Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Chiến Trường Khốc Liệt - Peter Arnett

Tác giả là người Mỹ gốc New Zealand Peter Arnett, phóng viên nổi tiếng của Hãng AP, CNN, người đã có mặt ở miền Nam Việt Nam từ những năm 1962 cho tới 1975, chứng kiến rất nhiều sự kiện lịch sử trong chiến tranh Việt Nam và giờ khắc sụp đổ của chính quyền ngụy Sài Gòn. Cuốn sách được xuất bản lần đầu tại Mỹ năm 1995, sau đó được tái bản nhiều lần, gây tiếng vang lớn và hấp dẫn độc giả. Dư luận trong và ngoài nước Mỹ đánh giá "Đây là một cuốn tự truyện hay nhất", "Một cuốn hồi ký mẫu mực", "Một tài liệu có sức mạnh hay nhất", v.v,.. Từ chiến trường khốc liệt - cuốn tự truyện - hồi ký mang tính báo chí được ghi chép cẩn thận, công phu, là tập tài liệu lịch sử vô cùng quý giá của một phóng viên chiến trường, gần như dành cả phần lớn thời gian cuộc đời mình viết về đề tài chiến tranh. Ông viết về tất cả những điều cảm nhận, trải qua, chứng kiến ở những nơi chiến sự mà Ông đặt chân tới: VIệt Nam, Lào, Iran, Iraq, Afganistan... Trong cuốn sách, tác giả ghi lại khá kỹ về những sự kiện Chiến tranh Việt Nam, diễn biến những hoạt động tác chiến ở chiến trường, đặc biệt là những sự kiện dấu mốc như: cuộc đấu tranh, biểu tình của các tăng ni, phật tử ở Huế, vụ tự thiêu của nhà sư Thích Quảng Đức, cuộc đảo chính lật đổ anh em Ngô Đình Diệm, các trận đánh, các chiến dịch lớn giữa quân Mỹ - Ngụy và quân giải phóng miền Nam Việt Nam, cuộc nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, các chiến dịch dẫn tới giải phóng Sài Gòn và cuối cùng là giờ khắc sụp đổ của chế độ ngụy quyền Sài Gòn,.. cùng tâm trạng hoang mang, bi quan, thất vọng của các tổng thống, tướng tá Mỹ, ngụy tham gia điều hành bộ máy chiến tranh trước các sự kiện. Tất cả được tác giả ghi chép và kể lại một cách chân thực, khách quan với tư cách là một phóng viên chiến trường chuyên nghiệp. Chính những tin, bài, phóng sự của tác giả được đăng tải trên báo chí khi đó đã gây tranh cãi và có tác động ảnh hưởng sâu sắc tới dư luận Mỹ và nhiều nước trên thế giới, làm cho nhân dân Mỹ và nhân dân nhiều nước trên thế giới hiểu đúng hơn về cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhờ đó mà Perter Arnett đã giành được giải thưởng báo chí Pulitzer danh giá vào năm 1966 và rất nhiều giải thưởng khác. Trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 và tháng 3-2003, Peter Arnett đã gây chấn động thế giới bởi những phóng sự nóng hổi được truyền hình trực tiếp trên CNN từ chiến trường Baghdad. Những sự kiện về Chiến tranh Iraq cũng được phản ánh chân thực trong cuốn sách. Peter Arnett là phóng viên phương Tây đầu tiên và duy nhất phỏng vấn trùm khủng bố Osama Bin Laden. *** Công việc làm tin chiến trường về Chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng lớn tới 35 năm trong nghề phóng viên quốc tế sau này của tôi. Khi đến với Việt Nam như một chàng trai trẻ đầy lý tưởng tôi nhận thấy không sự thỏa mãn cá nhân nào quá lớn cho một phóng viên chiến trường bằng việc nói ra sự thật về lòng dũng cảm và những bi thương đồng hành cùng người lính. Tôi viết về chiến tranh ở Việt Nam từ năm 1962 đến 1975, và tôi đã học được rằng trong chiến tranh hiện đại người dân thường thiệt thòi nhiều hơn những người tham chiến và vai trò của phóng viên chiến trường là phải nói lên câu chuyện của họ. Đó cũng là niềm tin đồng hành cùng tôi nhiều năm sau này tới Baghdad trong Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất năm 1991 đã kiểm nghiệm sự ảnh hưởng của lệnh cấm vận đối với 25 triệu người dân Iraq như sự trừng phạt lên người đứng đầu của họ, Saddam Hussein. Cũng như trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, tôi làm tin truyền hình trực tiếp về các trận đánh bom Baghdad trong suốt chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai vào thảng-2003. Giống như khi ở Việt Nam trước đó 40 năm, để chứng kiến sự thật ác liệt về chiến tranh của người Mỹ, tôi đã ở lại Iraq hơn 4 năm nữa để ghi lại những hỗn loạn và bi thương dẫn đến án treo cổ dành cho Saddam Hussein năm 2006. Tôi có nhiều dấu mốc quan trọng trong suốt 50 năm làm tin chiến trường của mình, đó là vào tháng 3-1997, cùng với đội quay phim của CNN tôi đã phỏng vấn trùm khủng bố Osama Bin Laden ở nơi ẩn nấp trên núi của ông ta ở Afghanistan. Vào thời điểm đó, Bin Laden ít được công chúng biết đến, nhưng ông ta đã bị các cơ quan tình báo quốc tế theo dõi như một người cuồng tín Hồi giáo nguy hiểm với nguồn tài chính cá nhân đáng kể. Trong bài phỏng vấn cá nhân của mình, Bin Laden tuyên bố một cuộc thánh chiến với Mỹ và hứa sẽ gây ra nhiều xung đột và thiệt hại cho quân đội nhằm xóa bỏ sự ảnh hưởng của phương Tây trong giới Hồi giáo. Vào thời gian phỏng vấn ông ta, những mối đe dọa của Bin Laden từ những ngọn núi phía xa chỉ là lối nói hoa mỹ rỗng tuyếch. Nhưng khi cuộc tấn công không tặc mà ông ta tổ chức tấn cống vào Tòa nhà Thương mại thế giới ngày 11-9-2001 giết chết 