Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lục Hào

Editor: Keikan (+ Ái Kỳ) CP đại sư huynh niên thượng ~  Hay gây chuyện công X cay nghiệt thụ Nội dung: Tiên hiệp tu chân truyền kỳ   Diễn viên: Trình Tiềm, Nghiêm Tranh Minh, cùng các diễn viên phối hợp Trình gia có đứa con thứ trong số ba người con tên là Trình Tiềm, vốn cha mẹ không yêu thương đối xử lạnh nhạt nên dần dần hình thành trong hắn con người lạnh lùng.Hắn đã tính an phận làm Trình Nhị Lang sống qua ngày, nhưng vì cha mẹ coi trọng tiền tài  nên vừa bán vừa tặng cho một vân du đạo nhân, nhân vật chính từ đó bị ép vào con đường tu chân lắm dối lừa. Tuy nói từ xưa người tu chân đắc đạo phi thăng khó tính hết, nhưng môn phái suy tàn, sư phụ chẳng đáng tin, chúng đệ tử bất tài dốt đặc cán mai, đại sư huynh còn là chuyên gia gây chuyện, con đường tu tiên có thể nói tiền đồ mờ mịt. Cùng đón xem Trình Tiềm làm sao giấu tài, làm sao tu tiên, chấn chỉnh chúng đệ tử. Tu chân cố sự, kể về một môn phái đang đà xuống dốc làm sao chấn hưng bởi khỉ bảnh choẹ, trùm gây chuyện, quỷ cay nghiệt, đồ ngốc và tiểu tạp mao. *** Lời đầu tiên, đây là bộ danmei mình thích nhất của Pi đại, cho dù Sát phá lang và Đại ca đều là No.1 của những danmei được ưa thích nhất, và quả thật là bất công (và chíu khọ) khi mình cứ phải giữ mãi trong lòng những suy nghĩ về nó. Lục hào không có cái hào hùng chính khí của Sát phá lang, cũng không có cái hiện thực tàn nhẫn của Đại ca, nhưng cái không khí trầm lặng kiên định, mà đồng thời cũng mạnh mẽ uyển chuyển của nó đã chiếm trọn trái tim mình. Trong những truyện của Pi đại, Lục hào là truyện duy nhất khiến mình phải đọc đi đọc lại nhiều hơn ba lần (dĩ nhiên là không phải đọc từng chữ của từng chương, nhưng mà thiệt sự là nó rất hấp dẫn.)   Truyện xuất sắc nhất ở cách xây dựng nhân vật. Trong Lục hào, ta có thể thấy quá trình tưởng thành của từng nhân vật, qua những sự kiện, những biến cố, và cả những thay đổi về mặt tình cảm. Không có nhân vật nào trong Lục hào là đạo đức giả, nhân vật nào cũng hành xử theo những gì mình tin tưởng, theo những thứ thực sự có ý nghĩa với bản thân, và ở một góc độ nào đó, chấp nhận cuộc sống của mỉnh, chấp nhận sống thật với chính mình. Cốt truyện của Lục hào cũng vô cùng xuất sắc, với các tình huống được đặt ra vô cùng rõ ràng và theo trình tự hợp lý, không bị lê thê dài dòng, cũng không bị đứt gãy lủng cũng. Mọi tình tiết đều có nguyên do và hậu quả của nó, đồng thời tạo ra bối cảnh vô cùng tuyệt vời để thúc đẩy sự phát triển của nhân vật. Truyện vô cùng nặng về mặt nội dung nhưng hoàn toàn không hề nhàm chán, vì nó thực sự là một câu truyện phức tạp, cuốn hút, và nặng chân tình, không phải chỉ là tình yêu, mà còn là tình huynh đệ, tình sư đồ, là tình nghĩa đối với những người mà ta gần gũi. Thêm vào đó, Lục hào còn là một câu truyện xuất sắc về hành trình học cách chấp nhận đau thương và cách trở nên kiên cường của những người bạn nhỏ, những người vốn sống trong cưng chiều nhung lụa, những người vốn vô ưu vô tư mà bị đẩy vào vòng xoáy cuộc đời. Xuyên suốt trong câu truyện là một hành trình đi tới sự trưởng thành, trải bằng nước mắt của những lần cúi đầu nhịn nhục, bằng máu của những buổi tập luyện không ngừng, và bằng tình của những người thân quen và xa lạ. Để rồi trong chuyến đi ấy, nhân vật của chúng ta học được cách nhìn thoáng hơn mà đối mặt với thử thách và bảo vệ những người thân thương để thấy yêu thêm cuộc đời. Nhưng không vì thế mà phần danmei, tức phần tình cảm công thụ trong truyện bị coi nhẹ, mà ngược lại, trong bối cảnh loạn lạc của giới tu chân, trong những màn chiến đấu long trời lở đất, trong sự tranh đấu của tiên ma hai phía, là thứ tình cảm sâu đậm giữa Nghiêm Minh Tranh và Trình Tiềm, là tình yêu của hai người đàn ông trưởng thành dám gánh vác, là tình thương giữa sư huynh sư đệ đồng môn, và là sự nhung nhớ của thứ mất đi rồi tìm lại được.  Bối cảnh của Lục hào là giới tu chân, cũng giống như giang hồ vậy, có môn phái bao gồm sư phụ sư huynh sư đệ, có bạch đạo có hắc đạo, có những người tự xưng là chính nghĩa mà bản chất chẳng ra làm sao, có những người tuy mang tiếng tà ma ngoại đạo nhưng con tim của họ lại chất chửa tình sâu tựa biển. Và những nhân vật chính của chúng ta đã gặp nhau như thế, giữa một bể loạn lạc, hội tụ nơi một môn phái nghe có vẻ gà mờ, tu luyện dưới trướng một vị sư phụ có khuôn mặt dài dài như chồn và tính tình tưng tưng như khỉ. Cả môn phái từ trên xuống dưới chẳng có vị đệ tử nào khiến người ta an tâm, có đại đệ tử Nghiêm Tranh Minh chỉ  biết ăn diện rồi than vãn, có nhị đệ tử Lý Quân toàn đầu tư thời gian trong mấy trò vụn vặt, có tam đệ tử Trình Tiềm mặt nam mô bụng một bồ dao găm, rồi có tứ để tử Hàn Uyên chỉ giỏi mấy thứ ranh mãnh. Và cuối cùng là tiểu sư muội Thủy Khanh loi choi lóc chóc, người chẳng ra người yêu chẳng ra yêu, chật vật lớn lên dưới sự dằn vặt của các sư huynh tốt.  Tưởng như cuộc sống sẽ mãi suôn sẻ trôi qua như vậy, người làm điệu cứ làm điệu, ai luyện kiếm cứ luyện kiém, kẻ rong chơi cứ rong chơi, cho tới khi một loạt những biến cố xảy ra, và cả môn phái rơi vào cảnh tang tóc. Sư phụ gặp biến cố, phong lại ngọn núi đã từng được gọi là nhà, để lại đám đệ tử nheo nhóc chẳng còn lựa chọn nào khác là phải tự biến lớn biến cường, dù đôi khi phải cúi đầu, dù đôi lúc phải tranh chấp. Rồi đợi cho tới khi thứ tình cảm huynh đệ nhạt nhòa hồi trước trở nên keo sơn gắn kết, đợi cho tới khi sư huynh đệ bọn họ tưởng rằng mọi thứ cũng đã được khôi phục ít nhiều vì bọn họ còn có nhau, thì tứ sư đệ phát điên, đâm tam sư huynh của mình rồi chạy ra biến mà biến mất. Mặc cho Nghiêm Tranh Minh đau đớn khôn nguôi, mặc cho Lý Quân bàng hoàng chẳng dứt, mặc cho Thủy Khanh đơn côi ngơ ngác, từ đó, cuộc đời họ chẳng còn một Trình Tiềm cố chấp, và tên Hàn Uyên lanh chanh kia cũng đã rời đi mất rồi.  Thật khó để tưởng tượng ra Nghiêm Tranh Minh đã làm cách nào để vượt qua chừng ấy năm sau khi Trình Tiềm biến mất, khi mà trong cả trăm năm ấy, chẳng khi nào cơn mơ về Trình Tiềm buông tha y trong giấc ngủ, để rồi khi y tỉnh lại, mọi nhọc nhằn và gian khổ của chức vị trưởng môn, của những hoài bão mà y phải thay sư phụ, thay các sư đệ sư muội, và thay cả bản thân y thực hiện. Phải chăng đó là vì trách nhiệm phải chăm sóc Lý Quân và Thủy Khanh, hai cái gánh nặng khiến y tới quyền tự do tự sát cũng chẳng có? Phải chăng đó là vì y còn phải coi chừng Hàn Uyên, sư đệ mà năm đó bọn họ chân còn chưa mọc lông đã mạo hiểm đi cứu, sư đệ mà thủy chung bọn họ chẳng thể vứt bỏ? Hay đó là vì Trình Tiềm, vì sư đệ Tiểu Tiềm của y, cái động lực làm y phải khổ cực kiếm tiền, xây dựng lại  môn phái, rồi lại khổ cực chờ ngày có thể đặt biển Phù Dao Phái nơi sơn trang, khổ cực chờ ngày Phù Dao Sơn lại mở? Y cảm thấy mình đời này thủy chung ngây ngây ngơ ngơ, hứa hẹn trịnh trọng duy nhất từng có, chính là một ngày kia có thể quay về Phù Dao sơn, đón Tiểu Tiềm ủy khuất ở trên hoang đảo Đông Hải về nhà, nếu ngay cả chút việc này cũng không làm được, y thật sự không biết mình sống tiếp còn có ý nghĩa gì. Người ta thì “khổ tận cam lai”, Nghiêm chưởng môn thì “sướng trước khổ sau”, dù sau này tiền của đầy nhà, tu vi tăng tiến, thì trong lòng vẫn đầy khổ sở, sợ mình không dẫn dắt nổi môn phái chẳng có mấy mống này, sợ mình phụ lòng sư phụ cùng cách sư huynh đệ, và sợ chính mình chẳng kiềm lòng nổi mà làm cái người quan trọng đối với mình nhất trên đời kia tổn thương. Nghiêm chưởng môn là kiếm tu, khó ngộ đạo hơn người tu những đường khác, chỉ khi nào bị áp bách tới tận cùng mới có thể đột ngột bứt phá, mà y vừa chính là bị Tiều Tiềm nhà y kích thích dữ quá, nỗi ám ảnh không bảo vệ được tiểu sư đệ ăn cứng không ăn mềm khiến y mãi day dứt ùn ùn kéo về, bức y đột phá được giới hạn, nhưng cũng tiện thể rước về cho y một tâm ma. Lý Quân bị y đánh thức, vẻ buồn ngủ trên mặt vẫn chưa tan, hắn đã bật thốt ra: “Đại sư huynh, vào ‘xuất phong’ chi cảnh rốt cuộc có cảm giác gì?” Nghiêm Tranh Minh trầm ngâm một lúc lâu, mới thận trọng đáp: “Trời cao đất rộng.” Câu này hết sức qua loa, nói với không nói cũng chẳng khác mấy, chỉ có Trình Tiềm luyện qua Hải Triều kiếm nghe vậy lĩnh ngộ một chút rìa, tựa hồ có điều ngộ ra. Nghiêm Tranh Minh liếc thấy bộ dáng đăm chiêu ấy, âm thầm hơi cười khổ, nuốt câu tiếp theo trở vào – thân hãm lao tù. Bên ngoài trời đất bao la, mình ta hãm lao tù. Cái vị sư huynh mà xưa kia chỉ biết ăn diện, dù có ngộ ra đạo lý trong chiêu thức cũng chẳng chịu thực hiện vì quá lười, lại chẳng dám buông xuôi mà phải cắn răng chịu đựng, chỉ vì trên y chẳng còn sư phụ, mà