Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cung Đàn Báo Oán

Gia tộc Ichiyanagi vốn là gia tộc được chọn làm quản lý dịch trạm thời Edo. Vào đêm tân hôn của trưởng tộc, bỗng có tiếng hét quái dị cùng tiếng đàn vang lên từ căn biệt thất trong dinh thự của gia tộc. Tại hiện trường, đôi tân lang tân nương bị giết vô cùng tàn nhẫn, nằm sõng soài trong vũng máu. Phía đầu họ là cây đàn tranh gia bảo cùng tấm bình phong vàng còn lưu lại dấu tay ba ngón. Xung quanh biệt thất, tuyết phủ một vùng, biến hiện trường thành căn phòng kín hoàn toàn… Đây là tập truyện đầu tiên trong loạt truyện về thám tử Kindaichi Kosuke của tác giả Yokomizo Seishi. Ngoài “Cung đàn báo oán”, tập truyện còn bao gồm hai truyện ngắn “Tiếng động lạ trong giếng nước” và “Án mạng ở quán Mèo Mun”. *** Cung đàn báo oán (Yokomizo Seishi) – Tập truyện mở đầu của series thám tử Kindaichi Kosuke By Mọt Mọt -  Không kéo dài từ ngày này sang ngày khác, cũng không ẩn chứa những thảm án liên hoàn mà người người thám tử phải lần lượt chứng kiến, trải qua nhưng không thể ngăn chặn; Cung đàn báo oán, với vị thế là tác phẩm mở đầu cho series về vị thám tử tài năng Kindaichi Kosuke, lại là tập hợp của ba vụ án ngắn gọn, cô đọng hơn. Ba vụ án, ứng với ba truyện ngắn riêng biệt vừa mang tính giới thiệu, cũng vừa mang tính định hình phong cách sáng tác của Yokomizo Seishi, tác giả trinh thám nổi danh bậc nhất của thời kỳ trinh thám cổ điển Nhật Bản. Cuốn truyện trải qua hai lần mã hóa Trước hết, cần phải khẳng định lại một điều rằng, Cung đàn báo oán là một tập truyện gồm ba truyện ngắn khác nhau có tên: Cung đàn báo oán, Tiếng động lạ trong giếng nước, Án mạng ở quán Mèo Mun. Bởi cấu trúc cuốn sách như vậy nên tổng thể của tập truyện Cung đàn báo oánnói chung, mỗi truyện ở tác phẩm này nói riêng, đều không có được sự đồ sộ cả về mặt nội dung, tình tiết lẫn sự trải rộng về mặt thời gian sự kiện cùng thời gian phá án như Đảo ngục môn, Rìu, đàn, cúc hay Khúc ca tú cầu của ác quỷ, các tác phẩm thuộc thời kỳ sáng tác sau này của Yokomizo Seishi. Nhưng Cung đàn báo oán vẫn có điểm riêng đầy cuốn hút, từ đó tạo được chỗ đứng cho tác phẩm mở đầu của cả series về thám tử Kindaichi Kosuke. Vị thám tử nổi danh trong lịch sử văn học trinh thám cổ điển Nhật Bản, cái tên đã tạo lên nguồn cảm hứng vô tận cho các sáng tác trinh thám về sau; một bộ óc tài năng ẩn dưới vẻ ngoài có phần lôi thôi, tầm thường và là một sáng tạo văn chương độc đáo của Yokomizo tiên sinh. Điểm riêng đấy, xuất phát từ cách dẫn truyện khá thú vị được Yokomizo Seishi sử dụng xuyên suốt ba câu chuyện: cả tập truyện được xây dựng qua hai lần mã hóa liên tiếp. Tức trọn vẹn cuốn sách Cung đàn báo oán, cấu trúc tác phẩm không đơn thuần chỉ là truyện lồng truyện, án lồng án mà còn thể loại này lồng trong thể loại kia. Từ ấy, tạo lên sự phức điệu trong giọng kể, sự đa dạng ở điểm nhìn đồng thời nối kết ba truyện ngắn riêng biệt trong cùng một tổng thể mang tên: Thám tử Kindaichi Kosuke. Thật vậy, bản thân Cung đàn báo oán đã là một tác phẩm văn chương. Nhưng trước khi sáng tác ấy ra đời, xuất bản, chính tác giả Yokomizo Seishi đã một lần mã hóa tác phẩm bằng việc tự mình hóa thân thành một nhân vật của bộ truyện. Nhà văn viết tiểu thuyết trinh thám, tên Y, đi khắp nơi thu lượm các mẩu chuyện phá án ly kỳ rồi dựng thành trước tác hoàn chỉnh. Và theo lý giải như vậy, truyện về thám tử Kindaichi cũng chỉ là một phần trong kho tàng văn chương của con người đấy. Vì thế, ở tập truyện Cung đàn báo oán, vừa có giọng kể của “tôi”, nhân vật đứng ở điểm nhìn ngôi thứ nhất kể lại toàn bộ tiến trình anh biết tới vụ án; vừa có giọng kể của người kể chuyện, nhân vật đứng ở điểm nhìn ngôi thứ ba, điểm nhìn toàn tri hướng tới cả những tình tiết dầu là nhỏ nhất. Từ thảm án ở gia tộc Ichiyanagi, xảy ra ở làng Oka–, xóm Yamanotani, “tôi” chủ động đến tận hiện trường án mạng; tới án mạng ở gia tộc Honiden tại làng K và cỗ tử thi kinh hoàng trong quán Mèo Mun thuộc thị trấn G nhà Y “tôi” được nghe Kindaichi trực tiếp kể lại; tất cả đều được xây dựng theo cách thức đó. Cách thức mã hóa hai tác phẩm như vậy tựa một sợi chỉ đỏ xâu chuỗi ba án mạng riêng lẻ, dù không cùng nội dung nhưng lại cùng gặp nhau ở giao điểm mang tên: Kindaichi Kosuke trong chỉnh thể một tập truyện. Đồng thời tạo cho tập truyện Cung đàn báo oán hình thức như một cuốn tiểu thuyết ba chương và đưa tới cho độc giả cái nhìn toàn diện về con người Kindaichi. Chàng thanh niên mang danh thám tử nhưng vẻ ngoài lại lôi thôi, lếch thếch cùng những thói quen kỳ lạ. Song ẩn sau vẻ ngoài ấy là óc phán đoán sắc bén, sự nhạy cảm, tinh tế mãnh liệt trước mỗi vụ án hóc búa; làm cho người đối diện, đi từ ánh nhìn hoài nghi, ngờ vực đến tin tưởng tuyệt đối vào con người vẻ ngoài bình thường mà không hề tầm thường này. Ba vụ án, ba thủ pháp gây án riêng biệt Tuy nhiên, dù xoay quanh cùng một nhân vật trung tâm trong một tập truyện thì Cung đàn báo oán vẫn là tập hợp của ba truyện ngắn với ba vụ án riêng lẻ, xảy ra ở không gian khác nhau, bối cảnh khác nhau và ba hung thủ khác nhau, đã sử dụng ba thủ pháp riêng biệt để gây án. Mà từng thủ pháp ấy như đặc trưng cho một dạng thức chung vẫn thường xuất hiện trong tiểu thuyết trinh thám. Với Cung đàn báo oán là án mạng trong phòng kín, tại Tiếng động lạ trong giếng nước là một người hai vai, còn Án mạng ở quán Mèo Mun lại là tử thi không mặt. Nhưng dẫu có thể dễ dàng gọi rõ thể loại của mỗi vụ án mạng xuất hiện trên trang viết Cung đàn báo oán thì tác giả Yokomizo Seishi vẫn rất khéo léo trong việc dẫn dắt độc giả đến những bất ngờ liên tiếp tới tận khi tấm màn bí mật được vén lên. Và đó chính là chất riêng, khu biệt Cung đàn báo oán với các tác phẩm khác trong cùng series của Yokomizo Seishi và cả các tác phẩm trinh thám cổ điển trước kia hay cùng thời. Như ở Cung đàn báo oán, dù là án mạng trong phòng kín nhưng cuối cùng, sự thật phơi bày trước ánh sáng lại không phải là cách thức hung thủ đã vào phòng kín gây án bằng cách nào rồi thoát ra theo phương thức gì ngay trước mắt bao người chứng kiến. Mà điểm mấu chốt lại nằm ở nạn nhân, nghi phạm cùng thủ pháp gây án kì lạ mang đầy nét ma mị: tiếng đàn tranh lạc nhịp quái dị vang lên trong nhiều đêm liên tiếp. Án mạng trong phòng kín, vừa là án mạng nhưng lại cũng không phải án mạng. Điểm độc đáo của Cung đàn báo oán chính là ở điểm này. Hay như Tiếng động lạ trong giếng nước là trường hợp một người phải diễn hai vai: vừa là người này, cũng lại là người kia. Sự thật trong tiểu thuyết trinh thám từ cổ điển tới hiện đại, “một người hai vai” là dạng thức hết sức phổ biến, khi xuất hiện những cá nhân “vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ.” Nhưng trường hợp của Tiếng động lạ trong giếng nước, “một người hai vai” không chỉ đơn thuần như thế. Bởi vị “thám tử” trực tiếp phá giải vụ án trong câu chuyện này không phải Kindaichi mà chính là một người trong cuộc, cô bé Tsuyuro. Nhưng cũng vì là người trong cuộc, nên cô bé đã bị những ấn tượng ban đầu cùng tác động từ phía ngoài đánh lạc hướng, vô tình gán cho “hung thủ” danh tính khác. Và hung thủ, vô hình trung đã sống và đóng hai vai: vai của chính hắn và vai của người đồng đội, cũng là người em cùng cha khác mẹ đã hi sinh. Hoặc trong Án mạng ở quán Mèo Mun, thoạt trông, đây thật sự là vụ án “tử thi không mặt” điển hình bởi cỗ thi thể lúc được phát hiện đã bị phân hủy đến không thể nhận diện gương mặt. Tuy nhiên, sự việc không đơn giản như vậy bởi càng điều tra, cảnh sát càng như lạc trong mê cung danh tính nạn nhân: Shige hay Ayuko và hung thủ, là Ayuko hay Shige? Bởi, vụ án này, ngoài mang hình thức tử thi không mặt còn chứa đựng yếu tố “một người hai vai” khi hung thủ thật sự đã lợi dụng điểm mù của cả nạn nhân lẫn người điều tra để diễn trọn hai vai đúng “vừa là nạn nhân – vừa là hung thủ”. Chính chất riêng trong nét chung đã làm nên sự độc đáo cho ba vụ án xuất hiện trên trang văn Cung đàn báo oán. Nhất là khi ba câu chuyện không quá dài nên tính cô đọng, hàm súc, tiết tấu tác phẩm cũng nhanh chóng được đẩy lên cao trào. Và tất cả, càng góp phần tăng thêm chất “cổ điển” cho cuốn truyện trinh thám vốn đã mang đậm chất truyền thống ở lối viết tỉ mỉ trong cách hành văn, ở mỗi tấm sơ đồ được vẽ chi tiết này. *** Trước khi bắt tay viết câu chuyện này, bỗng dưng tôi lại muốn ngó qua dinh thự là nơi vụ án kinh hoàng kia đã xảy ra. Nên một chiều đầu xuân, tôi chống ba toong rời nhà, làm chuyến tản bộ tới đó. Tôi sơ tán về vùng nông thôn tỉnh Okayama này từ tháng Năm