3.000 người dân đã làm thay đổi trật tự. thế giới Nhiều năm làm phóng viên quốc tế, tôi hiểu rõ vai trò quan trọng của truyền thông trong thời sự thế giới và đây cũng là thông điệp tôi truyền tải trong bài giảng ở các Trường Đại học Báo chí và các Tổ chức truyền thông trong nhiều năm. Tôi đã dẫn một nhóm sinh viên của Trường Đại học Shantou (Sán Đầu) ở phía nam Trung Quốc tới thăm Việt Nam trong chuyến đi thực tế viết tin ba tuần đáng nhớ vào mùa hè năm 2007. Với kinh nghiệm trước đây của tôi ở Việt Nam vào những năm 1960 và 1970 và rất nhiều chuyến thăm sau này, tôi đã giảng bài về chủ đề đó ở Trường Đại học Shantou. Tôi muốn các sinh viên có cảm nhận về cuộc chiến tranh đó và những người Việt nam đã được sinh ra khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975. Rất nhiều người quan sát đã viết rằng cuộc chiến tranh không còn ảnh hưởng trong đời sống của người Việt Nam, đất nước đã hòa bình và khôi phục kinh tế là mục tiêu hàng đầu của mọi người. Dọc hành trình từ Bắc tới Nam, chúng tôi thấy sự tốt bụng và niềm vui trên những gương mặt người Việt Nam với những người khách nước ngoài. Tôi nhận ra rằng Chính phủ nhấn mạnh tầm quan trọng trong hợp tác kinh tế và chính trị với những kẻ thù trước đây ở phương Tây. Hầu hết những người Việt Nam chúng tôi gặp ở miền Bắc đều hiểu được những đau thương mất mát trong chiến tranh họ phải gánh chịu và chúng tôi được biết có khoảng 3 triệu người chết. Chúng tôi tìm thấy rất nhiều tàn tích của chiến tranh ở miền Nam nhưng cũng hiểu rằng đó là miền Bắc đã cung cấp sức người sức của cho miền Nam với khẩu hiệu "sinh ra ở miền Bắc và chết ở miền Nam". Đó là lời thương xót của những gia đình Việt Nam mất con trong chiến tranh. Cảm nhận về nỗi đau đã lan tỏa trong Văn học Việt Nam vài thập kỷ qua. Các sinh viên Trường Đại học Shantou nhanh chóng nhận ra rằng Chính phủ Việt Nam ghi nhận lòng yêu nước và sự hy sinh từ việc dựng lên nghĩa trang Trường Sơn ở khu vực Bến Tắt, Quảng Trị với hơn 10.000 ngôi mộ tôn kínhcho đến nhà tù của Pháp cũ có tên "Hỏa lò" ở trung tâm thủ đô, nơi bộ quần áo phi công còn vấy máu của Jonh McCain ở một trong những phòng nơi những người tù Mỹ bị giam giữ trong nhiều năm. Bi thương hơn nữa, nhà tù còn phác họa những hình ảnh và mô hình về các hình thức tra tấn dã man mà thực dân Pháp đã sử dụng đối với tù chính trị trong suốt 100 năm thống trị gồm máy chém cao bằng gỗ với lưỡi dao sắc và chiếc rổ đựng đầu vấy máu nằm gần đó. Có một khung cảnh đặc biệt thu hút sự chú ý của các sinh viên và tôi hy vọng nó sẽ đọng lại lâu trong ký ức của họ. Đó là một căn phòng lớn trong Bảo tàng Chiến tranh ở thành phố Hồ Chí Minh với những trưng bày cho các phóng viên nước ngoài, những người đã làm tin về các cuộc chiến tranh chống Mỹ và chống Pháp. Những khuôn mặt và hình ảnh đều quen thuộc với các sinh viên Shantou bởi vì họ là những đồng nghiệp trước đây của tôi và tôi thường nói về họ trong các bài giảng của mình, các phóng viên ảnh hy sinh trong chiến tranh như Larry Borrow của tạp chí Life, Henri Huet và Huỳnh Công la của AP và Koichi Sawada của UPI cùng nhiều người khác nữa. Sự đau thương mất mát của chiến tranh đã không làm mờ đi sự ghi nhận của Chính phủ Việt nam về lòng dũng cảm và sự hy sinh của các phóng viên chiến trường ở các quốc gia đã đấu tranh để nói lên sự thật về cuộc chiến và sự hy sinh của họ. Đó là điểm nhấn trong chủ đề bài giảng của tôi ở Trường Đại học Shantou rằng báo chí có một vài trò to lớn và đáng giá trong thế giới ngày nay. Những chuyến thăm trở lại Việt nam, đặc biệt là hành trình cùng với các sinh viên là những chuyến thăm hài lòng trong cuộc đời tôi. Đó là những chuyến thăm khép lại vòng tròn từ khi lần đầu tiên tôi đến với tư cách là một phóng viên trong một đất nước bị chiến tranh tàn phá vào năm 1962 đến khi từ những tàn tích của một cuộc chiến tranh dài, một đất nước hòa bình, độc lập xuất hiện tự hào trên chính trừong quốc tế. Peter Arnett, tháng 3-2009 Mởi các bạn đón đọc Từ Chiến Trường Khốc Liệt của tác giả Peter Arnett.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ván Cờ Người
Mỗi quốc gia đều có những trò chơi thể thao đặc trưng của riêng mình. Có thể nói, ở nước Anh là quần vợt, ở Mỹ là bóng chày, ở Nhật Bản là kiếm thuật. Còn ở Trung Quốc thì sao? ở Trung Quốc đó chính là trò mạt chược. HỒ THÍCH *** Trong Ván cờ người nổi lên cuộc sống của ba nhân vật: Hồ Bằng, Trình Văn Hòa và Dương Oánh Oánh. Hồ Bằng là một người chơi bài rất giỏi nhưng chưa bao giờ anh ta chơi lớn. Văn Hòa làm việc tại ngân hàng, vì mải mê chơi mạt chược mà bỏ vợ là Dương Oánh Oánh ở nhà buồn chán. Dương Oánh Oánh đã mời Hồ Bằng đến nhà chơi mạt chược để giải sầu. Kể từ đó, cuộc sống gia đình cũng như con đường công danh của các nhân vật này có sự biến động. Trình Văn Hòa phải vào tù vì tội tham ô, nhận hối lộ dẫn đến sự chấn động ở chốn quan trường. Kết cục của Văn Hòa cũng lý giải rằng, cuộc sống là một vòng tròn luôn