Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Là Con Mèo

Ở Việt Nam, sách văn học tầm cao, có ảnh hưởng lớn đến tâm tư tình cảm người Nhật qua nhiều thế hệ chưa xuất hiện nhiều. Đúng như nhận định của ông Mitsuyoshi Numano, giáo sư văn học của Đại học Tokyo trong Hội thảo văn học Nhật Bản tháng 9-2009 tại Hà Nội: "Hình như phần lớn các tiểu thuyết (của Nhật) được dịch đều thuộc về các nhà văn ăn khách hiện đại trong khi các nhà văn quan trọng trước đó với những tác phẩm có ý nghĩa vượt thời gian thì hầu như chưa được dịch sang tiếng Việt Nam." Trong số lượng rất lớn các tác giả văn học Nhật trong hơn 100 năm từ thời Minh Trị đến nay vị giáo sư này đã lựa chọn ra 10 tác giả văn học mà ông cho là quan trọng nhất ở Nhật gồm có: Mori Ogai (1862-1922), Akutagawa Soeki (1867-1916), Tanizaki Junnichiro (1886-1965), Akutagawa Ryunosuke (1892-1927), Dazai Osamu (1909-1948), Kawabata Yasunari (1899-1972 - giải Nobel văn học), Mishima Yukio (1925-1970), Abe Kobo (1924-1993), Oe Kenzaburo (1935 - giải Nobel văn học), Murakami Haruki (1949). Để người Việt Nam hiểu và thấy được cái hay của văn học Nhật, cần thiết phải dịch văn học Nhật sang tiếng Việt nhiều hơn nữa để người Việt Nam có cơ hội tìm hiểu và tiếp xúc nhiều hơn với các tác phẩm và tác giả quan trọng của văn học Nhật. Chính các dịch giả sẽ là cầu nối để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai dân tộc. Tôi vui mừng ghi nhận sự xuất hiện của những dịch giả mới người Việt, có nghiên cứu cẩn thận và hiểu sâu về con người, văn hóa Nhật Bản, với niềm say mê văn học Nhật, đã đem đến cho bạn đọc Việt Nam những kiệt tác được dịch trực tiếp từ nguyên bản. Đây là một điểm rất cần khuyến khích và nhiệt tình cổ vũ. Tiểu thuyết Tôi là con mèo của văn hào Natsume Soeki, do bà Bùi Thị Loan dịch từ bản tiếng Nhật, là một trong chưa nhiều trường hợp tôi vừa nói ở trên. Vị trí và vai trò của các tác phẩm của Natsume Soeki trong nền văn học Nhật bản là rất quan trọng, nó ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều thế hệ người Nhật Bản, bất cứ người Nhật Bản cũng biết đến các tác phẩm Botchan,Wagahai wa neko dearu, Kokoro… của ông. Ông được coi là nhà văn dân tộc lớn nhất trong nền văn học cận đại ở Nhật Bản kể từ thời Minh Trị. Các nhà phê bình văn học đánh giá ông là một trong ba trụ cột của văn học hiện đại Nhật Bản cùng Mori Ogai và Akutagawa Ryunosuke. Năm 2006 bạn đọc Việt Nam đã được đọc cuốn Cậu ấm ngây thơ (Botchan) và bây giờ lại được cầm trên tay bản dịch kiệt tác Tôi là con mèo (Wagahai wa neko dearu) của đại văn hào Natsume Soeki, cả hai đều do dịch giả Bùi Thị Loan chuyển ngữ sang tiếng Việt và do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành. Việc Quỹ Giao lưu Quốc tế Nhật Bản (Japan Foundation) tài trợ cho bản dịch tiểu thuyết Tôi là con mèo lần này của bà Loan là một trong những hoạt động rất tích cực trong việc thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc Nhật Bản và Việt Nam. Tác phẩm dịch này ra đời là món quà ý nghĩa để tiến tới kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ Việt Nam - Nhật Bản (2013). Tôi là con mèo (Wagahai wa neko dearu) là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Natsume Soeki. Mượn lời kể của một con mèo sống trnog nhà một thầy giáo dạy trung học, tác giả đã vẽ nên bức tranh trào phúng về diện mạo điển hình của tầng lớp trí thức Nhật thời Minh Trị. Con mèo lắng nghe và quan sát các nhà khoa học tranh cãi trong căn phòng của "ông giáo" Kushami, thực chất đó là những cuộc thảo luận về triết học và nghệ thuật cũng như thói đời trong thế giới mà mãnh lực đồng tiền đang xâm chiếm tình cảm con người trong buổi giao thời và xung đột giữa văn hóa Đông - Tây ở Nhật Bản. Độc giả sẽ dễ dàng nhận ra sự tẻ nhạt và kệch cỡm trong lối sống, sự nửa vời và lười nhác trong học thuật của những nhân vật chính như ông giáo Kushami, nhà mỹ học Meitei, cử nhân khoa hoạc tự nhiên Kangetsu, rồi một vài nhà thơ, nhà phê bình… từ các cuộc tranh luận như bất tận của họ, xoay quanh nhiều vấn đề nghệ thuật kinh điển và hiện đại, của Nhật cũng như của thế giới. Ở khía cạnh khác, bạn đọc có thể tìm thấy trong cuốn sách này những chi tiết văn hóa đặc trưng của Nhật, được miêu tả tinh tế, tròn trặn và trầm tĩnh. Điểm nổi bật trong kiệt tác này, chính là bạn đọc được làm quen và thưởng thức giọng văn châm biếm hóm hỉnh mang nhiều nét tự trào của một bút pháp bậc thầy. Nhưng lưu ý rằng cái hóm hỉnh lại "rất Nhật" nên người đọc Việt Nam đôi khi cần có chút hiểu biết về văn hóa Nhật mới thấy hết cái hay cái hóm của nó. Dịch giả Bùi Thị Loan là một người Việt Nam am hiểu văn hóa văn học Nhật, hiện tại bà vẫn đang sinh sống và làm việc tại xứ sở hoa anh đào. Bà là một người dịch mới, trong thế hệ các dịch giả văn học thời hiện đại, được tiếp xúc và chuyển ngữ trực tiếp từ nguyên bản. Bản dịch của bà Bùi Thị Loan, mà theo tâm nguyện bà muốn cố gắn chuyển tải một cách trung thực văn phong của một đại văn hào Nhật Bản, có thể, đôi chỗ còn làm cho bạn đọc Việt Nam, nhất là lớp trẻ, cảm thấy hơi có gì đó khác lạ, hơi khó dung nạp. Nhưng dụng ý của người dịch quyết tâm giúp bạn đọc Việt Nam dần khám phá đỉnh núi Natsume Soeki một cách thuần chất và nguyên vẹn, dù không dễ. Như đã nói, vốn dĩ tác phẩm Tôi là con mèo - một tác phẩm được viết ra ở Nhật Bản cách đây hơn một thế kỷ, dù rằng là kiệt tác của nhân loại, sống mãi với thời gian, đã đi vào tâm hồn bao thế hệ người Nhật, nhưng chính người Nhật hiện đại cũng cảm thấy nhiều chỗ khó đọc, vì vậy chuyển ngữ sang tiếng Việt là một công việc đầy gai góc. Đối với độc giả nước ngoài, trong đó có Việt Nam, để thấy hết cái hay, cái đẹp của tác phẩm này thiết nghĩ cũng cần có thời gian. Mọi phán xét xin dành lại cho độc giả. Thúy Toàn *** "Tôi là con mèo" là tác phẩm đầu tay của nhà văn Natsume Soseki (1867-1916). Trong tác phẩm Cậu ấm ngây thơ (NXB. Hội Nhà văn phát hành năm 2006), tôi đã có dịp giới thiệu qua về ông. Có thể nói, đây là tác phẩm rất quan trọng không