Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đông Lai Bác Nghị - Dương Tấn Tươi

Nếu không có tài dàn xếp của bao sự ngẫu nhiên thì đâu có quyển Đông-Lai bác nghị nầy ! Đầu tiên, một vị túc nho của chốn Thần kinh, lúc tản cư vào Sài-thành, ngẫu nhiên đến trú ngụ cạnh phòng khám bịnh của chúng tôi. Đó là việc hệ trọng : vì đối với chúng tôi, bực đại nhân ấy là một người thầy đáng kính, mặc dầu Cụ vẫn có nhã ý tự xem mình là bạn vong niên ; vì đối với quyển sách này, bực lão thành ấy mới thật là người cha tinh thần, mặc dù Cụ ấy vẫn một mực chối từ không nhìn nhận. Vả lại, vì muốn giữ vẹn cốt cách của nhà ẩn dật, Cụ yêu cầu chúng tôi đừng nêu danh Cụ vào trong sách ! Thật đáng phục thay đức tính khiêm tốn của bực nho phong, mà cũng khổ cho chúng tôi vì phải dài dòng nhắc lại tiểu sử của bổn dịch mà chỉ được phép dùng một chữ « Cụ » vỏn vẹn để kể cho tròn câu chuyện ! Thì cũng bởi vai tuồng quan trọng của vị túc nho ấy trong khi phiên dịch cho nên chúng tôi xin độc giả niệm tình tha thứ khi thấy chúng tôi lắm lời nói về thân thế của một người đương cầu xin đời đừng nhắc đến tên. Sanh trưởng trong một thế gia của chốn đế đô, cha làm Thượng thơ bộ Lễ, thì khi vào sân Trình, Cụ chiếm bằng cử nhân, việc ấy, theo chúng tôi, cũng chưa đáng kể. Đáng nể là khi rời cửa Khổng để theo tân học, chỉ trong mấy năm Cụ theo kịp các bạn đồng niên nơi lớp tú tài « Tây » ! Rồi sang Pháp để trau giồi học mới, rồi xông pha nơi bể hoạn, rồi cuối cùng nối được chức của cha, thì với sức học đó, với thông minh đó, âu cũng là một việc có thể đoán trước được. Ngày nay, đã chứng kiến bao cuộc bể dâu, Cụ chỉ còn giữ lại một ham muốn là tận hưởng chữ « nhàn » trong thời hưu trí. Muốn được thế, Cụ ẩn mình trong đám rừng người để thưởng thức một câu thơ đẹp với chén trà ngon hoặc cùng vài ba tri kỷ luận bàn về văn học. Cụ nhứt quyết chủ trương : « Lịch sử và địa dư đặt nước nhà vào giữa hai nguồn văn hóa, muốn trở nên một công dân đất Việt, chúng ta phải thâu thập cả đôi. Âu Tây giúp ta kỹ thuật, Á Đông cho ta nghệ thuật làm người ». Để chứng minh lời nói, Cụ nhắc lại một gay cấn vừa xảy ra trong trường quốc tế, rồi chỉ rõ giải pháp của người xưa khi gặp cảnh ngộ tương tợ để bắt buộc kẻ đối thoại phải nhìn nhận : « Thiếu Hán học là một sự thiệt thòi rất lớn ». Sẵn có quan niệm ấy nên Cụ nhận lời ngay khi chúng tôi ngỏ ý cầu học. Lối dạy của Cụ thật là đặc biệt. thường ngày Cụ dùng tiếng Việt để giảng bài, nhưng khi gặp áng văn quá bóng-bảy hay huyền-diệu thì Cụ dùng cả tiếng Pháp để diễn-tả tư-tưởng, mượn triết-học Đức để so-sánh, đem học-thuyết Hy-Lạp để chứng minh, cốt-yếu là giúp học trò hiểu cho thấu đáo, tận-tường. Khi gặp tư-tưởng thanh-cao hoặc áng văn bất-hủ, chúng tôi lật đật ghi rồi chép lại trong giờ nhàn rỗi để trình lên cho Cụ xem-xét. Cụ dò từng câu, đối-chiếu từng chữ để phê-bình. Nhờ Cụ tiến dẫn, chúng tôi mới « nuốt hận » chép thơ của Tư-mã Thiên, sụt sùi thảo tờ biểu xuất-sư của Gia-Cát, băn khoăn đứng trên lầu Nhạc-Dương với Trọng-Yêm, ngạo nghễ biên thơ từ-chức cùng Tạ-Phùng-Đắc. * Ngẫu-nhiên khéo sắp cho chúng tôi gặp được một bực thầy đáng kính, thì cũng nhờ ngẫu-nhiên chúng tôi lại gặp quyển sách đáng yêu. Kẻ vừa nhập đạo thường không tiếc lời ca-tụng tôn-giáo mới của mình. Chúng tôi nào có tránh được thường tình đó trong khi hầu chuyện với ông Trương-Quan, một nhân vật mà giới mại bản Huê-kiều và làng « thanh sắc » bổn xứ vẫn còn nhớ tiếng. Nghe chúng tôi ca tụng nhân tánh của nền văn-hóa Trung-Hoa, Trương-quân đột-ngột hỏi : « Như thế chắc bác-sĩ đã đọc quyển Đông-Lai bác nghị rồi ? » Chúng tôi phải thẹn thùng nhìn nhận : « Chẳng những chưa được đọc mà như phần đông người Việt-Nam, chúng tôi chưa từng nghe đến tên ! » Vì bác-sĩ khen ngợi văn học cổ Trung-Hoa, trí tôi vùng nhớ lại câu chuyện hai mươi năm về trước khi còn thơ ngây cặp sách vào trường để ăn mày chữ. Trong những giờ các bạn được nghỉ ngơi hoặc nô đùa chạy giỡn thì chúng tôi bị ông bác ngồi kèm bên cạnh ép buộc đọc một vài trang Đông-Lai bác nghị. Đó là lời phê-bình về hành vi và hạnh kiểm của các nhân vật đời Đông-Chu. Câu văn huyền diệu, lập luận chặt chẽ, tâm lý sâu sắc là ba đặc điểm của tác phẩm bất hủ đó. Nhưng đối với bộ óc non nớt của đứa trẻ lên mười thì làm sao thưởng thức nổi vẻ đẹp của câu văn hay và sự điêu-luyện của bài luận khéo ? Vậy mà, ông bác vẫn bắt buộc chúng tôi « ê » « a » đọc cho xong vì : « nơi trường, thầy dạy cháu làm văn ; nơi đây, bác dạy cháu làm người ». Lời của bác thật là chí lý ! Thời-đại Đông-Chu là khoảng đen tối nhứt của lịch-sử Trung-Hoa, vì lúc ấy, xã hội đương vươn mình thay đổi lốt, nên gây ra bao sự xáo trộn lớn lao. Bực thánh phải chung đụng với sát nhân, hiền triết phải ăn ở cùng gian tà, rồi tranh đấu chống chọi nhau nẩy sanh ra trăm ngàn việc, hay dở đều có. Tất cả hai mặt – tốt và xấu, thanh với tục – của con người đều phô bày. Nếu gặp một nhà phê-bình có cặp mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt, lại thông tâm lý, hiểu chánh trị, khảo sát thời kỳ ấy thì chắc chắn sẽ để lại cho đời một tác phẩm vô cùng hữu ích. Lữ Đông-Lai có đủ điều kiện ấy cho nên quyển Bác-nghị là một chiếc thuyền đã cắm sào ở ngoài dòng thời gian… Khi đọc quyển Đông-Lai, chúng ta có cảm giác đương nghe một tay thợ chuyên môn giải thích về các bộ phận trọng yếu của guồng « máy lòng » rồi chỉ cho chúng ta thấy các nguyên do thường làm cho động cơ ấy chạy. Cũng bởi « động cơ » và nguyên do ấy không thay đổi cho nên lời của Đông-Lai luận về một thời vẫn có thể giúp ích cho người trong muôn thuở. Vì lẽ đó, lúc trẻ, chúng tôi oán trách ông bác bao nhiêu, thì ngày nay, đã tránh được nhiều kinh nghiệm chua cay, chúng tôi lại cám ơn ông bác bấy nhiêu ! Đáp lời yêu cầu, ông Trương-Quan phải nhờ người về tận Thượng-hải mua giùm cho chúng tôi một bổn. Của báu cầm tay, chúng tôi đến nhờ Cụ dẫn giải giùm điều thắc mắc : « Tại sao một tác phẩm giá trị dường kia, mà từ xưa, trong xứ ta chưa từng nói đến ? » Cụ giảng : « Những sách Trung-Hoa được phiên dịch và truyền bá ở Việt-Nam phần nhiều vì ba cớ : Một là bởi có nhiều người bị bắt buộc phải đọc đến, cho nên bàn tới cũng nhiều, dịch ra không ít, đó là những sách có tên trong chương trình thi cử. Hai là các thứ sách quyến rủ người vì cốt chuyện, ấy là lịch sử