Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hoa Hồng Trắng

Bộ truyện tình báo của Nguyễn Sơn Tùng - Nhà xuất bản Lao Động phát hành năm 1987, 4 tập gồm: Hoa hồng trắng Miền đất lạ Viên đạn ngược chiều Một mình trên đất khách. *** Mặt trời như trút lửa xuống ruộng đồng, cây cối im lìm, không một làn gió thoảng qua, mặt đường nóng bỏng, vắng bóng người lai vãng, sau vài khóm tre xơ xác tiêu điều, ẩn hiện những mái nhà tranh bạc phếch. Trên con đường đất từ Kiến-an về Đồ-sơn có hai chiếc xe gíp nhà binh đang mở hết tốc độ lao vun vút, cuốn lại sau một lớp bụi mờ. Hai chiếc xe chạy đến ngã ba thì dừng lại. Từ chiếc xe đi trước nhảy xuống ba tên lính đeo súng “mát”, mặt mũi đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại, một trong ba tên quay lại chiếc xe sau hỏi: - Ngài đồn trưởng cho chúng tôi giải khát chứ ạ? Từ chiếc xe sau bốn tên nhảy xuống, bọn chúng cũng ướt đẫm mồ hôi, một tên đeo lon trung úy có bộ mặt lưỡi cày dài ngoẵng, cái sống mũi gồ, cặp mắt xếch và đôi lông mày rậm, hắn khoát tay ra lệnh: - Vào hàng cô Mơ! - Rồi khệnh khạng tì tay phải vào chuôi khẩu “côn bát” đeo lủng lẳng bên sườn, hắn ngất ngưởng đi vào quán, theo sau là những tên lính tùy tùng. Trong quán có mấy bà đi buôn, gồng gánh thúng mủng, đang lấy nón ra sức quạt, khi thấy bọn chúng vào vội vàng nem nép dồn vào một góc. Còn cô chủ quán trạc hăm bốn, hăm nhăm tuổi, vấn tóc trần, mặc áo phin nõn bó chặt bộ ngực phồng căng, đang vội vã lấy khăn lau sạch chiếc bàn đã được phủ lên trên tấm vải ni-lông hoa, ỏn ẻn nói: - Bẩm ngài đồn trưởng, ngài muốn gì ạ? - Kem sô-đa! Hôm nay có đá không cô em? - Tên đồn trưởng hỏi sau khi đã ra lệnh cho bọn lính được phép ngồi xuống bàn. - Dạ thưa ngài, khó mua lắm ạ! Thằng em em nó đi Hải-phòng, suốt từ sớm tới giờ chưa lấy được về, các ngài xơi sô-đa tạm vậy, có cả bia và nước chanh chai ạ! - Nóng thế này mà không có đá, chán thật! - Một tên hạ sĩ đứng dậy vừa xốc lại chiếc quần soóc ka ki vừa nói - Cô Mơ này, nếu lần sau cô thấy chiếc xe của quan đồn đi qua thì thế nào cô cũng phải chạy cho bằng được đá nhé! Lúc về, quan đồn bao giờ cũng xuống giải khát ở hàng cô, cô không thấy đó là vinh dự à? - Dạ em biết. Nhưng quả thật dạo này nóng quá mà đá thì rất hiếm, tranh nhau mãi, không mua được, quan đồn có cách nào giúp em mua đá được không? Nếu được thì em cám ơn quan đồn vô cùng ạ! - Mua đá hộ cô à? - Tên đồn trưởng hỏi rồi phá lên cười, cả bọn thấy hắn cười cũng cười theo. Tên đồn trưởng hỏi tiếp: - Nếu mua đá hộ cô thì cô em có tính tiền giải khát cho tôi không? - Dạ, em ủng hộ ạ! - A! Được rồi, thế thì viết cho cô một cái giấy nhé, nói là mua đá phục vụ quân đội quốc gia. Mỗi ngày một cây đủ chưa? - Dạ, được hơn thì càng tốt ạ! - Cô chủ quán mừng rỡ tiến đến phía sau tên đồn trưởng, ghé sát mớ tóc đã bôi nước hoa qua vai hắn trong khi hắn đang hí hoáy viết vào tờ giấy đóng dấu sẵn. - Đây, cho cô em, vừa ý chưa? Cô hàng nhận giấy, liếc mắt đưa tình và cất giọng ỏn ẻn: - Em xin cảm ơn! Bỗng tên đồn trưởng túm