dưới y lại là đám sư đệ quá đỗi ngây ngô. Cái vị sư huynh mà dù bản thân đã gần hai trăm năm hãm sâu trong bể tình, lại chẳng dám để người kia vì mình mà chậm trễ tu luyện đôi chút. Cái vị sư huynh mà chỉ đứng đó thôi đã mang dáng vẻ dám đội trời dám đạp đất, cái vị sư huynh mà chẳng sóng gió nào chưa từng kinh qua, lại chẳng dám vọng động với người trong lòng dù chỉ là đôi chút, tới mức tình cảm đó biến thành tâm ma, đêm ngày hành hạ. Cái vị sư huynh mà dù tim mình cũng sắp sửa móc ra cho sư đệ xem, lại hài lòng với một câu giản đơn khẳng định tình huynh đệ, mà chẳng dám kỳ vọng dù chỉ là đôi chút vào tình cảm lứa đôi giữa hai người. Nghiêm Tranh Minh nói: “Ngươi không nói thì thôi, ta mặc kệ ngươi vì sao mà biết… Chẳng qua là tâm ma mà thôi, kiếm tu tiến vào kiếm thần vực, xưa nay đều là một bước một tâm ma, vậy thì thế nào? Ta đã đi đến bước này, còn chưa đến mức không áp chế được, ngươi… ngươi không cần thương hại ta.” Trình Tiềm không nói được gì, y đột nhiên rất muốn bổ cái đầu như gối thêu hoa của đại sư huynh ra, xem trong đó có phải đã bị tâm ma gặm nát như tương rồi hay không? Nghiêm Tranh Minh thực sự, thực sự là người yêu chuẩn mực và đối vởi riêng mình, chưa có một anh công nào lại vượt qua được sự ôn nhu và si tình mà Nghiêm Tranh Minh dành cho Trình Tiềm. Y nhung nhớ Trình Tiềm tới mức phải chế tạo  một phỏng linh hiện hình ảnh của Trình Tiềm (tuy hơn đanh đá chanh chua hơn bản gốc chút đỉnh) để đem theo người, tới mức phải bố trí lại ở sơn trang mới một Thanh An cư y hệt như nơi mà Trình Tiềm từng ở. Y thương Trình Tiềm tới mức bảo Lý Quân chế tạo sẵn thuốc để quên đi thất tình lục dục, nếu Trình Tiềm mà hối hận thì chỉ cần đem cho, tới mức y sẵn sàng đổi nhu tình cả đời chỉ để lấy một ánh mắt cười nơi người ấy. Y yêu Trình Tiềm tới mức sẵn sàng chịu phản phệ gấp ba để uống viên thuốc hòng đi cứu Trình Tiềm, tới mức sẵn sàng ủy khuất cả thiên hạ để đổi lấy sự hài lòng nơi sư đệ nhỏ. Nước nóng, lòng bàn tay đại sư huynh càng nóng hơn, Trình Tiềm tức khắc thở không ra hơi, không tự chủ được giãy nhẹ vài cái, kết quả là chỉ chút động tĩnh này, Nghiêm Tranh Minh lập tức buông y ra, hơi cẩn thận mà lùi bước. Trình Tiềm không tỉnh táo hơn bao nhiêu, như một con cá bị ném lên mặt nước, há miệng thở hổn hển, ngực râm ran đau, đối lại ánh mắt lo lắng bất an của Nghiêm Tranh Minh – hàm chứa khát khao không nói nên lời, lại không dám vượt giới hạn một bước. Và thật sự thì Trình Tiềm không hề thua kém. Cho dù phải tu luyện cả trăm năm để mượn ngọc làm thân thể, cho dù phải chịu thiên kiếp lớn nhỏ để được sống lại làm người, cho dù ống trong băng hàn, chỉ uống nước lã, và trái tim cũng đã lành lạnh từ lâu, hắn cũng vô cùng trung thành với tình cảm của mình. Y nặng lòng với những người đối xử tốt với y, y tận lực bảo vệ sư huynh sư muội, y hết lòng dung thứ cho sư đệ đã đâm chết mình, và ngay từ lúc chưa nhận ra tình cảm của mình, thì Tiểu Tiềm cũng đã hận chẳng thể moi hết tim gan ra mà đối xử tối với Nghiêm chưởng môn rồi. Tình yêu của Trình Tiềm cũng như con người y vậy, ngay thẳng chân thật, hơi thiếu khéo léo, nhưng lại có chút thoải mái rộng lượng. Ngày thường y chẳng thèm để ý tới ai, đối với sư huynh sư đệ sư muội lại rất mực quan tâm, đối với Nghiêm Tranh Minh thì quả là lòng dạ rộng rãi, chẳng giữ lại chút nào. Lúc Nghiêm chưởng môn vì bảo vệ y mà gặp nạn, cái người mà từ nhỏ đã khinh thường quyền thế, lúc tu luyện thì liều mạng chẳng hề để đau đớn lớn nhỏ gì vào mắt, lại hoảng hốt kinh hãi. Trình Tiềm mới thốt ra một chữ thì giọng đã lạc đi, y mù mờ luống cuống đứng tại chỗ chốc lát, tựa hồ muốn tiến lên một bước, chân lại loạng choạng như không đứng vững, ánh mắt chậm rãi dừng trên người Nghiêm Tranh Minh. Có một chớp mắt, Đường Chẩn cảm thấy vành mắt y đỏ lên – nhưng mà… một khối ngọc cũng biết khóc ư? Ánh mắt gặp thiên kiếp chưa từng lung lay, cũng biết hoảng loạn sao? Thế nhưng y suy sụp chẳng qua chốc lát, Đường Chẩn còn chưa kịp nói gì, ánh mắt Trình Tiềm bỗng kiên định hẳn lên, nói như đinh đóng cột: “Không, khoan nói với họ, Đường huynh, huynh học rộng hiểu nhiều, nhất định có biện pháp. Vô luận thế nào cũng được, lên trời xanh xuống suối vàng, cho dù huynh muốn ta một mạng đổi một mạng cũng không có vấn đề gì…” “Lên trời xanh… xuống suối vàng.” Đường Chẩn bỗng nhiên khẽ lặp lại lời này một lần, kế đó, hắn nở nụ cười trầm trầm, “Tiểu hữu, thế gian sư môn tình nghĩa sâu nặng, cố nhiên là giai thoại, nhưng cũng hiếm thấy sâu nặng như các ngươi.” Trình Tiềm thản nhiên nói: “Nơi đây tên là ‘Phù Dao sơn trang’, không tên ‘thế gian’.” Mình cực kỳ thích câu cuối đó của Tiểu Tiềm, tại vì mình cực kỳ thích cái kiểu bao che khuyết điểm của Phù Dao phái. Đồng Như tài giỏi cả đời, nhặt về một đồ đệ cũng tài giỏi chẳng kém, mỗi tội có vẻ chẳng mê tu luyện lắm, chỉ mê ngâm rượu trồng hoa. Tới lượt mình thì Đồng Như cũng chẳng nhặt về mấy đồ đệ sáng sủa gì cho cam, bao gồm một đứa bại gia làm điệu, một đứa cợt nhả nhát gan, một đứa cố chấp cứng đầu, một đứa lầm lì khôn vặt, và một con chim. Sư tổ thả cho sư phụ chơi hoa suốt ngày, sư phụ cũng chẳng hướng dẫn đồ đệ tu luyện gì nghiêm túc, thế mà cuối cùng cả năm người ai cũng rất thành công, “nhân đinh không hưng vượng lắm, thực lực lại mạnh hơn bao giờ hết”. Mà bởi vì tuổi thơ gà bay chó sủa quá, nên có mấy mống thương nhau cực kỳ, có chuyện gì xấu thì nhất quyết muốn đóng cửa trong nhà dạy nhau, chuyện lớn chuyện nhỏ đều có thể cạnh khóe rồi tha thứ, không bao giờ để người ngoài có cơ hội phán xét. Người nhà mình thì mình phải bảo vệ, giang hồ tranh tranh đấu đấu, chỉ riêng Phù Dao phái rõ ràng rành mạch, nhìn thì cà lơ phất phơ nhưng chẳng chứa chút tạp chất. Mà quay lại với Tiều Tiềm, bao che khuyết điểm đã quen, tiến chút xíu lên tới sủng lên tận trời cũng chẳng mấy khó khăn, lúc y nhận ra mình yêu người ta, và người ta cũng đặt mình trong lòng, y chẳng cần suy nghĩ quá nhiều, vô cùng ung dung thẳng thắn mà thừa nhận và đối diện với phần tình cảm của mình, điều mà có lẽ chẳng mấy người muốn “đắc đạo” làm được.  Trình Tiềm chợt ôm lấy y từ phía sau, Nghiêm Tranh Minh cứng đờ lưng, đang toan mở miệng quát mắng. Liền nghe Trình Tiềm nghiến răng nghiến lợi nói: “Huynh từ sáng đến tối chỉ đòi ăn ngon mặc đẹp, không phải bại gia thì là làm điệu, trời mới thương hại huynh! Ta chính là thích huynh, muốn huynh! Còn muốn ta nói thế nào đây!” Cho dù là lúc chưa nhận ra tình cảm của mình, hay lúc lờ mờ đoán ý, hay lúc sẵn sàng đối mặt, y đều sẵn sàng lấy mạng mình ra để đổi cho mạng của Nghiêm Tranh Minh. Dù là thụ, nhưng đôi lúc người ta lại có cảm giác rằng y mới là người đang cưng chiều Nghiêm Tranh Minh, cưng chiều cái tật kiểm soát rồi dính người quá độ (do chim sợ cành cong), cái tật chảnh chọe bày đặt, cái tật ăn nói cay độc của Nghiêm Tranh Minh. Chỉ cần làm vui lòng cái người cứ suốt ngày than phiền ấy một chút, bảo y lên núi đao xuống biển lửa y cũng làm.  “Bây giờ ngươi câm miệng thì ta có thể không so đo với ngươi.” Nghiêm Tranh Minh quay người lại, đứng cách hai bước, để nửa câu sau chưa nói lên khóe mắt đuôi mày – “Mau lăn lại đây xin lỗi”. Trình Tiềm im lặng một lát, bụng nghĩ: “Dung túng tính nết thế này, về sau phải làm sao cho được?” Nhưng lập tức, y lại âm thầm lắc đầu: “Thôi, không phải luôn là cái nết này à?” Thượng cùng Bích Lạc, hạ Hoàng Tuyền, đối với Nghiêm Tranh Minh, chỉ cần Nghiêm chưởng môn dám muốn, Trình Tiềm liền có thể chẳng tiếc gì mà đem cho. Trình Tiềm tức tối vì sư huynh chẳng chịu quý trọng bản thân mà chỉ chăm chăm bảo vệ y, Trình Tiềm giận dữ vì tâm ma trong lòng sư huynh chẳng biết nặng nhẹ mà cứ nhắc hoài nhắc mãi chuyện tu luyện, một chuyện mà đối với y thì bé nhỏ không thể tả so với bóng hình của sư huynh đã cứ thấp thoáng mãi trong hồn. Cái người mà đã dành hơn cả nửa đời nằm trong hầm băng uống nước lã ấy, lại thấy trái tim mình ấm hồng lên vì Nghiêm Tranh Minh, lại thầy lòng mình nóng đỏ vì hắn. Chỉ cần biết người trước mặt là sư huynh đỏm dáng của mình, chút vị khó chịu của cái hôn đầu tiên đều biến thành xao động, chút quái dị ấy đã biến thành ham muốn thân mật khác thường. Nghiêm Tranh Minh nơp nớp lo dọa sợ Tiểu Tiềm mà đâu có biết rằng người ta chỉ hận không thể đọc thêm chút sách để tiện chiếm lợi thế trước lúc “song tu”. Chẳng cần biết thế nào là hoang đường phóng túng, thế nào là đạo lý luân thường, Trình Tiềm chỉ cầu tự tại, tự tại mà yêu Nghiêm Tranh Minh. Trình Tiềm nhìn y, nhấn từng chữ: “Sư huynh, đệ không sợ thiên kiếp, chỉ sợ huynh.” Nghiêm Tranh Minh nghe lời này, trong lòng ầm một