tiểu thuyết tức là truyện. Còn về loại thứ ba là vận văn, vì đọc lên nghe êm tai, lại dễ nhớ, nên có nhiều người ưa thích. « Đông-Lai bác nghị không đứng vào ba hạng đó. Vì là văn phê bình nên đòi hỏi ở độc giả một trí phán đoán mà người đời ít hay dùng đến. Và là văn nghị luận nên khô khan mà bắt buộc người đọc phải suy xét mới thưởng thức. Không có vần, thiếu cốt chuyện hấp dẫn, lại không được ghi vào chương trình thi cử, như vậy ít người biết đến thì cũng là một chuyện không lạ. Nói thế không phải bảo sách ấy không có độc giả ! Ngoài số thí sinh hiếu kỳ nên tìm Đông-Lai đọc trước khi vào đình thí, phần đông, các người mê thích sách đó toàn là những kẻ đã đỗ đạt, ra làm quan, ưa dùng quyển Bác-nghị để kiểm điểm hành động trong lúc chăn dân hay khi xử thế. Rồi đến lúc chiều tà bóng xế, khi đã mỏi mệt thì trí muốn yên nghỉ hơn là dịch sách ? Vả lại đối với các bực tiền bối ấy, dịch hay viết sách là một sự ngoài tưởng tượng. Đối với họ, học là hành nghĩa là đem ra áp dụng, để làm tròn bổn phận của mình, chớ không dám học để truyền cho ai cả. » * Rồi theo lệ thường, Cụ giải thích, chúng tôi ghi chép. Cả thảy được tám mươi bốn bài. Mỗi bài là một sự ngạc nhiên. Trong văn chương Trung-Hoa, chúng ta thường bực mình vì gặp lời nhiều hơn ý. Với Lữ Đông-Lai, câu văn đẹp đẽ vẫn đi kèm với tư tưởng cao thâm. Lắm bài không đầy gang tấc mà chất chứa ý dài muôn vạn dặm. Càng suy xét, càng thấy sâu rộng. Về mặt tâm lý thực nghiệm và chánh trị thực hành, chưa chắc có quyển sách nào trong văn chương Âu-Mỹ sánh kịp Đông-Lai bác nghị. Ấy là chưa bàn đến lý luận, phần cốt yếu của sách. Mở đầu cho mỗi bài, tác giả nêu ra một tư tưởng căn-bản, nhiều khi không dính-líu với cốt chuyện đem ra phê-bình. Độc-giả còn tưởng nhà văn lạc đề, thì chỉ vài câu, đã móc dính đầu-đề với ý-niệm căn-bản. Rồi dùng câu chuyện đem phê-bình để chú-thích tư-tưởng chánh ghi trên đầu bài. Trước với sau, đầu với đuôi đều ăn khớp, các bộ-phận liên-lạc cùng nhau một cách tế-nhị làm cho độc-giả tưởng là đương nghe nhà toán-học khéo chứng-minh một định-lý của hình-học. * Rồi một hôm, mấy người bạn tình-cờ đến viếng giữa giờ giảng dạy của cụ, đó là ngẫu nhiên thứ ba. Cũng như chúng tôi, các bạn đều bị câu văn trong-sáng và lập-luận huyền-diệu của Đông Lai hấp-dẫn nên mới khuyên chúng tôi cho xuất-bản. Từ-chối là sự dĩ-nhiên, vì bổn-tâm của chúng tôi là chỉ học cho mình… Lý-luận của các bạn thật cũng chặt-chẽ : « Hiện nay, quốc-văn đương nghèo… học-sanh thiếu món ăn tinh-thần, v.v…. Trong lúc các tiểu-thuyết khiêu-dâm chường mặt trên báo và trong hàng sách thì ôm giữ cho mình một tác-phẩm có giá-trị là một việc… ích kỷ, một tội to đối với nền học-vấn ». Không phương chối-cãi, đành phải nghe theo. Từ đây mới gặp bao nỗi khó … * Trước hết, nếu cho in vỏn-vẹn tám mươi bài nghị-luận của Đông-Lai mà chẳng có những đoạn Xuân-Thu, Tả-Truyện thì làm sao độc-giả lãnh-hội được ? Vả lại, lắm khi, vì bắt-bẻ một câu hoặc một chữ của Tả-Truyện mà Đông-Lai viết thành bài « bác-nghị ». Vậy dịch Xuân-Thu và Tả-Truyện song-song theo « bác-nghị » là một sự tối-cần. Cũng là một điều quá khó. Các bạn chắc đều biết Xuân-Thu là một trong năm quyển kinh của Đức Khổng-tử. Đó là bộ sử nước Lỗ do Ngài sửa-định, chép từ đời Lỗ Ẩn-công cho đến Lỗ Ai-công gồm có 240 năm (từ 721 tới 481 trước tây lịch). Với quan-niệm hiện-tại về sử học khi chúng ta trịnh-trọng lật quyển Xuân-Thu thì sẽ vô-cùng ngạc-nhiên hay thất-vọng. Vì đó chỉ là một mớ sử liệu chép rời-rạc, dường như gặp chuyện thì ghi, không màng đến sự liên-lạc hay tương-quan. Lại có nhiều việc quan-trọng mà không chép. Khi chép thì quá vắn-tắt gần như đơn-sơ. Thí-dụ : bà Khương-thị vì thương con không đồng nên gây ra cuộc xung-đột giữa Trịnh Trang-công và em là Cung Thúc-Đoạn thì nào là quỷ-kế của anh, nào là tham-vọng của em, nào là lời bàn của bá-quan rồi đến trận đánh, với cuộc vây thành phá lũy, cho đến khi cùng đường Thúc-Đoạn chạy vào xứ Yển. Trịnh Trang-công giam mẹ, thật là bao nhiêu gây cấn mà trong Xuân-Thu chỉ có một câu : « Mùa hạ, tháng năm, Trịnh-bá thắng Đoạn tại Yển ». Có lúc còn vắn tắt hơn, như « Tề cứu Hình » hoặc « Địch đánh Vệ ». Vậy thì chân giá trị của bộ Xuân-Thu ở đâu mà vẫn được xem là quyển kinh để « định công luận, đoán án cho muôn đời » ? Tại sao chính Đức Phu-Tử cũng yêu cầu người đời « biết cho ta » hay « buộc tội cho ta » thì nên do bộ Xuân-Thu ? Như vậy, bực thánh và dư luận cổ kim đã lầm chăng ? Hoặc giả, vì quan niệm về sử học của xưa với nay quá khác nhau mới có điều chinh lịch đó ? Nếu thật thế thì tại sao một học giả của thời đại nầy, cụ Nguyễn-Văn-Tố, một người mà chưa ai dám ngờ vực về sức học uyên thâm, cũng chưa ai dám nghi đến sự thận trọng của ngòi bút, đã viết : « Muốn thưởng thức cái hay của bộ Xuân-Thu, phải nhận thấy hương nồng của triết lý, thơm ngát của luân lý, mùi vị của chánh trị ở trong kinh đó. » Làm sao những câu văn vắn-tắt sơ sài kia lại chứa được bao nhiêu mùi, hương và vị ? Chỉ vì Đức Phu-Tử khéo dùng một phương pháp kín đáo : quên TÊN và VIỆC. Sự quên hữu ý, sự cố tâm quên có nghĩa là chê bai, là khiển trách. Như trong thí dụ trên, không chép tên Trịnh Trang-công chỉ gọi Trịnh-bá là chê lỗi chẳng biết dạy em. Như Thúc-Tôn Kiểu-Như, đại phu nước Lỗ chuyên chế mạng lịnh qua rước vợ ở nước Tề thì Xuân-Thu chép : « Vợ Kiểu-Như tên Phụ-Hỉ ở Tề về. » Như vua của nước Châu, tên Thiệt, chức là công, thường gọi là Châu-công, vì sợ loạn nên bỏ xứ trốn qua Tào, sau cùng qua triều Lỗ, Xuân-Thu chỉ chép : « Thiệt đến ». Còn vua nước Kỷ, tước là bá, khi qua triều Lỗ lại dùng lễ của man di, Xuân-Thu chỉ biên : « Kỷ đến triều ». Chẳng những thiếu là chê, có khi thừa cũng là khiển trách, như thêm tên tộc của các vị vua có lỗi. Muốn chỉ trích vua Vệ dùng kế tiểu nhơn để chiếm nước Hình thì Xuân-Thu ghi : « Mùa xuân, tháng giêng, ngày bính ngọ, Vệ-hầu tên Hủy diệt Hình. » Khi muốn tỏ sự hư hèn của Tống Chiêu công thì chép : « Mùa đông, tháng mười một, người Tống giết vua tên là Chử-cữu. » Nhưng phần nhiều khi Xuân-Thu thêm tức là khen, nếu ghi cả chức tước. Muốn nêu tấm lòng trung của hai bề tôi nước Tống – công tử Ấn và Đãng Ý-Chư – Xuân-Thu chép : « Người Tống giết quan đại tư mã. Quan đại tư thành trốn qua Lỗ ». Như câu : « Mùa thu, tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết