Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thiên Đường Có Thật - Todd Burpo
“Thiên đường có thật” là câu chuyện bất ngờ của một cậu bé đã đặt chân đến cõi thiên đường. Câu chuyện được bắt đầu khi cậu bé Colton Burpo phục hồi một cách kỳ diệu sau ca phẫu thuật cắt ruột thừa, gia đình cậu vui mừng khôn xiết. Thế nhưng, điều mà họ không ngờ tới chính là câu chuyện được hé mở vài tháng sau đó – một câu chuyện vừa kỳ thú vừa lạ thường, thuật lại chuyến chu du đến thiên đường của cậu con trai bé nhỏ. Colton, lúc đó chưa tròn bốn tuổi, đã kể với ba mẹ mình rằng cậu đã lìa khỏi thân xác trong suốt ca mổ - và minh chứng cho việc này bằng cách mô tả chính xác những gì mà ba mẹ cậu làm ở một nơi khác trong bệnh viện khi câu đang phẫu thuật… Thiên đường có thật mang đến một cái nhìn thoáng với một thế giới đang chờ đón chúng ta, nơi mà theo Colton “Không có ai già và không có ai đeo kính cả”. Thiên đường có thật sẽ thay đổi vĩnh viễn cách ta nghĩ về cõi vĩnh hằng, cho ta cơ hội để thấy, và tin, như một đứa trẻ. Tác giả của “Thiên đường có thật” chính là mục sư Todd Burpo, anh là mục sư nhà thờ tại nhà thờ Crossroads Wesleyan ở Imperial, Nebraska, nơi những bài giảng của anh được phát sóng vào mỗi chủ nhật qua đài phát thanh địa phương. Anh cũng làm việc tại trường Tư thục Hạt Chase với cương vị huấn luyện viên môn đấu vật cho các học sinh trung học và cao trung, kiêm thành viên của hội đồng quản trị nhà trường. Trong trường hợp khẩn cấp, Todd có thể làm việc sát cánh với Sở Cứu hỏa tình nguyện Imperial trong vai trò lính cứu hỏa. Anh cũng là cha tuyên úy cho Hiệp hội Cứu hỏa Tình nguyện tiểu bang Nabraska. Todd tốt nghiệp Đại học Wesleyan Oklahoma năm 1991 với học vị cử nhân chuyên ngành Thần học. Anh được thụ phong vào năm 1994. Chính những câu chuyện được kể lại bằng những từ ngữ đơn giản và làm người đọc liên tưởng đến những câu chuyện có thật trong cuộc đời khiến cho “Thiên đường có thật” nhận được rất nhiều lời khen từ các nhà khoa học lẫn các học giả. Như Tiến sĩ Everret Piper – Chủ tịch, Đại học Oklahoma Wesleyan, tác giả cuốn “Vì sao tôi là người tự do và những tư tưởng bảo thủ khác” đã từng nhận xét: “Tôi thường không đọc những chuyện kể về trải nghiệm "cận tử" đơn giản chỉ vì thật lòng tôi không mấy tin tưởng tác giả những câu chuyện này. Thế rồi, tôi đã đọc quyển sách này từ đầu đến cuối và thậm chí, hầu như tôi không thể ngưng lại! Vì sao ư? Vì tôi quen biết người viết và tôi tin anh ấy. Todd Burpo cho chúng ta một món quà tuyệt vời khi anh và con trai mình vén bức màn đến cõi vĩnh hằng, cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua về những gì ở phía bên kia cuộc đời". *** LỜI KHEN TẶNG DÀNH CHO THIÊN ĐƯỜNG CÓ THẬT “BẠN SẼ CẢM ĐỘNG BỞI NHỮNG CÂU CHUYỆN ĐƠN GIẢN chân thành, hồn