tiếng, nghĩ: “Thôi xong rồi, vạn kiếp bất phục rồi.” Người ta hay nói yêu đương là vướng bận, người muốn làm được chuyện lớn thì không nên yêu đương, ngay cả nhiều nhân vật trong truyện cũng nói như vậy. Nhưng mà thực ra thì tình yêu, dù là với gia đình, bạn bè, hay với tình nhân, thì đều là một thứ sức mạnh vô hình, thúc đẩy người ta tiến về phía trước, lại giữ chặt không cho người ta vì quá ham muốn thứ phù phiếm trước mắt mà lạc lối lầm đường. Tình yêu đúng là sự ràng buộc, nhưng ràng buộc không hẳn là đã xấu, mà còn có thể là một ngọn đèn ấm áp ngọt ngào. Hứa hẹn âm thầm với Tiểu Tiềm đã khiến cho Nghiêm Tranh Minh có động lực để một lần nữa gầy dựng lại môn phái, từ Lao Tiền công tử bận tối mặt tối mũi kiếm tiền mua gia đình, một lần nữa thành Nghiêm chưởng môn cao cao tại thượng. Mà tơ tình vấn vít với kẻ bại gia làm điệu đó của Trình Tiềm đã giúp đỡ y trong những lúc hoang mang bối rối nhất, trong những khoảnh khắc tưởng như vô vọng lạc lối, soi sáng cho y một con đường. Quả rất khó mà nói được Nghiêm chưởng môn và Tiều Tiềm ai nặng tình hơn ai, Một người khẩu thị tâm phi, một người ngơ ngáo chẳng giỏi ăn nói, hai người hợp lại chắc hẳn là bối ra bối rối, cả buổi cũng không nói được câu nào ngọt ngào. Thế nhưng ai đọc truyện cũng có thể thấy sự thật rành rành ra đấy, rằng Nghiêm Tranh Minh và Trình Tiềm thương nhau vượt lên cả sự sống và cái chết, lại bao dung cho thói quen và tật xấu của nhau tới mức vô pháp vô thiên. Tình yêu của họ sâu sắc mà trầm lắng, là ngọn lửa nhỏ rực sáng trong lòng, cũng là dòng nước lớn bao dung trải đầy thiên hạ, dù có thiên ngôn vạn ngữ cũng chẳng thể nào miêu tả nổi, thấm vào tim phổi, đi vào lòng người. *** GÓC REVIEW Review Lục Hào - Mắt Bão -------- Hôm nay mình muốn tâm sự một chút về tác phẩm đã đưa mình đến với Priest - “Lục hào”. Đây là một tác phẩm cực kỳ ấn tượng, đã khiến mình yêu một Priest với ngòi bút đầy tâm huyết và mỗi câu chuyện dưới ngòi bút ấy đều là một thế giới hoàn chỉnh. "Lục hào" là câu chuyện về một môn phái tu tiên có tên Phù Dao, từ lúc nó trên đà suy tàn, tới khi lụi tàn hẳn rồi lại tái sinh từ tro tàn. Đồng thời, “Lục Hào” cũng mở ra một thế giới tu chân rộng lớn, nơi có người chính nghĩa bừng bừng, có kẻ lòng lang dạ sói, có ân oán, cũng có tình thù. Trên dưới Phù Dao phái có một sư phụ Hàn Mộc Xuân mặt mũi như chồn, già nua lẩn thẩn và năm đệ tử chẳng đứa nào nên thân. Đại đệ tử Nghiêm Tranh Minh quý giá như quý phi nương nương không ai dám chọc, là cơm áo gạo tiền của cả Phù Dao phái đã sớm suy tàn, bởi nhà y phú giáp một phương, giàu đến nỗi chẳng ngại nuôi thêm một môn phái "gia cầm" cho y chơi đùa. Nhị đệ tử Lý Quân chỉ biết chúi mũi vào mấy thứ tà môn mà bỏ bê tập luyện. Tam đệ tử Trình Tiềm coi như chăm chỉ nhất lại từ nhỏ đã cay nghiệt, giỏi nhất là châm biếm người khác. Tứ đệ tử Hàn Uyên xuất thân ăn mày cành chẳng nên thân, suốt ngày chỉ biết chọc chó đánh mèo. Đệ tử nhỏ nhất, cũng là nữ đệ tử duy nhất vẫn còn đang quấn tã lại càng chẳng dám nói, tiểu cô nương Hàn Đàm hay nhũ danh là Thuỷ Khanh vốn là quả trứng bán yêu do yêu hậu vụng trộm cùng con người sinh ra, lại bị đám sư huynh vô ý "nhặt" về. Phù Dao phái cứ như vậy mà ngày ngày gà bay chó sủa, có thể thấy được đã suy bại đến mức nào. Một môn phái đã suy bại được đến mức ấy, có lẽ cách ngày diệt môn cũng chẳng còn xa, thế nhưng chẳng ai ngờ được rằng, ngày Phù Dao phái thật sự lụi tàn, ngày sư phụ Hàn Mộc Xuân già nua lẩn thẩn chết đi, ép đám đệ tử còn chưa đứa nào thành niên phải sớm trưởng thành, cũng là ngày mở ra một cố sự, từ từ vén lên bức màn bí ẩn phía sau thế giới tu chân hào nhoáng. Những tưởng rằng cái chết của sư phụ đã là tai hoạ lớn nhất, lại không ngờ rằng hoạ vô đơn chí, đám trẻ an ổn nương tựa vào nhau vài năm đã phải đón thêm một hồi tai vạ nữa, kẻ sinh ly, người tử biệt. Rồi đến trăm năm sau khi đồng môn trùng phùng, bãi bể đã hoá nương dâu, cố sự năm xưa lại lần nữa dấy lên phong ba, bí ẩn trùng trùng của Phù Dao phái đã trải qua “cực thịnh tất suy” cũng dần được hé lộ. Priest vẫn giữ lối viết chủ thụ quen thuộc đã thành thương hiệu của mình trong “Lục Hào”, kể lại câu chuyện dưới góc nhìn của Trình Tiềm, nhưng lần này nhân vật mà Pi tốn nhiều bút lực xây dựng nhất lại là Nghiêm Tranh Minh. Nghiêm Tranh Minh trong những chương đầu được miêu tả là một tiểu thiếu gia phấn điêu ngọc mài nhưng tính tình lại như đại tiểu thư chua ngoa đỏng đảnh. Y rõ ràng là kẻ lấy kiếm nhập đạo, lại chẳng có chút kiên định nào của một kiếm tu, suốt ngày chỉ biết chưng diện làm đỏm, cả người sực nức mùi hoa hoa cỏ cỏ, hoàn toàn chẳng ngoa với cái danh "nương nương" mà đám sư đệ đặt cho. Một Nghiêm Tranh Minh như thế, vừa trưởng thành đã phải gánh trên vai bao thứ trách nhiệm nặng nề. Là trưởng môn của một môn phái bị truy sát, thứ y gánh là ngàn năm cơ nghiệp của Phù Dao, là mối thù diệt môn, là an nguy của đám sư đệ sư muội chẳng nên thân… Trách nhiệm đè nặng đến nỗi, y có muốn chết cũng chết không xong. Nghiêm Tranh Minh thuở thiếu thời luôn thiên vị tam sư đệ Trình Tiềm mà y gọi là Tiểu Đồng Tiền hơn hẳn những sư đệ khác, trong những năm tháng nương tựa vào nhau mà sống khi sư phụ không còn, tam sư đệ Trình Tiềm như con sói hoang luôn tự ý hành sự này cũng là mối bận tâm lớn nhất của y. Nói Nghiêm Tranh Minh yêu Trình Tiềm từ lúc nào có lẽ chính y cũng không biết, chỉ biết rằng trong trăm năm chia lìa, Trình Tiềm cứ thế mà trở thành cái gai trong ngực y, là thứ tình cảm y vừa nâng niu vừa che dấu, chỉ sợ một khi lộ ra sẽ là vạn kiếp bất phục. Nghiêm Tranh Minh yêu Trình Tiềm, nhưng đủ thứ trách nhiệm không cho phép y nói lời yêu, khiến nó trở thành thứ tâm ma lớn nhất trong lòng y. Không biết bao nhiêu lần Nghiêm Tranh Minh tự nhủ, nếu như y không phải trưởng môn Phù Dao phái, nếu như Trình Tiềm không phải là sư đệ của y, phải chăng y sẽ không ngần ngại mà tiến đến? Nhưng chung quy, thiên hạ không có hai chữ “nếu như”. Còn Trình Tiềm thì sao? Trình Nhị Lang thuở nhỏ xuất thân cơ hàn, bởi nhà quá nghèo mà bị cha mẹ bán cho một vị ‘chân nhân’ chẳng biết thật hay giả làm đệ tử, rồi được vị sư phụ ấy đặt cho cái tên Trình Tiềm, bắt đầu con đường tu hành xa không thấy đích. Cơ cực từ nhỏ, nên y cũng cay nghiệt từ nhỏ, không ngại dùng ánh mắt ác ý nhất để nhìn mọi việc trong thế gian. Thế nhưng, những năm tháng vô lo vô nghĩ trên Phù Dao sơn cùng sư phụ và huynh đệ đồng môn, những năm tháng đồng môn nương tựa vào nhau mà sống đã biến Trình Tiềm từ một đứa bé vì khuyết thiếu tình thương mà cay nghiệt trở thành con người một lòng sống chết vì sư môn. Trình Tiềm luyến quyến sư phụ Hàn Mộc Xuân như đứa trẻ bám cha, coi Phù Dao sơn như nhà, xem sư huynh đệ là gia đình. Có lẽ suốt thuở thiếu thời Trình Tiềm chưa từng nghĩ đến một ngày mình sẽ phát sinh tình cảm với đại sư huynh, nhưng thời điểm nhận ra tình cảm của mình, y chọn cách thẳng thắn đối mặt. Trình Tiềm khác với Nghiêm Tranh Minh, y không có gánh nặng lớn như trưởng môn sư huynh, thế nên y tự do hơn Nghiêm Tranh Minh, cũng thẳng thắn hơn đại sư huynh của mình. Bởi vậy trong phần tình cảm này Nghiêm Tranh Minh là người rung động trước, nhưng Trình Tiềm lại là người mở lời trước, cũng là người thề ước trước: “Đệ không biết đối đãi huynh làm sao mới là tốt, nhưng vô luận thế nào, đệ quyết không phụ huynh.” Tình cảm của họ là như vậy, đến chậm rãi mà tự nhiên. Là từ ngày đầu gặp nhau, khi Nghiêm Tranh Minh cảm thấy tam sư đệ thanh tú dễ nhìn rất thuận mắt nên đặc biệt ưu ái Trình Tiềm hơn hẳn đám sư đệ khác, còn Trình Tiềm lại cảm thấy đại sư huynh của mình thật phiền phức, như con chim trĩ tinh chỉ biết xoè đuôi làm đỏm. Cho đến khi chẳng biết từ khi nào, mùi hoa lan trên người Nghiêm Tranh Minh, thứ mùi hương Trình Tiềm từng chê phiền ấy lại là thứ mùi hương y luyến quyến nhất sau trăm năm chia lìa. Và cũng trong trăm năm ấy, Nghiêm Tranh Minh lòng mang tâm ma mà hoạ mãi một bức chân dung không thành… "Lục hào" cũng là câu chuyện về tình người, cụ thể là tình đồng môn, tình thầy trò, tình huynh đệ. Là tình cảm ngây thơ của đám đệ tử dành cho vị sư phụ thích giả hồ đồ lại một tay che mưa chắn gió cho chúng, là cái tình của những đứa trẻ nương tựa vào nhau mà lớn, cái tình cảm có thể thấy rõ qua cách mỗi người cố chấp với Phù Dao sơn. Năm xưa trải bao cơ sự, khiến cho Phù Dao sơn bị phong lại mãi không thể mở ra, những đứa bé lớn lên từ Phù Dao lại vẫn luôn cố chấp một lòng với nơi này. Trình Tiềm tới chết vẫn một lòng muốn về Phù Dao sơn, Hàn Uyên dù đã đọa ma lại vẫn luôn quanh quẩn dưới chân Phù Dao chỉ để nghe được một chút âm thanh trong quá khứ… Suy cho cùng, cái mỗi người thực sự cố chấp, thực ra cũng không nằm ngoài “tình người”, là phần tình cảm bao năm gắn bó từ thuở thiếu thời. Priest cũng đã khắc họa một thế giới tu chân chẳng toàn vẹn trong “Lục hào”. Xuyên suốt cả câu chuyện, một câu hỏi được đặt ra khiến người ta suy ngẫm: Cái mà các tu sĩ bấy lâu nay theo đuổi là gì? Phi thăng có thật hay không? Trường sinh rốt cục là gì? Phải chăng giống như lời vị sư phụ Hàn Mộc Xuân thích giả hồ đồ đã nói "chết và phi thăng chẳng có gì khác biệt" và phải chăng đó cũng là lí do Phù Dao phái xưa nay chỉ tu "nhân đạo"? Cá nhân mình đánh giá "Lục hào" là tác phẩm ấn tượng nhất của Pi Đại, cả về nội dung lẫn tính triết lí. Câu chuyện trong "Lục hào" rất "gọn", mỗi nhân vật xuất hiện đều có vai trò riêng mà không làm loãng mạch truyện chính, và cũng nhờ thế mà truyện thể hiện được đạo lí "nhân"-"quả" ở đời. Lảm nhảm đủ rồi, lời cuối mình chỉ muốn nói: Cảm ơn Priest, cảm ơn chị đã viết ra một câu chuyện như vậy khiến em không thể không yêu chị. Yêu chị nhiều lắm PiPi --------------------- Người viết: Mắt Bão Mời các bạn đón đọc Lục Hào của tác giả Priest.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trúc Mộc Lang Mã