luôn biển đổi, mỗi người đều có vận mệnh riêng. Và sự tính toán, xoay sở của Hồ Bằng cũng không thể thoát ra khỏi cái vòng tròn ấy.   1. “Ván cờ người” là tác phẩm xứng đáng có trên tủ sách của nhà bạn. Nó không phải là một bông hoa nở lúc bình minh nhưng lại có một sức sống mãnh liệt. “Bốn người ngồi cùng một bàn chơi”, trong cuộc chơi đỏ đen được mất này, người chơi trước sau cũng phải dừng lại. Nhưng cũng có những người quá ham chơi không biết bao giờ mới hạ màn. - Trương Kháng Kháng (Tác giả nổi tiếng P.Chủ tịch Hiệp hội Nhà văn Trung Quốc) 2. Chốn quan trường đầy sóng gió; sự lừa gạt, dối trá ở chốn thương trường; sự bằng mặt nhưng không bằng lòng trong chốn tình trường đã được “Ván cờ người” đề cập đến một cách rõ ràng. Qua đó, chúng ta hiểu được thâm ý sâu xa về mối liên hệ giữa con người với việc chơi bài cũng như quan hệ nhân sinh giữa người với người. - A Thành (Tác giả nổi tiếng) 3. Trong“Ván cờ người”, tác giả đã xây dựng nên một cốt truyện khôi hài, dí dỏm, khắc họa nhân vật rõ nét. Con đường công danh thăng trầm, tình cảm của con người trên bàn mạt chược được phóng đại. Tác phẩm đã vẽ nên một xã hội thu nhỏ với nhiều loại người trở thành một bộ “đánh bạc” đặc sắc. - Vương Cán (Chủ biên Trung Hoa văn học tuyển san - Nhà phê bình văn học TQ) 4. Mạt chược là một trò chơi không phân biệt nam, nữ, già, trẻ. Người chơi thường là những người giàu sang hay quan chức và cũng có không ít nhà lãnh đạo cấp cao. Thông qua trò mạt chược, Vương Thụ Hưng đã xây dựng nên một câu chuyện đầy cơ trí, mưu mô và thủ đoạn. Không những thế, trong “Ván cờ người” còn có những tình cảm bùng cháy mãnh liệt. - Thạch Chung Sơn (Tác giả nổi tiếng) 5. “Ván cờ người” có thể chưa cung cấp đầy đủ cho chúng ta những kiến thức về cách chơi mạt chược nhưng đã miêu tả tỉ mỉ các cuộc tái ngộ của những cao thủ chơi trò này. Điều đó mang lại cho người đọc nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Qua đó, tái hiện một cách khá chân thực về đời sống sinh hoạt của nhân dân và hiện thực xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. - Dương Thiếu Hành (Tác giả nổi tiếng - Phó Chủ tịch Liên văn tỉnh Phúc Kiến)   Vương Thụ Hưng quê ở tỉnh Giang Tô, là nhà văn, hội viên Hiệp hội Nhà văn Trung Quốc. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó có thể loại truyện dài và tiểu thuyết. Cốt truyện trong các tác phẩm của ông rất phong phú, cách kể chuyện khôi hài, dí dỏm, khắc họa nhân vật rõ nét. Hiện tại, ông đang sống ở Bắc Kinh và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Xuất bản xã. *** PHẦN MỘT: ĐÔNG Hồ Bằng phấn khởi tiếp lời Mạnh Xuyên Thanh, anh nói quan hệ giữa người với người ở Trung Quốc giống như chơi mạt chược, quá nhiều pha người nhìn người, người trông người, vợ chồng với nhau cũng không ngoại lệ. Mạnh Xuyên Thanh phá lên cười, hỏi Hồ Bằng: “Có phải anh bị vợ quản quá chặt?”. Hồ Bằng bảo không phải, mà là đáng thương cho một số người suốt ngày bị vợ nhìn ngó, những người này không còn được tự do, nên đi giày vò người khác, vậy là có quan bất nhân. I. XÚC XẮC 1 Trong cơ quan, mọi người ít nhìn nhau bằng con mắt xung khắc, mâu thuẫn, nhưng không ai ngờ có nhiều người phản đối ông Mâu, Chánh văn phòng như vậy. Là cấp dưới của ông Mâu, Hồ Bằng cũng không còn nói mập mờ như trước, anh thẳng thắn cảnh cáo ông sẽ gặp rắc rối với cấp trên: đừng làm mất lòng họ, họ đều là bạn mạt chược với nhau. Ông chỉ một mình, họ cả bọn. Công tác thì không nghiêm túc, chơi mạt chược lại rất khí thế. Ông Mâu lòng không phục, miệng cũng muốn nói vài câu, nhưng cố nhịn, chỉ lắc đầu. Cán bộ như ông Mâu chỉ dựa vào thực lực để leo lên, có thế mạnh tự điều trị vết thương, tự nâng cao năng lực. Đã được một bài học, ông cất cái máy kiểm tra thẻ ra vào để ở phòng thường trực, không đuổi đám đang vui vẻ chơi mạt chược trong phòng lưu trữ, đám người rỗi việc bình luận chuyện bài bạc, cũng không dám lén nói xấu họ đi muộn về sớm, bỏ bê công việc. Không những vậy, ông còn đón ý những người chơi mạt chược, cố gắng để họ biết thật ra ông cũng thích mạt chược, chẳng qua cách thích không giống nhau mà thôi. Nhưng trước cấp dưới Hồ Bằng, ông Mâu vẫn làm ra vẻ cứng rắn, quyết không thỏa hiệp. “Tôi đâu vì trượt có mỗi một lần bình bầu dân chủ mà phải từ bỏ nguyên tắc, nhập hội với họ. Tôi chỉ ngồi bàn về đạo lý, bàn về mạt chược mà không đánh mạt chược”. Bình thường ông Mâu chỉ đọc những sách linh tinh, có hiểu biết về mạt chược. Ông ra sức cổ vũ cho văn hoá mạt chược, để mọi người hiểu mạt chược là tập đại thành của nhiều trò chơi thời cổ đại, có đôi có cặp, là sản phẩm kết hợp giữa xúc xắc, bài ngà Tuyên Hòa và bài giấy mã điêu, là văn hóa truyền thống, không phải là thứ rác rưởi, cặn bã. Sự thay đổi biểu hiện từ nhận thức tư tưởng đến hành động này của ông khiến ông trở nên thân cận với một số người, họ đều nói ông Mâu đã thay đổi. Có người còn tỏ ra nịnh bợ và tán dương ông, bảo hiểu biết về mạt chược của ông thật