chỉ đối với cuộc đời và sự nghiệp của Natsume Soseki mà còn đối với cả đời sống văn học Nhật Bản và quốc tế. Bởi vì nó là tác phẩm đã giúp phát hiện ra một đại văn hào, sau đó ảnh hưởng của nó và nhà văn lớn này đã góp phần gieo mầm, tạo ra nhiều nhà văn, nhà văn hóa, học giả có giá trị cho Nhật Bản. Trong số đó có người rất nổi tiếng, như văn hào Akutagawa Ryunosuke, một đệ tử của Natsume Soseki. Trên thế giới, đặc biệt là Hàn Quốc và Trung Quốc, cũng có nhiều nhà Soseki học khá nổi tiếng. Bối cảnh và nội dung của Tôi là con mèo là đời sống hiện thực xảy ra xung quanh nhà văn Soseki. Những nhân vật chính trong truyện cũng lấy nguyên mẫu từ bạn bè, học trò, những người xung quanh ông. Một số được đưa nguyên tên thật vào trong tác phẩm như nhà thơ Masaoka Shiki, nhà thơ Takahama Kyoshi. Nhưng tất cả đều được miêu tả qua lăng kính trào lộng, đùa vui, mang đậm tính chất Rakugo (một loại tấu hề), đại diện tiêu biểu của nền văn hóa Edo. Con mèo và thầy giáo Kushami cũng là nhân vật dựa vào nguyên mẫu là tác giả và con mèo nhà ông. Chính con mèo này đã gợi hứng cho ông viết tác phẩm. Lúc đầu chỉ là ý định viết thử cho vui, ông bắt đầu bằng câu "Tôi là con mèo,…" rồi đưa bản thảo cho tạp chí, nhờ góp ý và đặt tên. Ông Takahama Kyoshi, người phụ trách của tạp chí, đã góp ý lấy câu mở đầu này làm tên của tác phẩm. Kiệt tác "Wagahaiwa neko dearu" (Tôi là con mèo) đã được ra đời như vậy và trở thành một cái tên rất thân quen với bất kỳ người Nhật nào cũng như bất kỳ ai hiểu biết về Nhật Bản. Natsume Soseki lúc nhỏ đã học chữ Hán, sau đó học tiếng Anh và văn học Anh. Ông là người thuộc thế hệ Hán học cuối cùng và thế hệ Tây học đầu tiên của Nhật Bản. Vì vậy trong ông có một khối lượng đồ sộ kiến thức đông tây kim cổ mà ông đã tích lũy được qua nhiều năm bằng trí tuệ của một thiên tài. Trong tác phẩm đầu tay này, những kiến thức ấy được dịp xuất hiện trong mọi cơ hội, khi thì nghiêm túc, khi thì hài hước, đùa bỡn nhưng tất cả đều giúp độc giả khám phá ra những tư tưởng, kiến thức, những trăn trở uyên thâm, cao đẹp, đầy nhân văn của một thiên tài rất nặng lòng với thời thế. Tác phẩm bắt đầu được viết năm 1905, khi cuộc chiến tranh Nhật-Nga (1904-1905) đang ở đỉnh điểm. Truyện in dần trên tạp chí Hototogisu cho đến cuối năm 1905 thì ông định kết thúc truyện ở chương 5. Nhưng do độc giả tha thiết yêu cầu nên ông lại viết tiếp và hoàn thành vào năm 1907 với 11 chương hầu như độc lập với nhau… Đây là tác phẩm văn học quá lớn đối với khả năng của một dịch giả văn học không chuyên như tôi nên bản dịch chưa thể gọi là hoàn hảo trong việc chuyển tải đầy đủ tất cả cái hay, cái đẹp, cái quý của tác phẩm, hòng làm xiêu lòng độc giả Việt Nam như nó đã chinh phục độc giả Nhật Bản. Vả lại, cũng cần phải có thêm điều kiện hiểu biết lịch sử, văn hóa, tính cách tâm lý của người Nhật thì mới tiếp nhận được hết những giá trị của tác phẩm. Bởi vì đối với người Nhật, cái hay của văn học Natsume Soseki cũng giống như cái hay của Truyện Kiều đối với người Việt Nam, người ta thích thú không chỉ vì nội dung mà còn do ngôn ngữ và nhạc điệu của tác phẩm. Người Nhật Bản mỗi tầng lớp mỗi thế hệ, từ các em học sinh tiểu học năm thứ 5 trở đi cho đến các vị cao niên, từ những người lao động bình thường đến bậc học rộng, uyên bác, ai cũng có thể tìm thấy trong tác phẩm này những điều lý thú, cần thiết, bổ ích hay tâm đắc với mình. Mặc dù việc tiếp thu qua bản dịch gặp phải những hạn chế chủ quan từ dịch giả và khách quan từ độc giả, nhưng tôi mong rằng Tôi là con mèo cũng phần nào làm được như vậy với bạn đọc Việt Nam. Hơn nữa, ngoài chức năng là một tác phẩm văn học để giải trí, tôi hy vọng cuốn sách này còn là một nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho những người có nguyện vọng tìm hiểu về Nhật Bản. Để có được thành quả nhỏ này là nhờ công lao rất lớn của nhiều người đã giúp đỡ tôi. Trước hết là chị Lê Thị Bình, bạn tôi, người đã phát hiện bản dịch thảo của tôi và quyết tâm giới thiệu nó với bạn đọc. Chị Bình đã dành nhiều thời gian, công sức và khắc phục nhiều trở ngại để tổ chức thực hiện việc này. Chị là người rất quan tâm đến văn hóa và văn học Nhật Bản, luôn hoạt động tích cực trong Ban văn hóa Hội Hữu nghị Việt - Nhật và trong Câu lạc bộ thơ Haiku Việt Nam. Nhờ công lao và nhiệt tình của chị Bình, với sự giúp đỡ của NXB. Hội Nhà văn, bản dịch Tôi là con mèo đã nhận được tài trợ của Quỹ giao lưu Quốc tế Nhật Bản (Japan Foundation) để cho ra mắt kiệt tác này. Nhân đây tôi cũng xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm của quý Quỹ và Nhà xuất bản. Trong quá trình dịch, tôi may mắn được một người bạn đồng nghiệp người Nhật đã tận tình giúp đỡ tôi. Không những chỉ đọc duyệt, anh còn dạy cho tôi biết thêm nhiều về tiếng Nhật và kiến thức về nhiều lĩnh vực của Nhật Bản, khiến bản dịch nhuần nhuyễn hơn. Cũng nhân dịp này, chúng tôi còn nhận được sự giúp đỡ của nhà thơ Nguyễn Bao và nhà văn, dịch giả nổi tiếng Thúy Toàn. Những lời nhận xét và chỉ dẫn rất quý báu của hai ông về kiến thức dịch văn học, giúp cho người ngoại đạo như tôi khắc phục được nhiều yếu kém trong công việc. Và biên tập viên Nhà xuất bản đã luôn nhiệt tình và trách nhiệm khi làm việc, trao đổi với tôi từ xa. Xin trân trọng giới thiệu Tôi là con mèo với độc giả. Xin kính dâng bản dịch này lên hương hồn Đại văn hào Natsume Soseki, nhà văn Nhật Bản tôi rất kính phục, nhân ngày giỗ lần thứ 95 của ông (9-12-1916/ 19-12-2011). 