Hai anh em ở với nhau, sinh hoạt thật bình dị. Mặc dù ca ca mong muốn mở một cửa hàng nhưng không thành, sinh hoạt vẫn cứ ấm áp và hạnh phúc trôi qua. Cha mẹ yêu thương, lão mẹ cũng giáo dục con cái rất rốt. Có một gia đình như vậy thật sự là rất hạnh phúc. "Nhất Kiệt à, con lớn lên tuấn tú thế này, tương lai cũng tìm con dâu xinh đẹp một chút nha." Phó Nhất Kiệt gật đầu đồng tình. Nhưng mà nên tìm vợ như thế nào nhỉ? Editor dò mìn: Công và thụ không phải anh em ruột, công là con nuôi. Em trai là công, anh trai là thụ. Phó Nhất Kiệt là công, Phó Khôn là thụ. *Gạch chân in đậm, nhầm công thụ editor vô can* Không phản công, không hỗ công. Truyện không ngược đâu, đừng sợ (>ω^) *** Vừa tan học cái tuyết đã rơi, liên tục mấy ngày rồi đều như vậy, Phó Khôn ngồi xổm giấu mình bên cạnh chiếc xe đạp, kéo khóa kéo áo khoác lông vũ lên trên cùng, cắn vào miệng, chống chọi với gió Bắc nãy giờ đang cố lọt vào trong cổ áo. Mấy đứa bé lớp dưới đều đã xếp hàng đi ra từ trong cổng trường, Phó Khôn học lớp bốn, không cần phải xếp hàng nữa, tuy năm ngoái cậu vẫn còn đứng trong hàng ngũ này, nhưng giờ lại đắc ý vô cùng, cảm giác nhoắng cái đã không cùng level với mấy đứa nhóc kia nữa. Đám nhóc con xếp hàng đi qua trước mặt Phó Khôn, cùng nhau nhìn lên cánh tay phải cậu, có một đứa còn hô: “Tay gẫy ề!” Phó Khôn trừng nó một cái, nhăn răng, mặt mày hung ác: “Nói thêm câu nữa bẻ đùi mày ra!” Cả đám nhóc đang xếp hàng đồng loạt im bặt, đứa nào đứa đấy dồn vào một chỗ cúi đầu rảo bước chân, Phó Khôn có thể coi là thành phần hay sinh sự trong Tam Tiểu của bọn nó, trong mắt mấy đứa nhóc lớp bé, là một kẻ đáng sợ. Phó Khôn cúi đầu gõ gõ lên cái nẹp trên cánh tay phải, thổi phù phù lên tay, không thèm nhìn đám trẻ con kia nữa, cậu đang đợi Tôn Vĩ, Tôn Vĩ tan học xong đã bị thầy Hồ xách vào văn phòng, lâu lắm rồi vẫn không thấy ra. Bọn xếp hàng đi hết sạch rồi, Phó Khôn mới nhìn thấy Tôn Vĩ vung vẩy cặp sách chạy từ trong trường ra, chạy nửa đường sách còn bị văng ra mấy quyển, nó vội vàng cúi người xuống nhặt. “Sao mà lâu thế!” Phó Khôn chậm rãi đứng dậy, ngồi xổm như vậy một lúc thôi cậu đã cảm thấy mình sắp đông cứng thành robot rồi, cứ cảm thấy chỉ hơi cử động thôi người sẽ vang lên tiếng cọt kẹt. “Lão Hạt tiêu còn đang dạy dỗ tao!” Tôn Vĩ nhét sách vào trong cặp chạy tới, “Với cả, thầy Dương lớp mày còn bảo tao đến nhà mày nữa.” “Đến nhà tao?” Phó Khôn cau mày, dậm dậm chân, “Tìm mẹ tao à?” “Ừ, bảo là nói mẹ mày mai đến trường, chắc lần này mày không thoát nổi đâu,” Tôn Vĩ treo cặp cả hai đứa lên tay lái, “Vẫn là tao đèo à?” “Đừng có để tao ngã xuống mương nữa đấy.” Phó Khôn vắt chân qua chỗ ngồi sau, Tôn Vĩ không có xe, ngày thường đều là Phó Khôn đạp xe chở nó, sau khi tay bị thương thì đổi thành Tôn Vĩ, mà tổng cộng bốn ngày, Tôn Vĩ đã ngày nào cũng ngã xuống mương một lần rồi, trình độ còn không bằng Phó Khôn đạp xe thả tay. Hôm nay cũng tàm tạm, tuyết rơi, Tôn Vĩ đạp chậm, tuy rằng tay lái vẫn run không ngừng nghỉ, nhưng ít nhất cũng không ngã. Lúc sắp về tới nhà, Phó Khôn nhìn thấy ven đường có mấy đứa lớp số bốn vừa đi vừa ầm ĩ, đột nhiên có đứa gọi cậu một tiếng: “Phó Khôn!” Phó Khôn không quay đầu lại, cậu nghe ra được đây là giọng của Hứa Giai Mỹ, nữ sinh xinh nhất Tam Tiểu bọn họ, nghe đâu trong nhà có người họ hàng ở Đài Loan, cho nên nhà mới đặt cho con bé cái tên vừa nghe cái là có thể phân biệt được với cái gì Lỵ cái gì Đan. Mời các bạn đón đọc Trúc Mộc Lang Mã của tác giả Vu Triết.
Phi Lai Hoành Khuyển
Cuộc gặp gỡ định mệnh lần đầu tiền, trong tâm trí hai người về hình ảnh của họ là:  Một người được xem như một tên lừa gạt có một trên đời. Một kẻ được xem là gã đàn ông cặn bã không có người thứ hai. Ngay lúc bốn mắt chạm nhau, trên trán đều viết bốn chữ lớn, “VÌ DÂN TRỪ HẠI”. Một câu chuyện tình yêu cảm động lòng người, cảm thiên động địa, cảm lạnh phát sốt, giữa một gã đàn ông cặn bã và một thằng nhóc lừa đảo. *** Review Nguyệt: Truyện này phải nói là cực cực cực hay. Không có âm mưu đấu đá nhau loạn xạ như nhiều truyện khác, cũng ko ngược lên bờ xuống ruộng gì, nhưng đọc rất thích, ko chán tí nào, cảm thấy như được hòa mình vào trong tác phẩm. Thụ (Tôn Vấn Cừ) lớn hơn công cỡ 10 tuổi, nhà giàu, tuy ko học ĐH nhưng mà là học bá (lười nhưng rất thông minh), giỏi cả cầm kì thi hoạ và làm gốm. Người thuộc tính “xà”, rất lười, lười đến độ sốt 40 độ C cũng lười đi bệnh viện  Cơ mà nhìn ảnh lười thế thôi chứ ảnh nhạy bén lắm, cái gì cũng biết nhưng chỉ lười nói ra. Công (Phương Trì) là một thanh niên trẻ, từ nhỏ đã sống độc lập nên rất hiểu chuyện, ít nói, giỏi thể thao, con người có tình có nghĩa. Lúc đầu công hiểu lầm thụ và thấy thụ quá cáo già + vô lại nên ghét thụ kinh khủng, nhìn thụ là chỉ muốn đập. Thụ thì thấy công thú vị nên thả thính triền miên )) Và rồi, dần dần công cũng đớp thính, nhưng quá trình cũng hơi ngược ngược tí tẹo. Ví dụ như có đoạn thụ hôn công một cái, công đấm thụ một cú ngay mắt rùi bỏ đi (mặc dù công cũng hơi cong cong nơi rùi). Ko ngược lắm nhưng có nhiều đoạn Vu Triết mô tả làm mình thấy thụ cô đơn đến xót lòng. Thụ thì ngoài mặt luôn cợt nhã, bất cần, nhưng nội tâm sâu xa, cũng biết đau biết buồn. Sau này khi công nhận ra tình cảm của mình đối với thụ thì yêu thụ lắm. Lúc mới vô học ĐH, có bạn học nọ cũng gay và “có vẻ” có ý với công, thụ cũng nhận thấy, công đùa là thụ ăn giấm sao. Thụ mới bảo là xưa này thụ chưa bao giờ ăn giấm với ai, nếu thụ cảm thấy người đó đã đổi lòng thì sẽ bỏ đi ngay, mà khi đi rồi là ko về nữa. Công nghe xong mới nói là nếu có một ngày thụ đổi lòng thì công vẫn sẽ tiếp tục bám theo thụ. Công cứ nghĩ tới thụ là kéo cờ, bạn thân của thụ đặt biệt danh cho công là “cây hẹ tinh” (cây hẹ có chức năng bổ thận tráng dương)  Tại vì công trẻ nên tinh lực dồi dào, có lần nhìn tay thụ ko thôi mà cũng kéo cờ ))))) Công yêu thụ bằng tình yêu của tuổi trẻ, rất nồng nhiệt, như ánh mặt trời sưởi ấm vậy. Còn tình yêu của thụ có thể ví như một dòng nước, nhẹ nhàng, ôn nhu, nhưng ko kém phần thâm tình. Lúc công công khai tình yêu của thụ với gia đình (ông bà nội của công), công ko cho thụ biết vì sợ thụ lo lắng và công ko muốn thụ bị gia đình mình nói nặng lời gì. Công giấu thụ nhưng thụ cũng suy đoán ra được, liền lái xe tới nhà ông bà của công, gặp riêng ông của công ra ngoài gặp (thụ quen ông bà của công) (thụ ko cho công biết mình đến vì thụ biết công ko muốn cho mình biết thì mình cứ giả vờ ko biết). Do chờ ông của công mà thụ đứng cả tiếng giữa trời gió lạnh đến sốt nặng, phải vào bệnh viện truyền dịch cả tuần, nhưng thụ giấu công vì thụ ko muốn công đau lòng. Ngọt ngào gì đâu, công thụ đều nghĩ cho nhau và làm việc trong âm thầm vì đối phương. Công thụ đều có cá tính riêng. Mình rất thích thụ trong này, rất nhạy bén, quá giỏi, rất độc lập, dứt khoát, tự làm nên sự nghiệp của mình, có ko ít khuyết điểm nhưng những thứ đó càng xây nên một hình tượng thụ đầy sức hút ko cưỡng lại được. Đối với truyện niên hạ, một trong những điều làm mình ko thích nhất là có nhiều đại thúc thụ mà tính tình y chang gái mới lớn, lơ ngơ như nai tơ, thấy mà phát rùng mình. Tôn Vấn Cừ hoàn toàn ko phải như thế, con mắt tinh đời, cáo già có thừa, luôn bình tĩnh, và cách cư xử đúng tuổi, nhưng mà ko kém phần đáng yêu. Một anh thụ như vậy thì có công nào có thể ko thích cơ chứ Truyện này mình cật lực đề cử, Mộc Mộc bên nhà Tử Linh Lan đang edit, mình thích quá nên đọc luôn QT. Nếu có một bộ khiến mình muốn đọc lại QT, đó chính là truyện này. ***   Đây là bộ “không phải hỗ công” đầu tiên mình đọc của Vu Triết =)))  “Phi lai hoành khuyển” là câu chuyện kể về chuyện tình của một cặp đôi hơn nhau khoảng hơn mười tuổi, Phương Trì và Tôn Vấn Cừ.  