vua tên Tiệp và quan đại-phu Cừu Mục » là dụng-ý phạt Nam-Cung Trường-Vạn, một kẻ thí chúa, lại chê vua Tống vì tánh ham đùa-bỡn với bề tôi, phải mua lấy cái chết thảm-khốc, còn khen quan đại-phu tuy yếu-đuối mà dám cầm hốt đánh một tên võ phu, coi thường cái chết. Chỉ thêm bớt vài chữ, Đức Phu-tử đã tỏ sự khen chê, ban điều thưởng phạt. Mà khen với chê, thưởng và phạt, khi đã trưng nhiều lượt, sẽ tỏ bày một luân-lý và một đường chánh-trị. Cả hai là sản-phẩm của quan niệm về cuộc đời, về vũ-trụ tức là triết-lý. Phương-pháp kín đáo ấy chẳng những bày tỏ được mấy nguồn văn hoá mà còn gây một ảnh-hưởng, một hiệu lực phi thường : được một tiếng khen của Xuân-Thu là hưởng giọt mưa Xuân đầm-ấm, bị một câu trách là chịu ngọn nắng Thu gay gắt. Thật là kết quả mỹ-mãn, nhờ bởi tay thợ thánh khéo dùng một khí cụ thô sơ. Và cũng vì thế, sự phiên dịch Xuân-Thu chất chứa bao nhiêu nỗi khó : phải cân nhắc từng chữ, phải theo đúng nghĩa mà còn lo-sợ thừa lời. * Thiếu một chữ là chê bai, không chép một việc là trách phạt, thật là cực kỳ tinh khéo ! Nhưng chỉ khéo đối với những độc-giả thông lịch-sử Trung-Hoa thời Đông-Chu ; còn với những người khác, không thấy chép, tưởng không có chuyện, thì sự thưởng phạt sẽ vô hiệu quả. Vì vậy bộ Xuân-Thu cần có chú-giải. Chính là Tả-Truyện, một quyển sử đi song song với kinh Xuân-Thu do ngọn bút cứng rắn của Tả Khâu-Minh chép. Nơi đây, cần mở một dấu ngoặc để bàn về tên của nhà sử trứ-danh ấy. (Có nhiều học-giả – trong số ấy có thầy của chúng tôi – đọc là : Tả kỳ Minh. Vậy nên theo phần đông đọc Khâu hoặc Khưu hay theo các cụ mà đọc là Kỳ ? Sự chinh lịch nầy do tục cữ tên mà sanh ra. Số là khi có tên Khâu hay Ni (tức Khổng-Khâu, Trọng-Ni, tên của Đức Phu-Tử), hoặc Kha (tức Mạnh-Kha tên của thầy Mạnh) thì sách nho đều ghi ba chữ « nên đọc Mỗ » thành ra Khổng-Mỗ, Trọng-Mỗ và Mạnh-Mỗ. Lâu ngày – theo lời của ông Nhượng-Tống – bản in mòn đi, chữ Mỗ mất hết một nét sổ nên thành chữ Kỳ. Bọn hậu-sanh chúng tôi không phải thiếu lòng thành kính thánh hiền, nhưng thấy cần đọc cho đúng, mà chắc các đấng Phu tử, Mạnh tử, và các cụ cũng đã tha thứ khi chúng tôi đọc đến Ni và Kha. Vì vậy, từ đây nên đọc là Tả Khâu-Minh và đóng lại dấu ngoặc.) Có phải vì đứng gần cụ Khổng, một cây cổ-thọ của văn hóa Trung Hoa nên bị tàn che bóng lấp mà thân thế của Tả Khâu-Minh bị vùi mất trong biển thời gian chăng ? Chỉ còn nhớ là vị quan coi về sử của nước Lỗ noi theo ý chí của Phu tử chép lại những chuyện của kinh Xuân-Thu. Vi Khổng-tử cân nhắc ngòi bút để thưởng phạt như một vì thiên tử, nên được gọi là « Tố vương » – nhà vua không ngôi – và vì đó Tả Khâu-Minh được gọi là « Tố thần ». Nhiệm vụ của tử gia ấy là theo mỗi câu Xuân-Thu để kể chuyện. Và tất nhiên nhắc lại những đoạn không có chép trong kinh, để tỏ sự biếm nhẽ của Phu tử. Theo lối viết sử ngày xưa, mỗi bài đều có luân lý, ở đây là « lời bàn của người quân tử ». Chúng ta chớ lầm tưởng vì là quyển truyện cho nên kể lể dông dài như… bài tựa nầy. Trái lại, vừa đẽo gọt vừa cân nhắc nên câu văn trở nên gọn gàng và cứng rắn. Như tả Lỗ Trang-công đi cùng Tào Uế đánh Tề ở Trường câu : « Ngồi chung xe đến Trường-câu. Trang-công sắp ra lịnh đánh trống thúc quân. Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Chờ quân Tề xong ba hồi trống. Tào Uế bảo : « Đến lúc ! » Thua to, quân Tề chạy. Trang công sắp ra lịnh đuổi theo, Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Xuống, xem dấu xe của Tề, trở lên đứng trông lại. Bảo : « Đến lúc ! « mới có lịnh đuổi theo. Toàn thắng. » Như khi Khuất Hà đánh trận Bồ-tao, vì hoài nghi, hỏi Đấu Liêm : « – Sao không bói thử ? - Bói là để quyết điều nghi. Không nghi cần gì bói ! Rồi đem quân đánh thắng Viên, chiếm Bồ tao, minh hội xong, kéo về. » Câu văn có khi trở nên trục trặc, gút mắt vì bị bóp chặt hay thâu quá ngắn « Cho đánh trống. Tiến quân. Toàn thắng. Tiêu diệt hạ Nhược Ngao ». Trong nhiều đoạn, Tả-Truyện chỉ ghi lại vài cử chỉ mà cũng vẽ được một tâm lý phức tạp của nhân vật. Muốn tả lòng căm tức và chí gấp báo thù của vua Sở khi được tin Thân Vô-Uý bị Tống giết, Tả-Truyện chép : « Vua Sở hay, giũ áo đứng lên, đi chơn vào thất. Vào đến cung, giày đem tới. Ra cửa cung, gươm dưng tới. Đến chợ Bồ tiêu, xa giá đẩy tới. Mùa thu, tháng chín, Sở vây kinh thành Tống. » Dùng câu văn tuy vắn mà sâu để thuật lại những mẩu chuyện tuy đơn sơ mà đầy ý nghĩa có thể làm gương đáng theo hay nên tránh cho muôn đời, Tả-Truyện thành một áng văn tuyệt tác, chẳng những được văn nhân sùng bái mà còn được võ tướng kỉnh mộ. Chính những tay cung kiếm lại mắc phải « bịnh Tả-Truyện », là vì đi đến đâu, trong hổ trướng hay khi điều khiển ở trận tiền đều giữ cận bên mình quyển sử của Khâu-Minh. Nhìn nhận giá trị của văn Tả-Truyện là nhìn nhận sự khó dịch của bộ sử đó. Vì diễn tả một tư tưởng của người bằng tiếng của mình, việc đó còn có thể làm được. Còn chuyển dịch một câu văn hay từ tiếng nầy qua tiếng nọ thật là một chuyện quá khó. * Lẽ tất nhiên, muốn dịch hai quyển Xuân-Thu và Tả-Truyện, chúng tôi hoàn toàn nhờ nơi Cụ. Từng chữ, từng lời. Cụ kiên tâm giải thích rồi chịu khó kiểm duyệt. Khi nghe các bạn khuyên tôi xuất bản, thản nhiên, Cụ dạy : « Tùy nơi anh ! Nếu thấy có thể giúp ích được thì cứ tự tiện. Còn tôi chỉ là người của thế hệ trước. Đã qua rồi. Theo thế hệ đó, muốn đọc sách thánh hiền cần phải thông Hán học mới trọn hiểu tinh thần. Anh chớ quên : theo chúng tôi, Hán-văn là sự cần thiết, không thể không ; còn phiên dịch là sự bất đắc dĩ… Anh cũng nên nhớ giùm tánh tôi ưa thanh tịnh, ít ham đời nói đến tên… » Lời nhắc nhở ấy – đối với chúng tôi – là một mạng lịnh. Vì sự yêu cầu đó mới có lời phân trần lè nhè nầy. Chớ đâu phải vì chúng tôi. Nào có muốn phô trương thằng tôi khả ố nầy làm gì cho rườm tai độc giả ! Vì công lớn của cụ trong sự phiên dịch ; Vì sự giúp đỡ của các bạn : trước là ông Trương Quan cho sách, sau là các bạn Đỗ-Thiếu-Lăng giúp tài liệu, bạn Nguyễn-Duy-Cần cho xem vài bài Đông-Lai đã dịch từ lâu. Nhứt là anh Lê-Thọ-Xuân, cặn kẽ lúc chỉ bảo, tận tình khi sửa chữa, tỉ mỉ trong ấn loát. Một người « Anh » với nghĩa tốt đẹp của danh từ ; Vì sự lương thiện của trí óc trong khi trước tác ; Vì sự thành thật đối với mình, với đời, với nền văn học ; Chúng tôi trân trọng xin đọc giả nhận rõ điều nầy : Khi gặp những câu dịch gọn gàng, ăn khớp với nguyên văn, bạn nên nhớ đó là công, đó là tài của Cụ, thầy chúng tôi ; Khi thấy câu văn bất thành cú, khi gặp những lỗi lầm, chỗ dịch sai, bạn nên chắc chắn là vì sự dốt nát của DƯƠNG-TẤN-TƯƠI Mời các bạn đón đọc Đông Lai Bác Nghị của bác sĩ Dương Tấn Tươi.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sức Mạnh Bí Ẩn 11 Câu Thần Chú - Kevin Hall