lấy tay cô kéo sát lại gần rồi nghiêm sắc mặt: - Cấm cô không được chỉ đường cho Việt Minh đấy! - Dạ. - Thấy người lạ mặt lảng vảng đến hàng thì phải theo dõi. - Vâng ạ! - Nếu thấy người nào nghi ngờ là du kích thì phải lập tức báo ngay cho lý trưởng để đồn kịp thời cho lính xuống bắt! - Dạ. - Nếu gặp khó khăn thì cô chịu khó lên đồn gặp tôi, tôi sẽ giúp đỡ. - Cám ơn quan lớn ạ! Tên đồn trưởng định kéo sát cô chủ quán gần mình nữa nhưng thấy bọn lính đang nhìn, hắn tảng lờ, vờ hỏi: - Những điều tôi dặn cô nghe rõ chứ? - Dạ, em nghe rõ cả. - Được, thôi ta đi - Hắn ra lệnh cho cả bọn và khệnh khạng bước lên xe, quên trả tiền hơn chục chai nước ngọt. Xe nổ máy, bọn chúng giơ tay chào cô chủ quán, một tên nói tiếng Tây giả cầy. - Ô-rơ-voa, ma-đờ-ma-den! Hai chiếc xe cùng rú ga phóng vun vút trên đường về Đồ-sơn, nhả lại đám bụi mù mịt tỏa vào các quán hàng ở ngã ba, khiến mọi người phải giơ tay lên bịt mũi. Bọn chúng đi được chừng mười phút thì những người ở ngã ba bỗng nghe thấy tiếng nổ. Một đám khói và bụi bốc cao lên ở phía Đồ-sơn. Một số người từ các quán hàng đổ xô ra nhìn và reo lên: - Mìn, bọn chúng vấp phải mìn rồi! Tiếp theo là tiếng súng máy nổ loạn xạ một hồi lâu rồi tiếng động cơ ầm ì xa xa. Từ trên đồn, tên thiếu úy đồn phó sau khi nghe thấy tiếng nổ lớn rất gần, hốt hoảng quay điện thoại gọi ra trạm tiền tiêu hỏi tên hạ si thường trực thì được biết có mìn nổ trên đường quốc lộ. Hắn thất sắc, nghĩ đến khả năng đồn trưởng bị phục kích, hắn vội vàng ra lệnh báo động. Gần một trăm tên, súng ống đầy đủ nhốn nháo tập trung dưới sân đồn. Tên đồn phó hạ lệnh cho một trung đội lên hai chiếc xe cam nhông, mở máy đi tiếp cứu. Nhưng vừa ra khỏi đồn thì thấy chiếc xe đồn trưởng về tới nơi, bọn chúng đều dừng lại và đoán rằng đã có chuyện chẳng lành. Tên đồn trưởng mặt tái mét từ trên xe bước xuống, theo sau là hai tên cận vệ quần áo tả tơi đầy bụi cùng tên tài xế vừa chết hụt. - Ông cho ngay quân xuống cây số mười lăm kéo chiếc xe bị mìn cùng xác ba binh sĩ về, đồng thời càn kỹ khu vực quanh cây số mười lăm - Đồn trưởng hạ lệnh cho đồn phó, tên này đang đứng nghiêm trước mặt hắn. - Bắt cho bằng hết những đứa làm ruộng xung quanh đem về đồn! - Xin tuân lệnh! Đồn phó rập gót giày, giơ tay chào và nhảy vội lên xe phóng thẳng. Tên đồn trưởng thất thểu bước ngay về buồng riêng, mở quạt máy và cứ để nguyên quần áo bẩn như vậy nằm sóng soài trên giường, mắt trợn tròn vừa sợ hãi vừa giận dữ. Từ ngày được bổ nhiệm về thay thế tên quan ba Phéc-đi-man đến nay đã gần ba tháng. Cái đất đáng nguyền rủa này lại chính là nơi các quan khách thường lui tới nghỉ mát trong những dịp hè. Tên tỉnh trưởng Kiến-an đã chỉ thị cho hắn phải kiện toàn màng lưới bảo vệ khu vực nghỉ mát bất khả xâm phạm này, vì vậy hắn đã được bổ sung thêm một đại đội bảo an do thiếu úy Toàn chỉ huy. Hôm nay, hắn lên tỉnh để chuẩn bị tiếp nhận và trên đường về bị vấp mìn của du kích. Chiếc xe đi đầu bị nổ tung, thiệt mạng ba tên lính cận vệ. Còn hắn ngồi xe sau nên thoát chết. Hắn