Nếu như nói Tát dã, hay Sói đi thành đôi cho mình cảm xúc chân thật về tuổi trẻ, thì Phi lai hoành khuyển lại mang màu sắc trưởng thành hơn một chút. Đó là mâu thuẫn trong việc lựa chọn nghề nghiệp, đó là những đấu tranh nội tâm khi chấp nhận bản ngã của chính mình, đó còn là nỗi day dứt khi  bắt buộc phải làm tổn thương những người yêu thương mình nhất… Nói qua về nội dung một chút: Câu chuyện bắt đầu bằng việc Tôn Vấn Cừ, một công tử (được cho là) ăn chơi đàng điếm lông bông không nghề nghiệp bị ném lên khu công trường làm việc 3 năm, sau khi trốn về liền gặp tình cũ dắt theo con trai đến đòi tiền =)) Con trai anh còn cao hơn cả anh, họ Phương tên Trì =))) Ban đầu Phương Trì chỉ nghe lời chị họ mình là Phương Ảnh, nghĩ rằng Tôn Vấn Cừ thực sự là một tiên khốn nạn lừa sắc lừa tình, nhưng sau quá trình (bắt buộc phải) tiếp xúc, Phương Trì nhận Tôn Vấn Cừ thực chất chỉ là một con rắn lười, lười đến mức không thể nào lười hơn, ngoài ra còn rất hút mèo. Nhưng Tôn Vấn Cừ nào chỉ có thế. Anh giống như củ hành tây, bóc một lớp lại hiện ra một lớp tươi đẹp hơn trước. Điều đó đã hấp dẫn Phương Trì, cho hắn động lực và can đảm để dám yêu. Đồng thời, sự táo bạo nhiệt liệt của tuổi trẻ ở Phương Trì cũng đã làm lay động Tôn Vấn Cừ, để cái con rắn lười nhác như anh cuối cùng cũng chịu bò ra khỏi vỏ, để yêu và được yêu. Trong câu chuyện này có hai điều mà mình rất thích, thứ nhất là sự mâu thuẫn của Tôn Vấn Cừ đối với nghề làm gốm, thứ hai là quá trình come out của Phương Trì. Tôn Vấn Cừ là người sinh ra trong gia đình có truyền thống làm gốm, cha anh lại là một nghệ nhân nổi tiếng, cho nên từ nhỏ anh đã được định hướng là người kế nghiệp. Từ rất sớm, Tôn Vấn Cừ đã bị bắt phải học những thứ mà cha anh cho rằng là cần thiết như thư pháp, hồ cầm, đai khái là cầm kì thi họa cái gì cũng tinh thông. Anh cũng được tiếp xúc với gốm khi còn rất nhỏ, bản thân anh cũng là người có thiên phú nên ai cũng đặt kì vọng vào anh, cho rằng anh sẽ là nghệ nhân nổi tiếng trong tương lai giống như cha mình. Nhưng ngược lại với những kì vọng ấy, Tôn Vấn Cừ khi lớn lên nhất quyết không chịu làm gốm. Những kĩ năng từ nhỏ đã tinh thông kia, những thứ mà người ta đều trầm trồ khi nhắc đến, anh lại cho rằng chỉ để làm màu. Tôn Vấn Cừ cự tuyệt gốm, cự tuyệt việc đi theo con đường đã được trải sẵn, thà rằng bị đuổi khỏi nhà, bị mắng là tên lông bông cũng nhất quyết không chịu làm theo lời cha mình. Nhưng Tôn Vấn Cừ có thật sự ghét gốm đến thế không? Thật ra là không. Ngược lại, anh còn có niềm đam mê đặc biệt với gốm. Chỉ là anh không muốn làm theo những khuôn phép ép buộc đầy cứng nhắc như cha, cái anh muốn là sự sáng tạo và tự do trong tâm hồn, trong mỗi sản phẩm anh tự tay làm ra. Mình nghĩ sự khác biệt này cũng giống như đập vỏ trứng và gà con tự nở vậy =))) Điều quan trọng khi làm việc là đam mê, chứ không phải là thúc ép. Được rồi, lan man hơi nhiều. Về Phương Trì, thật ra đây cũng là con người có mâu thuẫn. Bản thân hắn là gay, nhưng thoạt đầu hắn cự tuyệt điều này, thậm chí còn có thái độ chống đối. Hắn tỏ vẻ căm hận đồng tính, chẳng qua là vì hắn hận chính mình, hận cái bản ngã mà hắn không thể chọn lựa. Cuối cùng, bởi vì Tôn Vấn Cừ, hắn đã chấp nhận con người thật của bản thân một cách tự nguyện. Phương Trì là một người, nói thế nào nhỉ, giống như một ngọn đuốc cháy vĩnh cửu vậy. Hắn nóng bóng rực rỡ, thiêu đốt hết mình vì tình yêu, nhưng hắn cũng có sự mạnh mẽ và kiên định. Hắn vừa là người đàn ông trưởng thành, bả vai đủ rộng để người khác dựa vào, nhưng cũng vừa là một đứa trẻ ngây thơ đến đáng yêu (mấy anh công niên hạ hình như đều thế =))) Tất cả những điều đó tạo nên một Phương Trì dũng cảm, chân thành, khiến người khó tính như cha Tôn Vấn Cừ cũng phải âm thầm thừa nhận =)) Bên cạnh hai nhân vật chính, không thể không kể đến những nhân vật phụ không kém phần quan trọng. Đó là Tiếu Nhất Minh và Trình Mạc, CP phụ hết sức dễ thương =)) Đó là Mã Lợi, người anh em nối khố  luôn hiểu và ủng hộ Tôn Vấn Cừ, đó là mẹ Trình Mạc, người rõ ràng chẳng có mấy quan hệ gì đã giúp Phương Trì khuyên nhủ ông nội, để ông hiểu được và chấp nhận con người của Phương Trì,…Đó là ông nội và bà nội Phương Trì, hai người thân quan trọng nhất của hắn, đã mở lòng bao dung vì tình yêu dành cho cháu đã chiến thắng tất cả. Nói tóm lại, đây là một câu chuyện mình nghĩ là nên đọc một lần trong cuộc đời =)) Mời các bạn đón đọc Phi Lai Hoành Khuyển của tác giả Vu Triết.
Ngang Tàng (Tát Dã)
Bắt đầu câu chuyện khi hai nhân vật chính năm 17 tuổi, cả hai đều ưa nhìn lại có đầu óc, giỏi âm nhạc lẫn thể thao + tài lẻ vô số, nhưng có lẽ cũng vì sở hữu quá nhiều ưu điểm nên hoàn cảnh của hai cậu cũng thảm mỗi người một cách khác nhau.. Một bạn là đứa con trái ý với cả nhà suốt mười mấy năm trời, cuối cùng biết được sự thật rằng mình là con nuôi, vậy là từ đó cậu trai thành thị nhà khá giả, dân top đầu trường chuyên đã phải bị đưa về một thành phố nhỏ xập xệ, làm học sinh ở một ngôi trường tầm thường, ở chung với những “người ruột thịt” ngập ngụa trong bế tắc và vòng xoáy gạo tiền. Một bạn mới vừa 17 tuổi đầu đã là người tháo vát quán xuyến hết việc nhà, bố đã mất (trước đó ông này chuyên say xỉn, đánh đập vợ con), phải gánh vác chuyện + nuôi dưỡng một cô em gái bị tổn thương tinh thần, đèo bòng nốt một bà mẹ tính cách thất thường muốn níu kéo tuổi thanh xuân, không lo làm việc, chỉ lo hẹn hò hết trai này đến trai khác.  Oan gia ngõ hẹp, hai bạn với xuất phát điểm là hai thái cực, nhưng nhờ duyên số tréo ngoe nên dần dần cuốn vào nhau. Câu chuyện của chúng ta bắt đầu như thế….. CẢM NHẬN Khép lại câu chuyện mang tên Tưởng Thừa và Cố Phi, tôi thật sự không nỡ, bởi vì quá nhiều cảm xúc vẫn còn ẩn hiện nơi đáy lòng. NGANG TÀNG (TÁT DÃ) của Vũ Triết quả thật không thể dùng hai chữ “xuất sắc” để hình dung, đó dường như là câu chuyện quá đỗi đời thật, tôi thật sự kinh ngạc về nội dung của quyển truyện này. Tường Thừa – học bá trong miệng thiên hạ: học giỏi, chơi bóng rổ giỏi, bắn ná giỏi, biết hát biết đàn, quả thật là con nhà người ta trong miệng thiên hạ, bộ dáng còn rất đẹp trai nữa. Nhìn bề nổi là vậy, nhưng bên trong của cậu thiếu niên là một trái tim cô đơn và bị tổn thương. Những cảm xúc của cậu nối tiếp nhau khi từ thành phố lớn về nơi miền quê nhỏ, thay đổi chỗ ở, thay đổi cuộc sống và tiếp xúc với nhiều thể loại người khác nhau, từ đó dần dần để lộ ra nhiều cảm xúc bi quan hơn. Còn Cố Phi – lão đại của Xưởng thép, tính tình lạnh nhạt, không thèm học, thích đánh nhau, chỉ được bề ngoài đẹp trai ngời ngợi có thể đặt chung chỗ với Tưởng Thừa. Nhưng sau này, tài năng của Cố Phi dần được Tưởng Thừa phát hiện: chơi bóng rổ, chụp ảnh, viết nhạc, chơi đàn,… bao nhiêu thứ mà Cổ Phi dấu kín thế mà bị bày ra dưới mi mắt Tưởng Thừa. Và ẩn dưới bề ngoài lạnh nhạt là một trái tim vỡ vụn với nhiều gánh nặng phải gánh: mẹ già nhưng có trái tim thiếu nữ, em gái lớn lên với tinh thần không bình thường, cái chết của ba, sự đáng sợ của hiện thực… Tưởng Thừa và Cố Phi đều cho nhau mặt mà không ai biết đến. Chỉ ở trước mặt Tưởng Thừa, Cố Phi mới bỏ đi lớp “đại ca Xưởng thép” người người sợ hãi kia, thành một con thỏ ngon miệng đợi sói tới làm thịt, sẽ bỏ đi nụ cười lạnh nhạt bất cần đời để có thể thoải mái vui vẻ, đưa ra mặt ôn nhu nhất của bản thân cho Tưởng Thừa. Mà Tưởng Thừa, trước mắt Cố Phi sẽ bớt đi gai góc, có tí lưu manh, nóng tính nhưng dễ dỗ, tính cách ngây thẳng đáng yêu và bỏ đi gánh nặng của mọi thứ. Cả hai như một liều thuốc bổ của nhau: xoa dịu cảm xúc, ấm áp, vui vẻ, kích tình, … Cả hai gặp nhau cũng không có quá nhiều ấn tượng. Khi đó Tưởng Thừa nói là được đưa về cho cha mẹ đẻ, nói khó nghe là bị gia đình nhận nuôi đuổi đi, tất cả đồ vật của cậu đều bị mẹ cậu trả về hết. Tâm trạng lúc ấy quá tồi tệ, lại không ngờ gặp đôi mắt to trong veo của một cô gái nhỏ đang bị bắt nạt. Tưởng Thừa vì một giây đưa tay ra với cô bé mà được cô bé để ý. Rồi gọi cho anh trai cô bé, thế mà lại nhận được một câu “Xin lỗi, nhầm số.” Lần gặp thứ hai, cũng thật tình cờ, Tưởng Thừa ngất xỉu ngay trước cửa hàng của Cố Phi, nên mới tạo nên mối nhân duyên này. *** Nếu theo dõi tin tức đam mỹ thường xuyên, chắc hẳn bạn sẽ không hề xa lạ với cái tên “Tát dã” khi nó luôn nằm chễm chệ trên các bảng xếp hạng top Đam Mỹ của Tấn Giang. Vậy điều gì đã khiến bộ truyện này hấp dẫn đến vậy? Tát Dã - Câu chuyện thanh xuân bồng bột. Vì sao thanh xuân lại đáng quý đến thế? Vì sao người ta thường đi qua rồi mãi vẫn nhớ về thanh xuân? Có chăng vì đó là khoảng thời gian chúng ta bồng bột nhất, dũng cảm nhất. Chúng ta sống thành thật với cảm xúc của mình, luôn tiến về phía trước không e sợ, dù trong đêm đen tối nhất của muốn tỏa ra ánh sáng của riêng mình. Nếu thế thì Cố Phi và Tưởng Thừa chính là bóng dáng chuẩn xác nhất về một thời thiếu niên khó quên của mỗi đời người. Tưởng Thừa cũng giống như cái tên của mình, lớn lên trong một gia đình mà cậu luôn là người “thừa”. Gia đình cậu ấm áp là thế nhưng cậu lại luôn là kẻ đứng ngoài xem mà cảm thấy lạnh lẽo. Cậu thường xuyên cải vã, trái ý với bố mẹ. Cho đến năm 17 tuổi, có lẽ đã chịu không được, họ nói cậu biết cậu chỉ là con nuôi. Rồi họ trả cậu về với gia đình thật của mình. Một thành phố nghèo nàn, một căn nhà xập xệ với người cha cờ bạc rượu chè, người anh trai hám lợi và người chị nhu nhược. Khác với Tưởng Thừa xuất thân từ thành thị tấp nập, vùng đất nghèo nàn này chính là cái nôi nuôi dưỡng Cố Phi lớn lên. Người cha bạo hành luôn say rượu rồi đánh đập anh em cậu. Người mẹ lớn tuổi nhưng luôn khao khát một tình yêu lãng mạn. Bà đem hết tiền của để bao nuôi tình nhân nhỏ tuổi. Cố Phi lớn lên với lời đồn “kẻ giết cha ruột”. Cuộc sống khó khăn khiến cậu dây dưa với xã hội đen lưu manh. Nhưng hơn hết là người em gái mắc bệnh tâm lý. Hoàn cảnh sống khắc nghiệt cố gắng dìm đôi bạn trẻ xuống bùn lầy sa đọa, lấy đi khát khao niềm hi vọng vào tương lai. Dù vậy, họ vẫn ngang ngược khiêu chiến với số phận, giành giật về từng tia sáng hạnh phúc dù mong manh. Tưởng Thừa dù có bao lần bế tắc, những lúc lang thang không muốn về nhà, thậm chí nhìn thấy cha ruột của mình quẫn bách đến nhảy lầu tự vẫn. Cậu vẫn cố chống chọi đứng lên, vẫn luôn cố gắng chăm chỉ học hành. Học tập là con đường cứu tử duy nhất mà câu nhận định. Từng chương, từng chương truyện, bạn sẽ thấy cháy bỏng ở Tưởng Thừa niềm khát khao được vươn lên, tiến về phía trước, chứng minh cho gia đình nuôi mình rằng cậu không sai, cậu không phải là một kẻ ngông nghênh chỉ đáng bỏ đi mà sẽ có một cuộc sống thành công. Trong khi đó, Cố Phi lại để lại ấn tượng một viên ngọc trai đen lấp mình trong đất cát. Cậu có năng khiếu nhiếp ảnh, lại khéo tay nhưng trước khi Tưởng Thừa xuất hiện cậu chưa từng muốn hòa mình vào tập thể. Cậu là một chú sói độc lai độc vãng chăm chăm bao vệ lãnh thổ của mình. Dù vậy, ta lại càng thấy ở Cố Phi khát vọng sống phi thường hơn ai hết. Bởi cậu là đôi cánh che chở cho mẹ và em gái hình. Là một kẻ mạnh lại thông minh, cậu chính là miếng mồi béo bở mà bất cứ đại ca xã hội đen nào cũng muốn. Cố Phi đã sống như bước đi trên một lằn ranh mỏng manh giữa tội ác và người thường mà chưa từng té ngã. Trong mắt Cố Phi, Tưởng Thừa khá ngây thơ, cậu luôn đối diện cuộc sống bằng thái độ lạc quan. Chính sự lạc quan đó là nam chân cực mạnh hút Cố Phi cùng bước đi với cậu. Cố Phi nghĩ đến ngày mai, mong muốn thoát đi khỏi thành phố này trỗi dậy trong cậu mạnh mẽ. Đã từng nghĩ cả đời sẽ chết dần chết mòn nơi đây, lần đầu tiên Cố Phi muốn sống đúng với cái tên của mình: bay đi! Tát Dã - Một tình yêu định mệnh. Gặp gỡ nhau như một định mệnh, người này bố sung khuyết thiếu cho người kìa, cả hai không thể đi riêng lẻ mà chỉ càng thêm mạnh khi bước cùng nhau! Ấy vậy mà Tưởng Thừa sẽ khóc, Cố Phi cũng khóc, cả độc giả cũng khóc khi họ quyết định xa nhau. Từ khi yêu nhau, Cố Phi chưa từng nghĩ chính mình lại là người làm chậm bước chân của Tưởng Thừa, là gánh nặng cậu phải mang vác trên lưng. Cậu có thể chịu đựng khổ nhưng lại không thể chịu đựng khi Tưởng Thừa vì mình mà khổ. Nhận ra điều đó, cuộc sống cậu như lâm vào ngõ cụt. Và họ chia tay – như một sự giải thoát cho Tưởng Thừa của cậu có thể an tâm mà vui sống. Nhưng chỉ chính họ mới biết nỗi đau đó tuyệt vọng đến nhường nào! Có tình yêu vượt qua mùa đông, Vụt chết sau đêm mùa xuân... Ai đã từng tan vỡ trong tình yêu sẽ càng hiểu thấu hơn nỗi đau của họ khi mỗi ngày đều sống với một trái tim trống rỗng. Đau đớn nhường nào khi tự tay mình bóp chết tình yêu đang ngồn ngộn sức sống! Tác giả đã tạo ra một bước ngoặt cực lớn để chính nhân vật trưởng thành hơn, kiên định hơn bởi vì những ngày tháng thiếu nhau khiến họ nhận ra rằng họ cần nhau rất nhiều. Tưởng Thừa đã bứt đi gốc rễ sợ hãi trong lòng Cố Phi, quét sạch lớp bụi bây lâu phủ đầy tâm trí cậu, trả lại một Cố Phi sống đúng tuổi với đầy đam mê và tin tưởng vào tương lai. “Hi vọng chúng ta đều có thể dũng cảm như đối phương.” Tát Dã – Cuốn tiểu thuyết viết bằng ngôn ngữ điện ảnh. Vu Triết đã miêu tả cuộc đời của hai con người bằng ngòi bút vô cùng chi tiết: khung cảnh sinh hoạt nơi phố nghèo, hệ thống các nhân vật chính phụ nhiều nhưng ai cũng có màu sắc riêng – mỗi người mỗi nhà là mỗi câu chuyện sẽ tác động ít hay nhiều vào nhân vật chính. Chất điện ảnh hiện rõ ở những lúc zoom xa toàn cảnh: trường học, xưởng thép, quảng trường trung tâm, cuộc sống đại học; và những lúc zoom kĩ lại đặc tả hành động và tâm lí nhân vật. Khép trang truyện lại, bạn vẫn có thể mường tượng chính xác trong đầu từng phân đoạn truyện lúc ngọt ngào lúc bi thương. Đây là một cuốn tiểu thuyết đặc quện hơi thở cuộc sống. Ở đó, chúng ta có thể tìm thấy chính mình hay chính ước mong của mình. Ai cũng chỉ cho một tuổi trẻ để sống, một trái tim để yêu. Vậy thì chúc bạn “Ta muốn, dưới ánh mắt người, nghênh ngang mà chạy Ta muốn, một ánh mắt, trọn đời tới già.” Mời các bạn đón đọc Ngang Tàng (Tát Dã) của tác giả Vu Triết.
Mười Năm Yêu Anh Nhất
Mười bốn năm trước, có một cậu thiếu niên vóc người cao lớn, mặt mày tuấn tú đã chặn đường Hạ Tri Thư, mặt đỏ bừng đưa cho cậu một cuốn sách, nói rằng: "Nghe nói cậu thích Giản Trinh, tớ mua sách của bà ấy cho cậu. Hi vọng cậu có thể thích cuốn sách này, nhân tiện... thích luôn cả tớ nữa." Trong cuốn sách đó, có một câu nói của Giản Trinh được Tưởng Văn Húc chép lại một cách tỉ mỉ: "Chỗ em ở, là chân trời góc biển anh không ngừng nhớ nhung". Câu nói đó, vừa là một lời tỏ tình, vừa giống như một lời thề ước.   Tưởng Văn Húc của những tháng ngày ngây ngô ấy, đem lòng yêu Hạ Tri Thư, cậu bạn cùng bàn ấm áp dịu dàng. Ngày đó, hắn vốn ngang ngược và nóng nảy, nhưng lại chấp nhận nhún nhường trước Hạ Tri Thư. Ngày đó, có rất nhiều người thích hắn, nhưng trong mắt hắn chỉ có mình cậu mà thôi. Tình yêu của hai người họ khi ấy nhẹ nhàng và bình yên lắm, giống như một dòng suối mát lành dịu êm, dịu dàng vỗ về hai trái tim cùng chung nhịp đập.   Năm mười bảy tuổi ấy, Tưởng Văn Húc ngỏ lời yêu với Hạ Tri Thư và rồi cậu đồng ý. Năm mười chín tuổi ấy, khi gia đình hai bên biết chuyện và ngăn cấm, Hạ Tri Thư đã bỏ cả gia đình, bạn bè, bỏ cả tiền đồ xán lạn trước mắt, theo Tưởng Văn Húc đến Bắc Kinh lập nghiệp. Hạ Tri Thư là cơn gió dịu dàng đến từ phương Nam, lại vì Tưởng Văn Húc mà chịu đựng cái lạnh thấu xương của đất Bắc.   Hạ Tri Thư là chàng trai có ngoại hình rất đẹp. Cậu cười rộ lên còn đẹp hơn hoa, bên má có lúm đồng tiền nhỏ, cặp mắt trong veo tĩnh lặng như mặt nước mùa thu, chỉ cần nhìn vào đó sẽ ngay lập tức bị hút hồn. Tri Thư học rất giỏi, tính cách cũng rất tốt, được cha mẹ và thầy cô gửi gắm rất nhiều kì vọng. Một chàng trai như vậy, lại cam tâm tình nguyện đánh đổi tương lai vì Tưởng Văn Húc, cắn răng chịu đựng cùng hắn trải qua tất cả đắng cay tủi hờn.    Còn nhớ ngày đó, khi Hạ Tri Thư và Tưởng Văn Húc mới đến Bắc Kinh, khổ cực đến mức mua một phần hoành thánh cũng không nỡ ăn. Cuối cùng Hạ Tri Thư chia làm hai phần, Tưởng Văn Húc mới chịu động đũa. Khi đó nước mắt Tưởng Văn Húc rơi vào trong bát canh, người đàn ông đó gần như gằn từng chữ một, thề rằng cả đời này sẽ không phụ cậu. Nhưng câu nói đó, là người nói vô tình người nghe cố ý. Tòa thành tình yêu ngỡ rằng vững vàng và kiên cố, hóa ra cũng chỉ như lâu đài cát dễ dàng vỡ tan theo từng cơn sóng mà thôi.   Từng nắm tay nhau qua những ngày mây mù giăng lối, vậy mà chẳng thể kề cạnh khi ánh nắng chan hòa bao phủ khắp nơi. Chẳng còn sóng gió, chẳng còn bão giông, thế mà đôi bàn tay vẫn cứ buông lơi.   Tiền tài và quyền lực thường khiến con người ta sa ngã, khi Tưởng Văn Húc không có gì trong tay, chỉ có Hạ Tri Thư ở bên hắn, vậy mà khi đã có tất cả, hắn lại bỏ mặc Hạ Tri Thư một mình.   