nhiên của một bé trai đã từng đến thiên đường. Câu chuyện thật hấp dẫn và thuyết phục. Đây là quyển sách bạn nên đọc. Nếu bạn đã sẵn sàng đến thiên đường, quyển sách sẽ tạo cảm hứng cho bạn. Còn nếu bạn chưa sẵn sàng, hãy để một trẻ nhỏ dắt bạn đi. Như Colton nói, “Thiên đường có thật.” - Don Piper   Diễn giả và Tác giả cuốn 90 phút nơi Thiên đàng “Thiên đường không phải là giải an ủi. Nơi đó thật sự là mái nhà vĩnh hằng đối với những ai có niềm tin. Hãy đồng hành cùng bé Colton và Todd để được nghe miêu tả những trải nghiệm bản thân về những điều kỳ diệu, những bí ẩn, và sự uy nghi của thiên đường. Điều đó khiến cho thế gian thêm trọn vẹn ý nghĩa và tương lai trở nên hữu ích hơn.” - Brady Boyd Mục sư quản nhiệm, Giáo đường Đời sống mới, Colorado Springs “Tôi thường không đọc những truyện kể về trải nghiệm ‘cận tử’ đơn giản chỉ vì thật lòng tôi không mấy tin tưởng tác giả những câu chuyện này. Thế rồi, tôi đã đọc quyển sách này từ đầu đến cuối và, thậm chí, tôi hầu như không thể ngưng lại! Vì sao ư? Vì tôi quen biết người viết và tôi tin anh ấy. Todd Burpo cho chúng ta một món quà tuyệt vời khi anh và con trai mình vén bức màn đến cõi vĩnh hằng, cho chúng ta"   - Tiến sĩ Everett Piper Chủ tịch, Đại học Oklahoma Wesleyan Tác giả cuốn Vì sao tôi là người tự do và những tư tưởng bảo thủ khác (Why I’m a Liberal and Other Conservative Ideas) “Trong quyển sách tuyệt vời này, Colton, mới bốn tuổi, có một trải nghiệm được xem như cận tử khi đang được gây mê. Tôi đã nghiên cứu hơn 1.600 trường hợp cận tử và thấy rằng các trường hợp điển hình có thể xảy đến với những trẻ em rất nhỏ và trong lúc bị gây mê. Ngay cả sau khi đã nghiên cứu rất nhiều trường hợp NDE, tôi vẫn thấy trải nghiệm của Colton đầy kịch tính, đặc biệt và là một nguồn cảm hứng đối với các tín đồ Kitô giáo khắp mọi nơi.” - Jeffrey Long, Tiến sĩ Y khoa, Người sáng lập Quỹ nghiên cứu Trải nghiệm Cận tử Tác giả cuốn Bằng chứng về Đời sau: Khoa học nghiên cứu các Trải nghiệm Cận tử “Nhiều câu chuyện cần được kể lại, đơn giản là vì những câu chuyện đó có đời sống riêng của chúng. Quyển sách bạn đang cầm trên tay thuộc loại ấy. Nhưng bạn sẽ không thể giữ nó riêng cho mình; nó sẽ lan đi qua những cuộc trò chuyện của bạn với những người chưa được nghe kể. Tôi biết bạn sẽ làm thế vì tôi đã làm thế.” - Phil McCallum Mục sư quản nhiệm, Giáo đường Evergreen, Bothell, Washington “Thánh kinh miêu tả Thiên đường là nơi cư ngụ của Chúa Trời. Đó là nơi có thật, chốn cư ngụ vĩnh hằng cho những ai dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa. Trong quyển sách này, Todd Burpo kể lại trải nghiệm của con trai mình khi cậu trải qua ca mổ ruột thừa. Câu chuyện thật chân thực, cảm động và đầy khích lệ đối với những ai hy vọng về chốn vĩnh hằng.” - Robert