năm ngoái. Ở đây, hễ gặp dân làng, tôi lại được nghe kể về vụ án tiếng đàn sát nhân xảy ra với gia tộc Ichiyanagi. Vốn dĩ khi biết tôi là nhà văn trinh thám, mọi người thường kể cho tôi những vụ án giết người mà họ được mắt thấy tai nghe. Dân ở đây cũng vậy, song tình cờ tất cả luôn nhắc tới cùng một vụ. Thế thôi là đã đủ thấy vụ án này để lại ấn tượng sâu đậm nhường nào với dân địa phương. Tuy nhiên nhiều người trong số họ lại chưa biết đến điều kinh hoàng nhất của vụ án. Trong những vụ án tôi từng nghe, chẳng có mấy vụ thực sự thú vị như người kể tưởng, hay ít nhất là tôi chưa gặp được vụ nào đáng đem ra làm tư liệu viết tiểu thuyết. Tuy nhiên vụ này thì khác. Mới qua vài chi tiết vụn vặt, tôi đã rất hứng thú. Đến khi biết được chân tướng sự việc qua một người tường tận là anh F, tôi càng phấn khích hơn. Nó hoàn toàn khác với các vụ giết người thông thường, bởi kế hoạch của hung thủ vô cùng tỉ mỉ, hơn nữa còn là “án mạng trong phòng kín”. Nhà văn trinh thám nào chẳng muốn một lần viết về “án mạng trong phòng kín”. Thật khó cưỡng lại mong muốn phá giải vụ giết người xảy ra trong căn phòng nội bất xuất ngoại bất nhập, nên phần lớn họ đều thử sức với đề tài này ít nhất một lần. Theo lời anh bạn đáng kính Inoue Eizo[1], các tác phẩm của Dickson Carr[2] đều là biến thể của “án mạng trong phòng kín”. Tôi cũng mang danh nhà văn trinh thám, nên định sẽ thử sức khi có dịp. May thay, giờ tôi đã có cơ hội mà chẳng phải tốn công tốn sức. Xem ra tôi phải cảm ơn tên hung thủ tàn nhẫn máu lạnh, kẻ đã dùng phương cách đáng sợ để đâm đôi nam nữ kia. Lúc mới nghe chân tướng vụ án, tôi liền lục lại kí ức, xem trong số tiểu thuyết từng đọc đã xuất hiện tình tiết tương tự chưa. Đầu tiên là Bí mật căn phòng vàng của Leroux[3]. Sau đó đến Những chiếc răng cọp của Leblanc[4], Án mạng Canary[5] và Án mạng Kennel[6] của Van Dine[7], Vụ mưu sát tại biệt thự Plague Court[8] của Dickson Carr. Cuối cùng là một biến thể của án mạng trong phòng kín, Vụ thảm sát gia đình Angells[9] của Scarlett[10]. Nhưng tình tiết trong những tiểu thuyết ấy đều khác hẳn vụ này. Phải chăng hung thủ đã đọc hết chúng, giải mã từng thủ đoạn, rồi nhặt ra các yếu tố cần thiết, từ đó xây dựng cho mình một cách thức hoàn toàn mới? Dám lắm chứ! Nếu so sánh thì vụ án này có nhiều điểm tương đồng nhất với Bí mật căn phòng vàng. Tuy nhiên, điểm giống không phải chân tướng sự việc, mà là bầu không khí tại hiện trường. Gian phòng trong vụ án này không dán giấy tường màu vàng, mà thay vào đó, từ cột trụ, trần nhà cho đến xà ngang, cửa chớp đều sơn màu đỏ son. Thật ra nhà màu đỏ son không hiếm ở vùng này. Căn nhà tôi đang ở cũng thế, chỉ khác là khá cũ nên đã ngả sắc đen. Còn gian phòng hiện trường thì vừa được sơn sửa trước khi vụ án xảy ra, nên lúc đó hẳn vẫn đậm sắc đỏ. Chiếu và cửa trượt còn mới tinh, lại thêm bình phong dát vàng quây trước đôi nam nữ nằm trong vũng máu. Quang cảnh xem chừng vô cùng ấn tượng. Ngoài ra, tiếng đàn tranh xuyên suốt vụ án cũng là yếu tố bí ẩn lôi cuốn tôi. Mỗi lần xảy ra chuyện, tiếng đàn đều vang lên điên cuồng! Tôi vốn không bỏ được tính lãng mạn sến sẩm, nên thấy chi tiết đó có sức hút cực kì khó cưỡng. Giết người trong phòng kín, căn phòng tuyền đỏ son, và tiếng đàn… Vụ án này có quá đủ yếu tố để trở thành tiểu thuyết, nên nếu không viết ra, tôi thật chẳng đáng mặt nhà văn nữa. Hơi lan man rồi. Nhà tôi cách hiện trường vụ án là dinh thự gia tộc Ichiyanagi khoảng mười lăm phút đi bộ. Dinh thự nằm ở làng Oka—, xóm Yamanotani. Y như cái tên, xóm này có ba mặt giáp núi[11], núi non không cao lắm, uốn lượn tựa chân loài sao biển vươn ra vùng đồng bằng. Và ở một mũi chân của sao biển chính là dinh thự rộng lớn của gia tộc Ichiyanagi. Phía Tây dãy núi “chân sao biển” kể trên có một dòng suối, còn phía Đông là con đường nhỏ dẫn sang làng Ku—, xuống tới vùng đồng bằng không bao xa thì dòng suối giao với con đường, tạo nên khu đất hình tam giác méo mó, diện tích hơn sáu nghìn năm trăm mét vuông. Dinh thự gia tộc Ichiyanagi nằm trên khu đất đó, Bắc giáp rìa núi, Tây sát dòng suối, Đông nhìn ra con đường dẫn tới làng Ku—. Cổng chính của dinh thự dĩ nhiên hướng ra con đường này. Đầu tiên, tôi đi đến trước cổng chính của dinh thự. Cánh cổng lớn màu đen gắn nhũ sắt[12], hai bên là tường bao sừng sững, dài hơn hai trăm mét. Nhòm qua cổng thì thấy bên trong lớp tường ngoài còn một lớp tường nữa che kín khuôn viên dinh thự. Quả là nhà quyền thế. Tôi bèn vòng sang mạn Tây, men theo dòng suối ngược lên phía Bắc. Đến chỗ cuối bức tường bao, tôi băng qua cây cầu đất đằng sau cái guồng nước hỏng để lên vách núi nằm ở phía Bắc, nơi có một rừng tre. Tôi len vào bụi tre rậm rạp ở rìa vách để nhìn về phía Nam. Cảnh trí khu dinh thự thu hết vào tầm mắt. Trước hết, tôi để mắt tới mái căn biệt thất nằm ngay dưới vách núi. Án mạng xảy ra ngay dưới lớp mái này. Nghe nói đây vốn là nơi gia chủ đời trước xây để ẩn cư dưỡng già. Bên trong có một gian tám chiếu và một gian sáu chiếu. Biệt thất dẫu nhỏ song vẫn là nơi ẩn cư, nên sân vườn được thiết kế rất kì công, từ Nam qua Tây bày trí nhiều cây cảnh và non bộ tới mức hơi quá đà. Chuyện về biệt thất sau này tôi sẽ kể chi tiết hơn, còn giờ thì phóng tiếp tầm mắt về phía Nam sẽ thấy căn nhà chính một tầng rộng rãi quay mặt về hướng Đông, tiếp đến là nhà của chi thứ, nhà kho hay lán nằm không theo quy tắc. Nhà chính được ngăn cách với biệt thất bằng hàng rào tre, thông nhau chỉ qua một cánh cửa tre nhỏ. Cả rào lẫn cửa tre giờ đều đã hư hỏng nặng, không sao nhìn ra hình dạng ban đầu, nhưng lúc vụ án xảy ra thì hẵng còn mới và kiên cố. Chính chúng đã ngăn mọi người từ nhà chính ập tới hiện trường ngay sau khi nghe thấy tiếng la hét. Vậy là đã nhìn bao quát xong một lượt dinh thự gia tộc Ichiyanagi nên tôi rời bụi tre, qua ủy ban làng Oka—. Ủy ban nằm ở mé Nam của làng, mấy dãy nhà dân chạy tới đây là hết. Từ đây đi tiếp về phía Nam cho tới khi gặp làng Kawa sẽ toàn là đồng ruộng. Giữa các cánh đồng là con đường thẳng tắp, rộng độ ba, bốn mét. Cứ thẳng đường này đi bộ khoảng bốn mươi phút sẽ tới ga tàu hỏa, Vì thế, những người ngồi tàu tới đây sau đó muốn vào làng thì kiểu gì cũng phải đi theo con đường này, qua phía trước ủy ban. Đối diện ủy ban là một căn nhà có phần nền đất[13] rộng, mặt ngoài lắp cửa kính thô sơ. Đây vốn là một tiệm cơm nhỏ, nơi nghỉ chân dành cho dân thồ hàng bằng ngựa. Tiệm cơm này liên hệ mật thiết với vụ án mạng xảy ra tại dinh thự Ichiyanagi, bởi là nơi đầu tiên người đàn ông bí ẩn với bàn tay phải chỉ có ba ngón ghé vào. Chuyện bắt đầu vào chiều tối 23 tháng Mười một năm 1937, hai ngày trước khi án mạng xảy ra. Bên ngoài tiệm cơm, bà chủ tiệm ngồi ghế gấp, đang tán gẫu với một cán bộ ủy ban và một dân thồ hàng là khách quen. Bỗng từ hướng làng Kawa có người đàn ông lê bước tới. “Xin hỏi đi lối nào thì tới được nhà Ichiyanagi ạ?” Đang nói dở câu chuyện, nghe hỏi, bà chủ tiệm, viên cán bộ ủy ban và tay dân thồ hàng bèn cùng quan sát trang phục của người đàn ông rồi nhìn nhau. Cả ba đều thấy lạ vì hắn có vẻ ngoài vô cùng nhếch nhác, chẳng ra dáng có quan hệ với gia tộc lớn như Ichiyanagi chút nào. Đầu đội mũ tai bèo nhăn nhúm, mặt đeo khẩu trang to, tóc tai bờm xờm thò ra bên dưới mũ, râu ria lởm chởm từ cằm lên tới má, dáng vẻ cực đáng nghi. Hắn không mặc áo khoác nhưng cổ chiếc áo đang mặc lại cài kín như sợ lạnh. Áo quần đầy bụi bẩn, vị trí khuỷu tay và đầu gối bị mài đến bạc phếch. Đôi giày há mõm, bụi bám trắng bệch. Trông hắn cực kì mệt mỏi, tuổi độ trên dưới ba mươi. “Nhà Ichiyanagi đằng kia kìa, nhưng cậu tìm nhà ấy có việc gì?” Trước ánh nhìn chòng chọc của viên cán bộ ủy ban, người đàn ông chớp mắt như bị chói, miệng lẩm bẩm gì đó sau lớp khẩu trang. Đúng lúc ấy, cũng từ hướng làng Kawa—, một chiếc xe kéo chạy ngang qua. Bà chủ tiệm thấy thế liền bảo, “Này cậu gì ơi, gia chủ nhà Ichiyanagi mà cậu hỏi vừa mới đi qua đấy.” Ngồi trên xe là một người đàn ông trạc tứ tuần, da ngăm, vẻ mặt nghiêm nghị. Anh ta mặc âu phục đen, ngồi ngay ngắn, mắt nhìn thẳng, không hề ngó ngang liếc dọc. Má hóp, mũi thẳng cao, trông qua có vẻ khó gần. Đó chính là Kenzo, gia chủ nhà Ichiyanagi. Chiếc xe kéo chở anh ta chạy ngang qua trước mặt mấy người kia rồi mất hút ở ngã rẽ. “Bà chủ này, nghe nói gia chủ nhà Ichiyanagi sắp lấy vợ. Có thật không?” Không thấy bóng dáng xe kéo đâu nữa, tay dân thồ hàng mới hỏi. “Thật đấy. Nghe bảo ngày kia là tổ chức đám cưới rồi.” Mời các bạn mượn đọc sách Cung Đàn Báo Oán của tác giả Yokomizo Seishi & Hoài Đan (dịch). 

