đặc biệt? Đấy quả là một câu hỏi lớn. Trước tiên, không nên: cứ cho là phụ nữ có bao giờ ngủ đâu, thế thôi. Cô gái quan tâm đến chuyện của gã; cuối cùng, thứ cô biết về chuyện đời gã, chỉ là hồ sơ bệnh án. Khó có thể nói trong ấy ẩn chứa các chi tiết đắt giá hơn. Liệu có tồn tại cô gái ấy, người sẵn sàng hiến dâng cơ thể cho bạn bởi vì cô nàng yêu cái cách bạn không bao giờ quên đi tiêm nhắc lại một mũi vắc xin 3 trong 1? Ồ, anh làm em hưng phấn đấy, người đàn ông đích thực của vắc xin. Cô y tá gãi cằm, rất thường xuyên. Những lúc ấy, cô nàng tự cho mình là bác sĩ; phải nói là cũng có đất diễn cho vai đó. Khi ấy cô thường tiến sát lại giường Hector. Cô nàng dù gì cũng có cái cách vuốt qua vuốt lại bàn tay một cách đầy nhục cảm trên tấm ga trải giường trắng muốt, những ngón tay cô được chăm sóc cẩn thận như cặp chân trên bậc câu thang, chúng đang sải những bước dài qua sắc trắng. Người ta thả gã ra vào đầu tháng Ba, mà xét cho cùng, ngày tháng đâu có nghĩa lý gì, mà thật ra chẳng cái thá gì có nghĩa lý. Bà gác cổng, một bà cô mà chẳng còn mấy ai có thể đoán được tuổi, làm ra vẻ lo lắng về sự vắng mặt của người khách thuê nhà. Các bạn biết đấy, cái vẻ lo lắng giả tạo, cái kiểu mơ tưởng đang ở năm 1942, với chất giọng the thé chói đến độ nếu đứng cạnh đường ray, hẳn đủ làm trật bánh cả đoàn tàu. “Thưa ngài Balanchiiiine, rất vui lại được thấy ngài. Là tôi, tôi rất lo lắng...” Hector không phải thằng đần; vì gã vắng mặt đã hơn sáu tháng, mụ hẳn cố vòi ít tiền quà cho Giáng sinh vừa rồi. Không muốn dùng thang máy, đặc biệt là ngại chạm mặt một ông bà hàng xóm nào đấy và phải trình bày, kể lể cuộc đời mình, gã lê thân lên thang bộ. Gã thở phì phò thành tiếng, và người ta xúm lại bên các cửa sổ. Gã đi đến đâu, người ta mở cửa chính ra đến đấy. Thậm chí hôm đó còn không phải là Chủ Nhật, tòa nhà này toàn người vô công rồi nghề đến phát sợ. Và thể nào cũng có một gã hàng xóm say khướt nào đó - giữa họ và chúng ta hẳn có nhiều điểm chung như là hai đường thẳng song song - sẽ nằng nặc đòi bạn phải tạt qua nhà. Tất cả chỉ để được hỏi ba lần “Thế nào, đằng ấy khỏe chứ?” và trả lời đủ ba lần “khỏe cả, đằng ấy thì sao?” Tình thân ái khó mà chịu nổi; khi người ta vừa hết thời kỳ dưỡng bệnh, có lẽ người ta sẽ thích sống ở Thụy Sĩ1. Hay, nếu được, tốt nhất là làm một cung phi trong lãnh cung. Gã viện cớ một cơn đau gan để cáo lui về nhà, vậy là chắc mẩm nhận được câu hỏi: “Không phải anh mang theo bệnh xơ gan về từ chuyến đi nghỉ đấy chứ?” Hector nở một nụ cười và tiếp tục đoạn đường vòng. Cuối cùng, gã mở cửa và ấn lên công tắc để bật điện. Chẳng có thứ gì thay đổi, tất nhiên. Chỉ có điều, với Hector dường như nhiều cuộc đời đã trôi qua; người ta ngửi thấy mùi thác sinh. Bụi đã toàn quyền chăm sóc căn hộ, trước khi buồn chán quá mà sinh sôi nảy nở thêm. Đêm buông xuống, giống như mọi tối. Gã pha một tách cà phê, cốt