Morris Mục sư, Giáo đường Gateway, Southlake, Texas   “Thiên Đường Có Thật là một quyển sách tuyệt vời. Nó khẳng định lại niềm tin quan trọng như thế nào trong cuộc đời chúng ta – đối với cả trẻ em cũng như người lớn.” - Timothy P. O’Holleran, Tiến sĩ Y khoa “Câu chuyện của Colton có thể được kể trong Tân Ước – nhưng Chúa Trời đã chọn cách truyền đạt với chúng ta trong thế kỷ 21 này qua cái nhìn trong sáng của một đứa trẻ, tiết lộ một số bí ẩn về thiên đường. Giọng văn đầy cuốn hút và câu chuyện thật đáng kinh ngạc, khiến ta háo hức muốn nghe thêm.” - Jo Anne Lyon Tổng trưởng giáo hạt, Nhà thờ Wesleyan “Chúa Trời thật sáng tạo và đầy xác tín! Quyển sách này sẽ thể hiện điều này rõ hơn theo những góc độ mới. Tôi đã biết Colton từ lúc cậu mới ra đời. Khi mới chập chững biết đi, cậu đã có cảm xúc mãnh liệt về tâm linh. Khi mới 3 tuổi, cậu ngồi trên gối tôi, nhìn vào mắt tôi và hỏi tôi có muốn lên thiên đường sau khi chết không. Rồi cậu bảo tôi rằng “Bác phải có Chúa Giêsu ở trong tim.” Tôi xem quyển sách này như một góc nhìn mới đối với thực tế về Chúa Trời, Người thường có vẻ như ẩn khuất nhưng xuất hiện bất ngờ theo cách của Người.” - Phil Harris Tổng giáo hạt, Khu Colorado-Nebraska thuộc Nhà thờ Wesleyan “Thật là một ân sủng khi biết tranh vẽ của Akiane đã tác động đến cuộc sống của một ai khác. Bức họa Hoàng tử Hòa Bình của cô bé về Đấng Ki-tô luôn là một trong những tác phẩm được yêu thích nhất. Là bậc cha mẹ của một đứa bé đã trải nghiệm những điều phi thường và không thể giải thích theo những tiêu chí của trần gian, tôi chúc tụng gia đình này với niềm hân hoan của họ và trong việc họ kể lại câu chuyện đặc biệt của mình.” - Forelli Kramarik Đồng tác giả cuốn Akiane: cuộc đời, trái tim, thơ ca   *** KHI KỂ CÂU CHUYỆN VỀ COLTON, chúng tôi đã có cơ hội làm việc với những con người không những chuyên nghiệp và đầy nhiệt huyết mà còn là những con người chân thật và đầy yêu thương. Dĩ nhiên, chúng tôi rất ấn tượng với kiến thức chuyên môn của họ, nhưng điều mà cả Sonja và tôi cảm thấy trân trọng hơn nhiều chính là tấm lòng và tính cách của họ. Phil McCallum, Joel Kneedler, Lynn Vincent, và Debbie Wickwire không chỉ gác cả cuộc sống để thực hiện quyển sách này, họ còn vun đắp cho cuộc sống gia đình chúng tôi thêm phong phú. Nếu không có những nỗ lực lớn lao và tinh thần nhạy bén của họ, quyển sách Thiên đường có thật đã không thể được hoàn thành một cách mỹ mãn như vậy. Chúng tôi cảm tạ Đức Chúa Trời mỗi ngày vì đã mang những con người tài năng đến giúp chúng tôi kể câu chuyện của Colton. Mỗi người trong số họ chính là một phước lành đối với chúng tôi. Đối với tôi và Sonja, việc có được những người bạn như họ là một đặc ân quý giá.     Mời các bạn đón đọc Thiên Đường Có Thật của tác giả Todd Burpo.