Tôi gặp Kevin Hall lần đầu tiên cách đây hai mươi năm khi anh đang quản lý bộ phận bán hàng và đào tạo tại Franklin Quest. Anh đã mời tôi phát biểu tại hội nghị thường niên của công ty về các nguyên tắc giao tiếp và sự thấu cảm. Vào thời điểm ấy, anh đã thể hiện rất rõ niềm đam mê đối với các nguyên tắc bất biến và anh khao khát được giúp đỡ người khác tìm thấy con đường và mục đích sống. Kevin còn là huấn luyện viên của đội bóng đá mà cô cháu gái Lauren của tôi tham gia, nên tôi có thể tận mắt chứng kiến khả năng của anh trong việc khích lệ các vận động viên trẻ đạt được những mục tiêu mà nhiều người trong số đó chưa từng dám mơ đến. Anh quan tâm đến sự thành công trong đời sống cá nhân của các vận động viên như chính thành tích của họ trong lĩnh vực thể thao. Tôi còn nhớ trong một dịp đặc biệt, chúng tôi tổ chức một buổi định hướng phát triển cá nhân tại nhà cho các thành viên trong đội, Kevin đã mời một số diễn giả đến “thổi hồn” vào giấc mơ và khát vọng của bọn trẻ. Art Berg, một trong số những diễn giả đó, đã chia sẻ một thông điệp mạnh mẽ mà bạn sẽ tìm thấy ở Chương 7 cuốn sách này. Nhiều nguyên tắc được giảng dạy trong đêm hôm đó vẫn còn vang vọng trong tôi cho đến tận ngày nay. Theo thời gian, Covey Leadership Center đã sáp nhập với Franklin Quest để hình thành nên FranklinCovey. Trước khi sáp nhập, Kevin đã rời khỏi Franklin Quest để theo đuổi giấc mơ thành lập một tổ chức chuyên nghiên cứu về ý nghĩa tiềm ẩn và bí mật của ngôn từ, cũng như mối quan hệ của chúng đối với sự phát triển cá nhân. Từ đó, chúng tôi thường xuyên gặp nhau trong các buổi hội thảo và cùng hợp tác với các nhóm điều hành để nâng cao hiệu quả lãnh đạo. Giống như cách tôi đặt nền móng cho sự phát triển con người cách đây hai mươi năm thông qua việc khám phá những thói quen giúp tạo nên một cuộc sống hiệu quả và có ý nghĩa, Kevin cũng đang thực hiện một việc tương tự bằng cách khám phá ra mục đích và ý nghĩa thật sự của ngôn ngữ trong việc hình thành nên những thói quen đó. Tôi đã thảo luận với Kevin về cuốn sách này suốt bốn năm qua và tin rằng đây sẽ là một cẩm nang tuyệt vời để đạt đến một cuộc sống trọn vẹn và chính trực. Mỗi chương đều chứa đựng những nguyên tắc bất biến mà Kevin gọi là “những bí mật”. Ví dụ trong Chương 1, bạn sẽ khám phá ra một từ bí mật - GENSHAI. Đó là một từ cổ có nguồn gốc Ấn Độ mà bản thân tôi nhận thấy có một sức mạnh tiềm ẩn đáng kinh ngạc. Chỉ riêng việc khám phá ra từ này, và học cách đi sâu vào sức mạnh tột cùng của nó, cũng đủ để bạn dành thời gian cho cuốn sách. Khi tìm hiểu về hành trình khám phá những ngôn từ bí mật của Kevin, bạn sẽ sớm nhận ra được sức mạnh trong cuộc hành trình quả cảm của chính mình. Bóc vỏ củ hành Việc hiểu được ý nghĩa đích thực của một từ đồng thời nhận ra chiều sâu và bản chất thực sự của nó sẽ tạo nên sức mạnh vô cùng to lớn. Bằng cách lần lượt phá vỡ từng lớp vỏ bọc của ngôn từ, khám phá ý nghĩa thuần khiết và nguồn gốc ban đầu của chúng, ta sẽ thắp lên một ánh sáng mới cho ngôn từ, mà phần lớn trong số đó vẫn thường được sử dụng trong cuộc sống của chúng ta. Ví dụ, tôi luôn hướng dẫn mọi người rằng yếu tố cần thiết trước tiên của một nhà lãnh đạo là phải truyền cảm hứng cho người khác. Khi bạn nhận ra rằng “truyền cảm hứng” có nghĩa là truyền hơi thở vào giấc mơ của người khác, và “kết thúc” có nghĩa là ngừng thở, thì những từ ngữ này sẽ tạo nên sức sống của riêng nó. Bằng việc học cách sử dụng những từ ngữ tạo cảm hứng, bạn có thể giúp người khác đạt được giấc mơ của họ. Ngược lại, với những từ ngữ mang nghĩa kết thúc, bạn sẽ dập tắt hy vọng và ước mơ của mọi người. Một ví dụ khác là “cơ hội”. Tôi tin rằng những người thành đạt không suy nghĩ về khó khăn mà thay vào đó, họ hướng đến cơ hội. Nguồn gốc của từ cơ hội (opportunity) là port (cổng), có nghĩa là đường dẫn nước vào thành phố hoặc địa điểm kinh doanh. Thời xưa, mỗi khi thủy triều dâng, cánh cổng này sẽ được mở ra để mọi người ra vào buôn bán, thăm viếng, hoặc trong thời chiến là để xâm lăng và chinh phạt lẫn nhau. Tuy nhiên, chỉ những người có hiểu biết về điều này mới có thể tận dụng hết lợi thế của nó, mới tận dụng được cơ hội. Tôi mong rằng bạn sẽ nắm bắt trọn vẹn cơ hội mà cuốn sách quý giá này mang đến để làm cho cuộc sống của mình phong phú hơn. Bên cạnh những từ ngữ được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày, cuốn sách này còn chứa đựng những từ ngữ sâu sắc, độc đáo từ các nền văn hóa khác nhau. Ví dụ, “Ollin” là một từ sâu sắc của người Aztec. Nó mô tả những biến cố lớn như động đất hay một cơn gió lốc làm rung chuyển trái đất. Ollin có nghĩa là di chuyển hoặc hành động với tất cả trái tim mình. Để trải nghiệm từ Ollin, bạn phải “cống hiến hết mình” (“All in”). Những từ ngữ mang tính toàn cầu này có thể gắn kết mọi người khắp thế giới bằng một ngôn ngữ chung. Tìm kiếm hạnh phúc của bản thân Càng nắm rõ ngôn từ và các lớp ý nghĩa của nó, bạn càng hiểu được con đường và mục đích của mình. Nhà thần thoại học vĩ đại Joseph Campbell đã đưa ra cụm từ “Hãy nghe theo niềm hạnh phúc của mình”. Ngôn từ chính là những dấu hiệu chỉ đường để đưa bạn đến với niềm hạnh phúc đó. Khi được kết hợp với những hành động mà chúng truyền cảm hứng, ngôn từ sẽ giúp bạn trở thành một nhà lãnh đạo tài giỏi hơn, một người vợ - người chồng tốt hơn, một bậc phụ huynh hiểu con cái hơn, một người bán hàng nhạy bén hơn, một vận động viên khéo léo hơn… và danh sách này sẽ kéo dài đến vô tận. Sức mạnh của ngôn từ sẽ tạo ra của cải, sức khỏe, năng suất, kỷ luật, tinh thần, và vô số đặc điểm đáng khao khát của con người. Bố cục của cuốn sách Cuốn sách được chia thành 11 chương với 11 từ cốt lõi, và bạn có thể đọc đi đọc lại nhiều lần để trau dồi quá trình thay đổi hành vi lâu dài. Mô hình và bố cục của các chương phản ánh nền tảng kiến thức và kinh nghiệm của tác giả trong quá trình đào