uyên thâm, có thể về Đài truyền hình trung ương để mở diễn đàn mạt chược, chắc chắn sẽ có rất nhiều người xem. Nên nhớ, ở Trung Quốc có biết bao nhiêu người chơi mạt chược. Cậu Cư trong đám lái xe được ông Mâu để tâm chỉ bảo, đã kiếm được tiền trên bàn mạt chược một cách dễ dàng. Tối hôm ấy cậu Cư thua đến đồng tiền cuối cùng, trong lúc nôn nóng đã văng tục, hỏi những người cùng chơi ai đã phát minh ra mạt chược? Không ai biết. Cư lên giọng khinh miệt: “Là do Trần Ngư Môn, người Dũng Thượng, thời Hàm Phong, nhà Thanh, phát minh”. Tiếp theo, cậu ta như tiêm nhiễm tiên khí của Trần Ngư Môn, bắt được quân bài đẹp, rất đắc ý, nói: “Dũng Thượng ở đâu, có ai biết không?” - Không ai biết. Cậu đẩy quân bài ù ra giữa bàn: “Dũng Thượng là Ninh Ba bây giờ. Đánh mạt chược mà không biết tổ tông mạt chược, thật kém tài”. Người ngồi quanh bàn cùng chơi ai cũng tức. Cậu ta ù không lớn, thế mà lúc tính sổ mặt ai cũng tái xanh tái xám. Từ đấy về sau Cư chơi bài hễ nhắc đến Trần Ngư Môn lại ù mấy ván lớn, lần nào thử cũng đúng như vậy. Trong hội chơi có người học cậu ta nhưng không linh nghiệm. Ông Mâu chỉ nói một câu làm mọi người nhận ra: “Mỗi người một khác, không ai giống ai”. Câu nói rất có lý. Tô Sách của phòng tài vụ nói, mỗi lần cô ta bắt bài đều lẩm bẩm: “Mã điêu”, vậy là bắt được bài đẹp. Ông Mâu cười thầm: “Mã điêu, mã điêu là bài mã điêu, hình thù của nó dài dài. Đấy là “thái bổ” của cô”. Mọi người cười ồ, vậy là đặt cho Tô Sách biệt hiệu “thái bổ”, cô ta không hiểu ra sao, nhờ ông Mâu giải thích “thái bổ” là gì? Ông Mâu trả lời không rõ ràng: “Thái bổ là lấy dài bù ngắn, gia đình hài hòa”. Lâu dần, mọi người không còn hứng thú với những điển cố mạt chược mà ông Mâu cứ nói đi nói lại, là bởi ông nói lý thuyết, một khi nói sang thực tế thì coi như không ổn. Mọi người không muốn biết những điều thường thức về mạt chược mà ông Mâu nói ra, ăn trứng không cần biết trứng của con gà nào, đánh mạt chược làm thế nào để ù mới là quan trọng. Lại có người chế giễu ông Mâu không biết đánh mạt chược, không phải cùng hội, chỉ khoe khoang, khoác lác mình hiểu biết hơn người. Mọi người lại nghĩ đến Hồ Bằng, một người không đánh mạt chược nhưng tinh thông mạt chược. Lâu lắm anh ta không đến phòng lưu trữ tổng hợp. Nói một cách chính xác, từ ngày ông Mâu quản lý phòng lưu trữ Hồ Bằng không đến đấy nữa. Mọi người rất thích nói chuyện mạt chược với Hồ Bằng, có người nói anh ta là “vua mạt chược”. Tại sao lại bảo Hồ Bằng là “vua mạt chược”? Anh ta đánh được nhiều tiền không? Không. Hồ Bằng tinh thông mạt chược đến độ mê mẩn, ngẩn ngơ. Chỉ cần có người thuật lại ván bài cho Hồ Bằng nghe, anh nghe đến vòng hai là biết ngay từng nước đi của mỗi người, biết ai nắm trong tay quân nào mà không chịu ra, đang cần quân nào, định thắng thế nào. Lúc đầu mọi người cho rằng anh nói mò, về sau đúng là phải phục. Cái hôm đám cưới Tô Sách, sau cuộc vui cỗ bàn, mọi người kéo nhau đi hát hoặc chơi mạt chược. Những người đi hát nhanh chóng kết thành bè, vui vẻ kéo nhau đi; nhưng người đánh mạt chược vẫn đứng lố nhố ở cửa khách sạn. Đầu tiên những người chơi bài xếp thành hai bàn, sau đấy tìm địa điểm, tìm một nơi rộng rãi để có thể ồn ào một chút. Chị Hứa phòng nhân sự đề nghị đến nhà chị, không có nơi nào tốt hơn ở đấy, chồng chị là Tổng Giám đốc một doanh nghiệp, ở một căn biệt thự có lối đi riêng biệt. Hai bàn mạt chược được xếp đặt trong phòng khách tầng một và tầng hai nhà chị Hứa. Rất nhiều người, có người không kịp ngồi vào bàn, thừa ra. Hồ Bằng và Đổng, hai người này tỏ ra không mặn mà. Hồ Bằng bảo anh không đánh mạt chược bao giờ, Đổng cũng bảo không giỏi, thua một hào chóp mũi cũng đổ mồ hôi. Cả bọn đâu có khách khí, khiêm nhường với hai người, lập tức họ vào cuộc. Hồ Bằng và Đổng xem họ đánh được hai ván rồi đi sang phòng khách kế bên xem ti vi. Đổng nhìn Hồ Bằng, hình như cũng đang không muốn xem phim truyền hình nhạt nhẽo, nhưng anh ta lại tỏ vẻ xem rất chăm chú. Hồ Bằng uể oải ngả người ra tựa sofa, thỉnh thoảng lại giải thích với Đổng về cuộc chiến mạt chược ngoài kia. Hồ Bằng giải thích làm ảnh hưởng Đổng đang xem ti vi, anh ta hơi bực mình, đứng dậy ra ngoài xem có đúng như Hồ Bằng nói hay không, nếu không đúng sẽ bảo anh ta im miệng. Đổng đi vòng quanh bàn mạt chược, đúng như lời Hồ Bằng, ông Lý, Giám đốc sở đang thắng, trước mặt ông ta giấy bạc một trăm chồng cao. Quay lại, Đổng nói: “Bằng, tai cậu thính quá đấy, ngoài kia ai được ai thua cậu đều biết”. Hồ Bằng nói: “Đấy là tớ nghe bài, giống như người mù đánh cờ”. Đổng không tin, cho rằng Hồ Bằng uống quá chén nên ba hoa vậy thôi. Truyền hình xem cũng bằng thừa, dù sao thì cũng không còn gì vui, Đổng rủ Hồ Bằng ra ngoài kia xem họ chơi mạt chược, để xem anh ta có thể nói mò nữa không. Hồ Bằng nói: “Tớ sẽ bảo trước với cậu ai thắng, hoặc ai xuất xung, nói không đúng coi như tớ thua, họ kết thúc ván bài mà tớ chưa nói cũng coi như thua”. Đổng nói, được, ra giá cược đi nào, mỗi