Phút Dừng Lại của Người Thông Minh - Atul Gawande
Thế giới hiện đại đã và đang mang lại cho chúng ta nhiều bí quyết thần kỳ. Nhưng những sai sót có thể tránh được lại tiếp tục quấy nhiễu chúng ta trong lĩnh vực y tế, hoạt động chính phủ, luật pháp, ngành tài chính – gần như là trong mọi lĩnh vực, các hoạt động và tổ chức. Và lý do thật đơn giản: khối lượng kiến thức và mức độ phức tạp của nó đang vượt quá khả năng kiểm soát của chúng ta, đe dọa khả năng của chúng ta trong việc truyền đạt thông tin đến mọi người xung quanh một cách hoàn hảo, nhất quán, chính xác và an toàn. Chúng ta được đào tạo lâu hơn, chuyên môn hóa hơn, sử dụng các công nghệ hiện đại hơn, nhưng chúng ta vẫn cứ thất bại. Giờ đây, tác giả nổi tiếng, bác sĩ phẫu thuật Atul Gawande đưa ra một lý lẽ hết sức thuyết phục rằng chúng ta có thể làm tốt hơn và tìm ra cách giải quyết vấn đề bằng giải pháp bình thường nhất: một danh mục kiểm tra tầm thường. Ông giải thích làm thế nào các danh mục kiểm tra lại biến những điều khó khăn nhất thành có thể – từ điều khiển máy bay đến xây dựng các tòa cao ốc phức tạp. Và với kinh nghiệm của chính mình, ông cho mọi người thấy nhờ vào đâu mà việc áp dụng ý tưởng này vào lĩnh vực phẫu thuật vốn vô cùng phức tạp lại tạo ra được một danh mục kiểm tra mà việc thực hiện chỉ mất 90 giây, nhưng lại giúp giảm hơn một phần ba tỷ lệ tử vong và biến chứng tại tám bệnh viện trên thế giới – mà hầu như không cần thêm khoản chi phí nào và có thể áp dụng cho hầu hết các loại hình phẫu thuật. Qua những câu chuyện kể hấp dẫn, Gawande dẫn dắt chúng ta đi từ nước Áo, nơi danh mục kiểm tra trong cấp cứu đã cứu sống một nạn nhân suýt chết đuối vì đã chìm dưới nước nửa giờ đồng hồ; đến Michigan, nơi danh mục kiểm tra vệ sinh ở các khu săn sóc đặc biệt gần như đã giúp loại trừ một kiểu nhiễm trùng gây chết người; và đến cả danh mục kiểm tra cho buồng điều khiển của chiếc máy bay đang gặp nạn. Xuyên suốt các câu chuyện, ông tiết lộ cho chúng ta điều gì danh mục kiểm tra có thể làm được, điều gì không, và chúng đã tạo ra những tiến bộ thần kỳ như thế nào trong cuộc sống này. Và vấn đề mà Gawande đặt ra cho mọi lĩnh vực nghề nghiệp là: Hãy đơn giản mọi thứ có thể và hãy ngăn chặn sai lầm bằng những bước đơn giản nhất. *** Atul Gawande là tác giả của hai cuốn sách Better (Tốt hơn nữa) và Complications (Các biến chứng). Năm 2006 ông đã từng đoạt giải thưởng MacArthur Fellowship, một trong những giải thưởng cao quý nhất trong các ngành khoa học, xã hội, nhân văn, nghệ thuật. Ông là bác sĩ phẫu thuật nội tiết và tổng quát ở Boston. Atul Gawande còn là cộng tác viên của tờ báo The New Yorker và là giảng viên Trường Y thuộc Đại học Harvard. Ngoài ra, ông còn điều hành chương trình Phẫu thuật An toàn của Tổ chức Y tế Thế giới. Hiện nay, ông cùng vợ và ba con sống tại Newton, Massachusetts, Mỹ. *** Tôi đang trò chuyện với John, anh bạn học cùng trường y, nay là bác sĩ phẫu thuật tổng quát tại San Francisco. Cũng như