7-12-2011 Bùi Thị Loan *** Natsume Soseki (1867 - 1916) là nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận văn học và chuyên gia văn học Anh. Ông sinh ngày 9-2-1867 trong một gia đình Danh chú (“Nanushi"- một loại cường hào địa phương thời phong kiến) tại Tokyo. Tên chính thức của ông là Natsume Kinnosuke (Na-chư-mê Kin-nô-su-ke). Bút danh Soseki chữ Hán là “sấu thạch” có nghĩa là súc miệng bằng đá, lấy từ điền tích “sấu thạch trầm lim” của Trung Quốc, mang ý nghĩa là kiên cường, cứng rắn. Bút danh này có từ sau năm 1889, khi ông gặp Masaoka Shiki, người bạn thân thiết nhất, có ảnh hưởng quyết định đến con người và văn học của Soseki. (Masaoka Shiki (1867 - 1902) là nhà thơ nổi tiếng của Nhật Bản). Ngay sau khi ra đời, Soseki đã bị cho đi làm con nuôi một gia đình thương gia nghèo nên không được nuôi nấng, chăm sóc đầy đủ. Thấy thế, gia đình cha mẹ đẻ đưa ông về, rồi lại cho làm con nuôi một gia đình khác. Cho đến năm 21 tuổi, Soseki mới trở lại nhập tịch gia đình Natsume. Thời kỳ học tiểu học, ông phải chuyển hết trường nọ đến trường kia. Năm 12 tuổi Soseki vào học trường trung học công lập tỉnh Tokyo. Ông bỏ dở năm thứ 2 trung kọc để theo học Hán học trường tư thục. Ở đây, ông đã học được nhiều văn thơ Đường, Tống, Hán thư, sử thư và văn hóa cổ điển Trung Quốc, có ảnh hưởng lớn đến văn học của ông sau này về văn phong, về tư tưởng, giá trị thẩm mỹ v.v... Năm 1883, Soseki lại bỏ Hán học, theo học trường tiếng Anh tư thục để chuẩn bị vào trường dự bị đại học. Năm 1884, Soseki vào trường dự bị đại học. Trong thời gian học dự bị, ông đã từng bị bệnh, không thể đi dự thi, đã từng đi dạy cho các trường tư thục để trang trải học phí. Năm 1890, Soseki vào học trường Đại học đế quốc Tokyo (tiền thân của Đại học Tokyo ngày nay), là trường quốc lập mới mở trước đó không lâu. Ổng bắt đầu sáng tác thơ từ thời sinh viên. Năm 1893, Soseki tốt nghiệp khoa văn trường đại học Tokyo. Ông được bổ nhiệm làm giáo viên tiếng Anh trường cao đẳng sư phạm Tokyo. Ngay sau đó ông bị bệnh lao phổi và bệnh suy nhược thần kinh nặng. Để chạy trốn khỏi Tokyo nhằm dưỡng bệnh, năm 1895, ông thôi dạy ở trường cao đẳng, chuyển đến trường trung học Matsuyama, tỉnh Ehime, quê hương của Shiki. Chính trường trung học này là bối cảnh và đề tài để mười năm sau ông viết tác phẩm “Cậu ấm ngây thơ” (Bốt chang) vào năm 1906. Từ 1896, Soseki được bổ nhiệm làm giáo viên tiếng Anh trường cao đẳng số 5 ở tỉnh Kumamoto. Năm 1900, Soseki được Bộ Giáo dục Nhật Bản cứ đi nghiên cứu văn học Anh 2 năm ở Luân Đôn. Năm 1903, về nước ông được bổ nhiệm dạy tại trường cao đẳng số I, đồng thời dạy văn học Anh tại trường đại học Tokyo. Việc dạy lý luận văn học Anh ở Đại học Tokyo gặp trục trặc làm cho bệnh suy nhược thần kinh và tình trạng tinh thần của Soseki trở nên trầm trọng. Theo lời khuyên của Takahama Kyosi, chú bút tạp chí "Chim Tứ Quý”, Soseki sáng tác tiểu thuyết để thư giãn tinh thần. Truyện “Tôi là cơn mèo” ra đời, lập tức được hoan nghênh nồng nhiệt và bệnh tình của ông cũng thuyên giảm. Từ đó, Soseki có ý định đi theo nghề viết văn. Ổng viết tiếp “Tháp Luân Đôn” rồi “Cậu ấm ngây thơ”, tất cả đều là những kiệt tác, xác lập chỗ đứng chắc chắn của ông trên văn đàn. Tháng 2-1907, được báo Asihi mời, ông bỏ hẳn nghề giáo viên, vào làm ờ báo Asihi, chuyên viết tiểu thuyết và sáng tác văn học cho đến khi qua đời vào ngày 9-12-1916. Cuộc đời 49 năm với 10 năm viết văn chuyên nghiệp, Natsume Soseki đã để lại nhiều kiệt tác, trong đó có các tác phẩm tiêu biểu là: Cuộc nổi loạn ngoạn mục Ngày 210 Nỗi Lòng “Tôi là con mèo", 1907 “Tháp Luân Đôn”, 1904 “Cậu ấm ngây thơ”, 1906 ‘Hoa thuốc phiện’’, 1907 “Gối Đầu Lên Cỏ”, 1907 “Chàng trai Sanshiro", 1908 ‘Tù đó", 1909 “Cái cổng", 1910 “Người đi đường", 1912 -1913 “Cỏ ven đường", 1915 “Sáng tối", 1916 ... Mời các bạn đón đọc Cậu Ấm Ngây Thơ của tác giả Natsume Soseki.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bảy Ngày Đếm Ngược
“Tốt nhất là không gặp, không gặp sẽ không yêu. Tốt nhất không quen, không quen sẽ không nhớ. Nhưng từng gặp thì sẽ quen, gặp hay không gặp khác gì nhau? Đành cùng người quyết đoạn tuyệt, tránh được thương nhớ giữa sống chết.” Nếu biết còn 7 ngày để sống, tôi sẽ……… Đã bao giờ bạn tưởng tượng bạn sẽ được báo trước 7 ngày nữa mình sẽ chết? Nghe thật buồn cười nhưng một ngày như thế sẽ làm bạn phải suy nghĩ lại chứ? Những lời nào bạn muốn nói Người nào bạn muốn gặp gỡ Việc gì bạn muốn làm Cô nghệ sĩ hết thời từng danh nổi như cồn lại ôm trong lòng sự hối tiếc đối với tình thân Cô gái trẻ xuất thân trộm cắp vùng vẫy nơi đáy xã hội, khư khư ôm chặt ước mơ của mình Chàng dũng sĩ nhí cô độc lẻ loi chưa từng từ bỏ hi vọng, kiên trì tìm đến vòng tay của người thân “Bảy ngày đếm ngược” có thể sẽ lấy đi những giọt nước mắt, cũng có thể mang theo cả nụ cười cho bạn đọc. Hơn cả, cuốn sách này sẽ mang lại cho bạn cả những lúc cần phải lặng người hỏi bản thân “Tôi đã sống trọn vẹn hay chưa?”  *** Chuyện không liên quan thứ nhất là dạo này nóng thật, nóng khủng khiếp ấy. :((( Chuyện không liên quan thứ hai là mình rất thích đọc tiểu thuyết Đài Loan, cá nhân mình thấy thích hơn tiểu thuyết Trung Quốc luôn ấy. ❤ (Không, mình nghĩ là có liên quan đó. :3) Chuyện không liên quan thứ ba là chúc các bạn một ngày tốt lành! Rồi, giờ vào chuyện liên quan luôn nhé. Lâu rồi mình chưa đọc sách giấy, toàn ôm điện thoại đọc thôi. Xong rồi mình nhìn thấy một bài giới thiệu Bảy ngày đếm ngược trên Facebook, lúc đó mình kiểu quyết tâm phải mua về đọc ấy. Và mình không hề thất vọng, quyển này hay lắm luôn ấy. Bảy ngày đếm ngược là tiểu thuyết Đài Loan, không phải ngôn hay đam đâu, nên ai không đọc được hai thể loại này cứ mạnh dạn mà rước về nhé. Sơ Tam – nhân vật chính làm việc tại Cục tử vong của Thiên giới, công việc của cậu là lắng nghe tiếng lòng sau cuối của các vong linh, sau đó ghi lại cuộc đời họ. Thiên giới thử nghiệm kế hoạch Thông báo tử vong, mỗi người trước khi chết sẽ được thông báo trước 7 ngày, Sơ Tam chính là người được chọn để quan sát quá trình ấy. Đọc đến đây, chắc bạn đã có câu trả lời về nội dung truyện rồi nhỉ? Chính là kiểu truyện lồng trong truyện đó. Thật sự thì mình đã khóc khi đọc truyện này đấy, sợ hãi, tuyệt vọng, hy vọng, chờ đợi, cuốn sách này có cả. Bảy con người, bảy số phận khác nhau, điểm chung giữa họ là chỉ còn bảy ngày để sống. Diễn viên hết thời, kẻ móc túi, anh lính cứu hỏa, thanh niên mắc ung thư, cậu bé bị bỏ rơi, kẻ khủng bố, vị bác sĩ chân chính cống hiến cả cuộc đời. Nội dung chi tiết ra sao, bạn hãy tự đọc