để mang lại ít không khí bình thường cho chứng mất ngủ của mình. Ngồi trong bếp, gã lắng nghe tiếng chân mèo đi trên máng xối; gã chỉ biết làm thế. Gã nghĩ về tất cả thư tín đã không nhận được. Ánh mắt gã dừng lại trên tấm gương nhỏ mua tại một tiệm đồ cũ, gã vẫn còn nhớ như in cửa tiệm này và kỷ niệm đó nhanh chóng làm gã khiếp sợ. Cơn sốt sình sịch vào cái ngày gã mua nó lại ập về, giống như người ta cảm nhận được mùi của một con người chỉ bằng cách nhìn ngắm bức ảnh của họ. Gã nhất định không được nghĩ về nó, tất cả đã kết thúc; gã đã khỏi bệnh. Không đời nào còn chuyện gã bước chân vào một tiệm đồ cũ mua một tấm gương nữa. Gã tự ngắm mình chốc lát. Khuôn mặt gã, sau sáu tháng dưỡng bệnh, có vẻ đã khác. Tương lai, lần đầu tiên trong đời, gã hình dung nó sẽ ổn định; dĩ nhiên, gã nhầm. Nhưng chẳng ai ở nơi đây - còn - hơi đâu làm phiền lòng gã trong ảo mộng về sự phát triển này. Và trước khi tiến tới cái tương lai đó, ta có thể lùi lại nhìn về quá khứ chưa xa lắm. Mời các bạn đón đọc Chỉ Tại Vợ Tôi Gợi Tình của tác giả David Foenkinos
Kẻ Trộm Giấc Mơ
Vào khoảng hai tuần trước khi bị bắn chết, Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln đã  mơ thấy hình ảnh chính bản thân mình bị ám sát. Trước khi anh trai mất mạng trong một vụ nổ, nhà văn Mark Twain đã mơ thấy thi thể của anh mình nằm trong một cỗ quan tài. Những sự kiện có thực, những cái chết có thực… nhưng lại được báo trước ở trong cõi hư ảo do chính con người vẽ nên. Chuyện gì sẽ xảy ra… Khi giấc mơ không đơn thuần chỉ là giấc mơ? Khi sự đấu tranh giữa tham vọng và sự sống trở nên vô cùng khốc liệt? Sợi dây liên kết giữa mộng và thực sẽ đi về đâu khi mà một ngày kia, con người bỗng có khả năng đi vào giấc mơ của nhau? “Kẻ trộm giấc mơ” của Yasutaka Tsutsui - cuốn tiểu thuyết giả tưởng lừng danh về đề tài tâm lý học - có thể sẽ cho bạn một câu trả lời thỏa đáng. Paprika – cô gái tự xưng là thám tử giấc mơ - luôn che giấu danh tính thực sự của mình là Chiba Atsuko, chuyên viên tâm lý hàng đầu Nhật Bản. Với mục đích chữa bệnh, Paprika đã phát minh ra DC Mini, một thiết bị có khả năng giúp các bác sĩ tâm lý xâm nhập vào giấc mơ của bệnh nhân. Mọi việc có lẽ vẫn sẽ tốt đẹp nếu như một ngày kia, 3 chiếc DC Mini không bỗng dưng… biến mất?! Trong cuộc hành trình tìm lại DC Mini của Paprika, những góc khuất đen tối của một xã hội Nhật Bản tù túng đến nghẹt thở đã dần hiện ra. Hóa ra bên trong những lớp mặt nạ che giấu đi bản ngã thực sự, con người đang ngày càng cảm thấy trống rỗng đến vô hồn. Dựa trên học thuyết nổi tiếng về biện giải giấc mơ của nhà tâm lý học đại tài – Sigmund Freud, “Paprika - Kẻ trộm giấc mơ” của Yasutaka Tsutsui không chỉ là một cuốn tiểu thuyết mang yếu tố phiêu lưu giả tưởng đơn thuần, mà đan xen bên trong nó còn lột tả những gì trần trụi nhất trong nội tâm con người ẩn sau những giấc mơ tưởng chừng như đẹp