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Đàn Bà Đáng Ngờ - Erle Stanley Gardner
Cô Ambler cứ nằng nặc đề nghị vạch bụng cho luật sư trứ danh Perry Mason xem vết sẹo với sự chứng kiến của nhà thám tử tài ba Paul Drake. Ngay sau đó Ambler ra phi trường Los Angeles bắn ba phát súng đạn giả ở nơi đông người rồi chạy biến vào khu vệ sinh. Cảnh sát ập tới bắt được một cô gái có thân hình, mặt mày, trang phục giống hệt như Ambler nhưng lại là - cô gái triệu phú Minerva Minden …  *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) *** Cô Della Street - thư ký riêng của Perry Mason - bước vào văn phòng và nói: - Trong văn phòng của luật sư, người ta thấy có quá nhiều chuyện kỳ cục. - Thật ư? Nhưng sao cô lại có ý kiến như vậy? - Có một cô Dorrie Ambler nào đó. Cô ta đang ngồi ở phòng đợi và mong muốn gặp ông. - Cô ấy bao nhiêu tuổi? - Khoảng 23 hay 24. Trẻ, khỏe, đẹp, trải đời rồi. - Thế cô ta đã nói gì để cô có nhận xét như vậy? - Cô ta vừa mổ ruột thừa và muốn vạch bụng cho ông xem vết sẹo. - Để kiện người giải phẫu ư? - Không, hoàn toàn không phải như thế. Cô ta nghĩ là việc nhận dạng của cô không được chắc chắn lắm nên khi cho ông xem vết sẹo, cô ta muốn ông cấp một bản xác nhận chứng tỏ cô là ai hay chính xác hơn cô khòng phải là ai đó. - Một chuyện đùa giỡn hay một âm mưu làm tiền đây? Chắc chắn là tôi không cho một cô gái trẻ cởi quần áo trong văn phòng của tôi để… - Cô ta đề nghị tiến hành việc đó trước mặt một người làm chứng. Trong đám người khoái chứng kiến cái cảnh như vậy có ông Paul Drake. Tôi mời ông ta đến nhé? - Della, khoan hãy gọi vội, chờ tôi nói chuyện một chút với cô Ambler nào đó đã… - Trước khi đưa cô ta vào gặp ông, tôi xin báo trước với ông một việc… - Việc gì? - Trong túi xách của cô ta có một khẩu súng lục. - Làm sao cô biết? - Gertie, cô gái phụ trách tổng đài tuyệt vời của chúng ta đã báo cho tôi điều đó. Trong khi chọn xem một tờ tạp chí, cô Ambler đã để rơi chiếc xắc xuống sàn. Tiếng rơi nghe thật nặng và cô ta giật mình lo ngại nhìn quanh xem có ai chú ý đến điều đó không. Gertie kết luận vật nặng trong xách phải là một khẩu súng. Luật sư nói với vẻ hăng hái: - Ai mà được biết trước thì sẽ cẩn thận gấp đôi, Della, cô cứ dẫn cô ta vào đây. Dorrie Ambler đúng là một cô gái thật đẹp, cô có mái tóc màu hung, đôi mắt màu hạt dẻ. - Ồ! Thưa ông luật sư Mason, ông thật là khả ái mới vui lòng tiếp đón tôi… - Mời cô ngồi, thưa cô… Theo tôi hiểu thì cô cần gặp tôi để nhờ xác định căn cước của cô phải không? Ý cô muốn nhờ tôi chứng nhận cô đúng là cô chứ gì? - Dạ vâng. - Vì lý do gì cô phải làm như vậy? - Có kẻ định làm tôi lẫn lộn với một người khác. Mason liếc nhìn Della Street và chỉ rõ: - Dấu vân tay của cô là cách tốt nhất để tránh chuvện đó. Cô gái trẻ kêu lên như bị xúc phạm: - Ồ! Biện pháp đó làm tôi có cảm giác như mình là kẻ phạm tội. Mason lắc đầu: - Không đâu! Cô chỉ việc gửi dấu vân tay đến cơ quan F.B.I đề nghị họ xếp vào hồ sơ loại không phạm tội. Đó là cách thức quen thuộc mọi người đều làm như vậy vì nó giúp cho nhà chức trách biện pháp nhận dạng một cách chính qui. - Biện pháp đó có mất nhiều thời gian không? - Lấy dấu tay của cô và gửi đến F.B.I ấy à? Ồ! Không lâu đâu. - Tôi ngại mất nhiều thời gian… Do đó tôi mới đến xin gặp ông… Tôi muốn… ơ… ông xem vết sẹo tôi vừa mổ ruột thừa. Lại một lần nữa Mason trao đồi ánh mắt với Della Street. - Này cô Ambler, tôi muốn biết thực sự cô có ý định gì? Ambler trịnh trọng nói: - Sau này nếu khi gặp lại lôi, ông có nhận ra tôi không? - Tôi nghĩ rằng có. - Thế còn cô, thưa cô Street? - Ồ! Chắc chắn như vậy - Della Street gật đầu xác nhận. - Nhưng trong trường hợp như thế này, ai cùng muốn có một sự xác nhận thật đảm bảo. Tôi biết khi cần phải xác nhận căn cước của một người, người ta thường hay dùng đến vết sẹo. Như vậy tôi cũng có một vết… - Và cô muốn cho chúng tôi xem? - Vâng, nhưng cần phải có một người khác chứng kiến vì theo tôi hiểu thì một vị luật sư không thể làm chứng cho khách hàng phải không ạ? Mason xác nhận: - Đúng vậy, luật sư không thể làm chứng cho thân chủ được. Luật sư nhìn cô thư ký và nói tiếp: - Nếu cô muốn, chúng tôi mời ông Paul Drake, giám đốc hãng trinh thám Drake làm chứng. Văn phòng của ông ta ở ngay bên cạnh trong cùng mội lầu, tôi hay nhờ ông ta cộng tác trong công việc. Dorrie hơi lưỡng lự nói: - Một phụ nữ làm chứng thì tốt hơn. Nhưng thôi thưa ông Mason, tôi hoàn toàn tin tưởng ở ông và để tùy ông quyết định. Luật sư nói với cô thư ký: - Tôi ghi vài chữ đề nghị ông ta giúp đỡ. Della, cô đưa mảnh giấy nầy cho ông Paul Drake. Trên mảnh giấy, Mason ghi vội: Anh Paul thân! Cô Della sẽ kể cho anh nghe câu chuyện nhưng tôi muốn anh cử một hay nhiều nhân viên, theo dõi cô gái khi cô ta rời khỏi văn phòng của tôi. Việc theo dõi cứ tiến hành cho đến khi có lệnh mới của tôi. Còn Della, cô cố thử xem trong túi xách của cô gái có súng không. Ông đưa mảnh giấy cho Della và cô biến nhanh qua cửa thông ra hành lang. Vắt chéo đôi chân tuyệt đẹp, Dorrie Ambler nhìn ông vẻ thăm dò và hỏi: - Thưa ông luật sư Mason, chắc ông lấy làm lạ về tôi lắm nhỉ? - Phải nói là hơi không bình thường một chút. - Tôi ngại có kẻ định dùng tôi làm một thứ để tế thần. Luật sư cười: - Đối với cô, chữ con dê không thích hợp. Phải gọi là con nai mới tương xứng. - Con nai tế thần? - Cô Ambler nhắc lại. – Vâng, chữ dùng thật đẹp nhưng tôi không thể chịu để sử dụng như thế. - Cô Ambler, chắc chắn như vậy rồi. Chính tôi cũng không chịu ở vào một tình trạng rắc rối như thế… Cô đã ghi địa chỉ cho cô thư ký của tôi rồi chứ? - Vâng… Ơ… tôi đã cho cô trực tổng đài biết. - À cô Gertie… Cô sống ở đâu nhỉ? - Chung cư Parkhurst, căn hộ số 907. - Cô có chồng, sống độc thân hay đã ly hôn? - Độc thân. - Chủ nhà hay người quản lý ngôi nhà có thể nhận dạng cô được chứ? Cô gái gật đầu xác nhận. - Cô ở đó được bao lâu rồi? - Ồ! Khoảng 6 tháng thì phải. - Cô có bằng lái xe hơi không? - Dạ có. - Cho tôi xem qua được chứ? Dorrie Ambler mở xắc lấy bằng lái xe. Perry Mason dù chú ý nhưng không thể nhìn thấy trong đó có gì. ­Ông chăm chú xem tấm bằng và nhận xét: - Bằng này đã cấp được 5 tháng. - Vâng, nhằm đúng vào ngày sinh của tôi. Thế là ông đã biết tuổi tôi rồi đấy. - Hồi đó sao cô không phản đối chuyện lấy dấu tay vì theo đúng quy định của bang Californie, dấu ngón tay cái của cô đã in vào tấm bằng rồi? - Thưa ông Mason, ông hiểu sai lời tôi rồi. Tôi không phản đối chuyện lấy dấu tay mà chỉ không thích được gửi đến F.B.I thôi. - Nhưng dầu sao dấu ngón tay cái của cô cũng đủ để xác định căn cước của cô một cách tốt nhất rồi. Cô gái nhìn vào ngón tay cái và nói: - Thưa ông luật sư Mason, ông xem dấu tay có rành không ạ? - Không, nhưng ông Paul Drake đúng là một chuyên viên trong lĩnh vực đó đấy. Còn tôi, tôi chỉ có khả năng so sánh các dấu vân tay thôi. Trên người cô còn vết sẹo nào khác nữa không? - Dạ không. Chỉ có một vết mổ ruột thừa thôi. Della và Paul Drake cùng đi vào. Mason giới thiệu nhà thám tử tư với cô Ambler rồi giải thích: - Paul, sự việc hơi đặc biệt một chút. Cô gái này muốn một người xác định căn cước của cô. Cô đề nghị anh quan sát cô thật kỹ và xem vết sẹo cô mới mổ ruột thừa. Drake trịnh trọng nói: - Được rồi. - Tôi vừa giải thích dấu ngón tay cái của cô trên tấm bằng lái xe do bang Californie cấp là đủ xác định nhận dạng của cô một cách hợp pháp rồi. Drake nói: - Dĩ nhiên như vậy rồi, dấu ngón tay cái đủ xác định căn cước nhưng nếu cô cứ thích… - Vâng đúng đấy ạ. - Dorrie Ambler hăng hái nói chen vào. Nếu ông muốn so sánh vân ngón tay cái với dấu tay trên tấm bằng thì đây… Nhưng tôi không muốn ấn ngón tay cái vào mực dấu đâu. Tôi có cảm tưởng như mình là một kẻ phạm tội. Ông có thể so sánh chính ngón tay cái với dấu tay trên tấm bằng được chứ ạ? Drake lấy trong túi ra một chiếc kính lúp: - Được, nhưng làm thế hơi mất thì giờ. Thật giản dị nếu như… Cô Ambler cười gượng gạo và nói van vỉ: - Không, tôi xin ông! Không dùng mực! Nhà thám tử gật đầu: - Tùy ý cô thôi! Paul chăm chú so sánh vân ngón tay cái với dấu tay trên tấm bằng trong một lúc rồi quay lại Mason, anh gật đầu nói: - Ok.Cô gái này đúng là Dorrie Ambler. Nào bây giờ cô cho tôi xem vết sẹo. Cô gái vội đứng lên đi ra góc phòng: - Tôi không thích đứng ở cạnh cửa sổ. Sau khi cởi áo Jakét mặc ngoài, cô vén cao áo trong lên để lộ một ít da trắng nõn phía trên chiếc váy nhưng lại bối rối thả vội áo xuống. Mason nói: - Dấu ngón tay cái là đủ rồi. - Không, không, tôi muốn ông… (Cô lại cười gượng). Thôi được, một vị luật sư cũng như một vị thầy thuốc thôi. Tôi đã quen cởi quần áo trước mặt bác sĩ riêng rồi. Cô kéo fermeture để vạch ra phần trên cái váy và vén áo lên. Trong vài giây, cô để ba