Thật ra Hạ Tri Thư không ngốc, một người mẫn cảm thông tuệ như cậu chắc chắn sẽ nhìn ra Tưởng Văn Húc có người khác bên ngoài. Nhưng cậu mắt nhắm mắt mở giả vờ không biết, mười năm qua cậu đã trả giá nhiều như thế, lẽ nào khoan dung một chút cũng không được hay sao?   Năm Hạ Tri Thư hai mươi ba tuổi, cha mẹ cậu đến Bắc Kinh tìm cậu đã bị tai nạn xe mà qua đời. Khi đó, Hạ Tri Thư đã thề, rằng chỉ cần Tưởng Văn Húc cho cậu một mái nhà, cậu sẽ vĩnh viễn không rời bỏ hắn ta. Cho nên, dù ngửi thấy mùi nước hoa phụ nữ trên người hắn, dù nhìn thấy vệt son môi trên áo hắn, cậu vẫn không vạch trần cái cớ vắng nhà sứt sẹo của hắn. Hạ Tri Thư không nỡ, thật lòng không nỡ rời xa người đàn ông cậu yêu nhất, vì để ở bên người đó, cậu đã đánh đổi quá nhiều.   Có người nói: "Yêu đúng, là tình yêu. Yêu sai, là tuổi trẻ."* Nhưng riêng với Hạ Tri Thư, mười lăm năm trao lầm tình yêu cho một người không xứng, một lần yêu, cũng là cả một đời.   Ngày Hạ Tri Thư nghe tin mình mắc bệnh máu trắng, cũng là hôm Bắc Kinh đón cơn tuyết đầu mùa. Lại nhớ về ngày này của nhiều năm về trước, Hạ Tri Thư và Tưởng Văn Húc từng vui vầy bên nhau, cùng nhau gói từng chiếc sủi cảo. Khi đó, Tri Thư luôn lặng lẽ vớt tất cả sủi cảo có tiền xu may mắn cho Tưởng Văn Húc. Phải chăng là vì thế, nên giờ đây một chút may mắn cậu cũng chẳng còn?   Hạ Tri Thư thật sự hối hận rồi, không phải hối hận vì đã liều lĩnh yêu người đàn ông ấy suốt mười mấy năm, mà là nuối tiếc vì đã chạy theo tình yêu rồi bỏ đi ước mơ còn đang dang dở. Cậu vốn là một người xuất sắc, thậm chí còn có tương lai hơn cả Tưởng Văn Húc, vậy mà lại vì hắn từ bỏ hoài bão của một người đàn ông, để giờ đây ngày ngày mòn mỏi chờ đợi hắn trở về trong căn nhà lạnh lẽo và trống vắng.   Bốn năm Tưởng Văn Húc buông thả bên ngoài, cũng là bốn năm Hạ Tri Thư khổ sở nhẫn nhịn, đè nén. Mình không dám tưởng tượng Hạ Tri Thư đã sống như thế nào trong khoảng thời gian đó, không bạn bè, không người thân, thậm chí không được nuôi một chú thú cưng làm bạn. Mệt mỏi và đau đớn như vậy, thế mà cậu chưa bao giờ nghĩ đến việc rời đi...   Mười bốn năm trước, Hạ Tri Thư cắn răng cùng Tưởng Văn Húc chịu khổ chịu khó mà không than vãn một lời. Mười bốn năm sau, Tưởng Văn Húc vui vẻ hưởng thụ lạc thú bên ngoài, bỏ mặc Hạ Tri Thư bị bệnh tật dày vò đau đến chết đi sống lại.   Con người Tưởng Văn Húc không chỉ bội bạc mà còn ích kỉ và tham lam. Hắn không màng đến người bên cạnh mình càng ngày càng yếu ớt, tiều tụy hơn mà chỉ mải mê soi xét rằng tại sao trong nhà lại xuất hiện thêm một chậu hoa quý. Hắn điên cuồng nổi cơn ghen khi thấy cậu được một người đàn ông khác đưa về mà không thèm suy nghĩ tại sao Hạ Tri Thư vốn không có bạn bè lại quen biết một bác sĩ. Hắn tự cho mình cái quyền chỉ trích, mạt sát rồi cường bạo cậu mà chưa bao giờ thử nhìn lại xem bản thân mình đã vấy bẩn ra sao.   Tưởng Văn Húc, anh có đủ tư cách sao? Anh phóng đãng hưởng lạc ở bên ngoài, lấy quyền gì ép người khác đối với mình phải một lòng một dạ? Tưởng Văn Húc, tim anh làm bằng sắt đá hay sao, mà có thể đối xử tàn nhẫn như vậy với một người đã yêu thương anh nhường ấy? “Em đã vô dụng như thế, vậy mà hắn còn sợ em ra ngoài quyến rũ người khác… Sao có thể chứ, đời này em có mình hắn còn chưa đủ mà… Tim của em không rộng vậy đâu.”   Tưởng Văn Húc, em từng hứa sẽ không rời bỏ anh đúng không? Nhưng đó là lời hứa em dành cho anh của thời niên thiếu, người thương em nhất, cũng là chàng trai em yêu nhất trên đời. Còn bây giờ em phải đi thôi, khi sự dịu dàng của anh đã không còn nữa, khi tình yêu đã phôi phai nhạt màu. Anh hãy nhớ, rằng em sẽ luôn ở đó, đợi chờ một Tưởng Văn Húc vĩnh viễn không phụ lòng em.   Lần cuối cùng Tưởng Văn Húc được ôm Hạ Tri Thư trong tay, hắn đã hứa rằng: "Sau này anh sẽ không để em phải đau nữa". Nhưng mà, sau này Hạ Tri Thư cũng không cần hắn nữa rồi.   Hạ Tri Thư đã quyết định từ bỏ việc chữa bệnh, rời xa Tưởng Văn Húc và trở về quê hương sống nốt quãng đời ngắn ngủi còn lại trong cô độc. Ai ngờ đúng lúc đó, Ngải Tử Du lại xuất hiện bên cậu, cùng cậu đi nốt chặng cuối của cuộc đời.   “Lần đầu tiên tôi học xã hội đen đi bắt người, bắt em đến nơi em muốn đến, có được không em?” "Tôi không muốn khiến người khác tổn thương.” “Em có thể để tôi bên cạnh, chịu tổn thương không phải em là được.”   Ngải Tử Du là bác sĩ điều trị chính cho Hạ Tri Thư. Ban đầu, Tử Du đối với Tri Thư là thương xót vì cậu mắc bệnh nặng như thế mà lại không có ai bên cạnh. Dần dần, sự thương xót trở thành đau lòng, sự đồng cảm đơn thuần của một bác sĩ với một bệnh nhân trở thành tình yêu. Khi Ngải Tử Du nhận ra điều đó thì đã không còn kịp nữa, anh đã lún quá sâu vào tình yêu không hề có chút hi vọng này.   "Không phải ai yêu trước cũng chịu thiệt, ví dụ như Tưởng Văn Húc. Nhưng bạn yêu một người không yêu bạn thì chắc chắn bạn thua, ví dụ như Ngải Tử Du."   Ngay từ ban đầu, Ngải Tử Du đã biết rõ rằng Hạ Tri Thư luôn yêu một người rất đậm sâu, yêu đến mức không bao giờ quên đi được. Anh biết rõ, rằng mình chẳng bao giờ có cơ hội thay thế vị trí của người ấy, nhưng anh vẫn không nỡ buông bỏ, không nỡ lãng quên, không nỡ để Hạ Tri Thư một mình chịu dày vò đau đớn.   "Ngải Tử Du đâu còn cách nào khác, luận về si tình anh chẳng hề thua kém một Tưởng Văn Húc của nhiều năm về trước, bàn về ai là người bầu bạn với Hạ Tri Thư trong những giây phút cuối cùng của đời người anh lại càng không thua, anh thua là thua khoảng thời gian mà anh không cách nào chen chân vào được, thua ý trời an bài thứ tự trước sau, thua cái gọi là hữu duyên vô phận."   Càng ở bên Ngải Tử Du, Tri Thư lại càng cảm thấy người đàn ông này rất giống với Tưởng Văn Húc của nhiều năm về trước.    Mười bốn năm trước, khi mẹ của Hạ Tri Thư biết chuyện của hai người, Tưởng Văn Húc đã ôm chặt cậu trong lòng, đỡ đòn cho cậu và ghé vào tai thủ thỉ: "Có anh ở đây rồi".   Mười bốn năm sau, khi cậu bị bệnh tật giày vò đến sắp không thể chịu nổi, lại là Ngải Tử Du ôm cậu trong lòng, thì thầm câu nói cậu được nghe từ mười bốn năm trước: "Có anh ở đây rồi."   Cùng một câu nói, nhưng một là Tưởng Văn Húc dành cho Hạ Tri Thư ngập tràn sức sống, đẹp đẽ như hoa của thời niên thiếu, một là Ngải Tử Du dành cho Hạ Tri Thư tiều tụy gầy yếu đã ở cùng người khác mười bốn năm, tâm tình khó đoán, trên người mang bệnh nan y.   Ngải Tử Du không phải là người đầu tiên ở bên Hạ Tri Thư, nhưng lại là người ôm cậu trong vòng tay khi cậu trút hơi thở cuối cùng. Điều này đối với anh mà nói, là may mắn hay đớn đau? Là cái kết thỏa đáng hay vết thương vĩnh viễn chẳng lành?   "Tay Ngải Tử Du trống rỗng, anh lẩm bẩm lặp lại một câu: “Tri Thư… Tri Thư ở đâu nhỉ?” Giọng Ngải Tử Du rất nhẹ, mỗi âm tiết phát ra như lôi ra cả máu thịt thanh quản: “Em ấy đi rồi… Ở trong ngực tôi, dần dần, từng chút một, dần lạnh đi…”"   Ngày Hạ Tri Thư ra đi là một ngày nắng chan hòa. Tro cốt của cậu được rải vào trong hồ Balkai, ở đó phong cảnh rất đẹp, rất bình yên, mặt nước tĩnh lặng dịu dàng. Kiếp này Ngải Tử Du đến chậm quá, nên Hạ Tri Thư đã trao cả trái tim cho người khác mất rồi. Hẹn kiếp sau sẽ lại bên nhau, vĩnh viễn không lìa xa nữa.   "Nếu như có kiếp sau, tôi sẽ làm một cô gái, nhất định chỉ chờ anh thôi.” “Em là đàn ông tôi cũng theo em.” “Hai người đàn ông bên nhau quá đau khổ.” “Kiếp sau tôi sẽ làm vợ em, sẽ làm việc nhà, nuôi con cái cho em.”   Ngải Tử Du là một bác sĩ xuất sắc, vậy mà chẳng cách nào giữ lấy Hạ Tri Thư. Anh từng cứu sống bao nhiêu sinh mệnh, nhưng lại chẳng cứu nổi người anh yêu nhất. Giây phút cơ thể cậu lạnh dần đi trong vòng tay anh, trái tim anh cũng theo đó mà nguội lạnh. Không có Hạ Tri Thư, anh cũng không đau khổ đến mức tìm đến cái chết, chỉ là đời này, anh sẽ chẳng yêu thêm được một người thứ hai.   *****   Mình viết bài review này sau lần thứ hai đọc lại "Mười năm yêu anh nhất". Đây là tác phẩm đầu tiên khiến mình rơi nước mắt và có lẽ câu chuyện này sẽ khiến mình ám ảnh rất lâu.   Lần đầu tiên đọc truyện, mình rất ghét Tưởng Văn Húc, thực sự cảm thấy hắn rất tồi tệ, rất cặn bã, rất xấu xa. Đọc lại lần thứ hai ngay sau khi vừa kết thúc lần thứ nhất, ngoài cảm giác căm ghét, mình lại thấy rất đau lòng. Rõ ràng hắn từng yêu Hạ Tri Thư như thế, sao chỉ vì một chút hứng thú nhất thời mà để những lời ước hẹn trôi khỏi tầm tay? Để rồi sau này khi không còn Tri Thư ở bên nữa, hắn mới biết thật ra hắn còn yêu cậu hơn chính bản thân mình.   Con người vốn kì lạ thế đấy, lúc có trong tay sẽ không biết trân trọng, khi mất đi rồi lại ra sức níu giữ, nhưng tình yêu đã vỡ tan không bao giờ có thể trở lại vẹn nguyên như thuở ban đầu.   