tạo và phát triển con người suốt hai mươi lăm năm qua. Năm chương đầu sẽ bàn về quá trình phát triển cá nhân – cách sử dụng sức mạnh bí ẩn của ngôn từ để tìm thấy con đường và mục đích của riêng bạn. Chương giữa có vai trò độc lập bởi đó là chủ đề trọng tâm của toàn bộ cuốn sách. Từ cốt lõi của nó là “humility”, tức sự khiêm tốn, một đặc điểm có sức ảnh hưởng mạnh mẽ mà tôi xem như “khởi nguồn của mọi đức hạnh” vì nó là yếu tố mấu chốt cho quá trình phát triển và hoàn thiện không ngừng. Năm chương cuối bàn về việc dẫn dắt người khác, bao gồm ngôn ngữ về vai trò lãnh đạo: nó không nói về bạn, nó nói về người khác. Giống như sự vận hành của bánh xe, các chương này phản ánh phạm vi ảnh hưởng của bạn được mở rộng từ trục bên trong, sau đó lan rộng ra để chi phối sự chuyển động của toàn bộ bánh xe. Chương cuối cùng – “Integrity” – có nghĩa là toàn vẹn hoặc hoàn chỉnh – sẽ hoàn thiện toàn bộ bánh xe phát triển này. Bạn có thể dễ dàng đọc hết cuốn sách này chỉ trong một lần. Bạn cũng có thể chọn riêng bất cứ chương nào bạn cho là phù hợp với mình và chậm rãi khám phá chiều sâu của nó một cách độc lập. Dù bằng cách nào thì cuốn sách vẫn sẽ tiết lộ những điểm mấu chốt giúp bạn khám phá ra tiềm năng thật sự ẩn bên trong con người bạn. Dù mục tiêu, niềm đam mê và niềm tin của bạn là gì, tôi tin rằng Aspire sẽ tạo ra sức mạnh giúp bạn thắp sáng con đường đạt đến khát vọng và phát triển bản thân. Tôi khuyên bạn nên cầm theo một cây bút khi đọc cuốn sách này. Tôi biết mình cũng sẽ làm như vậy. - Stephen R. Covey *** Lời khen tặng dành cho “Sức mạnh bí ẩn 11 câu thần chú”: “Aspire là một trong những cuốn sách vĩ đại thực sự làm thay đổi cuộc đời tôi. Kevin Hall có thể xứng ngang tầm với Og Mandino và Napoleon Hill.” ~Bob Proctor, tác giả cuốn You Were Born Rich “Cuốn sách này không chỉ đơn thuần khám phá sức mạnh của ngôn từ mà còn giúp ta đạt đến một cuộc sống trọn vẹn. Những tiết lộ trong cuốn Aspire là công cụ cần thiết cho mỗi bước ngoặt của cuộc đời.” ~Gail Sheehy, tác giả cuốn Passages và Passages in Caregiving “Với khả năng khám phá tiềm năng con người, Kevin là một trường hợp hiếm hoi và vô cùng quý giá. Trong cuốn Aspire, anh đã tiết lộ một hệ phương pháp hoàn toàn mới cho quá trình trưởng thành và phát triển cá nhân với khả năng làm thay đổi cuộc sống.” ~Norman E. Brinker, sáng lập viên kiêm chủ tịch của Emerius, Brinker International *** Thông tin về tác giả “Sức mạnh bí ẩn 11 câu thần chú”: Kevin Hall là cố vấn kinh doanh, diễn giả và chuyên gia đào tạo nổi tiếng. Ông từng làm việc tại Franklin Quest; và với tư cách phó giám đốc phụ trách bán hàng và đào tạo, ông đã tạo ra nguồn động lực cho quá trình phát triển toàn cầu của Công ty Franklin. Ông được mọi người công nhận về phương pháp nền tảng để khám phá ra ý nghĩa tiềm ẩn và bí mật của ngôn từ. Kevin còn nổi tiếng với khẩu hiệu “Hãy thắp sáng ngọn lửa bên trong” cho Thế vận hội mùa đông năm 2002. Ông cũng xuất hiện trên các tạp chí danh tiếng như Forbes, Worth, Nation’s Restaurant News, Restaurant Business, và Food Network. Kevin cùng vợ Sherry có sáu người con và các cháu thân yêu. Ông thích đạp xe, chạy bộ, câu cá, nấu ăn và đọc sách. “Kevin Hall đã chứng tỏ được sức mạnh đáng kinh ngạc của ngôn từ – những công cụ mà ta có thể sử dụng để định hình suy nghĩ và niềm tin của mình – nhằm giúp ta thay đổi và tạo ra những điều tốt đẹp hơn cho chính mình cũng như thế giới xung quanh.” ~Spencer Johnson, M.D., tác giả cuốn Who Moved My Cheese.   Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Bí Ẩn 11 Câu Thần Chú của tác giả Kevin Hall.
Sống Mạnh Mẽ - Stephen R. Covey
Những Câu Chuyện Mang Đến Cho Bạn Niềm Cảm Hứng Và Hy Vọng (Sống Mạnh Mẽ là phiên bản mới của quyển sách Cảm Hứng Sống Theo 7 Thói Quen Thành Đạt với những câu chuyện được chọn lọc lại kỹ càng giúp bạn dễ đọc, dễ hiểu và dễ áp dụng vào cuộc sống hơn). Sống Mạnh Mẽ là một bộ sưu tập những câu chuyện có thật, sống động và đầy cảm hứng do chính những người trong cuộc kể lại. Đó là những con người, những mảnh đời khác nhau đã vươn lên mạnh mẽ khi phải đối mặt với những thách thức to lớn trong công việc, học tập, gia đình, cuộc sống và với cả chính bản thân họ. Một người vợ phải chịu đựng nỗi đau mất chồng khi đang hạnh phúc với một cuộc sống gia đình ấm êm, rồi từ trong tăm tối của cuộc đời, cô đã vươn lên để sống một cuộc sống ý nghĩa trọn vẹn với các con, với người thân yêu của cô. Một cặp vợ chồng đã hàn gắn lại tình cảm ở tuổi xế chiều, rồi thổi bùng lên ngọn lửa tình yêu tưởng như đã tắt ngúm trong hơn 30 năm chung sống, minh chứng cho việc không bao giờ là quá trễ cho một sự thay đổi. Một người chồng bất cẩn cướp cò trong lúc lau súng, đã bắn chết người vợ thân yêu và đứa con chưa kịp chào đời của mình chỉ trong một đêm. Hơn 3 năm sống trong đau đớn và tuyệt vọng, cuối cùng anh đã thức tỉnh, tha thứ cho bản thân và cống hiến một cuộc sống ý nghĩa cho cộng đồng. … và rất nhiều câu chuyện khác nữa đang đợi bạn khám phá. Những câu chuyện đời thật đó đã minh chứng cho sức sống mãnh liệt của con người, "chỉ cần có niềm tin và ý chí, không có gì là không thể!". Cho dù bạn là ai, làm gì và ở đâu, bạn cũng sẽ thấy cuộc đời của mình thấp thoáng qua từng câu chuyện. Thật vậy, quyển sách giống như viết ra để dành cho bạn, giúp bạn sống tốt hơn, mạnh mẽ hơn. Từ đó, giúp bạn nâng cao chất lượng cuộc sống để đạt được hạnh phúc và thành công. Chính những câu chuyện đời thật này sẽ chỉ cho bạn thấy: Cách thức đổi mới, tìm kiếm sự cân bằng và thanh bình trong cuộc sống; Cách thức nuôi dạy con nhỏ; Cách nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình; Cách giúp đỡ người thân và bạn bè có một cuộc sống tốt đẹp hơn; Cách tăng năng suất làm việc cá nhân và tập thể tại công sở… Bạn sẽ đọc đi đọc lại quyển sách thú vị này với sự ngạc nhiên và khâm phục dành cho những nhân vật "sống" trong những câu chuyện. Cho dù bạn đang ở giai đoạn nào trong cuộc sống, một khi bạn áp dụng những bài học được chia sẻ trong quyển sách, bạn sẽ gặt hái được những thành quả mong muốn. TGM Corporation xin trân trọng giới thiệu với bạn quyển sách Sống Mạnh Mẽ - Những câu chuyện mang đến cho bạn niềm cảm hứng và hy vọng của tác giả Stephen R. Covey - một nhà lãnh đạo, chuyên gia tư vấn doanh nghiệp, tâm lý, hôn