đẽ. *** YASUTAKATSUTSUI Sinh năm 1934 tại Osaka, tốt nghiệp Đại học Doushisha chuyên ngành Văn học. Những tác phẩm tiêu biểu bao gồm: Oinaru joso, Kyojin tachi (đoạt giải thưởng văn học Izumi Kyoka), Asa no gasuparu (đoạt giải thưởng lớn cho tác phẩm khoa học viễn tưởng Nhật Bản), Watashino guranpa (Đoạt giải thưởng văn học Yomiuri)... *** Tokita Kousaku chậm chạp bước vào phòng điều hành. Thân hình anh dễ phải nặng đến hơn trăm ký. Không khí trong phòng nóng nực và đặc quánh. Phòng điều hành của Tập đoàn tài chính Viện Nghiên cứu Tâm thần học thường chỉ có hai cán bộ thường trực là Tokita Kousaku và Chiba Atsuko, nhưng có tới năm chiếc bàn làm việc. Bàn của hai người được đặt trong góc, cạnh cửa sổ. Phòng điều hành ngay sát phòng nhân viên, vì cửa kính ngăn cách hai bên lúc nào cũng mở toang nên phòng điều hành nhìn giống như phần mở rộng của phòng nhân viên vậy. Chiba Atsuko đặt chiếc bánh mỳ sandwich cùng tách cà phê cô mới mua ở cửa hàng tiện lợi trong Viện lên bàn. Cô không muốn ăn. Đã từ rất lâu, mọi bữa trưa của Atsuko đều như thế này. Thực ra cũng có nhà ăn chung để bệnh nhân và nhân viên trong Viện dùng bữa, nhưng thức ăn thường dở đến không thể nuốt nổi. Vì chẳng có cảm giác thèm ăn nên Atsuko không phải lo lắng về chuyện tăng cân, cô luôn giữ được vẻ ngoài xinh đẹp cần thiết để sẵn sàng tiếp nhận phỏng vấn với đài truyền hình bất cứ lúc nào, thế nên có thể coi đó là một điều may mắn. Nhưng đáng tiếc thay, ngoài việc sử dụng sắc đẹp vì mục đích trị liệu cho bệnh nhân, cô chẳng mảy may quan tâm gì tới diện mạo của bản thân cũng như đài truyền hình. “Đang có tin đồn bệnh tâm thần phân liệt có khả năng lây nhiễm nên mọi người hoảng hốt lắm”, Tokita nói, đặt thân hình đồ sộ của mình vào chỗ ngồi bên cạnh Atsuko. Một chuyên viên trong Viện đã nhiễm chứng hoang tưởng. “Giờ ai cũng sợ không dám đụng đến máy quét và máy chiếu nữa.” “Phiền thật nhỉ”, bản thân Atsuko chẳng nhớ đã trải nghiệm chuyện đó bao nhiêu lần, từ xưa đến nay ai ai cũng biết các chuyên viên tâm lý đều sợ bị nhiễm bệnh tâm thần phân liệt. Thậm chí còn có người ba hoa rằng bệnh có thể lây qua màng nhầy như mụn rộp. Từ khi những máy móc trị liệu tâm thần tân tiến như máy quét và máy chiếu được đưa vào sử dụng, nỗi lo ngại đó càng lúc càng trở nên có căn cứ hơn. “Chỉ những chuyên viên không muốn thấu hiểu bệnh nhân hay có xu hướng thích ‘đổ thừa’ mới hay lo lắng thế. Mà đúng ra, trải qua chuyện đó họ mới có cơ hội tự chữa trị cho bản thân trên cương vị một nhà tâm thần học chứ.” “Đổ thừa” ở đây nghĩa là, khi không thể kết nối với bệnh nhân, bác sỹ trị liệu thường đổ lỗi cho những bất ổn về tâm lý mà bệnh nhân đang gặp phải. Đó chính là cơ sở của việc chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt hai mươi năm trước. “Trời ơi, lại ngưu bàng xào cà rốt với gà chiên kiểu yuan* nữa à!”, Tokita mở nắp hộp cơm bento mẹ làm cho, bĩu đôi