các bác sĩ phẫu thuật khác, chúng tôi trao đổi những chuyện trong phòng mổ. John bắt đầu bằng câu chuyện về một anh chàng nhập viện trong đêm Halloween. Anh ta đến dự một buổi tiệc hóa trang, rồi vướng vào một cuộc ẩu đả và bị đâm. Khi nhập viện, tình trạng nạn nhân khá ổn định, nhịp thở đều, không kêu đau, nhưng say mèm và miệng lảm nhảm không ngớt. Các bác sĩ phải dùng kéo cắt bỏ quần áo anh ta và tiến hành kiểm tra toàn diện. Nạn nhân có vóc người trung bình, nặng khoảng 90 kg, bụng phệ. Vết đâm ở bụng, một vết thương hở còn đỏ máu và dài khoảng hơn hai đốt ngón tay. Một đường sắc gọn đỏ máu. Từ miệng vết thương đùn ra một thứ mỡ vàng sậm. Đó là lớp mỡ trong thành bụng chứ không phải thứ mỡ vàng nhạt dưới da. Các bác sĩ đưa anh ta đến phòng mổ để kiểm tra xem có tổn thương gì trong khoang bụng không, sau đó khâu vết thương lại. - Không có gì nghiêm trọng lắm. - John nói. Nếu đây là vết thương nặng, các bác sĩ sẽ phải lao vào phòng mổ, xe đẩy chạy như bay, y tá sẽ nhanh chóng chuẩn bị dụng cụ và chuyên viên gây mê sẽ bỏ qua các bước kiểm tra bệnh sử rườm rà để lập tức tiến hành ca mổ. Nhưng vết thương này không nặng. Các bác sĩ có thời gian để xem xét mọi việc trước khi kết luận. Ngay lúc đó, y tá phát hiện bệnh nhân không còn mấp máy môi nữa, nhịp tim tăng vọt, mắt trợn trừng. Y tá lay gọi nhưng anh ta không có phản ứng gì. Cô vội gọi cấp cứu và các bác sĩ vội quay lại phòng mổ. Huyết áp gần như không đo được. Họ đặt nội khí quản, truyền dịch, truyền máu khẩn cấp cho bệnh nhân, nhưng vẫn không thể giúp huyết áp tăng lên. Vậy là các bác sĩ phải hành động cấp tốc. Các bác sĩ lao vào phòng mổ, xe đẩy chạy như bay, y tá nhanh chóng chuẩn bị dụng cụ mổ và chuyên viên gây mê bỏ qua các bước kiểm tra bệnh sử rườm rà. Một bác sĩ thực tập đổ vội cả chai thuốc sát trùng Betadine lên vùng bụng bệnh nhân. John cầm dao mổ số 10 to tướng, rạch một đường sắc lẹm lên lớp da bụng, kéo dài từ lồng ngực đến tận xương mu. - Dao điện. John cầm lưỡi dao điện cắt dọc lớp mỡ dưới da, tách ra hai bên, sau đó cắt qua những sợi màng của mô liên kết dưới cơ bụng. Khi anh vừa mở khoang bụng thì máu tuôn ra ồ ạt. - Chết tiệt! Máu tràn khắp nơi. Lưỡi dao của kẻ thủ ác đã đâm vào sâu hơn một gang tay, xuyên qua lớp da, lớp mỡ, qua cả lớp cơ, qua ruột, sượt bên trái cột sống và cắt phải động mạch chủ. - Thật là kinh khủng, - John kể. Một bác sĩ phẫu thuật đến hỗ trợ kíp mổ đã dùng tay bóp chặt động mạch chủ, ngay trước vết cắt. Hành động đó đã giúp ngăn chặn sự mất máu và họ dần dần kiểm soát được tình hình. Đồng nghiệp của John nói rằng anh chưa gặp tình huống nào tương tự kể từ sau khi chiến tranh kết thúc. Hóa ra tình tiết cũng gần giống như thế. Sau này, John được biết rằng kẻ tấn công ở bữa tiệc hóa trang đã mặc đồng phục của một quân nhân, lại còn mang theo cả chiếc lưỡi lê dài. Bệnh nhân mê man mấy ngày, nhưng cuối cùng cũng qua khỏi tình trạng nguy kịch. John vẫn còn lắc đầu rầu rĩ khi nhắc lại trường hợp