người xem một vết sẹo đỏ trên làn da mượt như nhung. Rồi vừa lắc đầu cô vừa vội kéo váy lên và nói to: - Tôi không biết vì sao nhưng có cảm giác bối rối ghê gớm như ở tư thế hoàn toàn khỏa thân ấy. - Cô cứ yên tâm, - Drake nói, - trong vài tháng, khi vết sẹo không còn nữa, nó sẽ lặn mất gần như chẳng nhìn thấy đâu. Dầu sao chúng tôi cũng đã xem và với vết sẹo cùng dấu ngón tay cái, tôi có thể xác nhận nhận dạng cho cô. - Vâng, đó chính là điều tôi đề nghị. Trong khi cô Ambler quay mặt vô phía tường để chỉnh đốn lại y phục, Della lợi dụng thời cơ mở túi xách của cô gái rồi đóng lại sau khi đã liếc nhìn qua. Bắt gặp ánh mắt của Mason cô khe khẽ gật đầu. - Paul! Thế anh sẵn sàng chứng nhận cô gái này đúng là Dorrie Ambler chứ? - Vâng, nhưng tôi muốn biết chuyện này để làm gì vậy? - Tôi cũng thế! - Dorrie Ambler nói chen vào. - Tôi chỉ biết có một người giống tôi như đúc hay là người ta cố tạo ra tôi giộng hệt cô ta và… và tôi thấy sợ… Mason hỏi: - Làm sao người ta có thể buộc cô trở thành một người giống như đúc người khác được? - Vâng, bộ quần áo tôi mặc trên người kể cả tất, đồ lót đều là của người ta đưa cho tôi. Và tôi phải làm theo đúng lời chỉ dẫn của họ. Mason hỏi: - Trên quần áo có dấu hiệu của nhà giặt ủi hay của hiệu nhuộm nào không? - Tôi không chú ý đến chuyện đó… - Có thể nó có ích đấy. Chắc chắn cần phải nhờ ánh đèn rọi qua nhưng… - Ồ! Thưa ông Mason, tôi có một kế hoạch nho nhỏ cần làm gấp. Vì vậy, tôi sẽ xin gặp lại ông sau… - Kế hoạch gì vậy? Dorrie Ambler lắc đầu: - Chắc chắn ông sẽ phản đối kế hoạch đó nên tôi chưa cho ông biết vội, vì tôi muốn buộc họ phải lộ mặt. Bỗng cô cấm lấy túi xách và đưa tay xem giờ: - Thưa ông luật sư Mason, tôi phải trả bao nhiêu tiền? - Cô Ambler, cô thư ký sẽ đưa cô tờ hóa đơn 10 đôla. Khi cánh cửa tiền phòng khép lại sau lưng hai cô gái. Mason quay lại hỏi Drake: - Anh cử người theo dõi cô ta rồi chứ? - Rồi, một cậu trong số những nhân viên có năng lực nhất của tôi: Jerry Nelson. Ngoài ra tôi đã cử một cậu khác ngồi trong xe hơi. Trời đất! Cô gái này mới đẹp làm sao! Theo anh thì đây là chuyện gì vậy? - Tôi cũng đang suy nghĩ… Có thể người ta định biến cô gái này thành một cô gái khác để dễ dàng trong việc ly hôn. Tôi phải chờ người của anh gửi báo cáo đến mới có thể phán đoán được. - Ồ, chắc chắn lúc này cô ta về tới nhà rồi… Drake kêu lên: - Sao, anh nói sao? - Đúng đấy, Gertie có linh cảm như vậy và Della đã kiểm tra chuyện đó khi mở xắc ra. Lúc anh cứ đứng ngây người vì làn da cô ta ấy. - Perry, khi nào lại có khách hàng muốn biểu diễn ‘màn thoát y’ anh nhớ gọi tôi nhé. Anh biết đấy, tôi rất khoái giúp đỡ anh trông công việc mà. Khi Della quay lại phòng, Mason hỏi cô: - Cô ta đi rồi chứ? - Vâng. - Cô có nhìn thấy khẩu súng không? - Có, tôi thấy súng được lắp đạn nhưng là đạn giả. Tôi nhìn thấy rõ ổ đạn chứa toàn đạn không đầu. Đó là khẩu súng nhỏ, chắc thuộc cỡ 22 ly. Drake huýt một tiếng sáo dài, Mason hỏi thêm: - Cô đưa cho cô ta phiếu nhận 10 đôla rồi chứ? - Vâng, đó là tiền dịch vụ. Cô ta muốn đưa thêm cho tôi một số liền 100 đôla nói là để trả cho những việc sau này, nhưng tôi bảo không có quyền nhận, cô ta cần phải trao đổi với ông trước đã. Cô ta nói Ià không hề chi và liền sau đó, cô ta vội vã đi ngay vì đã đến giờ… Mason trầm ngâm nói: - Hy vọng trong kế hoạch của cô ta không xảy ra vụ giết người. Dĩ nhiên cô ta không thể thực hiện nổi chuyện đó với loại đạn giả, nhưng này, Paul, có cái gì đó thầm mách bảo cho tôi biết bản báo cáo của Jerry Nelson và người cộng tác của anh ta không thuộc loại báo cáo bình thường. Anh hãy cho tôi biết ngay khi họ đem tin tức về. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #69: Người Đàn Bà Đáng Ngờ của tác giả Erle Stanley Gardner.
Cái Chết Từ Trên Trời - James H. Chase
Truyện hình sự với khá nhiều án mạng, hung thủ là một ông trùm xã hội đen. Nhân vật chính diện là cảnh sát Conrad, lần này không phải là một anh hùng hào hoa đẹp trai với các cô nàng vây quanh, cũng không phải là một tay thám tử cừ khôi bách trận bách thắng. Nữ chính là nạn nhân, được nam chính bảo vệ nhưng không yêu nam chính. Vì không phải nam chính bách trận bách thắng nên kết thúc là không bảo vệ được nữ chính. Nàng chết. Hung thủ không bị bắt. Và kẻ chiến thắng là một tên sát thủ cừ khôi. *** Tiếng chuông điện thoại réo gắt vào lúc Janey Conrad đang bước vội xuống cầu thang. Cô mặc chiếc áo dạ hội vừa may màu xanh da trời, kiểu mới nhất. Tiếng chuông khiến cô dừng phắt lại, nét mặt đang hân hoan vụt trở nên cau có, thay đổi thật đột ngột như khi ta bấm vào một nút điện. Cô cất giọng lạnh lùng và bình tĩnh thường có vào lúc nổi giận. — Paul, chớ có trả lời! Chồng cô từ phòng khách bước ra. Anh khoảng ba mươi lăm tuổi, cao lớn và rắn chắc, mặc bộ smoking, tay cầm chiếc mũ dạ mềm. Lúc Janey mới quen, cô ngạc nhiên thấy anh giống kép James Stewart quá chừng và chính vì thế mà cô đồng ý lấy anh. — Nhưng anh phải trả lời, biết đâu họ cần đến anh, - anh nói với giọng dịu dàng kéo dài. Paul bước về phía điện thoại và cầm ống lên. Anh mỉm cười với vợ và giơ tay ra dấu im lặng. — Alô! — Paul đấy à? Bardin đây! Câu nói của viên thanh tra vang lên trong tai Paul và vọng ra ngoài khoảng im vắng của phòng chờ. Vừa nghe được giọng nói đó, Janey nắm chặt tay lại. Bardin tiếp: — Anh phải nhập cuộc rồi. Một cái lò sát sinh nơi biệt thự “Ngõ Cụt” của June Arnot. Xác ngập đến cổ, trong đó có cả nàng tiên kiều diễm June. Trời ơi! Một vụ sôi động! Bao lâu thì anh đến được? Conrad nhăn mặt và liếc nhìn Janey. Anh thấy bước chân cô cứng nhắc tiến về phía phòng khách. Anh nói: — Được rồi, tôi đến ngay. — Tốt. Tôi sẽ không để ai đụng chạm gì trước khi anh đến. Tôi cần anh trước khi bọn nhà báo nhao nhao đến quấy rầy. — Tôi đi ngay, - Conrad nhắc lại rồi cúp máy. — Cứt! - Janey nói nhỏ. Cô đứng trước lò sưởi quay lưng về phía anh. — Xin lỗi Janey, anh phải đi ngay. — Cứt! Cứt! - Janey nói mà không lên giọng. - Lúc nào cũng chỉ có chừng ấy chuyện thôi, với mấy thằng khốn thám tử của anh. — Nào! Janey. Thật đáng tiếc nhưng biết làm sao. Anh hứa là tối mai sẽ đưa em đi. Janey nghiêng mình về phía trước và vung tay gạt văng mớ đồ đạc, ảnh lồng khung, cả cái đồng hồ trên mặt lò sưởi. Conrad nhào vào phòng. — Janey! Đủ rồi! — Anh đi đi! - Janey vẫn một giọng trầm lặng. (Cô nhìn hình Conrad trong gương, mắt sáng lên vẻ thù ghét). - Anh cứ chơi cái trò bắt cướp đi. Không cần phải lo đến tôi nhưng đừng hy vọng thấy tôi lúc trở về. Từ nay về sau, tôi sẽ đi chơi một mình. — Này Janey, June Arnot vừa bị ám sát đấy. Anh phải đến đó ngay. Em nghe đấy, mai anh sẽ dẫn em đi đến nhà hàng Quốc Tế. Chịu không? — Chừng nào mà còn cái điện thoại chết tiệt trong phòng thì chúng ta không thể nào còn đi chung với nhau được nữa, - Janey nói giọng chua chát. - Paul, tôi cần tiền. Anh nhìn cô: — Nhưng mà, Janey... — Tôi muốn lấy tiền ngay tức khắc! Nếu anh không đưa thì tôi mang đồ đi cầm và chắc chắn không phải là thứ của tôi đâu. Conrad nhún vai. Anh lấy tờ 10 đôla đưa ra. — Được rồi, Janey. Nếu em quyết định như thế thì... Sao em không gọi điện cho Beth? Đi chơi một mình thật là ngốc. Janey cất tiền, ngước mắt nhìn anh rồi quay lưng đi. Conrad hoảng kinh khi nhận ra ánh mắt của vợ thật dửng dưng. — Anh chớ lo cho tôi. Cứ việc lo tới cái vụ giết chóc quái quỉ này đi. Một mình tôi cũng đủ rồi. Conrad định nói nhưng kịp ngừng lại. Một khi cô tỏ thái độ như thế thì khó mà nói chuyện phải trái được. Anh bình tĩnh hỏi: — Em đi đâu, tiện đường xe anh... — Ồ! Đi cho khuất mắt, - Janey chận lại và bước ra phía cửa sổ. Conrad mím chặt môi, bước ra ngoài phòng chờ, đẩy cửa lớn và đi nhanh về phía xe. Trong lúc lướt mình ngồi vào sau tay lái, anh cảm thấy một mối lo âu đến nghẹn lời. Anh không chịu chấp nhận dẫu biết rằng giữa anh và Janey đang nảy sinh rạn nứt. Hai người lấy nhau bao lâu rồi? Anh nhíu mày và ấn vào nút phát động xe. Gần ba năm thôi. Năm thứ nhất thật êm đẹp. Nhưng vào lúc đó anh chưa phải là điều tra viên chính thức của phòng Biện lý. Anh làm việc theo giờ giấc và tối nào cũng có thể đi chơi với Janey được. Khi anh được lên chức, cô đã rất hân hoan. Chỉ một sớm một chiều, lương anh tăng gấp đôi và hai vợ chồng rời căn hộ ba gian ở đường Wentworth để dọn đến căn nhà xinh xắn bungalow ở đất Hayland trong một khu sang trọng. Nhưng rồi Janey không còn hài lòng khi nhận thấy anh có thể bị gọi đi bất cứ sớm tối. Cô nói: — Anh là điều tra viên chính thức mà cứ hùng hục làm như một tên cớm hạng bét. — Nhưng anh là thám tử, thám tử đặc biệt cho biện lý cục khi xảy ra vụ việc quan trọng, lẽ tất nhiên anh phải có mặt, - Conrad kiên nhẫn giải thích với vợ như thế. Lúc đầu thì Paul không cho những lời cằn