để cảm nhận nhé. Nghe truyện có vẻ u ám đúng không? Nhưng mình cam đoan là HE hết nhé. À, nói sơ qua về hình thức một chút nhé, sách cầm chắc tay, mình mở sách thô bạo lắm ấy mà quyển sách nhìn vẫn siêu đẹp. Vẫn có lỗi chính tả, nhưng mình không khó tính lắm nên thôi bỏ qua. Một số đoạn, mình thích dùng từ “cô” hơn là “cô ta”, cứ “cô ta”, “cô ta” suốt làm mình kiểu hơi ngừng lại một chút, hoặc là “cô ấy” nghe cũng hay hơn mà. Chung quy lại thì mình không thích văn phong dịch lắm. Không phải mình ship mù quáng đâu nhưng mình thích Phạm Khương Dịch Trạch x Sơ Tam, nhưng mà Phạm Khương Dịch Trạch x Trì Linh Dao kiểu cực đẹp ấy nên mình ship cả hai luôn. Mình nghĩ là sẽ kha khá người ship Tiêu Bang x Sơ Tam đó. ❤ Nói gọn lại là thì quyển này đáng mua lắm luôn, mọi người thử đọc và cảm nhận nhé. *** “Bảy ngày đếm ngược” của Cát Bốc Lặc đem lại cho độc giả những trăn trở sâu thẳm về đời người, với những mảnh số phận khác nhau khi đối diện với bản án chỉ còn bảy ngày để sống. Sơ Tam là người làm việc tại Cục Tử vong của Thiên giới, được giao công việc ghi chép lại cuộc đời của người đã khuất. Công việc đó khiến Sơ Tam có cơ hội được lắng nghe những tiếng lòng sau cuối của những vong linh, cảm nhận được những xúc cảm chân thật nhất của con người vào giây phút cận tử. Khi ấy, con người bộc lộ nguyên vẹn nhất với đầy đủ những hỷ nộ ái ố trong đời. Ở vị trí ấy, Sơ Tam cũng nhận ra rằng, dẫu cuộc đời mỗi người từng trải qua những biến cố ra sao, điều họ khao khát nhất vẫn là được sống. Những câu chuyện của người sắp chết khiến Sơ Tam ám ảnh. Cậu sống trong trạng thái bị quấy nhiễu bởi những ký ức trở đi trở lại. Cho đến một ngày, Sơ Tam được phân công nhiệm vụ trở thành người thông báo tử vong. Nhiệm vụ mới đặt cậu vào vai trò thông báo cho con người về cái chết của họ trước bảy ngày, và quan sát xem trong bảy ngày cuối cùng ấy, con người sống ra sao. Đây là một trải nghiệm đặc biệt đối với Sơ Tam, cũng mở ra những khoảng không vô tận, khiến cậu thấu hiểu hơn về con người nơi trần thế. Họ là một diễn viên hết thời, một cô gái hành nghề móc túi, anh lính cứu hỏa luôn hết mình với công việc, người thanh niên mắc ung thư, cậu bé bị bỏ rơi, kẻ khủng bố, vị bác sĩ chân chính cống hiến cả cuộc đời. Bảy số phận khác nhau ấy cùng ghép lại thành một bức tranh đa sắc về số phận con người trong cuộc sống hiện đại dù cuộc đời họ chỉ được tái hiện trong bảy ngày cuối cùng ngắn ngủi. Củng Thiên Nghi là một diễn viên ngôi sao hết thời, đang vướng vào những vụ lùm xùm, sống trong cảnh buồn chán vì ế show. Khi Sơ Tam xuất hiện, thông báo rằng sinh mệnh của cô chỉ còn bảy ngày, ấy cũng chính là chìa khóa mở cánh cửa bí ẩn về cuộc đời cô. Bảy ngày ấy, với vai trò người quan sát, Sơ Tam đã có cơ hội để hiểu những tâm tư sâu thẳm của một ngôi sao. Trước đó, vì đuổi theo những thành công của sự nghiệp, cô đã rời bỏ cha mẹ, từng có con nhưng đành để cho người em gái nuôi nấng, đã mang trong mình một mối thâm tình nhưng rồi cũng lìa bỏ. Cuộc đời của Củng Thiên Nghi đến hôm ấy tưởng như trống không, chỉ còn lại là những ảo ảnh của sự nổi tiếng. Nhưng bảy ngày cuối cùng ấy, chính là những giây phút duy nhất trong đời cô có thể hàn gắn lại cuộc đời mình. Củng Thiên Nghi về thăm bố, dùng máu của mình để cứu ông. Rồi cô dành những thời gian hiếm hoi còn lại cho người con trai cô đã bỏ rơi, kết nối lại sự đồng cảm giữa cô và em gái. Khoảng thời gian ngắn ngủi biết bao nhưng có lẽ là khoảng thời gian ý nghĩa nhất, để đến giây phút cuối cùng, dùng sinh mệnh của mình để cứu con trai, cô có thể nở một nụ cười viên mãn trước khi nhắm mắt. Được kể bằng giọng văn đầy chất mê hoặc tạo dựng nên một không gian mênh mang xóa nhòa những lằn ranh giữa nhân gian, thiên đường, địa ngục, nhưng vẫn tập trung lột tả được đời sống, tâm tư của con người một cách chân thật chính là tài năng của tác giả Cát Bốc Lạc trong Bảy ngày đếm ngược. Đời người vốn ngắn ngủi, còn thời gian cứ thế trôi đi. Sống thế nào, đều do mỗi cá nhân tự chọn lựa… Qua cuộc đời của những nhân vật được thử nghiệm thông báo cái chết trước bảy ngày, mỗi người đều có cơ hội nhìn lại bản thân mình, kẻ hối hận, người hài lòng, kẻ hối hận, người mãn nguyện… đó đều là những xúc cảm rất chân thật, ai từng sống trên đời đều sẽ trải qua, không thể trốn tránh. Với cách kể truyện lồng trong truyện khiến Bảy ngày đếm ngược tựa như một chiếc gương soi, để con người soi chiếu cuộc đời mình, để có thể nhìn thấu suốt cuộc đời, cũng là thấu suốt bản thân. Sơ Tam, khi làm công việc quan sát, cuối cùng đã gặp lại ân nhân của mình trước khi anh chết. Những ngày còn sống trên nhân gian trở về sắc nét trong tâm trí anh, khiến anh càng xót xa trước sự ngắn ngủi của đời sống. Người bác sĩ tên Trâu Khoan Thủ năm nay 75 tuổi, đã dành cả đời để chữa bệnh cứu người. Cuộc đời ông đến đây là những ngày đã trọn vẹn. Ông không còn gì hối hận trên đời. Bởi thế, khi nhận được thông báo về cái chết của mình, ông dành những ngày cuối đời để ngẫm nghĩ về những chuyện quá khứ đã qua. “Cho đến ngày cuối cùng của cuộc đời, khi quay đầu nhìn lại, nếu bạn vẫn có thể mỉm cười mà hồi tưởng lại quá khứ. Chứng tỏ cuộc đời này, bạn đã sống không uổng phí”. Cuộc đời của bác sĩ Trâu chính là như vậy, nhắm mắt xuôi tay, nhẹ nhàng thanh thản. Đời người vốn ngắn ngủi, còn thời gian cứ thế trôi đi. Sống thế nào, đều do mỗi cá nhân tự chọn lựa. Bảy ngày đếm ngược viết về đời người, về quá trình mà con người phải trải qua trong đoạn đời sống của chính mình nhưng được thể hiện dưới hình thức hư ảo đặc biệt, trong vùng sương khói của không gian thiên giới, hạ giới và địa phủ, tạo nên những ngữ nghĩa thâm sâu, khiến toàn bộ câu chuyện vừa có nỗi đau đớn lại cũng không thiếu những hân hoan, cảm động. Bảy ngày đếm ngược của Cát Bốc Lạc là cuốn sách đoạt giải nhất trong cuộc thi viết tiểu thuyết ngắn của Nhà xuất bản Phi Yến, Đài Loan. theo Thủy Nguyệt/Zing.vn   Mời các bạn đón đọc Bảy Ngày Đếm Ngược của tác giả Cát Bốc Lặc & Mỹ Linh (dịch) & Dinh Dinh (dịch).