nhớ lại những ngày vẫy vùng chỉ huy bọn phỉ ở vùng biên giới Móng-cái. Đến khi quân Pháp trở lại chiếm đóng, hắn đã đem hơn chục tàn quân, những hảo hán trên mặt biển, đến gặp tên quan năm Sác-lơ Đo xin đầu thú. Cảm động về sự nhiệt thành của hắn, Sác-lơ Đo đã tiếp nhận và đề nghị với bộ chỉ huy phong cho hắn chức trung úy và cất nhắc lên làm đồn trưởng Móng-cái một thời gian. Vì hắn là người địa phương, lại xuất thân là một tên giặc biển nên nhân dân Móng-cái đều căm ghét hắn vô cùng. Hễ nghe nói đến Tằng Sáng, đồn trưởng Móng-cái, thì từ đứa trẻ lên ba đến các cụ già đều phải khiếp vía kinh hoàng. Tằng Sáng khét tiếng tàn ác, uống máu người không tanh, do đó càng được bọn chỉ huy Pháp tin dùng. Tằng Sáng ra sức lập công với quan thầy, hễ cứ sau mỗi trận càn, nếu bắt được người nào bị nghi là du kích, hắn chặt đầu mổ bụng không thương tiếc. Có người hỏi hắn tại sao lại thích hành hình theo kiểu thời trung cổ như vậy, hắn trả lời: “Cho đỡ tốn đạn. Vả lại có thế bọn Việt Minh mới sợ”. Tằng Sáng được chuyển về Đồ-sơn, đồng bào khu vực Đồ-sơn lại phải chịu đựng nhiều thảm họa. Hôm nay du kích Đồ-sơn định bắt hắn trả nợ máu nhưng lại giết hụt. Hắn chưa đến ngày tận số. Hắn đang suy nghĩ để tìm cách báo thù du kích, hắn nôn nóng chờ mong tin tức của bọn đi càn. Liệu có bắt được tên Việt Minh nào không? Khi đã mệt, hắn gọi lính hầu lấy nước rửa mặt rồi bước ra phòng làm việc, ngồi thừ mặt trông chờ. Bỗng chuông điện thoại réo vang, hắn vội cầm lấy ống nghe. Từ trạm gác tiền tiêu báo tin là đội quân đi càn đã trở về. Tằng Sáng bước vội ra cửa đồn. Bọn lính do tên đồn phó chỉ huy đang kéo về rầm rập. Tên thiếu úy báo cáo với hắn: - Báo cáo đồn trưởng, chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Tằng Sáng sốt ruột hỏi: - Có bắt được tên Việt Minh nào không? - Dạ, bắt được bốn tên đang bắt cua dưới đồng. - Dẫn bọn chúng lại đây. Tằng Sáng hậm hực, không hài lòng khi nhìn thấy ba người đàn bà cùng một em bé trạc mười ba tuổi, quần áo đều rách rưới và mặt mũi lem luốc. Họ lẩy bẩy co dúm lại, mặt mày xanh xám vì quá sợ hãi. Tằng Sáng hất hàm ra lệnh cộc lốc: “Bắn!” Lần đầu tiên, những nạn nhân đáng thương được hưởng ân huệ của hắn là không bị chặt đầu, mổ bụng, moi gan, như mọi khi. Mặt trời đã khuất sau dãy núi, một dải mây đen dài ôm lấy chân trời, một loạt súng nổ vang… Tằng Sáng không chút động tâm. Hắn bước vội vào phòng làm việc, hạ lệnh cho tên thư ký đánh máy một bản báo cáo như sau để gửi lên cấp trên: Kính gửi: Quan tỉnh trưởng Kiến-an. Tôi là Tằng Sáng, trung úy phụ trách khu vực Đồ-sơn xin trân trọng báo cáo với ngài Tỉnh trưởng một việc như sau: Hồi 15 giờ 30, chúng tôi từ trên tỉnh về đến cây số 15 thì bị Việt Minh phục kích. Chiếc xe đi đầu chở ba binh sĩ bị trúng mìn thiệt hại. Chúng tôi lập tức xuống xe chiến đấu. Sau ba mươi phút nổ súng ác liệt, bọn chúng đã phải rút lui, binh sĩ của chúng tôi tiếp tục càn quét và đã bắt sống được bốn tên Việt Minh, đem về đồn tra hỏi, bọn chúng đều ương bướng không chịu khai. Thừa