nhằn ấy là quan trọng vì mấy cú điện thoại bất ngờ làm hỏng cuộc vui buổi tối, nếu cô giận thì cũng là tự nhiên thôi. Tuy thông cảm nhưng Conrad vẫn mong cô vợ biết điều hơn. Nhưng Janey không chịu. Các vụ cằn nhằn ấy chuyển dần qua cãi vã lớn tiếng làm anh đâm ngán. Nhưng đây là lần đầu tiên Janey đòi anh đưa tiền để đi chơi tối một mình. Hơn bao giờ hết, Conrad lo ngại về tình hình mới xuất hiện này, Janey nom ngon mắt quá, đi chơi một mình không được. Conrad biết tính vợ mình dễ nhẹ dạ sinh chuyện. Có nhiều lúc vô ý, cô thốt những lời lẽ khiến anh biết trước kia cô đã từng qua những thời kỳ sống buông thả. Anh đã quyết không coi quá khứ của cô là quan trọng nhưng bây giờ khi nhớ lại những lời vợ kể vanh vách những cuộc vui, tên một vài người bạn cũ mà cô vung ra trong những lúc tức giận, anh lại thấy hơi khó chịu và cứ tự hỏi không biết cô có lại tìm thú đi hoang nữa không. Janey chỉ mới 24 tuổi, luôn luôn đòi hỏi, mà anh thì cái việc chăn gối chỉ ở mức trung bình. Với đôi mắt lá răm, mái tóc vàng óng, làn da nõn nà, chiếc mũi thon dài, Janey có thể quyến rũ bất cứ gã đàn ông nào. — Thật cứt! - Conrad thở dài lặp lại lời của vợ mà không hay biết. Và anh mở máy. *** Ba năm nay, June Arnot là một ngôi sao màn bạc lừng danh và tiếng đồn cô ta là người giàu nhất Hollywood. Cô cho xây một tòa nhà lộng lẫy trên ngọn đồi, cách thành phố Pacific vài cây số và cách Hollywood khoảng mười lăm cây số. Đây là một dinh thự sang trọng, kiêu sa mà June Arnot với tính hài hước sẵn có, đặt tên nó là “Ngõ Cụt”. Conrad dừng xe trước ngôi nhà nhỏ của người gác cổng có dây nho chằng chịt. Khách đến thăm phải ghi tên ở đây trước khi bước trên một lối đi dài cả cây số mới tới biệt thự. Bóng hình to bè của thanh tra Sam Bardin thuộc đội hình sự vụt hiện lên giữa bóng tối. Thấy Conrad, ông nói: — À, ông tá! Chẳng cần phải nôn nóng như thế. Cả đời anh chỉ có mỗi việc này mà thôi. Conrad mỉm cười: — Tôi đang định đi chơi với bà xã. Rồi đây cả tuần nhà tôi biến thành địa ngục cho mà xem. McCann có ở đây không? — Rủi quá, anh ta đi San Francisco rồi, mai mới về. Chuyện lộn xộn lắm, may mà có anh, Paul ạ. Chúng tôi cần một tay thiện nghệ mới mong giải quyết được vụ này. — Ta bắt đầu ngay đi. Anh kể xem anh biết những gì. Rồi sau đó, ta đi liếc sơ qua một chút. Bardin lấy khăn tay thấm mồ hôi trên khuôn mặt to tướng đỏ bầm và hất chiếc mũ ra sau. Ông ta to con, nặng nề, lớn hơn Conrad 11 tuổi nghĩa là khoảng 45. — Lúc 8 giờ rưỡi, chúng tôi nhận được một cú điện thoại của Harrison Hedor, ông bạn của cô Arnot. Ông có hẹn làm việc với cô ta tối nay. Khi đến nơi, ông thấy cánh cổng sắt mở ra. Lạ đấy vì thường thường là cửa khóa kỹ. Ông bước vào nhà người gác cửa, thấy hắn lạnh tanh với một viên đạn bắn vào đầu. Ông bốc điện thoại ở đấy gọi vào nhà nhưng không thấy ai trả lời. Tôi đoán là ông ta đã hoảng lên. Nhưng ông nói với chúng tôi là không dám vào sâu trong nhà và vội gọi chúng tôi. — Bây giờ ông ta ở đâu? — Đang ngồi trong xe tìm cách lại hồn bằng whisky, - Bardin toét miệng cười. - Tôi không có thì giờ hỏi kỹ ông ta nên bảo ngồi yên đó. Tôi đi xem xét. Năm người giúp việc đều bị hạ sát bằng một viên đạn. Tôi tưởng cô Arnot ở đâu đó vì có hẹn nhưng cô ta không có mặt trong nhà. - Ông rút bao thuốc mời Conrad và lấy cho mình một điếu - Tôi thấy cô nơi hồ tắm. (Ông nhăn mặt) - Có kẻ nào đấy tò mò mổ bụng cô ta coi chơi và cắt béng cái đầu không biết dùng để làm gì. Conrad gừ gừ: — Đó là hành động của một kẻ mất trí. Bây giờ thì sao? — Nhân viên đang làm việc trong nhà và nơi hồ tắm. Nếu có gì tìm được thì họ sẽ tìm ra. Anh có muốn đi một vòng ngó qua không? — Có chứ! Anh chàng y sĩ có thể cho ta biết giờ chính xác không? — Lão đang lo vụ đó. Tôi đã dặn lão chớ xê dịch cái xác chết trước khi anh đến. Chắc lão sẽ cho ta biết ngay. Bây giờ ta vào nhà người gác. Conrad theo ông ta vào một căn nhà nhỏ có cái bàn, cái ghế, cái divan đệm và bàn điện thoại. Trên bàn có quyển sổ ghi chép người đến thăm đang được mở ra. Người gác mặc đồng phục xanh ôliu, giày bốt đánh vécni, nằm gập mình trên bàn, đầu loang trong một vũng máu đỏ bầm. Hắn bị bắn đúng giữa mặt. Conrad nhìn vào quyển sổ. Bardin nhạo: — Không chắc có ghi tên sát nhân trong đó. Với lại người gác biết mặt hắn nên mới mở cổng. Conrad nhìn trang giấy còn trắng một nửa: «15 giờ. Ông Jack Belling, đường Lennox số 3 Có hẹn. Cô Rita Strange, 14 Crown Court. Có hẹn. 19 giờ. Cô Frances Coleman. 145 đường Glendale.…» — Anh nghĩ sao? - Conrad hỏi. - Cô gái Coleman này có mặt ở đây sát với giờ xảy ra vụ tàn sát. Bardin nhún vai: — Chẳng biết. Lúc nào có thì giờ chúng ta sẽ dò hỏi. Nếu cô ta dính dấp gì đến vụ này thì đã xé ngay tờ giấy cho mất tang tích rồi. — Đúng vậy, trừ phi cô ta quên. Bardin phác một cử chỉ sốt ruột. — Được rồi, ta đi. Anh còn cả đống việc phải làm. Lên xe thôi. Đến khúc quanh thứ hai thì chậm lại. Người làm vườn bị giết ở đó. Conrad lái xe trên con đường viền những cây cọ khổng lồ và những cây nhỏ nở hoa. Khoảng 300 mét, Bardin báo trước: — Ngay chỗ quanh. Họ dừng bên một chiếc xe đậu sát đường. Bác sĩ Holmès và hai người nội trú mặc áo blu trắng cùng một cặp cảnh sát viên, vẻ mặt chán nản đang tụ tập trước xe, lưng quay phía đèn pha. Conrad và Bardin tấp vào nhóm, vây quanh một ông già Tàu mặt mày nhăn nheo nằm ngửa, các ngón tay màu vàng trông như các vuốt, co quắp người vì hấp hối. Phía trước chiếc áo blu xanh nhuộm một màu đỏ. Bác sĩ lên tiếng: — Chào Conrad. Anh đến xem trò tàn sát đấy à? — Chỉ thăm sơ qua thôi, - Conrad nói. - Lão chết bao lâu rồi? — Khoảng một tiếng rưỡi, không hơn. — Nghĩa là sau 7 giờ? — Gần gần như thế. — Cùng một vũ khí như với người gác? — Có thể. Tất cả đều bị giết bởi một khẩu 45. - Ông bác sĩ nhìn Bardin - Tôi thấy như là một công trình của một tay nhà nghề, ông thanh tra ạ. Tay đó thạo việc lắm. Bắn một phát là đủ rồi. Bardin thốt ra tiếng càu nhàu: — Như thế thì chẳng biết gì nhiều. Khẩu 45 mà bắn thì không ai thoát dù người bắn là dân nhà nghề hay tay mơ. — Ta lên nhà đi, - Coniad nói. Chiếc xe chở họ tới biệt thự sau ba phút. Đèn đã bật sáng khắp các phòng. Hai người cảnh sát gác cửa vào. Conrad và Bardin bước lên các bậc thềm vào khách sảnh nhỏ rồi bước xuống vào giữa nhà đến một sân trong lát gạch hoa. Các gian phòng quây ba mặt sân. Thanh tra O'Brien người cao nhưng gầy, mắt sắc, mặt đầy tàn nhang, từ phòng khách bước ra. Ông ta gật nhẹ đầu với Conrad, Bardin hỏi: — Anh tìm được gì không? — Chỉ có đầu đạn thôi, chẳng có dấu tay nào. Hình như kẻ sát nhân xộc vào giết hết rồi ra ngay không chạm vào vật gì cả. Conrad đến chân cầu thang ngước mắt nhìn lên. Ở các bậc cấp trên cao là xác một cô xẩm Trung Hoa. Cô mặc một áo ngắn trong nhà màu vàng, quần lụa có ren, màu xanh sẫm. Một vệt đỏ gớm ghiếc giữa hai bả vai. Bardin nói: — Hình như cô ta đang chạy trốn thì bị phơ. Anh muốn lại gần xem không? Conrad lắc đầu. Bardin nói tiếp: — Tang vật số 3 ở phòng khách. Ông dẫn Conrad vào một gian phòng bề thế, có bàn ghế, trường kỷ bọc da, đủ sức chứa từ ba mươi đến bốn mươi người. Gần cánh cửa ra vườn, người quản gia của June Arnot ngồi dưới đất, gập mình, lưng dựa vào thảm lót tường. Ông ta cũng bị một phát vào đầu. Bardin hỏi: — Anh muốn xem ở nhà bếp không? Còn hai người nữa ở đấy. Một đầu bếp Trung Hoa và một Philippines. Họ định chạy ra cửa nhưng không kịp. — Thôi đủ rồi, - Conrad nói. - Nếu có gì phải tìm thì nhân viên của anh sẽ thấy. — Ý kiến thâm thúy đấy. Ok! Ta xuống hồ tắm. Ông bước ra ngoài hành lang rộng. Trăng tròn đã lên tuôn làn sáng lạnh gắt xuống biển. Khu vườn thơm ngát hương hoa, một đài phun nước bóng loáng đằng xa tạo nên khung cảnh thần tiên. — Cô ta ưa thích ánh sáng và màu sắc phải không, - Bardin vừa nói vừa tiến về phía hồ tắm. - Nhưng cũng chẳng tới đâu. Kết quả cuộc đời phải nói là thê thảm: Đầu bị cắt, bụng bị phanh. *** Phía cầu nhảy cao 12 mét có mặt bác sĩ Holmès, hai người nội trú, một thợ ảnh và bốn cảnh sát viên. Họ đang nhìn về phía giữa hồ. Nước ở đó nhuộm màu đỏ tím, còn lại là một màu xanh tuyền. Khi Conrad và Bardin bước tới chỗ lát gạch xanh vây quanh hồ tắm, Bardin nói: — Tôi nhìn thấy một lần rồi và không muốn thấy lần thứ hai nữa. Họ họp với đám người kia dưới cầu nhảy. Bardin vung tay tiếp tục chỉ: — Trông kìa! Paul nhìn tấm thân trần truồng, bị cắt đầu, nổi bập bềnh. Bụng anh như thắt lại trước cảnh man rợ ấy. Anh quay mặt đi, hỏi: — Cái đầu ở đâu? — Tôi để nguyên chỗ đã tìm thấy. Trên bàn phòng mắc áo mũ. Anh muốn nhìn qua không? — Thôi cảm ơn. Có chắc là June Arnot không? — Chắc. Conrad quay sang bác sĩ Holmès. — Được rồi, ông thầy, tôi thấy đủ rồi. Ông bắt đầu công việc được đấy. Ông gửi bản sao báo cáo cho