Sự Tha Thứ Muộn Màng
Sự Tha Thứ Muộn Màng Maxence Van der Meersch Nguyên tác: L'Empreinte du dieu NXB: Albin Michel Dịch giả:  chưa rõ Nhà xuất bản: Lao Động - 1989 Đoạt giải Goncourt năm 1936 ​ Maxence Van der Meersch từng tốt nghiệp ngành Luật, nhưng lại có niềm đam mê đặc biệt với văn chương. Tác phẩm đầu tay - La Maison dans la dune (1932) - đã đặt nền móng cho sự nghiệp sáng tác của ông. Năm 1936, Maxence Van der Meersch gây tiếng vang lớn với tác phẩm L’Empreinte du dieu (Dấu ấn của Chúa), được trao giải Goncourt danh giá. Đến năm 1943, tài năng văn chương của ông tiếp tục được khẳng định với tiểu thuyết Corps et Âmes (Thể xác và Tâm hồn) - Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp năm 1943. Maxence Van Der Meersch (1907 – 1951) là nhà văn nổi tiếng của văn học Pháp thế kỷ XX. Tiểu thuyết "Thể xác và tâm hồn" của ông đã được giải thưởng lớn về tiểu thuyết của Viện Hàn lâm Pháp năm 1943. Trước đó năm 1936 ông đã được nhận giải Goncourt danh giá cho tác phẩm "Dấu ấn của Chúa" (L'Empreinte du Dieu). Mời các bạn đón đọc Sự Tha Thứ Muộn Màng của tác giả Maxence Van der Meersch.
Người Cân Linh Hồn
Anh cho rằng nếu có thể hợp nhất từng nguyên tử của hai linh hồn vốn đã gắn kết sâu xa thì sẽ xuất hiện một trạng thái ưu việt hơn. Dưới bề ngoài châm biếm, James là người đa cảm. Anh hết lòng tin tưởng vào tình bạn, và tình yêu. Lần thí nghiệm duy nhất còn lại mà anh đã nói sẽ phụ thuộc vào cơ may cho anh gặp được hai con người, ngay lúc họ lâm chung, mà trong cuộc đời họ vốn đã có sự gắn kết hoàn hảo: anh sẽ cố hợp nhất họ một lần nữa khi họ chết. --- Tôi tắt đèn và không nén được tiếng kêu thảng thốt. Một khối cầu ánh sáng đang rực lên trên bệ lò sưởi với ánh hào quang phi thường. Không thể so sánh nó với bất cứ thứ gì ngoài vầng trăng rằm trên bầu trời đêm hè trong vắt, ở Hy Lạp hay phương Đông. Đó là một viên ngọc sáng ngời và trong lòng sâu là những luồng chuyển động còn rạng rỡ hơn, một thứ kim cương lỏng bốc cháy quay cuồng như một tinh vân lấp lánh. Tôi đã viết khá nhiều sách, một số là sách tiểu sử, một số là tiểu thuyết. Lạ thay, ở Pháp tôi lại có tiếng là tiểu thuyết gia trong khi ở Anh và Mỹ thì sáng tác của tôi lại ít thành công, còn sách tiểu sử lại được đón nhận tốt. Ngoại lệ duy nhất là một truyện đã xuất bản từ năm 1931 – NGƯỜI CÂN LINH HỒN. Ý tưởng của câu chuyện này, hoàn toàn hư cấu, đã nảy sinh trong Đệ nhất Thế chiến. Nhiều bằng hữu và người thân của tôi đã thiệt mạng vì chiến tranh nên việc tôi hay nghĩ đến cái chết có lẽ là điều tự nhiên. Giai đoạn ấy tôi có đọc trên một nhật báo có hai dòng tin tức về một bác sĩ điên nào đó đã cân tử thi của những người vừa lìa đời, nhưng phải rất lâu (bảy hay tám năm sau) ý tưởng truyện này mới hình thành. Rồi một hôm, ở London, tôi gặp một bác sĩ người Anh đúng ngay mẫu nhân vật mà tôi cần đến, và nhờ động lực này mà truyện được viết xong trong vòng hai tuần. Nhiều độc giả cứ tin là chuyện có thật. Ngay cả bây giờ, sau hơn 30 năm, tôi thỉnh thoảng vẫn nhận được một bức thư hay điện tín từ một nước xa xôi, hỏi rằng: “NGƯỜI CÂN LINH HỒN có thật không?” Khi viết, tôi đã dốc lòng viết sao cho câu chuyện đáng tin và thậm chí còn nhờ một bác sĩ Pháp danh tiếng thời đó, Jean Perrin, nghĩ ra cho tôi một kiểu thiết bị khoa học, một yêu cầu mà ông ấy đã thực hiện vui vẻ và chu đáo. (trích tự thuật của André Maurois cho bản dịch tiếng Anh “The Weigher Of Souls” – Macmillan 1963) *** Với “Người cân linh hồn”, tác giả Andre Maurois đã dẫn dụ người đọc vào thế giới nội tâm kỳ lạ của con người. Thế giới không thể lý giải rõ ràng, chỉ có thể cảm nhận bằng tình yêu. Tác phẩm Người cân linh hồn (nguyên tác tiếng Pháp Le peseur d’âmes) của nhà văn Pháp André Maurois, vừa được tái bản tại Việt Nam qua bản chuyển ngữ của dịch giả Đăng Thư vào tháng 12/2018. Người cân linh hồn là một câu chuyện giả tưởng, bắt nguồn từ niềm tin vào sự tồn tại của linh hồn con người sau khi chết của bác sĩ James tại bệnh viện Saint Barnaby. Những thí nghiệm về người chết của ông được tiến hành bí mật cùng với sự theo dõi của người kể chuyện. “Sự bất tử của linh hồn” là nỗi băn khoăn của con người qua nhiều thời đại. Các ngành khoa học tâm linh đều luôn nỗ lực hết mình để tìm kiếm và lý giải những bí ẩn. Tuy vậy, linh hồn của con người thực sự tồn tại hay không, chưa ai có thể trả lời. Hình dạng của linh hồn ra sao, không ai nhìn thấy được. Theo các nhà khoa học đã nghiên cứu trước đó, “có tồn tại linh hồn, và linh hồn cân nặng 0,17 miligram”, và James cũng đã bắt đầu tiến hành cân tử thi sau khi cái chết xảy ra. Khi tiến hành cân tử thi, anh đã nhận thấy trọng lượng sụt giảm trong khoảng từ 0,75 tới 0,95 miligam. Dù tìm cách cân linh hồn, James rõ ràng không hề muốn biến linh hồn thành một thứ vật chất, “vì linh hồn kết nối với cơ thể để diễn đạt những ý nghĩa của nó, cho nên cũng có khả năng là sau khi từ bỏ cơ thể, linh hồn sẽ kết nối với nguồn năng lượng bí ẩn mà chúng ta đã nhận thấy qua hiện tượng lìa khỏi thân xác”. Sau những thí nghiệm kỳ lạ ấy, James đã thành công khi kết nối được linh hồn của hai người anh em để họ có thể ở bên cạnh nhau lâu hơn nữa sau khi chết. Chiếc lọ thủy tinh chứa đựng thứ ánh sáng lấp lánh phát ra từ việc hai linh hồn hòa quyện với nhau. Tại sao James lại khao khát muốn làm những thứ nghiệm để chứng minh sự tồn tại của linh hồn con người sau khi chết đến vậy? Những lớp lang ngữ nghĩa được gợi lên có thể khiến độc giả gật gù nhận ra Andre Maurois đây rồi. Dù được “hóa