môi dày, phàn nàn với vẻ bất mãn. Anh sống cùng mẹ trong căn hộ dành cho chuyên viên của Viện. “Mất cả hứng ăn.” Atsuko ngó vào hộp bento cỡ bự của Tokita, cảm giác thèm ăn bắt đầu trỗi dậy. Chắc chắn là cơm hộp rong biển đây rồi. Dưới đáy hộp là một lớp cơm trắng mỏng, bên trên trải rong biển khô tẩm nước tương, rồi lại thêm một lớp cơm nữa, đó là hộp cơm rong biển ngày xưa cô đã ăn không biết bao nhiêu lần. Trong hộp cơm ấy là những món ăn gia đình quen thuộc Atsuko vẫn hằng mong mỏi, là hương vị của những bữa cơm do chính tay mẹ cô nấu. Atsuko vốn không phải người khảnh ăn, thậm chí bây giờ cô còn cảm thấy mình sắp chết đói tới nơi luôn rồi. “Thế để tôi ăn hộ cho”, cô quả quyết, nhanh chóng với tay qua. Atsuko dùng cả hai tay định nhấc hộp bento lớn đan bằng tre của Tokita lên, nhưng Tokita cũng phản xạ rất nhanh. “Còn lâu nhé”, anh nhấn hộp cơm trên tay Atsuko xuống. “Anh vừa nói không muốn ăn còn gì”, Atsuko khá tự tin vào độ khỏe của đầu ngón tay mình. Cô cố giằng cho bằng được hộp bento từ tay Tokita. Ngoài hộp cơm này ra, trong Viện không còn gì có thể thỏa mãn nổi cái dạ dày của Tokita nên anh cũng hừng hực quyết tâm. “Đã bảo bỏ tay ra cơ mà.” “Ối chà chà”, Viện trưởng Shima Toratarou đứng trước hai người họ, mặt nhăn lại. “Hai ứng cử viên số một cho giải Nobel Sinh lý học và Y khoa lại đi tranh nhau cơm hộp thế này ư?”, ông rầu rĩ. Shima Toratarou hay có thói quen rời phòng Viện trưởng, dạo quanh phòng các nhân viên rồi bất chợt bắt chuyện với mọi người. Vài nhân viên giật bắn mình khi bất thần có tiếng người từ phía sau, điều này chẳng tốt cho tim mạch của mọi người chút nào nên nhiều khi Viện trưởng cũng bị lời ra tiếng vào lắm. Dù cấp trên cong môi buông lời mỉa mai, hai người kia vẫn không ai chịu nhường ai, tiếp tục giằng co trong thầm lặng. Trong một thoáng, Shima quan sát cảnh ấy với vẻ thất vọng thấy rõ, nhưng có lẽ sau khi thông cảm rằng trí óc thiên tài thường đi đôi với hành vi con nít, ông khẽ gật đầu vài lần. “Cô Chiba, lát nữa đến phòng Viện trưởng gặp tôi nhé”, Shima khẽ nói, đoạn chắp hai tay sau tấm lưng hơi khòng của ông và thong thả đi bộ quanh phòng nhân viên như mọi khi. “Nhưng dù là bác sĩ trị liệu đi chăng nữa, mắc chứng hoang tưởng giống bệnh nhân cũng đâu phải chuyện tốt đẹp gì”, Tokita nói, bất đắc dĩ chia nửa phần cơm của mình ra nắp hộp. “Cậu Tsumura lẫn lộn giữa nỗ lực tìm kiếm độc lập siêu việt và nỗ lực tìm kiếm độc lập thực nghiệm ở bệnh nhân. Cũng giống như người nhà họ hay mắc chứng hoang tưởng như chính người bệnh vậy đấy.” Thế lại càng nguy hiểm hơn. Bởi trong mắt bệnh nhân, bác sĩ trị liệu trông sẽ chẳng khác gì một kẻ bịp bợm, cũng tương tự như việc họ cảm thấy bị lừa gạt khi người nhà tỏ ra thấu hiểu những vấn đề của họ. Tự mình phải phân tích anh chàng Tsumura này thôi, Atsuko thầm nghĩ. Mời các bạn đón đọc Kẻ Trộm Giấc Mơ của tác giả Yasutaka Tsutsui.