nhân gia đình… uy tín trên thế giới - được bình chọn là một trong 25 người Mỹ có ảnh hưởng nhất thế kỷ XX. Ông đã cống hiến cả cuộc đời mình để giúp hàng triệu người thấy được những ước mơ, chân lý sống của họ, và giúp cho nhiều thế hệ con người nhận ra sức mạnh nội tại của bản thân, để từ đó có khả năng điều khiển vận mệnh và cuộc sống của mình. Sống Mạnh Mẽ là một quá trình đổi mới trong tinh thần lẫn thể chất mà bạn cần có. Hãy cùng đọc và cảm nhận, nhưng quan trọng nhất, HÃY LỰA CHỌN SỐNG VỚI NHỮNG GÌ ĐƯỢC CHIA SẺ trong quyển sách, bạn sẽ không bao giờ phải hối tiếc! ... *** 7 THÓI QUEN Thói quen 1: Chủ động Chủ động không chỉ có nghĩa là đi bước đầu tiên. Đó là nhận lãnh trách nhiệm về hành vi của mình (trong quá khứ, hiện tại và tương lai) và có sự lựa chọn dựa trên những nguyên tắc và giá trị, hơn là cảm xúc và hoàn cảnh nhất thời. Người chủ động đại diện cho sự thay đổi, họ lựa chọn không trở thành nạn nhân, hoặc ở vào thế thụ động hoặc đổ lỗi cho người khác. Họ làm điều đó bằng cách phát triển và sử dụng bốn khả năng thiên phú của con người, đó là: nhận thức bản thân, lương tâm, trí tưởng tượng và ý chí độc lập, theo cách tiếp cận từ trong ra ngoài để tạo sự thay đổi. Họ quyết định trở thành nguồn lực sáng tạo trong chính cuộc đời mình, đó là quyết định quan trọng nhất mà một người có thể đưa ra. Thói quen 2: Bắt đầu bằng cái kết trong tâm trí Tất cả mọi thứ đều được sáng tạo hai lần – lần đầu tiên bằng tinh thần và lần thứ hai bằng vật chất. Các cá nhân, gia đình, tập thể và tổ chức định hình tương lai của mình bằng cách tạo ra một tầm nhìn và mục đích cho bất kỳ công việc nào. Họ không sống ngày qua ngày mà không có mục tiêu rõ ràng. Họ xác định và cam kết với các nguyên tắc, giá trị, các mối quan hệ, và những mục tiêu quan trọng nhất đối với họ. Tuyên ngôn sứ mệnh là hình thức cao nhất của lần sáng tạo bằng tinh thần của một cá nhân, gia đình hoặc tổ chức. Đó là quyết định quan trọng nhất vì nó chi phối tất cả những quyết định khác. Tạo ra nền văn hóa đằng sau một sứ mệnh, tầm nhìn và những giá trị chung chính là cốt lõi của sự lãnh đạo. Thói quen 3: Ưu tiên cho điều quan trọng nhất Ưu tiên cho điều quan trọng nhất là lần sáng tạo thứ hai hoặc sáng tạo bằng vật chất. Đây là lúc bạn tổ chức và hành động xung quanh việc sáng tạo tinh thần (mục đích, tầm nhìn, giá trị và những ưu tiên quan trọng nhất của bạn). Những việc thứ yếu không được đến trước. Những việc chính yếu không bị xếp lại phía sau. Các cá nhân và tổ chức tập trung vào những gì quan trọng nhất, bất kể nó có khẩn cấp hay không. Điều quan trọng nhất là giữ cho những việc quan trọng nằm ở vị trí quan trọng. Thói quen 4: Tư duy cùng thắng Tư duy cùng thắng là khi khối óc và con tim tìm kiếm lợi ích chung dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau trong mọi tương tác. Đây chính là suy nghĩ về sự dồi dào của những cơ hội, của cải và nguồn lực cho tất cả mọi người, chứ không phải sự khan hiếm và cạnh tranh một mất một còn. Đây không phải là kiểu suy nghĩ ích kỷ (thắng-thua) hoặc nhượng bộ (thua-thắng). Trong công việc và cuộc sống gia đình, các thành viên suy nghĩ một cách tương thuộc – theo nghĩa “chúng ta” chứ không phải “tôi”. Tư duy cùng thắng thúc đẩy việc giải quyết mâu thuẫn và giúp các cá nhân tìm kiếm giải pháp đem lại lợi ích chung. Đó là sự chia sẻ thông tin, quyền lực, sự công nhận và phần thưởng. Thói quen 5: Lắng nghe để được thấu hiểu Khi chúng ta lắng nghe với ý muốn thấu hiểu người khác, chứ không phải để đối đáp, thì đó là khi chúng ta bắt đầu một cuộc giao tiếp thật sự và gầy dựng mối quan hệ. Khi người khác cảm thấy mình được thấu hiểu, họ sẽ cảm thấy được ủng hộ và tôn trọng, hàng rào phòng thủ được hạ xuống, cơ hội nói chuyện cởi mở và thấu hiểu lẫn nhau sẽ đến một cách tự nhiên và dễ dàng hơn. Muốn thấu hiểu người khác cần sự tử tế, muốn được người khác thấu hiểu cần sự can đảm. Tính hiệu quả nằm trong sự cân bằng giữa hai vế đó. Thói quen 6: Đồng tâm hiệp lực Đồng tâm hiệp lực nghĩa là tạo ra giải pháp thứ ba – không phải cách của tôi, không phải cách của bạn, mà là cách thứ ba tốt hơn cách mà mỗi người có thể tự nghĩ ra. Đó là kết quả của sự tôn trọng lẫn nhau, thấu hiểu và thậm chí tôn trọng sự khác biệt của người khác trong giải quyết vấn đề, và nắm bắt cơ hội. Những tập thể và gia đình đồng tâm hiệp lực phát triển mạnh mẽ dựa trên sức mạnh của từng cá nhân, khiến cho sức mạnh tổng thể mạnh hơn từng phần cộng lại. Những đội nhóm và các mối quan hệ kiểu này phản đối sự cạnh tranh thù địch (1+1 = ½). Họ không chấp nhận sự thỏa hiệp (1+1 = 1 ½) hoặc thậm chí cộng tác thuần túy (1+1 = 2). Họ tiến đến sự hợp tác sáng tạo (1+1 = 3, hoặc hơn). Thói quen 7: Không ngừng rèn luyện Không ngừng rèn luyện là việc liên tục đổi mới bản thân trên bốn lĩnh vực cơ bản của đời sống: thể chất, xã hội/tình cảm, tinh thần và tâm hồn. Đó chính là thói quen giúp chúng ta tăng khả năng áp dụng những thói quen hiệu quả khác. Đối với một tổ chức, Thói quen 7 nâng cao tầm nhìn, đổi mới, sự cải thiện liên tục, tránh tình trạng quá tải, kiệt quệ và đặt doanh nghiệp vào một lộ trình phát triển mới. Đối với gia đình, nó tăng cường tính hiệu quả trong những hoạt động thường lệ giữa các cá nhân, ví dụ như việc thiết lập truyền thống nuôi dưỡng sự đổi mới trong gia đình. Tài khoản tình cảm Tài khoản tình cảm là lối nói ẩn dụ về sự tin tưởng trong một mối quan hệ. Giống như tài khoản trong ngân hàng, nó là một khoản mà chúng ta có thể gửi vào và rút ra. Những hành động như nỗ lực thấu hiểu người khác, thể hiện sự quan tâm, giữ đúng lời hứa, tôn trọng người vắng mặt... gia tăng mức độ tin tưởng trong các mối quan hệ, được gọi là ký gửi vào tài khoản tình cảm. Trong khi đó, những biểu hiện thiếu thiện chí, không giữ lời, nói xấu người vắng mặt... làm giảm lòng tin trong các mối quan hệ, được gọi là rút ra khỏi tài khoản tình cảm. Nhận thức Nhận thức là cách thức mỗi người nhìn nhận thế giới, không nhất thiết phải đúng như trong thực tế. Nó là tấm bản đồ, không phải là lãnh thổ. Nó là lăng kính, qua đó chúng ta nhìn nhận mọi thứ, được định hình trong quá trình trưởng thành cùng những kinh nghiệm tích lũy theo năm tháng và những lựa chọn của chúng ta. ... Mời các bạn đón đọc Sống Mạnh Mẽ của tác giả Stephen R. Covey.