Những ngày sau khi Hạ Tri Thư rời đi là quãng thời gian khổ sở nhất trong cuộc đời Tưởng Văn Húc. Hắn chưa bao giờ cảm thấy mình lạc lõng và cô độc như thế, ngay cả lúc đoạn tuyệt quan hệ với tất cả mọi người trong gia đình cũng không, vì Hạ Tri Thư luôn âm thầm đứng phía sau làm điểm tựa cho hắn.   Hạ Tri Thư bỏ hắn mà đi, không một lời từ biệt, cũng không cho hắn được nhìn thấy cậu thêm một lần nào nữa. Tưởng Văn Húc dường như phát điên rồi, hắn điên cuồng tìm kiếm cậu, điên cuồng lái xe từ Bắc Kinh đến Hàng Châu tìm cậu trong cơn bão tuyết.    "Có một khoảng thời gian đêm nào gối Tưởng Văn Húc cũng ướt sũng, lúc ý thức mơ hồ hắn khóc rất nhiều, liền tự nhủ mình ban ngày vĩnh viễn không được khóc. Hắn không thể sụp đổ, hắn mà sụp đổ, Hạ Tri Thư phải làm sao bây giờ."   Tưởng Văn Húc nhất định không tin, rằng Tri Thư của hắn đã không cần hắn nữa. Hắn tự lừa chính bản thân mình, rằng Hạ Tri Thư chắc chắn sẽ trở về bên hắn mà thôi. Cậu đã từng hứa sẽ vĩnh viễn không rời bỏ hắn cơ mà.   Tri Thư, em về đi, anh thật sự, nhớ em rất nhiều.   Nhưng mà Tri Thư vĩnh viễn không trở về đâu, cậu không muốn, cũng không thể trở về nữa rồi.   Ngày Tưởng Văn Húc biết tin Hạ Tri Thư không còn trên đời này nữa, hắn quỳ dưới cơn bão tuyết, cảm thấy thế giới xung quanh dường như mất đi tất cả sắc màu.   Khi đó, từng lời nói của Ngải Tử Du như từng mũi dao sắc nhọn đâm vào tim hắn. Phải, người hại Tri Thư đến nông nỗi này, chính là hắn chứ không phải ai khác. Trao cho cậu một chút ánh sáng rồi vô tình đẩy cậu xuống vực thẳm u ám tối tăm, là chính hắn đã sai ngay từ khi bắt đầu.   “Chân tướng sự thật không quan trọng như người ta tưởng, con người thích tình nguyện tin vào ảo giác để an ủi linh hồn mình hơn.”** Cho dù mọi chuyện rõ ràng trước mắt, Tưởng Văn Húc vẫn tự lừa mình dối người rằng Hạ Tri Thư chỉ đi xa một chút mà thôi. Vậy thì, hắn sẽ chờ cậu trở về, như lúc xưa cậu đã từng đợi chờ hắn.   Tri Thư, anh sẽ đợi em về, về nhà của chúng ta.   Không được ở bên Hạ Tri Thư ngoài đời thực, Tưởng Văn Húc khao khát được thấy cậu trong giấc mơ. Nhưng bây giờ, ngay cả nằm mơ hắn cũng không được gặp cậu nữa. Có lần Tưởng Văn Húc say mèm, lấy dao lam tự rạch lên người mình trong phòng tắm. Lúc mê man bất tỉnh, dường như hắn thấy Hạ Tri Thư trở về nhìn hắn, ánh mắt dịu dàng và xót xa. Từ ngày hôm ấy, hắn bắt đầu tự hại bản thân mình.   Nhưng Tưởng Văn Húc thấy như vậy vẫn chưa đủ, hắn muốn được nhìn cậu lâu hơn và rõ ràng hơn nữa. Nghe người ta nói nếu chơi ma tú* có thể thấy được ảo cảnh đẹp nhất, đáng mong chờ nhất, hắn đã tìm đến thứ bột trắng đáng sợ này. Tưởng Văn Húc giờ đây người không ra người quỷ không ra quỷ, khổ sở và đớn đau không kém gì Hạ Tri Thư ngày đó.   Có lúc Tưởng Văn Húc tự hỏi mình, rằng nếu hắn cứ chờ mãi mà Tri Thư vẫn không trở về thì sao? Vậy thì, hắn sẽ chờ thêm bốn năm nữa, lĩnh hội bốn năm khổ sở và đau đớn mà hắn đã gây ra cho cậu, sau đó hắn sẽ đi tìm cậu, nếu tìm được rồi, nhất định không buông tay nữa.   *****   "Mười năm yêu anh nhất" là một bộ truyện có motip không mới, nhưng thật sự đáng đọc vô cùng. Một câu chuyện tình yêu đã từng rất đẹp, lại vì thời gian mà trở nên phai nhạt, vì tiền tài và quyền lực mà người trong cuộc đổi thay, kết cục chỉ toàn đớn đau thương tổn.   Xin được chúc mừng và cảm ơn Vô Ninh Nghi Tử vì một tác phẩm đầu tay hay xuất sắc thế này. Văn phong của tác giả rất mượt, cũng rất buồn. Từng câu từng chữ dường như chất chứa biết bao hoài niệm, đầy vương vấn và lưu luyến, khiến người đọc không sao quên được.   Với tác phẩm này, mình có rất nhiều điều muốn nói. Nhưng vì khả năng ngôn ngữ có hạn nên xin phép dừng lại ở đây. Thật sự rất mong "Mười năm yêu anh nhất" sẽ được lan tỏa với nhiều người hơn, để tâm huyết và tài năng của tác giả có thể được công nhận nhiều hơn nữa. ______________   "...": Trích từ truyện "..."*: Trích "Tai Trái"- Nhiêu Tuyết Mạn "..."**: Trích "Ngoảnh lại hóa tro tàn" - Tân Di Ổ   Review by #Thiên Dung Hoa - fb/ReviewNgonTinh0105 *** Lúc ra khỏi bệnh viện tuyết đang rơi, bông tuyết lạnh lẽo và gió lạnh thổi qua mặt, khi đó Hạ Tri Thư mới chậm chạp nhận ra, hình như lại đến mùa đông rồi. Mùa đông ở Bắc Kinh thật lạnh. Hạ Tri Thư thuận tay sửa lại khăn quàng cổ, trong tay là vài tờ giấy xét nghiệm bị cậu vò nhăn nhúm. Lòng càng lạnh hơn. Cậu đứng ở trạm, chờ xe bus không biết lúc nào mới đến, ngón tay lạnh đến tái xanh. Cậu lấy điện thoại ra ấn số, lúc không có ai nhận lại ấn gọi lần nữa, hết lần này đến lần khác. Cuối cùng vẫn không ai bắt máy. Hạ Tri Thư vò mấy tờ giấy kia thành cục rồi ném vào thùng rác. Chờ hơn nửa tiếng rốt cuộc xe bus cũng tới, trên xe ít người lạ thường. Hạ Tri Thư tựa trán vào cửa kính, lại bấm điện thoại lần nữa, lần này đã có người nhận. “Hôm nay tuyết rơi rồi, mùa đông lại đến.” Mười bốn năm. Giọng Hạ Tri Thư bình tĩnh ôn hoà, nhưng nước mắt không kìm được tuôn đầy mặt. Tưởng Văn Húc ra hiệu im lặng với tình nhân bên cạnh, cảm thấy Hạ Tri Thư suốt ngày nói chuyện như đánh đố thực sự khiến người ta ghét: “Có chuyện gì? Anh đang tăng ca.” “Tối nay anh có về ăn cơm không? Lâu lắm rồi anh không về nhà.” Hạ Tri Thư vuốt ve chiếc nhẫn bạc trên ngón áp út phải, nhìn nước mắt nhỏ xuống mu bàn tay. Tưởng Văn Húc cảm thấy hôm nay Hạ Tri Thư rất kỳ lạ, đây chỉ là trực giác, dù sao hai người cũng đã ở với nhau mười bốn năm: “Em làm sao thế?” Hạ Tri Thư không trả lời, chỉ kiên trì hỏi lần nữa: “Tối nay anh có về không? Ngày tuyết rơi nên ăn sủi cảo, em sẽ làm cho anh.” “Thật sự không về được.” Tưởng Văn Húc bắt đầu thấy bực, ngữ khí không mặn không nhạt của Hạ Tri Thư làm hắn cũng mất khẩu vị: “Em cũng đừng làm, anh sẽ bảo Tiểu Tống đặt một phần cho em, anh cúp đây, bận lắm.” Hạ Tri Thư nghe tín hiệu báo bận trong điện thoại, lòng đau như cắt, chậm rãi nhét điện thoại vào túi. Sao lại có công ty mà ông chủ cũng phải bận đến mức không còn thời gian về nhà ăn cơm tối chứ? Tưởng Văn Húc có người ở ngoài, sao có khả năng cậu không biết? Bốn năm trước lòng Tưởng Văn Húc thay đổi, mẫn cảm thông tuệ như Hạ Tri Thư sao lại không phát giác được. Chỉ là Hạ Tri Thư vẫn mắt nhắm mắt mở, không phải cậu không để tâm, không phải không dám nói, cậu chỉ sợ một khi đã làm rõ thì đến chút danh dự cũng chẳng còn. Đây không phải là thứ tình ái thời niên thiếu khiến hormone kích động quá mức, đó là hơn mười năm trả giá và quen thuộc của cậu. Khoan dung như vậy sao lại không làm được? Hạ Tri Thư tự lừa dối mình, cậu không ngửi thấy mùi nước hoa phụ nữ trên người Tưởng Văn Húc, không nhìn thấy vệt son môi trên cổ áo sơ mi của hắn, không phá vỡ cái cớ vắng nhà sứt sẹo của người đàn ông cậu yêu nhất. Hai người họ đã từng yêu nhau đến vậy, sao bây giờ lại thành ra thế này? Rõ ràng là những năm đầu gian nan đến đâu họ cũng cố sức vượt qua hết mà. Đến trạm dừng, Hạ Tri Thư xuống xe, gương mặt ôn hoà như cũ, chỉ có đôi mắt của cậu hơi đỏ, và sắc mặt trắng bệch. Cậu không mua thức ăn, bây giờ Hạ Tri Thư cũng không còn khẩu vị nữa. Hôm nay cậu đã nỗ lực khẩn cầu Tưởng Văn Húc về nhà như thế… Bởi vì Hạ Tri Thư thật sự không chắc vào đêm tuyết đầu đông năm sau, mình và Tưởng Văn Húc còn có thể cùng ăn một bữa sủi cảo nữa hay không. Thư ký Tống tới rất nhanh, cậu ta mặc Âu phục, có vẻ mới từ công ty ra, tay cầm hộp cơm cung kính gọi Hạ tiên sinh. Hạ Tri Thư xấu hổ vung vung tay: “Sau này cậu cứ xử lý tốt chuyện trong công ty là được, đừng để mỗi ngày bị Tưởng Văn Húc bắt làm những việc vặt này.” Thư ký Tống cười nói: “Làm thư kí thì sao có chuyện không làm việc vặt gì được ạ, khổ chút thì mới có lương cao.” Cậu ta tuỳ tiện hàn huyên vài câu với Hạ Tri Thư rồi rời đi. Thư ký Tống đi rồi, Hạ Tri Thư ngồi bất động, bên bàn có đặt một hộp sủi cảo. Mười ba năm trước ngồi bên cái bàn này luôn là hai người. Mười năm trước cái bàn này bày đầy bột mì và nhân bánh, Tưởng Văn Húc cùng gói với cậu. Hắn nổi tính trẻ con gói rất nhiều tiền xu vào, luôn trách rằng tiền may mắn đều bị Hạ Tri Thư giành lấy, gói ít đi thì càng không giành được. Hạ Tri Thư quen tay cầm giấy ăn cạnh bàn lau sạch máu mũi đang trào ra. Cuối cùng cậu cũng rõ tại sao mình lại bị bệnh như vậy, may mắn của cậu chẳng phải đã tặng toàn bộ cho Tưởng Văn Húc rồi sao? Tất cả sủi cảo có tiền xu may mắn cậu đều lặng lẽ vớt cho Tưởng Văn Húc. Do đó một chút may mắn cậu cũng chẳng còn. Hộp sủi cảo này cậu chỉ ăn bốn cái, bốn mùa bình an, bốn cái là đủ rồi. Hạ Tri Thư hoảng hốt nghĩ, cậu hơi sốt nhẹ. Huyết áp tụt thấp khiến cậu rất mệt mỏi, ngủ một giấc sẽ ổn, đau lòng sẽ tan trong giấc ngủ dài, tịch mịch sẽ vỡ thành từng mảnh nhỏ. Mời các bạn đón đọc Mười Năm Yêu Anh Nhất của tác giả Vô Nghi Ninh Tử.