lệnh quan Tỉnh trưởng, chúng tôi đã xử tử hình bọn chúng. Chiến lợi phẩm thu được gồm một số lựu đạn và một quả mìn chưa nổ, chúng tôi sẽ gửi lên tỉnh sau. Vậy đề nghị quan Tỉnh trưởng ghi vào sổ thành tích chiến đấu của anh em binh sĩ Đồ-sơn. Kính chào quý ngài. Đồ-sơn, ngày X tháng X năm X Đồn trưởng kí tên TẰNG SÁNG Hắn bắt tên thư ký đọc lại cho hắn nghe bản báo cáo trên rồi gật gù với những thành tích giật gân ấy, chắc hẳn phen này cấp trên sẽ gắn thêm cho hắn một chiếc mề đay trong chiến công thật vẻ vang này. Mời các bạn đón đọc Hoa Hồng Trắng của tác giả Nguyễn Sơn Tùng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chúa Đã Khước Từ - Richard E. Kim
Chúa đã khước từ mở đầu như một cuốn tiểu thuyết trinh thám. Mười bốn mục sư bị bắt khi quân Bắc Hàn chuẩn bị tiến vào Nam Hàn năm 1950. Mười hai người đã chết, một kẻ hóa điên, và mục sư Shin câm lặng. Sự thật nào đang bị che giấu? Sự câm lặng kia là tuẫn giáo hay hèn hạ? Câu hỏi ấy không được trả lời ngay. Mục sư Shin hiện lên vừa như Judas “kẻ phản Chúa” nhận lời sỉ vả của giáo dân, vừa như Chris một mình bị đóng đinh vào thánh giá giữa nhân quần đang say máu chém giết. Ông là ai, hỡi người tu sĩ không thần linh, gánh vác trách nhiệm về “sự thật”, về “niềm tin” khi mà Chúa đã bỏ loài người. Sự thành công vang dội của Chúa đã khước từ nằm ở chỗ nó gợi nhớ đến vô số ẩn dụ lớn về tầm vóc con người trong mối quan hệ với đức tin thiêng liêng: liệu có thể chết cho một đức tin mỏng manh như ảo ảnh; liệu chỉ cái chết mới có thể phục sinh lại những điều tốt đẹp đã mất; liệu cứu rỗi có tồn tại và nếu có, nó có tới từ các thánh thần hay không; liệu có thể có hy vọng nào cho loài người – những kẻ không còn đức tin đang lao vào những cuộc “thánh chiến” ý thức hệ. Những câu hỏi ấy vang lên khi trong lòng phương Tây đang khủng hoảng niềm tin vào những truyền thống Ki-tô và phương Đông đang rên xiết trong những cuộc tranh chấp quyền lực. Một hiện thực đau đớn đến độ cá nhân tuyệt vọng mong cúi đầu chờ sự ban phước của Chúa trời rồi nhận lại câm lặng hư không. Trong cơn phi lý cùng cực ấy, kẻ vác thánh giá chỉ có thể là cá nhân lẻ loi, như mục sư Shin, chọn im lặng để lộn trái lại hiện thức không còn lối thoát. Tư tưởng ấy, đúng như lời đề tặng đầu sách, có ảnh hưởng lớn lao từ nhà hiện sinh chủ nghĩa Camus với tiểu thuyết Dịch hạch, khi mà chúng ta không thể trốn tránh và chiến thắng sự phi lý tồn tại hiển nhiên khắp nơi, cái làm nên nhân tính là việc cá nhân đối mặt với sự phi lý ra sao. Chúa đã khước từ loài người, loài người đã khước từ lẫn nhau, chỉ còn cá nhân và cây thánh giá riêng anh ta phải vác mà thôi. *** Richard E. Kim (1932 - 2009), là một tiểu thuyết gia, nhà phê bình và giáo sư văn học nổi tiếng, xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên "The Martyred" (Chúa Đã Khước Từ) năm 1964 và được hoan nghênh rộng rãi. Tác phẩm được đề cử giải National Book Award năm 1965 và đã được dịch ra 14 thứ tiếng. Mời các bạn đón đọc Chúa Đã Khước Từ của tác giả Richard E. Kim.