trang” bằng lớp vỏ giả tưởng, nhưng câu chuyện của Andre Maurois chỉ có mục đích đi sâu vào tâm tư của con người, cho con người cơ hội bộ bạch những bí ẩn của mình. James hiện ra không còn là một bác sĩ tài năng, say mê khoa học, ông còn là kẻ mị tình. James mang trong mình tình yêu si mê, tôn thờ với Hilda, cô gái Đan Mạch tuyệt đẹp. Nhưng rồi, cô ấy không còn sống trên đời bởi một tai nạn bi đát. James chưa bao giờ nguôi ngoai nỗi đau đớn ấy. Anh khao khát điều gì, giá anh có thể cứu sống linh hồn của người yêu, giá anh có thể giữ mãi linh hồn của người yêu ở bên cạnh mình. Nhưng vào giây phút ấy, anh chưa tìm được cách. James khi đã là người đàn ông lớn tuổi, đã gặp gỡ Philipps xanh xao và thơ ngây. Nàng có khuôn mặt giống với Hilda, nàng là diễn viên sân khấu tài năng, nhưng ở nàng toát lên vẻ ngắn ngủi tàn lụi. Là bác sĩ, James nhận rõ đoạn đời quá ngắn của nàng, và anh đã chọn ở bên cạnh nàng cả đời. Đám cưới và hạnh phúc quá ngắn ngủi. Giữa những đoạn ấy, James đã từ bỏ nghiên cứu, dành toàn thời gian cho người vợ yếu ớt của mình. Rồi bí ẩn lại tiếp tục được hé mở khi Philipps chết, và James đã uống thuốc độc để có thể chết cùng với nàng. Tại sao? Bí ẩn đến tận giây phút cuối cùng, mới được soi tỏ. Người kể chuyện đồng thời là người bạn tri kỷ, người đã chứng kiến những thí nghiệm kỳ quái của James đã được trao lại một tâm nguyện quan trọng. Andre Maurois đã thể hiện khả năng miêu tả nội tâm sâu thẳm của con người vô cùng xuất sắc bằng ngôn ngữ thấm đẫm chất thơ mộng u sầu. Đọc Người cân linh hồn, độc giả sẽ vừa ngạc nhiên bởi cốt truyện kỳ lạ, vừa say đắm bởi những ý tứ tinh tế và đẹp đẽ được gợi lên của tâm hồn. Với Người cân linh hồn, Andre Maurois đã dẫn dụ người đọc vào thế giới nội tâm kỳ lạ của con người. Thế giới không thể lý giải rõ ràng, chỉ có thể cảm nhận bằng tình yêu. *** Tôi đã do dự rất lâu trước khi đặt bút viết lại câu chuyện này. Tôi biết chuyện sẽ khiến những ai từng thân thiết với tôi sẽ kinh ngạc, và sẽ khiến không chỉ một người khó chịu mà thôi... Một số sẽ hoài nghi thiện ý của tôi, số khác sẽ ngờ vực lương tri người viết. Chính tôi đây cũng sẽ có ý nghĩ như vậy nếu như tôi đã không ngẫu nhiên thành nhân chứng tình cờ và phản kháng những gì mà tôi sắp thuật lại. Tôi ý thức rõ sự phi lý rành rành của chúng tới mức tôi không hề kể lại chuyện đó cho những người thân thiết nhất của mình. Và nếu bây giờ tôi quyết tâm phá bỏ sự im lặng này thì lý do là tôi thấy mình không có quyền phó mặc cho vật duy nhất còn lại làm bằng chứng cho giấc mộng kỳ lạ ấy bị hủy hoại sau khi chính tôi lìa đời. Trước khi độc giả bác bỏ những lý thuyết của bác sĩ James như là điều hoàn toàn bất khả, tôi xin quý vị đừng quên một điều là tôi vốn tin mình có tâm tính cực kỳ cẩn thận. Như mọi người tôi cũng có nhiều điểm say mê và yếu kém; tôi vẫn luôn cố bảo toàn óc suy xét của mình. Trong khoa học, trong siêu hình học, trong chính trị, và ngay cả trong đời sống tình cảm, tôi luôn coi trọng việc đừng bao giờ nhầm lẫn mong muốn riêng tư với chứng cứ. Không phải lúc nào tôi cũng làm được điều đó, nhưng có lẽ tính thận trọng thường trực ấy sẽ giúp ích cho tôi bất cứ lúc nào tôi cần đến lòng tin của mọi người. Còn một lý lẽ nữa cũng ủng hộ tôi: những sự việc tôi phải thuật lại đúng là bất ngờ, nhưng bản chất của chúng thì không phải là không thể kiểm chứng. Một vài cuộc thí nghiệm đơn giản mà bất kỳ nhà vật lý, nhà sinh vật hay bác sĩ nào cũng có thể dễ dàng làm lại, sẽ cho thấy rằng các lý thuyết của James - dẫu bị coi là phi lý - cũng đều căn cứ vào quan sát thực tế. Tại sao tôi không tự mình làm tiếp những thí nghiệm này? Tại sao phải đợi khi mình đã chết rồi mới công bố chúng? Với tôi điều này không dễ giải thích. Yếu tố chính là thói nhút nhát, tôi nghĩ thế, cùng với bản tính ghét vướng bận với những chuyện rắc rối nào đó. Hoàn cảnh đã khiến tôi thành nhà văn, chứ không phải nhà khoa học. Tôi không có điều kiện tiến hành công việc ấy trong một bệnh viện hay phòng thí nghiệm. Tôi ngại tiếp xúc những người mà với họ tôi chỉ là kẻ ngoại đạo, với hy vọng có thể khiến họ quan tâm đến một hiện tượng, như tôi biết, sẽ mâu thuẫn với các quan niệm của họ. Tôi ân hận vì mình đã nhu nhược, và tôi sẽ vui mừng nếu như việc công bố hồi ký này lại khơi gợi cho những trí tuệ táo bạo một khao khát tiếp bước người bạn bất hạnh của tôi trong việc thăm dò một thế giới mới, vốn hiểu biết thu thập được từ đó biết đâu lại dẫn đến nhiều kết quả có tầm quan trọng lớn lao. დღდ Tôi quen bác sĩ James trong thời chiến. Chúng tôi lần đầu gặp nhau trên một cánh đồng bùn sình xứ Flanders, và giữa một nhóm người Anh vui vẻ, mạnh khoẻ, hai gò má cao hốc hác cùng vẻ mặt đau khổ của anh lập tức tạo ấn tượng với tôi. Anh được biệt phái theo đơn vị quân y của sư đoàn mà tôi đang làm sĩ quan liên lạc cho quân Pháp. Chúng tôi lập tức thân nhau ngay, và bất kể nỗi kinh hoàng của thời gian và khung cảnh ấy, những tháng tôi sống ở Ypres Salient làm bạn cùng anh đã để lại trong tôi những kỷ niệm hầu như có thể nói là vui thú. Giữa hai chiếc giường cá nhân của chúng tôi là một thùng bánh quy dùng làm bàn và tủ sách. Buổi tối, khi tiếng đạn pháo rú trên cao bắn về hướng Poperinghe và tiếng vải lều bạt ướt đẫm quật phành phạch trong gió đã cướp mất giấc ngủ, chúng tôi lại thì thầm trò chuyện về những kẻ điên khùng và những nhà thơ. Tôi thích người bạn ấy. Dưới cái vẻ ngoài hoài nghi đó, tôi đã có lúc thoáng nhìn ra cái tâm hồn can trường và đa cảm bên trong. Anh kín đáo tới