Chiếc Chìa Khóa
Vẫn motif cuộc tình tay ba tay tư tuy không rối ren như Chữ vạn nhưng lại bệnh hoạn khó hiểu hơn Chữ vạn. Một ông chồng liệt dương lại đi ráp với 1 cô vợ bề ngoài thuỳ mị nết na nhưng ẩn chứa bên trong là một người đàn bà - nói thế nào cho đúng nhỉ ? - đúng là dâm đãng vô độ - nhưng từ này là từ tiêu cực chỉ để chỉ phụ nữ lăng loàn - còn từ điển của chúng ta chẳng có một từ nào để thể hiện cái gọi là “bản chất tình dục mạnh mẽ” của một người phụ nữ. Vậy mới thấy Việt Nam và cả phương Đông nói chung vẫn còn kì thị phụ nữ lắm lắm, và cái quan điểm này như một cái bẫy trói chặt người phụ nữ Á đông vào một khuôn khổ ngàn đời là lúc nào cũng phải “thuỳ mị”, “kín đáo”...mới là người phụ nữ đích thực . Nữ chính trong Chiếc Chìa Khóa ở trong 1 cái bẫy như vậy đó, nàng xinh đẹp và tràn đầy sức sống, bản thân nàng nhận thấy mình “hiếu dâm”, nhưng nàng không biết phải làm sao, vì đó là bản năng cửa nàng, nàng cũng rất đau khổ vì nàng là con nhà gia giáo, yêu chồng nhưng chồng lại khiến nàng không thỏa mãn, một mặt nàng khao khát ái tình, mặt khác lại luôn tỏ ra nết na thuỳ mị và ghê tởm mọi hành động ái tình mà chồng bày ra. Người chồng yêu vợ và hiểu vợ đã bày ra trò viết nhật ký, tuy bề ngoài là giấu diếm nhưng lại cố tình để chìa khoá cho vợ nhìn thấy và mở đọc, rồi người vợ muốn đáp lại chồng và muốn giải phóng bản thân, cũng ghi nhật ký để bày tỏ với chồng những ước muốn thầm kín của mình... Chuyện nếu chỉ có vậy thì cũng còn dễ hiểu , nhưng câu chuyện đã vượt quá xa sự hiểu biết tầm thường của mình về ái tình nam nữ, khiến mình cảm thấy bệnh hoạn và không thực. Mặc dù trước giờ đã đọc nhiều sách Nhật, biết về văn hóa Nhật tuy cũng là văn hoá Á đông nhưng rất khác biệt với Việt nam hay Trung hoa, nhưng motif cuốn sách này quả thực là quá quá khác biệt ???? đến nỗi mình không hiểu ông chồng lẫn bà vợ nghĩ gì khi bày ra trò chơi ái tình như vậy. Mình có nên kể ra mọi trò ấy ở đây không nhỉ ? Hay là cứ úp mở để mọi người tìm đọc cho hấp dẫn nhỉ ? Hehe, dù sao cốt chuyện cũng bình thường thôi, chỉ có văn tả thực hơi sock tí, dâm thư chỉ dành cho trẻ em trên 25 tuổi nha. *** Tanizaki Jun’ichirō (24/7/1886 - 30/7/1965) là một thiên tài văn chương với một văn nghiệp đồ sộ. Ông là người kể chuyện có duyên nhất trong những cây viết tiền chiến, nội dung các tác phẩm của ông phần nhiều khai thác cảnh sống hoan lạc, đồi phế của xã hội cũ đang suy tàn và miền sâu thẳm phong kín của địa ngục nội tâm con người muôn thuở. Văn chương Tanizaki vừa thâm trầm, cổ kính, vừa bóng bẩy, diễm tình, vừa đồi phế bệnh hoạn nhưng không kém phần tinh tế. Một số tác phẩm Tình Khờ Xâm mình (1910) Chữ Vạn (1928) Truyện Shunkin (1933) Con mèo, Shōzō và hai người đàn bà (1936) Chiếc Chìa Khóa (Hai cuốn nhật ký) (1956) Nhật ký giả điên (1961) Mong Manh Hoa Tuyết Nhật Ký Già Si ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Chìa Khóa của tác giả Tanizaki Junichiro.