tôi chứ? Bác sĩ Holmès gật đầu. Bardin nói: — Này các bạn, móc cô ta lên. Chú ý nhẹ tay một chút. Ba người cảnh sát ngán ngẩm bước tới. Một người giơ cây sào tìm cách móc cái xác nổi. Conrad nói: — Trong lúc chờ đợi, ta đi nói chuyện với Fedor. Anh cho người gọi ông ta tới đây. Mọi người đi về phía ngôi nhà cùng với Conrad. Bardin hỏi: — Này, anh nghĩ thế nào? — Có vẻ như tay đó là khách quen nhà này. Đầu tiên là do người gác để hắn vào. Sau nữa hắn hạ sát tất cả gia nhân vì sợ bị nhận diện. — Trừ phi đó là một tên điên nổi cơn. — Nếu thế thì người gác không cho hắn vào. — Cũng có thể thế, tùy theo kẻ kia nói với người gác gì đó. Khi họ vào nhà, hai người cảnh sát vừa bước qua ngưỡng cửa, khiêng một cái cáng có phủ chăn lên xác người. Một anh cớm nói: — Hết rồi, sếp. Dọn sạch trơn. Bardin gừ gừ bước lên bậc cấp rồi xuống sân. — Theo anh thì Fedor không can gì vào đấy phải không? - Conrad ngồi xuống ghế hỏi. — Hắn không thuộc típ người làm nổi việc này. Cho dù đúng là hắn thì cũng phải có một cớ thật lạ. Vì cô ta là khách hàng duy nhất đã đem lại cho hắn một gia tài kha khá. — Một phụ nữ như cô ta tất phải có cả đống kẻ thù, - Conrad duỗi dài chân ra nói. - Kẻ nào làm cái cú này chắc phải nóng mũi lắm. — Hình như cô ta có liên hệ với khá nhiều kẻ không tốt, - Bardin đưa ra nhận xét. - Theo người ta nói, cô ta dính dấp với đủ thứ chuyện bê bối. Anh có nghe người ta đồn đại cô ta là bạn gái của Jack Maurer không? Conrad sững người chú ý. — Không, bạn gái là thế nào? Bardin mỉm cười: — Tôi nghĩ là anh nghe thì chú ý ngay. Tôi không có bằng cớ nhưng tiếng đồn thì nhiều. Cô ta không khoe nhưng người ta nói hai người là nhân tình nhân bánh của nhau. — Tôi muốn biết rõ chuyện này. Loại hành động như thế này đúng là gu của Maurer rồi. Hắn đủ sức tàn ác để xuống tay. Anh còn nhớ cú tàn sát hai năm trước đây không? Bảy người sắp hàng sát chân tường và thế là liên thanh bắn tằng tằng. — Chuyện đó không có gì chắc là của Maurer, - Bardin thận trọng nói. — Thế còn ai nữa? Bọn đó lấn quyền ông trùm, vậy là ông trùm xơi tái là có lý thôi. — Ông cảnh sát trưởng không tin. Ông ta nghĩ rằng đó là băng Jacobi đem trút tội cho Maurer. — Ông ta biết tôi nghĩ gì về cái luận cứ tồi tệ ấy rồi. Đúng là của Maurer và vụ này thì cũng có thể là của lão nữa... — Anh gầm gừ Maurer dữ quá, - Bardin nhún vai nói. - Chắc anh khoái thấy lão chui vô hộp lắm. — Không phải bị còng số 8 mà thôi đâu, - Conrad nói với vẻ hung dữ bất chợt. - Tôi muốn thấy lão lên ghế điện kia! Thằng chó chết ấy sống lâu quá rồi! Một cảnh sát viên bước vào sân. — Fedor đến rồi, sếp. Conrad và Bardin cùng đứng lên. Harrison Fedor, ông bầu của June Arnot đi tưng tưng bước vào sân. Đó là một con người mảnh dẻ, có cái nhìn sắc và trầm lặng, miệng như cái bẫy chuột chù và má hõm. Ông ta chộp lấy bàn tay Conrad lắc mạnh. — Ngọn gió lành nào đưa ông đến đấy? June có mạnh khỏe không? — Ngược lại thế kia, - Conrad bình thản trả lời - Cô ta bị giết rồi, cả đám gia nhân. — Trời! - Fedor nuốt nước miếng, mặt xịu xuống rồi gượng đến ngồi nơi chiếc ghế mây và nói tiếp. - Ông bảo cô ta chết rồi à? — Còn hơn là chết nữa! — Lạy Chúa! - Fedor giở nón ra và luồn các ngón tay vào mớ tóc lưa thưa. - Chết à? Khó tin quá! Ông ta nhìn sững Bardin rồi nhìn Paul. Cả hai không nhúc nhích, chờ đợi. — Lại bị giết! Yên lặng một chút, Fedor nói tiếp: — Chuyện chi lạ! Không biết tôi nên khóc hay nên cười đây? — Thế nghĩa là gì? - Bardin lầu bầu, mặt mày bất mãn. Fedor nhếch mép cười. — Ông không hiểu vì ông không làm việc với cô ta trong 5 năm như tôi. - Ông ta đứng lên, lấy ngón tay chỉ vào Bardin. - Tôi mà khóc được thì cứ treo cổ tôi lên. Có thể là tôi mất nồi cơm nhưng đỡ được gánh nặng. Con điếm ấy làm tôi đến mụ người. Có tôi thì không có nó, nó làm tôi nhức nhối vô cùng. Các ông không thể biết tôi phải chịu đựng như thế nào với con đĩ ấy. — Có ai đấy đã cắt đầu cô ta, - Conrad thong thả nói. - Rồi như chưa hả giận, hắn lại còn mổ bụng moi phèo ruột ra. Ông có biết ai có thể làm như thế không? — Cắt đầu! Trời ơi! Để làm gì vậy? — Cũng với lý do như mổ bụng: Kẻ đó thù hận cô ta. Ông có biết ai tức giận đến mức tàn ác như thế không? Fedor vụt ngoảnh mặt đi. — Không, tôi không biết. Trời! Báo chí biết chưa? — Không, họ chưa biết chừng nào mà tôi chưa tìm được gì chắc chắn để tiến hành công việc, - Bardin càu nhàu nói. - Này, nếu ông có biết ai có lý do làm như thế thì nên khai ra với chúng tôi. Hồ sơ sếp gọn nhanh chừng nào thì tốt chừng ấy cho mọi người, kể cả ông đấy. Fedor lưỡng lự rồi nhún vai: — Ông nói có lý. Ralph Jordan là thằng bồ hiện nay của cô ta. Tuy nhiên gần đây họ lại gấu ó nhau dữ dội. Cuộn phim hắn quay với June là cuốn cuối cùng. Hãng điện ảnh Thái Bình Dương phải xé hợp đồng với hắn. Họ chịu không nổi hắn nữa. — Tại sao vậy? - Conrad đốt thuốc hỏi. — Hắn phi cần sa sáu tháng nay rồi. Một khi hắn phê thì không gì ngăn hắn quậy. — Sao thế? — Hắn nổi điên - Fedor rút khăn tay thấm mồ hôi mặt. - Khoảng hơn tuần nay, hắn nổi lửa đốt sạch một phim trường. Và tuần qua, khi Laird tổ chức dạ hội nơi hồ tắm của ông ta, hắn làm trò nho nhỏ khiến Laird phải mất sạch tiền để dập tắt chuyện này. Jordan kiếm đâu ra được một chai axít đem rẩy vào áo tắm của các cô, thế là cả hơn ba mươi minh tinh nổi danh cứ tô hô như nhộng. Ban đầu chúng tôi còn khoái cười chí tử và được dịp rửa mắt nhưng sau thấy rằng cái chất lơ mơ đó không chỉ làm cháy áo tắm mà còn làm phỏng da nữa. Năm cô nàng phải vào bệnh viện, tình trạng thật thê thảm. Sáng hôm sau Laird xé hợp đồng với hắn. Conrad và Bardin nhìn nhau. Bardin gợi ý: — Tôi nghĩ là ta phải gặp ông bạn thích đùa dai ấy mới được. — Nhưng xin ông đừng nói tôi khai ra, - Fedor nằn nì. - Tôi đã khốn khổ về mấy chuyện ấy lắm rồi. — Ngoài Jordan, ông còn thấy ai có thể làm vụ này không? - Conrad hỏi. Fedor lắc đầu. — Không, phần lớn bạn hữu của June chẳng tốt đẹp gì nhưng chơi cái mảng này thì còn rét lắm. — Có phải là cô ta và Jack Maurer ngủ với nhau không? Fedor vội cúi mặt nhìn hai bàn tay. — Tôi không biết chuyện này. Conrad nhìn Bardin. — Thật kỳ diệu phải không? Hễ nghe đến tên Maurer là ai cũng nín khe. Hình như thằng cha đó không có trên cõi đời này. — Xin ông chớ phiền, - Fedor vụt chen vào. - Nếu biết chuyện gì thì tôi nói ngay, về Maurer thì tôi chỉ đọc trên báo chí thôi. — Cứ ca cái điệu ấy mãi, - Conrad chán nản nói. - Lúc nào gặp may, không biết chừng tôi sẽ tìm được một tay gồng mình không sợ Maurer lắm và biết được một chút gì đó. Nhưng có cái chán là chẳng biết khi nào. — Chớ nóng. Ông ta nói không biết thì hẳn là không biết thôi. - Bardin nói. Thanh tra O’Brien bước xuống sân. — Sếp, tôi có chuyện muốn nói. Bardin nắm tay ông ta đi vào phòng khách. Paul nói với Fedor: — Ông cứ ở đấy đi, - rồi anh theo hai người kia. — O’Brien tìm được súng lục rồi, - Bardin nói, nét mặt u ám của ông lúc này có dáng hân hoan. Ông giơ lên một khẩu súng 45 tự động. - Xem này! Conrad quan sát khẩu súng. Trên báng có khắc hai chữ viết tắt R.J, anh hỏi O’Brien: — Anh tìm ra ở đâu vậy? — Giữa bụi cây, cách cổng sắt khoảng 30 mét. Cá với anh trăm bạc là đúng rồi. Hết đạn, mới tác xạ không lâu và là một khẩu 45. — Tốt hơn là nên đi kiểm chứng, Sam ạ. Bardin gật đầu đưa khẩu súng cho O’Brien. — Mang về sở và đối chiếu với các đầu đạn anh vừa tìm được. - Rồi ông quay sang Conrad. - Chuyện trẻ con phải không? Có vẻ dễ dàng quá mà. Jordan chắc phải có chuyện nói với cánh ta. Đi chứ? *** Theo Fedor thì Ralph Jordan có một căn hộ trong chung cư ở đường Roosevelt. Hắn ta ở đấy không lâu sau khi June Arnot tống hắn ra khỏi biệt thự ở Hollywood và dù hắn còn giữ ngôi nhà sang trọng ở Beverley Hills nhưng hiếm khi hắn sống ở đó. Conrad ghé xe đậu vào một góc tối. Anh chú ý đến một chiếc Cadillac đen chui nửa thân trong nhà để xe. — Lái xe bạt mạng thật! Anh bước tới có Bardin theo sau. Cánh trái của chiếc Cadillac đâm vào vách làm vỡ miếng đèn pha nát vụn. Bardin mở cửa xe nhìn vào tấm thẻ đồng. — Đúng rồi. Xe của Jordan. Hắn sắp chết một cửa tứ rồi. — Ít ra là ta cũng biết chắc hắn đang có ở nhà, - Conrad nói. Rồi anh bước vào cửa, đẩy cánh cửa xoay, theo sát là Bardin. Một nhân viên to mập, hồng hào trắng trẻo, đôi tay nhỏ, trắng đặt trên chiếc bàn tiếp khách, ngước mắt kênh kiệu nhìn. — Ông cần gì? Bardin chồm tới trước, nhíu mày, nói oang oang. Khi muốn gây khó dễ thì ông cũng đủ sức để trả đũa. Tiếng ông rít lên: — Thanh tra Bardin. Cảnh sát thành phố. Jordan có ở đấy không? Hai bàn tay nhỏ nhúc nhích. — Chắc ông muốn hỏi về Ralph Jordan? Vâng, ông ta có ở đấy. Các ông muốn gặp? — Hắn về nhà lúc nào? — Sau 8 giờ một chút. — Lúc đó hắn có bình thường không? — Tôi không lưu ý. — Hắn