Những Quy Tắc Vàng của Napoleon Hill - Napoleon Hill
Như hàng triệu độc giả trên thế giới, có lẽ bạn cũng đã từng đọc qua những tác phẩm của Napoleon Hill và đã thu được những bài học bổ ích. Dù bạn là người tôn sùng những trang viết của ông hay đây là lần đầu tiên bạn đọc tác phẩm của Napoleon Hill, chắc chắn bạn sẽ luôn tìm thấy lợi ích thiết thực từ những trang sách ông viết về tiềm năng của con người chúng ta. Cuốn sách bạn đang cầm trên tay là tập hợp các bài viết trong những tạp chí đã được Hill xuất bản hơn 80 năm về trước. Hill’s Golden Rule Magazine (Tạp chí Những nguyên tắc vàng của Hill) cùng Hill’s Magazine (Tạp chí Hill) đã được xuất bản một vài năm trước khi cuốn sách đầu tiên của Hill xuất hiện. Những lời khuyên của Hill nằm trong một loạt các bài viết về tiềm năng của con người. Những ngọn núi hẻo lánh của vùng Wise County, Virginia, nơi Hill được sinh ra vào năm 1883, đã không tạo nhiều cơ hội cho một cậu trai sinh trưởng trong nghèo khó. Mẹ của Hill mất năm ông lên 10, cha ông tái hôn vài năm sau đó. Nhưng mẹ kế của Hill - bà Martha - đã chở che và mang lại phúc lành cho cuộc đời cậu thiếu niên sớm chịu nhiều bất hạnh. Bà là một góa phụ trẻ sinh trưởng trong một gia đình có học thức, cha bà là bác sĩ; và bà cảm thấy yêu mến đứa con trai riêng hiếu động, tinh nghịch của chồng. Thành viên mới này của gia đình Hill đã trở thành nguồn động viên cho cả cuộc đời ông sau này. Về sau, Hill đã tin cậy người mẹ kế của mình không khác gì Abraham Lincoln - Tổng thống thứ 16 của Mỹ - đã tin cậy người mẹ kế của ông. Hill đã từng tuyên bố rằng: “Dù tôi có trở thành người như bây giờ hay như tôi từng khao khát, thì tôi vẫn luôn mang ơn người phụ nữ đáng kính này”. Năm lên 13 tuổi, với sự giúp đỡ của mẹ kế, Hill đã có bước đi đầu tiên trong sự nghiệp của mình khi trở thành một nhân viên đánh máy. Sau đó một loạt các bài báo của ông được đăng, sự kiện này đã thôi thúc ông theo đuổi nghề viết sách chuyên nghiệp. Sau hai năm học trung học, Hill ghi danh vào một trường kinh doanh. Học xong, ông làm việc cho Ngài Rufus Ayres - Tổng chưởng lý(1) bang Virginia, cũng là thành viên của chính quyền liên bang và đã từng lọt vào danh sách ứng cử viên Thượng viện. Ngài Ayres là người giàu có và quyền lực, thích đầu tư vào ngành ngân hàng, khai thác gỗ, khai thác than. Nhưng rồi Hill đột nhiên chuyển hướng sang ngành Luật, ông thuyết phục em trai là Vivian cùng ông nộp đơn vào trường Luật Georgetown và viết sách để trả tiền học phí cho hai anh em. Vivian đã theo đuổi và tốt nghiệp trường Luật Georgetown trong khi Napoleon lại bỏ đi theo hướng khác. Ông tìm được một công việc ở tạp chí Bob Taylor thuộc quyền sở hữu của Robert Taylor - Thượng nghị sĩ của tiểu bang Tennessee khi đó. Ở đây Hill được giao nhiệm vụ viết về những câu chuyện thành công, trong đó có câu chuyện về sự phát triển của thành phố Mobile thuộc tiểu bang Alabama, được biết đến như là một thành phố cảng nổi tiếng. Khi Hill được cử đến gặp Andrew Carnegie(2) ở căn biệt thự 45 phòng của ông, cuộc phỏng vấn nhẽ ra chỉ tiến hành trong thời gian ngắn đã kéo dài tới 3 ngày. Cuộc phỏng vấn của Hill với Carnegie nói về sự thành công và việc phát triển những triết lý về thành công, những điều mà về sau Hill đã truyền lại cho hàng triệu độc giả qua các cuốn sách của mình. Cuộc sống của Hill từ đó thay đổi mạnh mẽ, và chuyến phiêu lưu của cuộc đời ông gắn liền với cuộc phỏng vấn những người thành công. Những cuộc trò chuyện đó giúp ông hiểu được nguyên nhân tại sao một vài người đạt được thành công trong khi những người khác lại không. Qua sự giới thiệu của Carnegie, Hill đã được gặp gỡ Henry Ford, Thomas Edison, George Eastman, John D. Rockefeller và những nhân vật nổi tiếng khác của thời đại. Trước khi Hill viết cuốn sách đầu tiên, cuộc hành trình trải nghiệm và thu thập kiến thức của Hill về những nguyên tắc dẫn đến thành công đã kéo dài suốt 20 năm với hơn 500 lần phỏng vấn. Hill sống đến năm 87 tuổi, và suốt cuộc đời ông đã phát triển những triết lý về các nguyên tắc đạt được thành công mà giá trị thực tiễn của chúng đến nay vẫn được đánh giá cao. Tác phẩm đầu tiên của Hill thực ra là tập hợp 8 băng ghi âm mà ông đặt tên là The Law of success (Quy luật của sự thành công), xuất bản vào năm 1928. Ông nhận được nhuận bút từ 2.000 đến 3.000 đô-la một tháng, đó là một khoản tiền khổng lồ vào lúc ấy và Hill đã mua một chiếc Rolls-Royce để đi thăm lại con sông Guest River ở vùng núi Wise County, Virgina – miền đất gắn bó với tuổi thơ ông. Hill đã viết một tập sách nhỏ có tên The Magic Ladder to Success (Những nấc thang kỳ diệu dẫn đến thành công), và khi cuốn sách này được xuất bản dưới dạng tóm gọn của cuốn The Law of Success, nó còn được bổ sung thêm một chương Forty Unique Ideas (Bốn mươi sáng kiến độc đáo) bàn về việc làm thế nào để kiếm tiền. Trong số những sáng kiến đó của Hill thì có sáng kiến về trạm đổ xăng tự động để những tay lái mô-tô có thể tự đổ xăng cho xe của mình bất kể ngày hay đêm; hoặc những ổ khóa không có chìa để chống trộm; nước giải khát làm từ rau củ tươi không dùng chất bảo quản. Hãy nhớ rằng, lúc này chỉ đang là năm 1930, và những sáng kiến này đã cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của Hill. Một bằng chứng khác về năng lực trác tuyệt của Hill được thể hiện ở một thực tế rằng rất nhiều những cuốn sách dạy kỹ năng sống được xuất bản ngày nay đều là sự kế thừa và tiếp nối những gì mà Hill đã chiêm nghiệm và đúc rút từ hơn 80 năm về trước. Ngày nay, có một số cuốn sách viết về quy luật thu hút sự thành công, như thể đó là những nguyên tắc mới được phát hiện. Thực ra, Hill đã viết về những nguyên tắc được gọi là “mới” này trên tạp chí Hill’s Golden Rule Magazine từ tháng 3 năm 1919, nay được tập hợp lại làm Bài học thứ 4 trong sách: Quy luật tương tác. Ngày càng có nhiều những cuốn sách lấy tư liệu tham khảo từ các tác phẩm của Hill. Những luận điểm của Hill thường xuyên được các tác giả khác trích dẫn - nguyên văn hoặc có khi bị thay đổi đôi chút. Năm 1937, Hill viết cuốn sách nổi tiếng nhất của ông Think and Grow Rich(3). Cuốn sách được tái bản ba lần trong năm đó với giá 2,5 đô-la một cuốn (lúc này đang là thời kỳ Đại khủng hoảng(4)), mà không cần phải quảng cáo rầm rộ như ngày nay. Cho đến nay, cuốn sách này đã bán được hơn 60 triệu bản trên toàn thế giới và vẫn duy trì mức bán ra với con số khoảng 1 triệu bản mỗi năm. Ngày nay, một cuốn sách được xem là bán chạy nhất chỉ ở khoảng 100 ngàn bản. Tất cả các cuốn sách của Hill đều bán được hơn số này, và hầu hết chúng đều vượt quá con số một triệu bản. Các nhà xuất bản ước lượng rằng những cuốn sách được xem là được ưa chuộng ngày nay có tuổi thọ từ một đến hai năm. Trong khi đó, cuốn sách The Law of Success của Hill đã được xuất bản liên tục kể từ năm 1928, cuốn Think and Grow Rich là từ năm 1937, cuốn Master Key to