Con Mắt Thần Osiris - R. Austin Freeman
Xác ướp suốt bấy nhiêu thế kỷ nằm lặng dưới cát bụi sa mạc, một khi đưa ra khỏi lăng mộ, linh hồn Pharaon liệu còn ngủ yên? Trở về từ chuyến lữ hành đến Ai Cập, nhà nghiên cứu John Bellingham nổi tiếng đột nhiên mất tích bí ẩn, để lại bản di chúc kì quặc cùng khối lượng tài sản kết xù. Một con người mà có thể biến mất tựa sương khói, không một ai xác định được phương hướng ông ta đi, không một ai chứng kiến thấy giây phút cuối cùng của ông ta như thế nào... Đương khi mọi chiều hướng điều tra đều đam vào ngõ cụt, thì các dấu vết còn sót lại dần được gắn kết với nhau bởi Tiến sĩ Thorndyke lừng danh, từ món đồ trang sức hình bọ hung bằng vàng, hay khu vườn cải xoong chôn những mẩu xương người rải rác, cho đến xác ướp Sobekhotep cổ xưa, rồi cả hình xăm Utchat kỳ lạ... tất thảy cùng dẫn đến chân tướng cuối cùng. Con mắt Thần Osiris đỏ tươi, mở to soi chiếu mọi tội ác trên thế gian này. Ở nơi ta, lòng người, suy cho cùng mới là thứ khó ngủ yên nhất. *** Richard Austin Freeman là một nhà văn người Anh về những câu chuyện trinh thám, chủ yếu là các nhà điều tra pháp y medico-TS Thorndyke. Ông tuyên bố đã phát minh ra câu chuyện trinh thám ngược. Freeman đã sử dụng một số kinh nghiệm ban đầu của mình như là một bác sĩ phẫu thuật thuộc địa trong tiểu thuyết của mình Mời các bạn đón đọc Con Mắt Thần Osiris của tác giả R. Austin Freeman.
Pháp y Tần Minh Tập 4: Kẻ Dọn Rác - Tần Minh
Sách nói Kẻ Dọn Rác “Kẻ dọn rác” là cuốn thứ tư trong Series “Bác sĩ pháp y Tần Minh”. Trong cuốn này, bác sĩ Tần Minh và nhóm giám định hiện trường của anh đã đọc được tín hiệu phạm tội của rất nhiều xác chết, gặp nhiều hiện trường quái dị và đẫm máu, nhưng bất luận là cuộc hành trình đến địa ngục hay du hồn bám theo xe hoặc bóc trần sự thật trong ngôi nhà cổ, vụ thảm sát trong núi sâu... thì họ vẫn luôn tìm ra dấu vết dù là nhỏ bé nhất trong mười hai hiện trường vụ án vừa kỳ quái lại vừa hoang đường, từ đó vạch trần ra chân tướng sự thật. Trong tập truyện này, một sát thủ thần bí đang âm thần xuất hiện trong thành phố, hắn lặng lẽ hành quyết những người lang thang cơ nhỡ, những kẻ dối trá. Sau khi gây án, hắn hoàn toàn không để lại dấu vết nào ngoại trừ chữ ký bằng máu “Kẻ dọn rác” như lời thách thức dành cho giới cảnh sát. Nhóm giám định hiện trường có thể tìm thấy tay sát thủ thoắt ẩn thoắt hiện như bóng ma kia nhờ vào những dấu vô cùng tinh vi không? Mỗi giây mỗi phút diễn ra trong hệ liệt “Bác sĩ pháp y Tần Minh” đều khiến từng tế bào thần kinh của bạn chịu kích thích đến cực độ. Mời các bạn đón đọc Pháp y Tần Minh Tập 4: Kẻ Dọn Rác của tác giả Tần Minh.