này. Khi bạn có một bệnh nhân bị đâm như vậy thì sẽ có hàng ngàn lý do khiến sự việc có thể trở nên tồi tệ. Và cả ê kíp chữa trị đã thực hiện rất tốt hầu hết mọi công đoạn, từ kiểm tra tổng quát, theo dõi cẩn thận huyết áp, mạch và hơi thở, giám sát tình trạng tỉnh táo, đến truyền dịch vào tĩnh mạch, liên hệ ngân hàng máu để sẵn sàng hỗ trợ, thay thế ống dẫn tiểu để luôn giữ vệ sinh... tức là tất cả mọi thứ. Chỉ trừ một việc là không ai nhớ hỏi bệnh nhân hay đội cấp cứu về hung khí gây thương tích. - Bạn chẳng bao giờ nghĩ đến một lưỡi lê ở giữa thành phố San Francisco này. - John chỉ biết giải thích như thế. John lại kể tôi nghe một câu chuyện khác. Một bệnh nhân đang được phẫu thuật cắt khối u dạ dày thì bất ngờ tim ngừng đập. John nhớ lúc nhìn vào máy điện tim, anh đã quay sang hỏi bác sĩ gây mê: “Này, có nhịp tim không?”. Trên màn hình hiện lên một đường thẳng, như thể máy điện tim không được kết nối với bệnh nhân vậy. Bác sĩ gây mê cho rằng có lẽ phích cắm điện bị tuột, vì việc bệnh nhân này bị ngưng tim là điều gần như không thể xảy ra. Ông ta mới khoảng gần 50 tuổi với tình trạng sức khỏe hoàn toàn tốt. Khối u được phát hiện tình cờ trong một lần ông ta đi khám bệnh vì một vấn đề khác, hình như là bị ho, và ông có nói với bác sĩ khám bệnh là mình thường bị ợ hơi. Thỉnh thoảng ông cảm thấy như ăn không tiêu, thức ăn hay bị tắc ở thực quản tạo cảm giác buồn nôn, khó chịu. Bác sĩ yêu cầu ông uống một ly nước chứa chất cản quang rồi tiến hành chụp X- quang. Kết quả cho thấy có một khối u cỡ bằng nắm tay ở gần cuống dạ dày, thỉnh thoảng lại chặn ở thực quản như một cái nút. Rất may là khối u được phát hiện sớm và chưa có dấu hiệu di căn. Trong trường hợp này, biện pháp duy nhất là phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ dạ dày. Đây là một dạng phẫu thuật khó và thường kéo dài khoảng bốn giờ. Ê kíp phẫu thuật đã đi được nửa chặng đường. Khối u được lấy ra mà không có bất kỳ vấn đề nào phát sinh. Các bác sĩ đang chuẩn bị khôi phục lại bộ máy tiêu hóa cho bệnh nhân thì đột nhiên màn hình báo không có nhịp tim. Phải mất năm giây, mọi người mới phát hiện ra là phích cắm vẫn nằm trong ổ điện. Chuyên viên gây mê cũng không thấy mạch đập trong động mạch cảnh. Tim bệnh nhân đã ngừng đập. ... Mời các bạn đón đọc Phút Dừng Lại của Người Thông Minh của tác giả Atul Gawande.
Biết Hài Lòng - Leo Babauta
“Biết hài lòng” là một quyển sách khá hay của Leo Babauta. Nếu bạn đang gặp khó khăn, hay nổi giận, buồn bã trong cuộc sống, thì đây là quyển sách dành cho bạn. Đây là một quyển sách hướng đến hành động. Sách được viết để bạn : – Đọc trong một giờ. Không phải đọc sơ sơ rồi bỏ đó, mà là đọc thực sự. – Biến phương pháp thành hành động. Ngay lập tức. – Luyện tập kỹ năng hàng ngày, mỗi ngày ít phút thôi. Trong thời gian ngắn, bạn sẽ có các kỹ năng cơ bản giúp bản thân biết hài lòng, ít giận dữ và ít stress hơn trước nhiều. Mời các bạn đón đọc Biết Hài Lòng của tác giả Leo Babauta.