ván năm chục đồng nhé. Hồ Bằng lắc đầu, xưa nay tớ không chơi cược tiền, ai thua phải uống một cốc vại nước. Đổng nhìn bình nước khoáng để ở góc tường, còn già nửa bình, dù sao thì không uống một mình, anh ta vỗ ngực: “Chúng ta cược, dù sao thì uống nước tớ không sợ cậu, chưa biết ai thắng ai”. Vừa nói xong, Đổng nghe ngoài kia báo ù, anh ta ra thăm dò, kết quả là anh ta phải uống liên tục và phải chạy vào nhà vệ sinh. Những người đánh bài thấy anh ta cứ chạy đi chạy lại thật kì lạ: tay Đổng này bình thường vốn là con người đứng đắn, trong chiếu rượu cũng không uống nhiều, tại sao hôm nay lại lạ thường như vậy? Chẳng mấy chốc, Đổng không uống nổi nữa, nếu còn tiếp tục đánh cuộc với Hồ Bằng thì bụng vỡ ra mất. Anh ra bàn mạt chược tố khổ: “Tôi thua thê thảm, uống hết nửa bình nước khoáng”. Những người chơi bài muốn biết anh đánh cuộc gì, nghe anh ta nói đánh cuộc ai được thua trên chiếu bạc, không ai có thể hình dung nổi. Có người vừa ù, bảo Đổng gọi Hồ Bằng ra, hỏi anh ta xem ai ù. Hồ Bằng nói ngay: “Ra tam tố, song hưởng, xuất lưỡng gia xung”. Ai cũng thấy kì lạ, hai người cùng ù? Người ù nhìn những người cùng chơi, nghĩ bụng chắc chắn Hồ Bằng sai rồi. Một lúc sau có người cười: “Đúng vậy, tôi cũng ù, tam tố độc điêu”. Hồ Bằng nói: “Tôi không nói khoác, không ai đẩy được tàu hỏa. Tôi ngồi trong kia nghe mọi người đánh bài, biết các người ở đây đánh quân nào. Không tin, tôi nói lại cho mọi người nghe”. Hồ Bằng nói lại ai đã đánh quân nào, anh còn nói với mọi người quân bài ấy cầm trên tay bao lâu, buộc phải đánh là bởi phải nghe bài, nghe vạn tự bài thanh nhất sắc. “Trời đất ơi! Giỏi như vậy mà sao không thấy anh đánh?”. Có người hỏi Hồ Bằng. Mời các bạn đón đọc Ván Cờ Người của tác giả Vương Thụ Hưng.
Con Đường Sấm Sét
Tiểu thuyết Con đường sấm sét đã vẽ nên một bức tranh rất hiện thực về đời sống ở Liên bang Nam Phi. Trong cuốn sách này không nêu những sự việc cực kỳ quan trọng, chỉ kể lại một cuộc tình duyên tha thiết giữa một thanh niên da đen và thiếu nữ da trắng, vượt ra ngoài đạo luật phân biệt màu da của bọn thực dân. Bọn tư bản da trắng ở Liên bang Nam Phi còn tìm đủ mọi cách để ngăn cấm người bản xứ học tập. Stinvơn, một làng nhỏ tác giả nêu lên trong truyện, không có lấy một người dân nào biết chữ, kể cả lão trùm trưởng kiêm mục sư. Vấn đề học văn hóa của người da đen là một trong những vấn đề chính nêu ra trong truyện. Tác giả đã dựng lên hai nhân vật điển hình về người giáo viên bản xứ. Lani và Mạckơ. Lani được gửi lên tỉnh Kếp học. Anh đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm. Giàu nghị lực và tha thiết yêu dân tộc, yêu hòa bình, Lani cảm thông một cách sâu sắc nỗi thống khổ của dân tộc mình. Nhận thấy con đường phải đi, anh đã từ chối dạy ở một trường trung học tỉnh, một việc rất ít khi dành cho người da đen. Anh trở về làng, tổ chức một trường học. Anh tin rằng những tư tưởng mới chiếu rọi vào đám dân nghèo tăm tối sẽ đem lại cho họ sức mạnh và nghị lực quật khởi. Hoạt động của Lani đã làm cho bọn tư bản địa phương chú ý. Chúng hiểu rằng hoạt động của anh là nhằm chống lại chính quyền của chúng. Bọn thống trị da trắng coi việc truyền bá văn học mà cả dân tộc anh khát vọng là một hiện tượng thù địch. Trong cuộc đấu tranh này Lani đã gặp một địch thủ lợi hại là Gớt Viliê. Hoạt động của Lani chưa đủ tạo nên một đường lối đấu tranh với bọn thống trị, nhưng ánh sáng giáo dục của anh đã thức tỉnh tinh thần độc lập, bất khuất của đồng bào anh, tạo điều kiện cho các cuộc đấu tranh sau này.Trong mối tình giữa anh và thiếu nữ da trắng Xari, Lani đã biểu lộ nhân cách khảng khái, cao thượng của mình. Lòng dũng cảm và tình yêu chân thành của Xari đã nói lên rằng bọn thống trị không thể đầu độc tình yêu giữa con người bằng chủ nghĩa phân biệt màu da. Mối tình giữa Lani và Xari chính là một biểu hiện mãnh liệt chống đối những thành kiến dân tộc mà luật lệ của bọn thực dân ở Nam Phi đã tạo nên.Cuộc đấu tranh của Lani và Xari với Gớt Viliê chính là cuộc đấu tranh cho quyền sống của con người. *** Độc giả Liên Xô, quen thuộc với tiểu thuyết CON ĐƯỜNG SẤM SÉT của nhà văn Nam Phi Peter Abrahams thường tự đặt cho mình câu hỏi: "Phải chăng tất cả những sự kiện tác giả nêu lên trong cuốn tiểu thuyết này đều xảy ra vào thế kỷ thứ hai mươi?" Câu hỏi trên đã được trả lời một cách chính xác. Đúng! Tất cả những vấn đề viết trong cuốn sách này đều là những sự việc xảy ra trong thời đại chúng ta, ở Liên bang Nam Phi, thành lập năm 1911, và còn được mệnh danh là "Khối hữu nghị các dân tộc trong phe Liên hiệp Anh". Những người da đen sống lâu đời trên mảnh đất này là nạn nhân của bọn địa chủ da trắng. Họ bị chiếm đoạt hầu hết ruộng đất, chỉ còn một số ruộng hoang khô cằn, nên sống một cách cùng cực. Phần lớn những thanh niên da đen khỏe mạnh đều bị bắt đưa vào các đồn điền của các "ngài" da trắng, đặt dưới quyền cai quản của bọn cai ký tàn ác vô nhân đạo. Họ làm việc ngày đêm cực khổ, nhưng