Người Ruồi - Hans Olav Lahlum
Tác phẩm trinh thám viết theo lối cổ điển này được xem như là một hiện tượng trong vài năm trở lại đây tại Na Uy. Nhưng đằng sau lớp vỏ trinh thám mật thất kinh điển là một câu chuyện có chiều sâu với các nhân vật được khắc họa đa chiều. Một đêm cuối năm 1968, thi thể của một người anh hùng chiến tranh được tìm thấy trong căn hộ chung cư của ông sau một tiếng súng nổ. Sau khi khoanh vùng đối tượng tình nghi, cảnh sát xác định hung thủ chỉ có thể là một trong những người hàng xóm ở cùng chung cư với nạn nhân. Từ đây, quá khứ của từng người được bóc tách dần dần, và tất cả đều cho thấy có mối liên hệ ít nhiều phức tạp với người quá cố. Ai là hung thủ? Động cơ gây án là gì? Những câu hỏi thường thấy sau vụ án mạng thứ nhất còn chưa được giải đáp thì một cái chết thứ hai xảy ra, cũng trong cùng chung cư, khiến tất cả mọi người rúng động… Trong câu chuyện, chúng ta lần đầu được làm quen với hình mẫu một cặp đôi thám tử điều tra khá thú vị. Thanh tra cảnh sát Kohljorn Kristiansen (biệt danh K2) trẻ tuổi và đầy nhiệt huyết là một người có khả năng quan sát rất tốt, nhưng óc suy luận của anh lại không được nhạy bén bằng. May mắn thay, mỗi khi anh rơi vào bế tắc thì lại nhận được sự giúp đỡ đắc lực từ Patricia Borchmann, một cô tiểu thư giàu có phải ngồi xe lăn sau một vụ tai nạn. Những gợi ý của Patricia giúp cho K2 giăi quyết được những khúc mắc của vụ án, nhưng ngược lại, việc phải gắn chặt với chiếc xe lăn khiến cô không thể trực tiếp đến quan sát hiện trường. Vì vậy, họ là một cặp đôi đầy thú vị, bổ khuyết cho nhau một cách hoàn hảo, dù không phải lúc nào cũng đồng tình với nhau. Một ưu điểm nữa của tác giả là khả năng tạo kịch tính. Đây là điều rất khó thực hiện với một câu chuyện được kể từ ngôi thứ nhất (góc nhìn của người phá án). Tuy nhiên, tác giả đã khéo léo để cho những suy luận sai lầm của K2 liên tục đánh lừa bạn đọc, khiến cho chúng ta bị bất ngờ hết lần này đến lần khác. Cảnh ấn tượng nhất trong truyện là đoạn đọc di chúc của người quá cố. Có cảm giác như đó là một sân khấu kịch bất đắc dĩ với những người hàng xóm buộc phải đóng vai người tử tế, nhưng rốt cuộc bản chất của họ vẫn lộ ra. Từ những cái liếc mắt, tiếng thở dài, cho đến vị trí ngồi của họ, tất cả đều là những chi tiết cực đắt và được gài cắm rất khôn khéo, đẩy xung đột lên đến đỉnh điểm khi bản chúc thư cuối cùng được công bố. Người ruồi là những con người không thể quên được quá khứ, nên dĩ nhiên tác phẩm này dành một dung lượng khá dài để ôn lại những ký ức vẫn còn nóng hổi về cuộc đại chiến thế giới thứ hai qua lời kể của những người hàng xóm. Đây là phần nội dung gây nhiều xúc động, đặc biệt là những tâm sự của vợ chồng người gác dan. Các bạn có thể thấy nó dài dòng không cần thiết, nhưng đừng hấp tấp bỏ qua nhé, nó chứa đựng một vài manh mối rất quan trọng của vụ án đấy. Tác giả khá tôn trọng luật công bằng của trinh thám suy luận cổ điển, nên bạn đọc có đầy đủ các dữ liệu để tìm ra hung thủ trước khi đọc những trang cuối. Vấn đề là bạn có đủ tinh ý hay không. Nói tóm lại, Người ruồi là một tác phẩm trinh thám lịch sử đáng đọc, đáng suy gẫm. Chúng ta hoàn toàn có thể bỏ qua những điểm còn chưa hoàn chỉnh của một tiểu thuyết đầu tay, và yên tâm về chất lượng của những cuốn tiếp theo trong series K2-Patricia này. *** Hans Olav Lahlum là một sử gia Na Uy, tác giả tội phạm, người chơi cờ vua và nhà tổ chức, và chính trị gia. Ông đã viết tiểu sử về Oscar Torp và Haakon Lie, và một cuốn sách lịch sử về tất cả các tổng thống của Hoa Kỳ.  