ra đi khi nào? — Khoảng sau 6 giờ. — Hắn ở trên lầu chót phải không? — Thưa phải. — Được rồi. Chúng tôi lên đó. Anh muốn giữ sức khỏe thì chớ mó vào điện thoại. Tôi đến thăm bất ngờ đấy. Trên đó có ai ở cùng với hắn không? — Tôi không biết. Bardin đi thẳng đến thang máy bước vào. — Như vậy là hắn ra đi lúc 6 giờ, trở về 8 giờ, thừa đủ thì giờ để đến “Ngõ Cụt” làm điều cần làm. — Nên coi chừng hắn, - Conrad nói khi cửa thang máy khép kín. - Nếu nó cần hận thù thì nguy hiểm đấy. — Hắn không phải là tên điên đầu tiên tôi va chạm và chắc cũng không phải là tên cuối cùng. Khốn thật! Bardin ngừng lại trước cửa căn hộ. — Kìa! Cửa mở. Ông bấm chuông, đợi một lát rồi lấy chân đá cánh cửa mở toang, liếc mắt nhìn vào phòng chờ. Trước mặt là một cánh cửa khép hờ. Bardin đẩy ra, bên trong là một phòng khách lớn, đèn sáng choang. Ông rống lên làm rung cửa kính. — Ê! Có ai ở trong nhà không? Sự im lặng trả lời thật nặng nề và ngột ngạt, lạnh tanh. Hai người nhìn nhau. Bardin nói: — Ồ, anh có nghĩ là hắn nấp ở đâu đó không? — Có thể hắn ra phố rồi. — Lão dưới kia không nói mà! — Ta ghé mắt vào một tí đi. Conrad bước vào một gian phòng, gõ cánh cửa phía trái. Anh xoay tay nắm thấy một gian phòng lớn. Cũng không có ai. Họ mở cửa phòng tắm. Chưa bao giờ họ trông thấy một cảnh bài trí sang trọng đến thế nhưng họ chỉ chú ý ngay đến cái bồn tắm. Ralph Jordan nằm dài ra đó, đầu gập xuống ngực, mình mặc chiếc áo choàng màu cặn rượu vang, khoác ngoài bộ đồ ngủ xanh nhạt. Trên bờ bồn tắm và phần trước áo hắn có loang màu đỏ. Hắn nắm trong tay một lưỡi dao cạo có cán, máu loang như vệt mực trên tranh vẽ. Bardin sờ tay Jordan. — Lạnh như một khúc thịt bò bỏ tủ đá. Ông nắm tóc Jordan lôi đầu hắn lên. Gonrad nhăn mặt khi nhìn thấy vết thương mở toác ra, sâu đến tận một động mạch bị cắt tiện đứt đôi. Bardin lùi lại. — Đấy, thật đúng như tôi nói: Một vụ việc quá đơn giản. Hắn đến đằng kia giết cô gái rồi trở về nhà tự cắt cổ. Hắn có ý tứ lắm. Càng dễ cho tôi làm việc. - Ông hút thuốc phà khói vào mặt người chết. — Tôi nghĩ là bác sĩ có việc làm suốt đêm đấy. Conrad loanh quanh trong phòng tắm, anh tìm thấy một con dao cạo điện. — Lạ là sao hắn lại có dao cạo tay. Đời bây giờ phải chạy quanh mới lùng kiếm được thứ này và tôi không nghĩ là Jordan lại có nó trong nhà. — Anh chớ làm rối lên. Có lẽ hắn dùng để cắt chai chân, lưỡi dao đa dụng mà. Ông đẩy một cánh cửa và thấy một tủ áo thật đầy đủ sang trọng. Conrad đang bước qua phòng bỗng ngừng lại. — Sam, cho anh xem cái này chắc anh phởn lắm - Anh chỉ một vật dính máu nằm trên đất. Bardin bước lại gần. — Trời đất! Con dao phạng. - Ông quì xuống gần con dao lưỡi nhọn. - Cam đoan đấy là vũ khí giết người. Đủ để cắt cổ ai đó và mổ bụng như anh kéo fermeture vậy. — Bộ anh không thấy làm lạ là một gã như Jordan lại có một con dao rừng Nam Mỹ như vậy sao? Bardin ngồi chồm hổm. — Có lẽ hắn mang về làm kỷ niệm. Cam đoan là hắn có đi Nam Mỹ hay Antilles, chắc là Antilles thôi. Nhất định đúng là tang vật và dám đưa đầu cá với anh là máu dính ở đấy đúng là máu của June Arnot. Conrad lật qua lại áo quần vắt trên ghế. — Quần áo không có vết máu. Tại sao cắt đầu người khác lại không dính máu. — Ui, được rồi, - Bardin nóng nảy kêu lên. - Anh đâu có cần vặn vẹo từng li từng tí như thế. Có thể hắn mang áo khoác hay một thứ gì tương tự như vậy. Đâu có gì là quan trọng. Đối với tôi như thế là đủ rồi. Anh không chịu sao? — Tôi không biết, - Conrad nhíu mày. - Mọi sự gọn ghẽ quá nên tôi ngờ là một cuộc xếp đặt. Khẩu súng lục có chữ đầu tên Jordan, cái xe bị bẹp dúm, Jordan tự vẫn và bây giờ là vũ khí giết người được tìm thấy. Đẹp quá nên khó tin là thực. Theo tôi thì có chuyện gì đó xộc xệch trong này. — Chuyện không ăn khớp là vì anh tận tâm quá, - Bardin nhún vai trả lời. - Thôi hết chuyện rồi. Tôi tin thì Cảnh sát trưởng cũng tin. Anh cũng sẽ đồng ý như thế nếu trong đầu không bị ám ảnh bởi ý muốn đưa Maurer lên ghế điện. Phải không? Conrad trầm ngâm gãi gãi cánh mũi. — Có lẽ thế. Ok! Chắc là tôi xong việc rồi. Anh muốn tôi đưa anh về Sở không? — Tôi ở đây để gọi họ tới. Tôi muốn nhân viên lục lọi hết trong nhà này. Ngay sau khi cắt đặt xong công việc, tôi sẽ trở về “Ngõ Cụt” rồi thông báo cho báo chí. Anh về nhà à? Conrad gật đầu. — Hên thật! Không làm việc đêm, một căn nhà ấm cúng, nàng tiên bên cạnh. Sao, bà Conrad mạnh khỏe chứ? — Ồ, chắc là mạnh thôi, - Conrad trả lời mà buồn bã nhận ra rằng mình không thấy có hứng khởi. *** Conrad len qua các đường nhỏ để tránh các rạp cinema vừa vãn xuất hát. Anh lo lắng không biết Janey có thực hiện lời dọa đi chơi một mình và đã về chưa. Anh tấp xe để đốt thuốc. Khi ném que diêm qua cửa kính, anh đọc thấy tên bảng đường: Thông lộ Glendale. Mãi tới khi đến đầu đường, anh mới nhớ là cô gái có tên Frances Coleman đến thăm June Arnot lúc 7 giờ tối đã ghi địa chỉ số 145 Thông lộ Glendale. Anh vụt ghé sát lề và ngồi một lúc nhìn qua kính che gió con đường vắng và buồn. Bác sĩ Holmès đã nói June Arnot chết khoảng 7 giờ. Cô gái này có thể thấy được gì không? Anh bước xuống xe tiến đến số 145. Đây là một chung cư tồi tàn. Có vài cửa sổ còn sáng ánh đèn. Qua cánh cửa kính lối ra vào, Conrad nhìn thấy một tiền sảnh đèn mờ và một cầu thang tối thui. Đủ thứ mùi vị xông lên: Mùi tỏi phi, nước đái mèo và rác rưởi phân hủy. Anh hất ngược mũ, nhíu mày bước vào đến trước dãy hộp thư đặt sát tường. Hộp thư của cô Coleman sếp hàng thứ ba, cô ở lầu 3. Conrad lội bộ lên thang gác. Một tấm thiếp trắng ghi tên cô ghim vào cửa. Conrad định gõ cửa nhưng nhận thấy cửa mở hé. Anh gõ cửa, đợi một lúc rồi lùi lại, thủ thế. Tối hôm nay anh đã trông thấy sáu xác chết thê thảm, ghê gớm rồi. Gáy anh lạnh ngắt. Anh đốt thuốc nhưng nhận thấy tay mình không run. Anh mỉm cười, nghiêng mình tới, đẩy cửa nhìn vào bóng tối. — Có ai đấy không? Không có tiếng trả lời. Một sự yên lặng chập chờn cùng với một mùi hoa thuốc phiện California. Conrad bước tới mò mẫm tìm công tắc. Anh nín thở bật đèn và cứ tưởng nhìn thấy điều tồi tệ: nhưng thật ra không có xác chết, không có máu, không có thứ vũ khí giết người nào hết... đấy chỉ là một căn phòng nhỏ với chiếc giường sắt, tủ commos, vài cái ghế và chiếc tủ lớn. Trông thật sơ sài như chiếc giường đóng đinh của ông fakir Ấn Độ. Conrad đứng yên một lát rồi mở cửa tủ: không có gì hết. Anh gãi gáy rồi bước ra. Trên tường nơi tiền sảnh có bảng: Gác dan ở tầng hầm. “Nào có mất mát gì!” Anh nghĩ. Anh bước xuống một thang gác dơ bẩn tối om. — Có ai không? Cửa mở và ánh đèn làm anh chói mắt. Một giọng nói êm dịu, mơn trớn phát ra: — Không có phòng cho thuê đâu. Conrad nhìn vào. Một người to béo mặc áo ngắn, ngồi sau bàn. — Anh có một căn hộ trống trên lầu 3 phải không. Cô Coleman vừa dọn đi à? — Ai nói với ông thế? — Tôi vừa mới lên trên ấy. Phòng trống trơn. — Ông là ai? Conrad lên giọng: — Cảnh sát! Ông to béo nhăn mặt. — Cô ta đi vào lúc nào? - Conrad nghiêm giọng hỏi. — Tôi không biết cô ta đã dọn đi. Buổi sáng vẫn còn. Thế là may, tôi đỡ phải trục xuất cô ta vào sáng mai này. — Tại sao? — Thì cũng bấy nhiêu chuyện đó. Chưa trả tiền thuê ba tuần. — Anh biết gì về cô ta? Cô ta ở đấy từ bao giờ? — Độ một tháng nay. Hình như là một diễn viên phụ cinema. Cô ta không tìm được việc ở Hollywood. Cô thật ngoan. Tôi mà có con gái thì mong nó được như cô ta. Ăn nói mềm mỏng, người xinh, tính tình trầm lặng, thật là có giáo dục. - Ông nhún vai. - Nhưng lại không có tiền. Mấy con người khá thì lại không kiếm ra tiền. Tôi đã khuyên về quê đi nhưng cô ta không nghe. Cô ta nói rằng sáng nay trả tiền cho tôi. Chắc lại không kiếm ra chứ gì. — Chắc vậy, - Conrad nói. Anh bỗng cảm thấy mỏi mệt vô cùng. Một cô phụ diễn đang thất nghiệp lại đến thăm June Arnot thì có mục đích nào khác hơn là hỏi vay tiền. Loại cô ta chắc không qua được nhà người gác. Khó tin rằng June Arnot chịu tiếp cô ta. Anh nhìn đồng hồ, đã quá nửa đêm. — Cảm ơn. Tôi chỉ cần biết bấy nhiêu thôi. Ông to béo hỏi: — Sao? Cô ta không gặp lôi thôi gì phải không? — Không đâu. Conrad quay trở ra. Bardin đã nói rằng chính Jordan làm cú đó. Sáng mai ông sẽ nói chuyện với ông Biện lý. Giá như anh biết rõ June và Maurer có cặp bồ với nhau nhỉ! Nếu họ đã ngủ với nhau thì có nhiều khả năng Maurer đã tổ chức cuộc tàn sát, mà cũng có thể chính Maurer ra tay. “Ui, kệ mẹ Maurer!”, Conrad nghĩ trên đường vào cổng nhà. “Mình không quên hắn được lấy 5 phút. Thật cực hơn là cảnh một gã si tình trồng cây si trước nhà người yêu”. Anh mở khóa bước vào phòng chờ tối thui. Khung cảnh vắng lặng. Anh mở cửa phòng ngủ và bật đèn: Chiếc giường đôi nằm trơ vơ. Janey quả đã đi hoang chưa về.   Mời các bạn đón đọc Cái Chết Từ Trên Trời của tác giả James H. Chase.
Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Arthur Conan Doyle (Bản Đinh Tị - Thái Hà dịch)
Sherlock Holmes là một nhân vật thám tử hư cấu vào cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, xuất hiện lần đầu trong tác phẩm của nhà văn Arthur Conan Doyle xuất bản năm 1887. Ông là một thám tử tư ở Luân Đôn nổi tiếng nhờ trí thông minh, khả năng suy diễn logic và quan sát tinh tường trong khi phá những vụ án mà cảnh sát phải bó tay. Nhiều người cho rằng Sherlock Holmes là nhân vật thám tử hư cấu nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học và là một trong những nhân vật văn học được biết đến nhiều nhất trên toàn thế giới. Đã có rất nhiều vở kịch và bộ phim được sáng tác dựa trên những tác phẩm của Conan Doyle về Holmes, về mặt này có thể so sánh Holmes với những nhân vật hư cấu nổi tiếng khác như Hamlet hay Dracula. Sherlock Holmes được độc giả hâm mộ tới mức đã có rất nhiều hội những người hâm mộ ông được thành lập. Năm 1990 người ta đã mở Bảo tàng Sherlock Holmes ở phố Baker, đây là bảo tàng cho một nhân vật hư cấu đầu tiên được mở trên thế giới. Sherlock Holmes đã xuất hiện trong 4 tiểu thuyết và 56 truyện ngắn của nhà văn Conan Doyle. Hầu như tất cả các tác phẩm đều được viết dưới dạng ghi chép của bác sĩ John H. Watson, người bạn thân thiết và người ghi chép tiểu sử của Holmes, chỉ có 2 tác phẩm được viết dưới dạng ghi chép của chính Holmes và 2 tác phẩm khác dưới dạng ghi chép của người thứ ba. Hai tác phẩm đầu tiên trong số này, 2 tiểu thuyết ngắn, xuất hiện lần đầu tiên trên tờ Beeton's Christmas Annual năm 1887 và tờ Lippincott's Monthly Magazine năm 1890. Thám tử Holmes trở nên cực kì nổi tiếng khi loạt truyện ngắn của Doyle được xuất bản trên tạp chí The strand Magazine năm 1891. Các tác phẩm được viết xoay quanh thời gian từ năm 1878 đến năm 1903 với vụ án cuối cùng vào năm 1914. *** Một buổi sáng cuối năm 1896, tôi nhận được tờ giấy viết vội của Sherlock Holmes, mời tôi lập tức tới phố Baker ngay. Tới nơi, tôi thấy anh đang ngồi trong một căn phòng mù mịt khói thuốc, trên chiếc ghế đối diện là một phụ nữ đẫy đà đã luống tuổi và có dáng dấp một bà chủ nhà trọ. - Anh Watson, đây là bà Merrilow ở quận South Brixton. - Ông bạn tôi giơ tay giới thiệu - Bà đây không phản đối việc hút thuốc, nên anh cứ mặc sức tận hưởng thú vui của mình. Bà Merrilow muốn kể cho chúng ta nghe một câu chuyện vô cùng thú vị. Và có thể sự việc sẽ còn tiến triển, nên sự có mặt của anh ở đây là vô cùng hữu ích. - Nếu tôi có thể giúp được gì… - Bà Merrilow, chắc bà cũng hiểu rằng nếu tôi tới gặp bà Ronder thì tôi hy vọng có một người làm chứng. Xin bà hãy nói với bà ấy về điều này trước. - Chúa sẽ phù hộ cho ông, ông Holmes ạ! - Người khách nói - Bà ấy rất muốn gặp ông, nên ông có gọi tất cả mọi người trong khu này đến thì bà ấy cũng chả bận tâm gì đâu. - Vậy chiều nay chúng ta nên xuất phát sớm một chút. Trước khi đi, phải đảm bảo là chúng ta đã nắm rõ mọi việc. Bà hãy kể lại tất cả một lần nữa, giúp bác sĩ Watson có thể hiểu được tình hình. Ban nãy bà có nói, bà Ronder đã trọ ở nhà bà bảy năm rồi, nhưng bà mới nhìn rõ mặt bà ấy chỉ một lần duy nhất phải không? Bà Merrilow nói: - Thề có Chúa, tôi ước gì mình chưa bao giờ nhìn thấy mặt bà ấy thì hơn! - Mặt bà ấy bị thương tổn rất nặng nề, phải vậy chứ? - Thưa ông Holmes, không thể gọi đó là một cái mặt người được! Thật là vô cùng khủng khiếp. Một lần, người đưa sữa cho tôi nhác thấy bà ấy đang đứng ngắm cảnh ở cửa sổ tầng trên, anh ta kinh hoàng tới mức làm đổ cả thùng sữa! Lần nọ, bất ngờ tôi chợt nhìn thấy mặt bà ấy, bà ấy lập tức che mặt lại và nói: “Bà Merrilow, chắc bây giờ bà đã hiểu vì sao tôi luôn luôn che mặt bằng tấm mạng này rồi chứ?”. - Bà có biết tí gì về quá khứ của bà ấy không? - Tôi hoàn toàn không biết gì về bà ấy cả. - Khi bà ấy tới thuê nhà, có sự giới thiệu của ai không? - Không, nhưng bà ấy trả bằng tiền mặt và luôn trả trước rất nhiều. Tiền thuê nhà trả cả quý, hơn nữa cũng không hề cò kè mặc cả. Tôi ngần này tuổi rồi, lại bơ vơ một mình trong thời buổi khó khăn, ngài bảo làm sao có thể từ chối được một người khách giàu có và hào phóng như vậy được? - Lý do gì khiến bà ấy chọn thuê căn hộ của bà? - Căn hộ của tôi cách đường khá xa, yên tĩnh hơn so với các căn hộ cho thuê khác. Hơn nữa, tôi chỉ nhận mỗi một người khách trọ; bản thân tôi cũng không có người thân. Tôi đoán rằng bà ấy đã từng thuê nhiều nơi, nhưng bà ấy thích căn hộ của tôi nhất. Bà ấy cần yên tĩnh và không tiếc tiền. - Bà có nói rằng, kể từ khi tới ở, bà ấy chưa bao giờ để lộ khuôn mặt của mình, chỉ trừ một lần duy nhất kia thôi. Đây quả là một chuyện khá đặc biệt và vô cùng kỳ lạ. Do đó tôi hiểu vì sao bà muốn điều tra xác minh nó đến vậy. - Không phải tôi muốn thế, thưa ông Holmes. Với tôi mà nói, chỉ cần có tiền thuê nhà là tôi đã cảm thấy rất hài lòng rồi. Không có vị khách thuê nhà nào yên lặng hơn, ít chuyện hơn bà ấy. - Vậy thì tại sao bà lại tới đây? - Thưa ông Holmes, đó là vì sức khỏe của bà ấy. Bà ấy càng ngày càng yếu đi. Hơn nữa, trong lòng bà ấy có những bí mật rất hãi hùng nào đó. Có lúc bà ấy la to: “Giết người! Giết người!”. Lần khác lại nghe tiếng bà ấy hét toáng: “Đồ súc sinh tàn ác! Đồ yêu ma quỷ quái!”. Bà ấy kêu gào vào lúc nửa đêm, tiếng hét của bà ấy vang dội khắp nhà làm tôi sợ run lên. Sáng hôm sau, tôi lên thăm bà ấy. Tôi chân thành khuyên: “Bà Ronder này! Nếu trong lòng bà có điều gì u uất không thể nói ra, bà có thể tìm tới cha xứ hoặc cảnh sát, biết đâu họ có cách giúp bà”. “Ơn Chúa, tôi không cần tới cảnh sát!” - Bà ấy nói - “Cha xứ thì không thể làm gì để thay đổi được quá khứ. Nhưng trước khi tôi chết, nếu có một ai đó biết được toàn bộ câu chuyện này thì tôi có thể được an ủi phần nào”. Tôi mách cho bà ấy: “Ồ, nếu bà không muốn nhờ cảnh sát, thì bà hãy nhờ đến ông thám tử nổi tiếng mà mọi người đều biết là Sherlock Holmes ấy”. Thưa ngài, xin lỗi vì tôi đã nhanh mồm như vậy. Nhưng bà ấy vừa nghe liền đồng ý ngay: “Đúng rồi, tôi cần một người như thế”. Bà ấy nói: “Tại sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ? Xin bà hãy mau chóng mời ông ta tới đây, bà Merrilow! Nếu ông ta không chịu tới, bà hãy nói với ông ta rằng tôi là vợ của Ronder, người dạy thú ở đoàn xiếc. Bà chỉ cần nói vậy thôi và cho ông ta cái tên “Abbas Parva””. Bà ấy viết chữ đó lên mảnh giấy đưa cho tôi rồi nói: “Cái tên này sẽ khiến ông ta tới ngay, nếu ông ta đúng là người như tôi nghĩ”. - Đúng là tôi phải đi thật, bà Merrilow ạ! - Holmes nói - Giờ tôi cần trao đổi với bác sĩ Watson một lúc và cuộc nói chuyện này phải kéo dài tới bữa trưa. Khoảng ba giờ chiều, chúng tôi mới có thể tới nhà bà được. Vị khách của chúng tôi vừa lạch bạch bước ra khỏi phòng, vì không còn từ nào có thể miêu tả đúng hơn dáng đi của bà ấy, thì Holmes liền đứng bật dậy, vùi đầu vào lật tìm đống tài liệu trong góc phòng. Vài phút sau, chỉ có tiếng lật giấy “soạt, soạt”, sau đó anh à lên một tiếng đầy thoả mãn. Nghe thế, tôi biết là Holmes đã tìm ra được điều gì đó. Anh ngồi bệt xuống sàn nhà, hai chân khoanh lại, một đống sách to đùng bao quanh, và trên đùi lại có một tập báo đang mở nữa. ... Mời các bạn đón đọc Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes của tác giả Arthur Conan Doyle. Mời các bạn đón đọc Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes của tác giả Arthur Conan Doyle.
Mười Người Da Đen Nhỏ - Agatha Christie
Mười người phát hiện rằng mình đã bị lừa ra đảo để "trả giá" cho "tội ác" đã gây ra, họ ứng với 10 bức tượng nhỏ đặt trên bàn ở phòng khách. Những ngày sau đó từng người lần lượt thiệt mạng tương tự cái cách bài đồng dao trong phòng mỗi người đã mô tả. Kỳ lạ hơn là sau khi một người qua đời, số tượng trong phòng khách bằng cách nào đó đều giảm đi một. Người đầu tiên thiệt mạng là Anthony Marston, anh ta chết vì ngộ độc với triệu chứng tương tự người bị nghẹn. Sau Marston là Ethel Rogers, bà quản gia chết được chồng phát hiện đã chết vì dùng thuốc ngủ quá liều. Vị tướng Macarthur dường như linh cảm được cái chết sẽ đến nên đã bỏ ăn mà ngồi nhìn ra biển và lảm nhảm một mình, bác sĩ Armstrong sau đó phát hiện ông đã chết vì bị một vật cứng đập vào sau đầu. Người thứ tư thiệt mạng là Thomas Rogers, trong lúc bổ củi chuẩn bị cho bữa sáng, dường như Thomas đã để trượt tay và làm lưỡi búa bay thẳng vào đầu. Là người luôn tin rằng mình không làm gì trái với Đức tin, rằng những người khác chết là do bị Chúa trừng phạt, tuy nhiên Emily Brent cũng không thể sống sót, bà bị tiêm thuốc độc vào cổ sau bữa ăn trưa, vết tiêm trên cổ bà tương tự như vết ong đốt. Buổi tối hôm đó đến lượt quan tòa Wargrave được bác sĩ Armstrong phát hiện đã thiệt mạng vì bị bắn vào đầu trong khi đang đội bộ tóc giả của quan tòa. Bản thân bác sĩ vào ngày hôm sau cũng được những người còn lại phát hiện đã chết đuối ở vách đá. Blore là người thứ tám thiệt mạng trên đảo, viên thám tử tư bị bức tượng trong phòng cô Vera Claythorne rơi trúng đầu trong lúc hai người còn lại đang ở ngoài bờ biển bên xác bác sĩ Armstrong. Rơi vào trạng thái hoảng loạn, Claythorne lừa cướp được súng của Lombard và giết chết tay cựu lính đánh thuê. Cuối cùng cô trở lại phòng và treo cổ tự tử với chiếc ghế và dây thòng lọng do một ai đó đã bày sẵn… Đây là một vụ án mà không hề có sự hiện diện hay dấu vết của thủ phạm. *** Mười người da đen nhỏ, nguyên bản tựa gốc tiếng Anh: Ten Little Niggers (10 gã mọi đen nhỏ) hoặc And Then There Were None (Và rồi chẳng còn ai) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được nhà xuất bản Collins Crime Club phát hành lần đầu ở Anh ngày 6 tháng 11 năm 1939[2]. Tác phẩm đôi khi còn được xuất bản (và chuyển thể thành phim) dưới tên Ten Little Indians (10 gã da đỏ nhỏ). Tiểu thuyết nói về vụ án bí ẩn trên hòn đảo Soldier Island với 10 người bằng cách này hay cách khác đã thiệt mạng mà không hề có sự hiện diện hay dấu vết của thủ phạm. Đây được coi là một trong những tiểu thuyết hình sự xuất sắc và nổi tiếng nhất của Agatha Christie, trên 100 triệu bản sách đã được bán ra khiến tác phẩm này trở thành tiểu thuyết hình sự bán chạy nhất trong lịch sử xuất bản thế giới. Mười người da đen nhỏ cũng là tác phẩm của Agatha Christie được chuyển thể nhiều lần nhất, cả trực tiếp và gián tiếp, dưới dạng phim điện ảnh, truyền hình và kịch sân khấu. Mời các bạn đón đọc Mười Người Da Đen Nhỏ của tác giả Agatha Christie.