Tất Cả Đều Là Chuyện Nhỏ - Richard Carlson
Mỗi khi đối mặt với tin xấu, một người khó chịu hay một nỗi thất vọng nào đó - đặc biệt là nghịch cảnh - hầu hết chúng ta thường có thói quen phản ứng lại cuộc sống theo những chiều hướng không mấy tốt đẹp. Và một cách đơn giản để chúng ta thay đổi cuộc sống của chính mình là thay đổi những thói quen “phản ứng” cũ bằng những thói quen nhìn nhận mới. Các thói quen này sẽ cho phép chúng ta có được cuộc sống trọn vẹn hơn sau khi đã giải quyết đủ loại vấn đề - stress, trục trặc trong các mối quan hệ, công việc, cũng như những nỗi chán nản nói chung. Được khái quát thành 81 đề mục nhỏ với những mẩu chuyện, những lời khuyên, chia sẻ hoặc dẫn chứng về nội dung đang được đề cập, cuốn sách là một cẩm nang sống tuyệt vời. Qua “Tất cả đều là chuyện nhỏ”, Richard Carlson chia sẻ với các bạn lần lượt từng bí quyết nhỏ nhưng mang lại hiệu quả lớn - những điều bạn có thể thực hiện ngay từ hôm nay - để có một cuộc sống nhẹ nhàng thư thái, không bị vướng bận bởi những chuyện vặt vãnh. Khi bạn không chấp nhặt những chuyện nhỏ, cuộc sống của bạn không phải ngay lập tức trở nên hoàn hảo, nhưng bạn sẽ học được cách chấp nhận những điều tự nhiên đang diễn ra xung quanh bạn. Nếu bạn áp dụng những bí quyết này, bạn sẽ học được hai nguyên tắc để sống một cách hòa hợp: 1) Đừng chấp nhặt những chuyện nhỏ 2) Tất cả đều là chuyện nhỏ. *** Qua “Tất cả đều là chuyện nhỏ ” ,  Richard Carlson chia sẻ với các bạn lần lượt từng bí quyết nhỏ nhưng mang lại hiệu quả lớn - những điều bạn có thể thực hiện ngay từ hôm nay - để có một cuộc sống nhẹ nhàng thư thái, không bị vướng bận bởi những chuyện vặt vãnh, chẳng hạn như: • Hãy hỏi chính mình: “Có nên để việc này làm mình bận tâm suốt năm hay không?” • Làm điều tốt một cách thầm lặ ng. • Đừng cho rằng cuộc đời không công bằng với bạn. • Lắng nghe cảm giác của bạn. • Hãy nhớ rằng, khi bạn qua đời, “khay công việc” của bạn vẫn chưa hế t. ___dtv-ebook.com___ Khám phá vĩ đại nhất ở thế hệ của tôi là con ngườt  có thể thay đổi cuộc đờt  mình bằng cách thay đổi  thái độ sống. - William James *** Chúng ta thường bị tác động quá mức bởi những việc thực ra chẳng có gì to tát cả. Chúng ta hay tập trung vào những sự cố, những mối lo vụn vặt và thổi phồng chúng lên. Ví dụ, khi bạn đang đi xe trên đường thì một chiếc xe khác cúp ngang trước đầu xe bạn, thay vì bỏ qua, bạn lại nghĩ rằng mình có quyền nổi giận, rồi bắt đầu làm lớn chuyện với họ trong… chính đầu óc của mình. Thậm chí, nhiều người còn “ghim gút” trong lòng và kể lại chuyện đó với người khác thay vì quên phứt nó đi. Tại sao chúng ta không thể cho qua vụ này? Tại sao chúng ta không bình tâm đủ để tìm ra một lý do nào đó để có cái nhìn cảm thông đối với hơn với họ? Như nghĩ rằng họ đang nhỡ một chuyến bay, lỡ một con tàu hay đang trên đường đi cứu một con người… nên mới có một hành động bất cẩn như thế. Bằng cách đó, chúng ta sẽ thấy lòng mình thư thái hơn và cuộc sống tươi đẹp hơn rất nhiều. Những “chuyện vặt” như thế vẫn xảy ra hàng ngày: khi bạn phải xếp hàng chờ đợi, lúc nghe những lời chỉ trích bất công, hoặc phải hoàn thành một khối lượng công việc nhiều hơn một chút so với đồng nghiệp… Chắc chắn bạn sẽ thấy tốt hơn nhiều nếu không chấp nhặt những chuyện vặt vãnh như thế. Rất nhiều người phí phạm năng lượng sống của mình vào việc “chấp nhặt những chuyện nhỏ” đến mức quên đi cả sự kỳ diệu của cuộc sống xung quanh. Vì vậy, chỉ khi nào khi bạn cam kết hành động theo tiêu chí “vượt lên những chuyện nhỏ” , bạn mới có thể tận hưởng cuộc sống một cách tự tại, an nhiên. Đừng gom góp vào mình những chuyện vặt vãnh! ... Mời các bạn đón đọc Tất Cả Đều Là Chuyện Nhỏ của tác giả Richard Carlson.