Riches từ năm 1945, cuốn Success Through a Positive Mental Attitude(5) từ năm 1960, cuốn Grow Rich with Peace of Mind từ năm 1967 và cuốn You Can Work Your Own Miracles là từ năm 1971. Nói cách khác, những cuốn sách của Hill ngày càng được bán ra với số lượng lớn, vượt gấp nhiều lần so với lần đầu tiên xuất bản. - Don M. Green Giám đốc điều hành Quỹ Napoleon Hill *** Để tiếp cận những lợi ích có sẵn từ một tác phẩm, đầu tiên bạn phải chuẩn bị cho mình khả năng tiếp nhận thông tin một cách hiệu quả. Chúng tôi đề xuất với bạn 2 nguyên tắc sau đây: Nguyên tắc 1: Hãy học cách Nhận biết (Recognize), Liên hệ (Re- late), Thấu hiểu (Assimilate) và Áp dụng (Apply) những nguyên tắc, kỹ thuật và phương pháp từ những điều mà bạn thấy, nghe, đọc hoặc trải nghiệm mà có thể nhờ chúng, bạn sẽ đạt được những mục tiêu của mình. Chúng được gọi là Cách thức R2A2. R2 được viết tắt từ Nhận biết (Recognize), Liên hệ (Relate) và A2 được viết tắt của Thấu hiểu (Assimilate) và Áp dụng (Apply). Nguyên tắc 2: Hãy điều khiển suy nghĩ, kiểm soát cảm xúc và tự hoạch định số phận của chính bạn bằng cách thúc đẩy bản thân đạt được những mục tiêu quan trọng. Trong quá trình áp dụng cách thức này, hãy luôn giữ những mục tiêu trong tâm trí bạn và sẵn sàng để tiếp nhận những thông tin hữu ích. Khi bạn đọc, hãy tập trung vào những nội dung có liên quan đến mục tiêu của bạn. Hãy đọc như thể tác giả viết riêng cho bạn. Hãy gạch dưới những câu văn hoặc đoạn văn mà bạn cảm thấy quan trọng đối với mình. Viết ngay ngoài lề cuốn sách khi bạn gặp những ý tưởng làm bạn hứng khởi, hay những ý kiến phù hợp với lợi ích của bạn. Khi bạn đọc và áp dụng cách thức R2A2, hãy nhớ rằng phần thứ hai (phần A2 – Thấu hiểu và Áp dụng) là phần quan trọng nhất. Có rất nhiều người đã lướt nhanh qua phần này và có khuynh hướng né tránh nó. Đây cũng chính là những người luôn viện cớ hoặc đổ lỗi cho người khác về sự thất bại của họ. Nếu như bạn không hành động thì cuốn sách này sẽ không mang lại tác dụng xứng với số tiền bạn đã bỏ ra mua nó. - Quỹ Napoleon Hill Mời các bạn đón đọc Những Quy Tắc Vàng của Napoleon Hill của tác giả Napoleon Hill.
Giữa Những Điều Bình Dị - Nguyễn Quang Thân
Nguyễn Quang Thân, sinh năm 1936 tại Sơn Lễ, Hương Sơn, Hà Tĩnh, viết văn từ năm 1957, là tác giả của năm cuốn tiểu thuyết (Lựa chọn, Chú bé có tài mở khóa, Một thời hoa mẫu đơn, Ngoài khơi miền đất hứa [đã dịch và in ở Pháp năm 1998] và Con ngựa Mãn Châu), một số kịch bản phim, nhiều tập truyện ngắn, truyện cho thiếu nhi v.v. Đặc biệt, ông còn được độc giả biết đến nhiều trong thể loại truyện ngắn. Truyện Người không đi cùng chuyến tàu của ông ra đời năm 1980 được xem là một khởi đầu sớm cho sự nở rộ của thể loại truyện ngắn thời kỳ đổi mới. Sau đó là Vũ điệu cái bô và gần đây nhất, Gió heo may cùng nhiều truyện khác đã góp phần khẳng định thành công của ông trong thể loại này. Truyện ngắn của ông đã xuất hiện trong hơn 10 tập riêng cũng như rất nhiều tuyển tập in chung gồm nhiều tác giả. Một số truyện trong đó đã được dịch sang tiếng Anh, Pháp, Nga, Hindu. Truyện của ông cũng đã nhận được nhiều giải thưởng văn học trong nước. Sau thành công của tập truyện ngắn song ngữ Những tâm hồn lạc gồm nhiều tác giả, First News cùng với Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn xin hân hạnh giới thiệu với quý độc giả thêm một tác phẩm văn học Việt Nam bằng song ngữ. Đó là tập truyện ngắn Giữa Những Điều Bình Dị đang hiện diện trên tay bạn. Có thể nói, hai dịch giả có uy tín Rosemary Nguyen, Mạnh Chương lựa chọn dịch 5 truyện ngắn này là do những yêu cầu khác nhau, trong những thời gian khác nhau, nhưng đều gặp nhau một điểm: đó là họ đã có mắt xanh chọn dịch được những truyện khá tiêu biểu và đa dạng về nội dung cũng như phong cách của Nguyễn Quang Thân. Phong cách đa dạng đó rất dễ nhận ra trong những truyện có tính dự báo đầy chua chát và kỳ quái như Vũ điệu cái bô, Thanh minh đến lối phân tích tâm lý nhân vật rạch ròi đến nghiệt ngã trong Chân dung hay thấm đẫm tình người và gợi cảm hứng lãng mạn như Gió heo may, Người đàn bà đợi ở bến xe. Chúng tôi mong rằng, tác phẩm song ngữ này ngoài việc giúp các bạn người Việt cũng như nước ngoài nâng cao kỹ năng ngôn ngữ qua tác phẩm văn học Việt nguyên bản và các bản dịch tiếng Anh tin cậy, sẽ một lần nữa mang đến cho bạn đọc năm truyện ngắn của một nhà văn Việt Nam quen biết. First News Nguyễn Quang Thân was born in 1936 at Sơn Lễ, Hương Sơn, Hà Tĩnh, and has been writing since 1957. He is the author of 5 novels (The Choice, The Little Boy Who Could Open Any Locks, The Time of the Peony, Cast Off from the Promised Land (translated and published in France in 1998), and The Manchu Horse), as well as several film scripts and numerous collections of short stories and children stories. He is particularly well-known for his short stories. His story The Man Who Missed The Train, which was published in 1980, was considered to be an early manifestation of the flowering of the short story genre in the period of renovation. Later on, The Waltz of the Chamber Pot and most recently, Autumn Wind, as well as many other stories, has contributed decisively to his success in this genre. His short stories have appeared in 10 collections of Mr. Nguyen’s work, and have been included in many multi-author collections. Several of them have been translated into English, French, Russian and Hindu. His work has received numerous literary awards in Vietnam. After the success of the The Lost Souls, a multiauthor collection of short stories in parallel translation, First News together with Sai Gon Culture Publisher are proud to introduce to our readers yet another bilingual volume of Vietnamese literature: In And Amongst Simple Thing, this collection of short stories that you are holding in your hands. It must be said that, while these 5 short stories were selected by two reputable translators Rosemary Nguyen, Mạnh Chương for different reasons and during different time periods, they are similar one respect: they are all representative of the diversity of Nguyễn Quang Thân’s subject matter and style. The style diversity of his range is easily seen, from the bitter, eerily prophetic stories The Waltz of the Chamber Pot and Thanh Minh to the almost brutal clarity of psychological analysis of his characters in The Portrait, to the abundant humanity and romantic inspiration of Autumn Wind and A Woman at the Bus Stop. It is our earnest hope that this bilingual collection, in addition to helping all Vietnamese and foreigners, to improve their language skills by reading these original Vietnamese stories along with reputable English translations, will once again introduce to the reading public 5 short stories from this well-known author. First News Mời các bạn đón đọc Giữa Những Điều Bình Dị của tác giả Nguyễn Quang Thân.