mức tôi cùng sống bên anh hàng ngày suốt nhiều tháng liền mà không hề biết anh đã có vợ con gì chưa. Chiến tranh kết thúc đã chia lìa tình bạn này, cũng như nhiều mối thân quen khác. Suốt một năm chúng tôi thư từ qua lại, và nhờ đó tôi biết James đang làm việc cho một bệnh viện ở London. Sau đó một trong hai chúng tôi (người nào thì bây giờ tôi không nhớ) đã không trả lời thư của người kia. James trở thành một hình ảnh vẫn giăng mắc trong ký ức tôi như một ảo ảnh, như một nhân vật trong tiểu thuyết. Và cuối cùng tôi thôi nghĩ đến anh, ngay cả trong mơ, cho đến mùa xuân năm 1925. Trong năm ấy tôi có dịp đi London một thời gian dài vì mấy công việc nghiên cứu ở Viện bảo tàng Anh. Tôi ở đó một mình, khá mệt mỏi và ức chế vì công việc liên miên quá nhiều. Một sáng nọ trời nắng rực rỡ tới mức tôi không có can đảm giam mình trong phòng đọc. Suốt một hai phút gì đó tôi đứng ngắm đàn bồ câu dưới hàng cột kiểu La Mã của viện bảo tàng, trông vừa thân thuộc vừa xa cách như hàng cột của Vương cung thánh đường Saint Mark. Tôi cứ đứng trầm ngâm. Thực tế đã buộc tôi phải hiểu ra là sự cô đơn này - dù khá lành mạnh trong một thời gian ngắn - giờ càng lúc càng không thể chịu đựng nổi. Thế nhưng tôi đâu có thiếu bạn bè người Anh - tại sao tôi không thử tìm họ đi? Những buổi tối mà gặp gỡ một anh chàng thông minh như bác sĩ James chẳng phải không thú vị sao? Tôi đã quên mất địa chỉ anh ấy, nhưng dò tìm một bác sĩ thì chẳng khó chi; và khi quay lại phòng đọc, tôi tìm ra trong cuốn danh bạ y tế có tên một ông Tiến sĩ H. B. James, là bác sĩ nội trú ở bệnh viện Saint Barnaby. Tôi quyết định gác lại công việc của sáng hôm đó, và đi tìm bạn. Bệnh viện Saint Barnaby nằm ở phía nam sông Thames, trong một khu đông dân cư chạy dài đến bên kia cầu Blackfriars. Việc băng qua con sông gần đó luôn là điều khiến tôi thấy lạ lùng và hấp dẫn. Sông Thames ở đoạn này là biên cương của hai thế giới. Ta rời khỏi London kiến trúc thời Phục hưng và Gô-tích, London của những ô vuông bàn cờ, của những bờ đê có hàng cây dưới những đại khách sạn, của dòng xe buýt màu đỏ lũ lượt, để tới một thành phố của nhà máy và kho hàng, những bức tường trần trụi, và những cột ống khói thô lỗ. Và sự tương phản sáng hôm đó càng áp đảo mạnh mẽ hơn khi tôi đang băng qua cầu thì một đám mây lớn bỗng dưng che khuất mặt trời. Mời các bạn đón đọc Người Cân Linh Hồn của tác giả André Maurois.
Mưa Trong Thành Phố Lạ
Granin Daniil Alecxandrovich sinh ngày 1 tháng 1 năm 1919 tại thành phố Volưn trong gia đình của một người gác rừng. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, D. Granin vào học khoa cơ khí điện của trường ĐH Bách Khóa Leningrad. Tốt nghiệp năm 1940, ông trở thành kỹ sư năng lượng. Năm 1941, ông tình nguyện xin đi lính bảo vện Leningrad, chiến đấu ở cùng ven biển Bantich. Sau chiến tranh, ông hoàn thành luận án phó tiến sĩ ngành kỹ thuật điện tử. Tuy là nhà hoạt động khoa học , nhưng tài năng của ông lại hiểu biện rực rõ hơn ở lĩnh vực văn học. Năm 1954, ông cho ra đời tiểu thuyết đầu tay " Những người kiếm tìm" thu được thành công lớn. Tiếp đó là các tiểu thuyết: Sau ngày cưới( 1958), Đi tới giông bão ( 1962), Kỹ lạ thế đấy cuộc đời này ( 1974) và Klavdia Vilor - tác phẩm đem lại cho Granin giải thưởng Quốc gia Liên Xô năm 1978. Năm 1980 ông cho ra đời tiểu thuyết "Bức tranh", là một trong những tác phẩm được đánh gia cao nhất đầu những năm 80. Năm 1988, trên tạp chí Nheva xuất hiện hàng loạt truyện ngắn của Granin như: Thiên thực, Bên cửa sổ, Tiến thoái lưỡng nan, Tiểu thuyết về Pie Đại Đế. Những nhân vật trong tác phẩm của ông thường là các nhà khoa học luôn vượt qua mọi khó khăn để thực hiện những mục tiêu cao cả, có trách nhiệm với công việc và xã hội. Quan hệ con người trong sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật là chủ đề chính trong tác phẩm của nhà văn. NXb Kim Đồng  *** Chiều chiều, những người đi công tác xa đến hoặc những người vẫn tự nhận mình là khách ở đây thường hay tụ tập ở tầng dưới, nơi làm việc của cô trực phòng. Ở đó luôn có tiếng nước sôi ùng ục. tiếng domino đập lách cách trên mặt bàn dài, họ uống trà hết cốc này đến cốc khác và tán đủ thứ chuyện. Hò còn biết làm gì hơn trong những buổi chiều thu lạnh lẽo ở một thành phố nhỏ như Lưkovo này.   Kira đến khách sạn vào phiên trực của Gana Denixovna. Họ là bạn gái của nhau. Lúc đầu, Trizegov không nhận thấy có gì đặc biệt ở những người phụ nữ này. Nếu như có người nào nói với anh rằng cô ta chính là nguyên nhân của mọi nỗi đau đớn khổ sở của anh sau này thì chắc anh sẽ phá lên cười vì cô ta cũng không lấy gì làm đặc sắc cho lắm. Và cái chính là nếu như người ta có nói vậy đi nữa thì cũng chả sao, bởi vì Trizegov từ lâu đã bỏ mọi suy nghĩ về những chuyện tương tự. Bản chất chín chắn và nghiêm nghị của anh theo năm tháng đã trở nên chỉ thích nghi với công tác và mọi việc nội trợ. Và chính anh cũng đã quen với việc tất cả những phụ nữ nào có một chút quan hệ lãng mạn với anh trong các chuyến công tác ngắn ngủi đều coi anh như một người đã có gia đình và vì vậy họ chẳng hề có một ý định nghiêm chỉnh nào trong đầu. Cùng với sự có mặt của Kira, câu chuyện quanh bàn chẳng những thay đổi hẳn, mà còn thêm sắc thái mới, vì phần lớn những người ngồi ở đó bắt đầu xoay ra tán chuyện với cô. Cô thuộc loại người - trong bất cứ nhóm người nào cũng có những người như vậy - mà không hiểu vì sao luôn trở thành trung tâm của câu chuyện. Ai cũng vậy, khi nói bất kì điều gì cũng đều nhìn cô như chờ đợi một sự