chỉ được lĩnh vài đồng xu nhỏ. Họ phải chịu mọi thứ bất công về lương bổng và chế độ làm việc. Họ không được tham gia vào các nghiệp đoàn của người da trắng... Miền Nam châu Phi bị thực dân xâm chiếm vào giữa thế kỷ thứ mười bảy. Ngay khi đặt chân lên đất này, bọn thực dân bắt đầu ngay những cuộc chinh phục bằng máu để chiếm đoạt những vùng nhiều quặng mỏ, ruộng đất phì nhiêu. Bộ máy cai trị hiểm độc của bọn thực dân đã nặn ra một hệ thống luật lệ hà khắc đối với người da đen: những đạo luật nhằm tước đoạt tất cả các quyền công dân, trong đó có đạo luật cấm người da đen không được làm công tác kỹ thuật, đạo luật phân biệt màu da... Những đạo luật vô nhân đạo ấy dặt ra để đàn áp phong trào công nhân và những người lao động Nam Phi, giam hãm họ trong dốt nát tối tăm và tù ngục, không cho họ sử dụng một cách đứng đắn quyền hạn của con người. Mặc dù ách thống trị của bọn thực dân tàn bạo như vậy, các dân tộc quật khởi Nam Phi vẫn không một phút nào ngừng đấu tranh cho mục đích giải phóng dân tộc mình. Tiểu thuyết CON ĐƯỜNG SẤM SÉT đã vẽ nên một bức tranh rất hiện thực về đời sống ở Liên bang Nam Phi. Trong cuốn sách này không nêu những sự việc cực kỳ quan trọng, chỉ kể lại một cuộc tình duyên tha thiết giữa một thanh niên da đen và thiếu nữ da trắng, vượt ra ngoài đạo luật phân biệt màu da của bọn thực dân. Bọn tư bản da trắng ở Liên bang Nam Phi còn tìm đủ mọi cách để ngăn cấm người bản xứ học tập. Stinvơn, một làng nhỏ tác giả nêu lên trong truyện, không có lấy một người dân nào biết chữ, kể cả lão trùm trưởng kiêm mục sư. Vấn đề học văn hóa của người da đen là một trong những vấn đề chính nêu ra trong truyện. Tác giả đã dựng lên hai nhân vật điển hình về người giáo viên bản xứ. Lani và Mạckơ. Lani được gửi lên tỉnh Kếp học. Anh đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm. Giàu nghị lực và tha thiết yêu dân tộc, yêu hòa bình, Lani cảm thông một cách sâu sắc nỗi thống khổ của dân tộc mình. Nhận thấy con đường phải đi, anh đã từ chối dạy ở một trường trung học tỉnh, một việc rất ít khi dành cho người da đen. Anh trở về làng, tổ chức một trường học. Anh tin rằng những tư tưởng mới chiếu rọi vào đám dân nghèo tăm tối sẽ đem lại cho họ sức mạnh và nghị lực quật khởi. Hoạt động của Lani đã làm cho bọn tư bản địa phương chú ý. Chúng hiểu rằng hoạt động của anh là nhằm chống lại chính quyền của chúng. Bọn thống trị da trắng coi việc truyền bá văn học mà cả dân tộc anh khát vọng là một hiện tượng thù địch. Trong cuộc đấu tranh này Lani đã gặp một địch thủ lợi hại là Gớt Viliê. Hoạt động của Lani chưa đủ tạo nên một đường lối đấu tranh với bọn thống trị, nhưng ánh sáng giáo dục của anh đã thức tỉnh tinh thần độc lập, bất khuất của đồng bào anh, tạo điều kiện cho các cuộc đấu tranh sau này. Trong mối tình giữa anh và thiếu nữ da trắng Xari, Lani đã biểu lộ nhân cách khảng khái, cao thượng của mình. Lòng dũng cảm và tình yêu chân thành của Xari đã nói lên rằng bọn thống trị không thể đầu độc tình yêu giữa con người bằng chủ nghĩa phân biệt màu da. Mối tình giữa Lani và Xari chính là một biểu hiện mãnh liệt chống đối những thành kiến dân tộc mà luật lệ của bọn thực dân ở Nam Phi đã tạo nên. Cuộc đấu tranh của Lani và Xari với Gớt Viliê chính là cuộc đấu tranh cho quyền sống của con người. E. V. KÓCNILÔVA Phụ chú: Những chú thích trong cuốn tiểu thuyết này, trừ những chỗ có ghi riêng là của người dịch (N.D.), còn đều sử dụng tài liệu chú thích của Nhà xuất bản ngoại văn Matxkơva. Nó sẽ không cầm quyền, không bị hạn chế, nó tự do: con người là như thế đấy. Nó sẽ bình đẳng, không giai cấp, không bộ lạc, không quốc gia. Sẽ thoát khỏi sự sợ hãi, sự thờ phụng, đẳng cấp, sẽ thành vị quân vương. Tự ngự trị lấy mình, chính trực, cao nhã, sáng suốt, con người là như thế đấy. SELÂY Hình thức giải trí mà tôi ham thích nhất là thú nói chuyện đầy nghĩa lý. Nhưng suốt bốn năm ròng, trong khi sống với "bọn chủ trương cai trị theo màu da" ở Nam Phi, tôi đã bị mất cái thú ấy vì tôi cứ luôn luôn gặp phải những lối đối thoại na ná như thế này: Bất kỳ một sinh viên(1) Nam Phi nào tốt nghiệp đại học: Nếu ông đã sống ở xứ này cũng lâu như tôi thì ông đã biết rằng người ta không thể dạy cho thổ dân ở đây biết đọc hay biết viết gì hết. Tôi: Thế anh đã có bao giờ đến thăm trường đại học Phoóc Herơ của những người truyền giáo chưa? Sinh viên Nam Phi tốt nghiệp đại học: Thôi, ông đừng nói gì với tôi về những người truyền giáo nữa. Tôi: Ấy thế mà tôi đã đến đấy. Tôi thấy có những sinh viên Bantu chính cống từ vùng Xítkai đến đã giải được những phương trình vi phân. Sinh viên Nam Phi tốt nghiệp đại học: Thế nếu một người da đen hiếp em gái ông thì ông sẽ làm gì? Giáo sư LANXƠLÔP HỐCBƠN, F.R.S. trong bài tựa cuốn "Bán đẳng cấp" của Xơđơric Đôvơ. (*) Trích dịch bài tựa Con đường sấm sét,nguyên bản Anh văn. Nhà xuất bản ngoại văn Matxkơva, 1959 (in lần thứ tư). Mời các bạn đón đọc Con Đường Sấm Sét của tác giả Peter Abrahams.