Khi viết quyển tiểu thuyết trinh thám lịch sử này tôi đã vận dụng kiến thức và kinh nghiệm của một nhà sử học, và đã cố gắng hết sức chân thật trong ngữ cảnh liên quan đến các sự kiện vào năm 1968 và Thế chiến thứ Hai. Tuy nhiên, người viết quyển tiểu thuyết này dù sao cũng là nhà văn Hans Olav Lahlum, chứ không phải nhà sử học cùng tên vốn được biết đến nhiều hơn. Và tôi cũng sử dụng sự tự do nghệ thuật mà các tác giả vẫn thường xuyên sử dụng. Tên các địa điểm và những con phố là chính xác, nhưng hầu hết những tòa nhà được đề cập đều là sản phẩm của trí tưởng tượng. Do đó, độc giả đặc biệt quan tâm sẽ có thể tìm thấy cả hai con phố Krebs và Erling Skjalgsson, nhưng sẽ không có những số nhà hoặc tòa nhà được mô tả trong quyển tiểu thuyết này. Tương tự như vậy, không thể tìm thấy một đồn cảnh sát ở Salen với cùng địa hình xung quanh hoặc cùng một kiến trúc như đã được mô tả trong chương Chín. Một vài nhân vật phụ đã được lấy cảm hứng trực tiếp từ những nhân vật lịch sử. Còn lại, tất cả những nhân vật chính, bao gồm cả nạn nhân vụ án, ông Harald Olesen, hoàn toàn là sản phẩm tưởng tượng của tác giả và không dựa trên bất kỳ nhân vật lịch sử nào, dù là của năm 1968 hay trong Thế chiến thứ Hai. Và đối với một vài nhân vật phụ được lấy cảm hứng từ nhân vật lịch sử kia, phải nhấn mạnh rằng sự miêu tả văn chương không dựa trên bất kỳ liên quan nào với một cuộc điều tra hình sự. Vụ án Feldmann, vốn được đề cập ngắn gọn trong tiểu thuyết này, là một trường hợp pháp lý được bàn tán rộng rãi từ năm 1946 đến 1947, trong đó hai người cựu dẫn đường qua biên giới bị kết tội sát hại một cặp vợ chồng người Do Thái trong chiến tranh với lí do tự vệ. Việc này đã được sử dụng như cứ liệu lịch sử cho quyển tiểu thuyết này, nhưng không tương ứng với cốt truyện hay bất kỳ nhân vật nào. Tuy nhiên, một vài nhân vật được lấy cảm hứng hoàn toàn hoặc một phần từ những người mà tôi biết ngày hôm nay - kể cả bản thân tôi. Trưởng bộ phận tiểu thuyết của nhà xuất bản Cappelen Damm, Anne Tlotaker, đã là người cố vấn quan trọng nhất của tôi về cả nội dung và bút pháp của quyển tiểu thuyết này. Tôi cũng nhận được những phản hồi hữu ích từ nhà phụ trách xuất bản, Anders Heger và biên tập viên Marius Wulfsberg. Tôi cũng muốn gửi ngàn lời cảm ơn đến một nhóm những cố vấn cá nhân, những người đã đọc tất cả các phần của bản thảo và cho tôi những lời phê bình mang tính xây dựng về mặt nội dung và/hoặc ngôn ngữ. Nhóm này bao gồm em gái tôi Ida Lahlum, cùng những người bạn tốt của tôi: Ingrid Baukhol, Mina Finstad Berg, Ingrid Busterud, Anne Lise Fredlund, Kathrine Ncess Hald, Hilde Harbo, Kristin Hatledal, Bjarte Leer-Salvesen, Torstein Lerhol, Espen Lie, Ellisiv Reppen, Jane Iren Solbrekken-Nygard, Karen Thue, Arne Tjolsen và ICatrine Tjolsen. Ellisiv và Mina cũng xứng đáng được nhắc đến, đặc biệt do mối quan tâm liên tục của họ đến dự án này và sự giúp đỡ thiết thực của họ trong những lần sửa bản thảo cuối cùng. Chỉ có thời gian mới cho chúng ta biết liệu quyển tiểu thuyết trinh thám đầu tay này của tôi cũng sẽ là quyển cuối cùng hay nó sẽ khởi đầu của một chuỗi những tiểu thuyết trinh thám lịch sử. Tuy nhiên, tôi chỉ có thể hy vọng rằng Người Ruồi cũng sẽ hấp dẫn người đọc như nó đã từng lôi cuốn tác giả. Độc giả có bất kỳ bình luận hoặc câu hỏi nào cho tác giả chỉ cần gửi email đến địa chỉ [email protected] hoặc đăng chúng lên trang Facebook của tôi. Gjovik, 27 tháng 6 năm 2010 Hans Olav Lahlum Mời các bạn đón đọc Người Ruồi của tác giả Hans Olav Lahlum.