tán thưởng hay một lời nhận xét nào đó của cô. Sau này, khi nói với nhau về chuyện quan hệ giữa hai người bắt đầu từ khi nào, Kira thú nhận là trước lúc xảy ra câu chuyện với mấy người nước ngoài cô không để ý đến Trizegov. Mấy người khách nước ngoài đó là hai kĩ sư CHDC Đức, họ đến nhà máy gỗ liên hệ về việc mua gỗ. Người ta xếp họ vào ở chung trong một phòng ưu tiên độc nhất có điện thoại và máy thu thanh. Đây là lần đầu tiên khách sạn Lưkovo đón tiếp khách nước ngoài. Trước khi họ đến, ủy ban hành chính huyện đã cử người xuống kiểm tra, dặn dò và xếp đặt mọi việc, nhưng ai mà đoán trước được tất cả những gì có thể xảy ra: đến nửa đêm, người ta bỗng phát hiện ra là hai ông khách quý không một lời giải thích đã để người cửa phòng hai đôi giày của mình và đi ngủ. Đúng lúc Trizegov đi xuống phòng trực để uống trà thì một người am hiểu cuộc sống ở nước ngoài đi đến, anh ta cho biết người ta để giày ngoài cửa phòng là để khách sạn đánh chúi cho họ. Gân Denixovna khăng khăng không chịu làm việc đó, đấy không phải nghĩa vụ của cô, mà tại sao cô lại phải làm khi mà giầy của chồng cô, cô còn chẳng bao giờ đụng đến. Và hơn nữa, cô tra không có cả xi lẫn bàn chải đánh giầy. Người ta ngồi quanh bàn nói chuyện về việc này, người bàn nghiêm chỉnh, kẻ pha trò. Điều gì sẽ xảy ra nếu đến sáng hai vị khách quý kia tỉnh dậy mà thấy những đôi giày của mình vẫn bẩn nguyên, uy tín của khách sạn sẽ bị giảm đến đây và ở châu Âu người ta sẽ đánh giá như thế nào về Lưkovp. Đang nói đến đây, bỗng một người nêu ra ý kiến rằng qua đêm, những đôi giàu kia nếu còn đó cho đến tận sáng là cái tốt, nhưng cũng có thể chúng sẽ biến mất và lúc ấy thì ai là người dám đứng ra chịu trách nhiệm. Đùa là một chuyện, nhưng Gana thì thấy bực bội và lo lắng thực sự., dù đêm đã khuya giám độc khách sạn cũng được mời đến và ông lập tức gắt om lên. Chẳng lẽ lại phải cắt người đứng canh mấy đôi giấy chết tiệt này. Giám đốc khách sạn là thương binh cụt một tai đã tham gia chiến tranh vệ quốc, vì vậy khi nhìn ông, Trizegov bỗng phát cáu, anh đứng phắt dậy và nước đến gõ ầm ầm vào cửa phòng khách. Anh vào phòng và nói với họ tiếng Đức rằng ở đây không có chuyện để giầy ngoài cửa cho người khác lau chùi, người nào cũng phải tự đánh lấy giầy của mình, rằng ở ta không có kiểu phục vụ như vậy, rằng không đủ nhân công làm việc và v.v.... Vì đang bực tức nên anh nói một thôi một hồi làm hai ông khách đâm bối rối. Té ra họ là những chàng thanh niên rất xuề xòa, họ cứ xin lỗi mãi và chiếu hôm sau đã lân la xuống uống trà và chơi cờ với tất cả mọi người. Buổi chiều hôm đó Trizegov đã trở thành người hùng....   Bối rối vì vị chú ý quá nhiều, Trizegov bỏ ra ngoài thềm hút thuốc. Một lát sau Kira Andreievna cũng ra ngoài chuẩn bị về nhà, cô hỏi anh học tiếng Đức từ khi nào mà nói được như vậy. Thực ra chính anh cũng không biết là từ bao giờ, anh chưa qua một lớp học nào, chỉ nghe quen tai rồi nói theo khi phục vụ trong quân đội ở ngoại ô Berlin. Kira Ảngeievna tỏ vẻ ghen tỵ vời năng khiếu ngoại ngữ của anh vì theo cô đó là một việc vĩ đại. Như cô chẳng hạn, cô chẳng có chút năng khiếu ngoại ngữ gì, và cô đã truyền cho con gái mình dòng máu bất tài đó. Vừa đi vừa trò chuyện, họ không nhận ra là Trizegov đã tiễn cô về tận nhà. Anh tình nguyện đến giúp con gái cô học vì anh cũng yêu trẻ và bản thân đã có hai con trai. Thực tình có lần anh cũng đã ngồi luyện cho cô con gái mười sáu tuổi chỉ thích ăn diện của Kira, rồi anh hứa có dịp sẽ đến nữa, nhưng về sau bị công việc bề bộn ở nhà máy lôi cuốn và anh không sao thực hiện được lời hứa ấy. Chữa xong những bộ điều tốc, anh trở về Leningrad và cho đến tháng sáu mới có dịp được mời trở lại nhà máy ở Lưkovo. Chủ nhật đầu tiên anh mượn bộ lưỡi câu của trường phòng năng lượng Arixtarkhov và quyết định đi câu cá. Tuy chưa phải là thợ câu lành nghê, nhưng anh thích ngồi trên bờ thả câu và nghỉ ngơi, không phải suy nghĩ gì. Ngay cả lúc nghỉ ngơi, bản tính ưa hoạt động của anh cũng đòi hỏi phải có một việc làm nào đó rõ rệt. Lần này, vừa thả câu xuống nước đã thấy cá giật mạnh. Để khỏi đứt dây, Trizegov lội ào xuống sông, nước ngật đến trên đầu gối, vừa làu bàu chửi rửa, vừa chạy dọc theo bờ sông. Con cá kéo anh chạy như vậy khá lâu, anh phải len lỏi qua những mỏm đá, miệng thầm khấn cho gân cốt không bị làm sao. Anh chui qua cả gầm cầu nơi có lũ trẻ con đứng trên reo hò, rồi chạy qua cả bãi tắm. May cho anh, đến đó con sông nhỏ chia nhành và chú cá không lao vào chỗ nước xoáy mà ngoặt sang nhánh sông chảy vòng sau một đảo cát nhỏ. Lội bì bõm qua đám liễu dại làm cành cây gãy kêu răng rắc, Trizegov trèo lên triền cỏ và lọt vào một khoảng trống bị các bụi cây thấp bao kín xung quanh. Giữa bãi trống này có một phụ nữ không quần áo đang nằm sưởi nắng. Đó chính là Kira Adreieevna. Anh tưởng cô đang ngủ, nhưng đúng lúc đó cô ngẩng đầu lên, và anh hết sức sửng sốt khi thấy cô không hề tỏ ra hoảng sợ. Nói cho đúng hơn, lúc đầu cô cũng lúng túng định vớ lấy cái gì che thân, nhưng sau đó, dường như suy tính lại, cô uể oải lật nghiêng người, một tay chống cắm và ngẩng đầu nhìn anh. Rõ ràng là cô không nhận ra anh vì trong anh lúc này giống hệt một người câu cá, đầu tóc rối bù, người dính đầy rong xanh và bùn. Vẻ ngoài của anh trông thật hoang dã. Anh đứng sững lại trố mắt ra nhìn và kinh ngạc trước vẻ than nhiên không biết ngượng ngùng của cô. Thấy cô vẫn tiếp tục nằm, anh đỏ mặt và định quay đi. Mời các bạn đón đọc Mưa Trong Thành Phố Lạ của tác giả Daniil Granin.