Bến Thiên Đường
Tác giả Sonja Massie đã được đông đảo công chúng biết đến với nhiều tiểu thuyết được viết nên nhờ vào bối cảnh lịch sử, trong đó nhiều tác phẩm của bà đã được dựng thành phim và được sự đón nhận nồng nhiệt của quần chúng. Tác phẩm “Bến thiên đường” có tựa đề song song là “Far anh Away” của bà cũng là một trong số những tác phẩm được dựng thành phim với nhan đề “Ngàn trùng xa” được phát hành năm 1992; lấy bối cảnh trên đất nước Ailen, tiểu thuyết viết về mối thù truyền kiếp của dòng họ Donelly với dòng họ của ông Daniel. Khi tổ tiên của ông Daniel đi xâm lấn đất đai của gia đình Donelly. Chàng Joseph là một người con của dòng họ Donelly đã được giao trọng trách đi trả thù gia đình Daniel, nhưng vì những đấu tranh nội tâm nơi chàng nên chàng đã không thể giết ông Daniel. Trải qua các tình tiết ly kỳ trong tác phẩm cuối cùng Joseph đã gặp con gái của ông Daniel, cô tên là Shannon. Những lần gặp gỡ giữa hai người và cuộc phiêu lưu của họ khi sang Mỹ để khai khẩn đất đai cuối cùng họ đã nảy sinh tình yêu. Mặc dù trải qua nhiều nhiều sóng gió song tình yêu của họ vẫn chiến thắng tất cả, Joseph và Shannon đã vượt qua được hận thù và rào cản giai cấp để đến với nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc. Tiểu thuyết nói lên sức mạnh của tình yêu, của cái thiện và chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc. Xin được gửi tới bạn đọc để cùng khám phá và chiêm ngưỡng. *** Quỷ dữ chặt đầu bọn lãnh chúa chết tiệt này đi! Chặt hết, có bao nhiêu chặt hết bấy nhiêu. Rồi nghiền nát chúng ra như cám! Chửi xong, Patrick, gã thợ mộc trong làng cầm vại bia lên tu một hơi dài, đoạn toét miệng cười, khuôn mặt tròn quay sáng rỡ. Gã nhìn quanh một vòng trong quán rượu, mắt ánh lên vẻ thỏa mãn. Từ trước tới nay, trong đám người thân quen chuộng cái nghệ thuật chửi rủa này, ít ai chửi một cách hay họ độc đáo như gã. Gã im lặng, thách thức bất cứ ai chửi hay hơn. – Ước gì đàn quạ đen bu vào rỉa ráy chúng, ước gì chúng bị nổi mày đay khắp người, ngứa ngáy mà không có móng tay để gãi! Ryan, em của Patrick, ngồi chễm chệ trên một ghế đẩu cao bên quầy rượu, mồm ngậm ống vố, nhả khói cuồn cuộn vào không khí đã sặc mùi cay của than bùn đang cháy trong lò sưởi, và mùi thum thủm của áo quần len dạ còn ẩm ướt. – Ước gì quy dữ nuốt chửng chúng nó đi, và xiết dương vật vào cổ chúng nó! – Ước gì lửa âm ti thiêu đốt chúng mãi cho tới ngày tận thế, mà không cho chúng một giọt bia nào để làm giảm bớt cái khát muôn đời ấy! – Denis bổ sung thêm. Denis là một tá điền có mái tóc màu hung đỏ, mặt sần sùi đầy vết hoe, đang chuồi cái ca bằng thiếc về phía người chủ quán. Ông này liền rót đầy bia cho gã. Nửa tá khách nhậu, theo gương của Denis, chìa cốc ra lấy bia và đã cảm thấy khó chịu vì cái ý nghĩ phải chịu án phạt muôn đời mà không có lấy một giọt bia mát lạnh nào để xoa dịu. – Các bạn nên giữ mồm giữ miệng thì hơn, Danty Duff nói. Ông ta là người vớt rong biển dạt vào bờ, tóc hoa râm, đang ngồi phía đầu quầy bên kia. Ông và Joe Donelly, bạn ông, đã chiếm chỗ sớm hơn, và uống rượu nguyên chất nhiều hơn bất cứ người bạn nào khác mà không hề hấn gì. – Các bạn biết đâu giữa chúng ta, lỡ có thằng thối mồm nào đó chỉ điểm thì sao. Nếu các bạn cứ nói bô bô cho sướng miệng trước bất cứ ai như thế này, thì rồi sẽ lâm vào cảnh khốn đốn như bọn Galway, chứ chẳng phải chơi đâu. Như thế chẳng khác gì đánh đu trên một cái xà ngang đã mục. Joe Donelly mặt đầy nếp nhăn vì suốt ngày dang nắng để lấy than bùn làm chất đốt, bật cười đập vào lưng bạn: – Hè... đồ nhát gan như thỏ đế, còn thua cả một bà góa già rụng răng! Danty Duff né tránh cú đập của Joe, khiến ông ta suýt té ngã vì quá đà. Joe nói tiếp: – Cậu sợ cả chính cái bóng của cậu nữa, Danty ạ. Chúng ta phải là những con người hành động, như... các chàng trai của đại úy Moonlight, họ tổ chức các vụ đánh cướp với tầm vông, gậy gộc và những bó đuốc vung cao. Họ sẽ giành lại được độc lập cho quê hương của chúng ta, chắc chắn như thế. Các thực khách vỗ tay nồng nhiệt hoan hô vang dội cả cái quán rượu cổ lỗ, từ cái trần thấp có đà ngang đến tận nền nhà lát đá, rải rác mấy cọng rơm đây đó. Đó là cái lý do tại sao dân làng tụ tập mỗi ngày tại quán rượu của ông O’Manion. Không phải họ tới đó để uống bia – vì họ có thể uống ở nhà. Không phải họ đến đó để sưởi ấm, hoặc để tăng cường nghị lực nhờ ngửi mùi ra-gu thịt cừu đang hầm trên bếp lò. Cũng không phải để có được vài giờ yên tĩnh, tránh phải nghe miệng lưỡi lách phách của các bà vợ, hoặc trò hề của lũ trẻ con ồn ào... Họ đến quán rượu chỉ là để gặp lại bạn bè khích lệ họ sống dũng cảm hơn, hào hùng hơn và mạnh mẽ hơn; để gặp những con người thách thức nhau thoát khỏi cảnh đói nghèo mà họ đã bị áp đặt, và cầm khí giới để chiến đấu cho tự do. Lâu nay họ chỉ đánh giặc mồm, chỉ phun ra những lời nguyền rủa, để nhẹ bớt tâm tư. Thế nhưng, lịch sử đã chứng minh, lời nói có khả năng thúc đẩy lòng người Ai Len hành động. Và ngày nổi dậy đã gần kề, mọi người ai cũng biết điều đó. – Vậy thì Joe Donelly, hôm nay cậu đã làm gì để lấy lại mảnh đất mà Thượng đế đã ban cho cậu từ tay tên lãnh chúa? – Danty hỏi, vẻ mặt khó chịu – Cậu đã cầm cây đuốc đút sau đít hắn ta, hay là cậu đã ôm hôn mông hắn khi hắn cưỡi con ngựa đẹp đi ngang qua đây? Denis can thiệp vào: – Có thể cậu ta chấp nhận hôn đít con ngựa quèn của hắn – nói đến đây, Denis nhìn thấy đôi mắt của Joe Donelly long lên vì giận dữ, liền tiếp – Xin lỗi cậu, Joe, tớ nói thế mà không có ác ý gì cả, thề danh dự đấy! Trong làng, lão Joe có tiếng là người dễ bị chạm tự ái. Chỉ Danty là bạn từ tấm bé của lão là có thể châm chọc hay nhục mạ lão mà không bị ăn đòn. Người chủ quán vừa đẩy hai vại bia đầy ắp đến trước Joe và Danty, vừa nói: – Này, các bạn. Các bạn nghĩ sao, nếu chúng ta được nghe các nghệ sĩ thượng thặng hát lên một bài ca để chúng ta được vui tai và nhẹ lòng? Lời nịnh hót đã làm tan biến mất nỗi giận hờn. Danty và Joe liền cất lời hát một ca khúc mà họ đã thuộc nằm lòng từ thưở bé. ... Đám khách trong quán lại tiếp tục uống, thưởng thức chất đắng thú vị của rượu bia đang làm mát cổ họng họ. Những cây đèn dầu có tim bấc chiếu ánh sáng chập chờn lên những chiếc bàn vuông thô kệch và phản chiếu trong tấm gương lớn đã rạn nứt treo phía tường sau quầy hàng vì cuộc ẩu đả trước kia giữa Joe và Danty. Tâm hồn của dân làng tạm thời lắng dịu nhờ đã nguyền rủa, và quên đi trong chốc lát nỗi lo âu của cuộc sống, để thưởng thức bài ca du dương của hai chàng ca sĩ. Nhưng sự yên lặng bỗng bị đập tan. Tiếng ồn ào náo động ngoài đường đã làm cho mọi người bật đứng dậy, hấp tấp chạy đến bên cửa sổ nhìn xem chuyện gì đã xảy ra. Những tiếng là hét phẫn nộ vang lên từ đám người đi bộ, giày lấm bùn đất. Người ta nghe cả tiếng một con ngựa hí vang vì sợ hãi. – Kìa, các bạn hãy xem! Một tên lãnh chúa xuất hiện ở đằng kia kìa - Ryan là toáng lên, giọng hớn hở – Phải cho hắn một bài học mới được. Joe và Danty ngừng hát, nốc một hơi cạn vại bia và phóng ra ngoài. Họ nóng lòng được đánh lộn, chứ không chịu làm khách bàng quan như các người bạn khác. Lời nguyền rủa của họ đã mang lại kết quả, còn nhanh hơn là họ tưởng. Huân tước Geoffroy Hampton, chủ nhân tòa dinh thự Hampton, đang ngồi chễm chệ trên cái ghế băng bọc da của cỗ xe ngựa bóng loáng. Một cô xe tuyệt đẹp, gã xa phu cũng láng coóng trong bộ trang phục màu đen viền bạc. Nét mặt hắn ta hơi sửng sốt. Cả chủ lẫn tớ đều cảm thấy mình đang rơi vào một tình huống còn hơn cả sự bực mình. Đám dân quê vây quanh lấy cỗ xe ngựa lộng lẫy một cách hỗn độn vô trật tự, kẻ thì cầm cuốc xẻng, người thì cầm gậy gộc, lòng sôi sục căm thù tích tụ bởi bao nhiêu năm tháng. Áo quần họ mặc quá lâu ngày chưa thay, họ đã trải qua biết bao thử thách và đau khổ, chịu đựng bao nỗi buồn phiền. Họ nhộn nhạo trên đường, chận xe không cho qua. Gã xa phu quất ngựa vun vút, nhưng chiếc xe chỉ nhúc nhích đôi chút giữa lũ người mỗi lúc một đông hơn, phẫn nộ hơn. Môt phụ nữ là lớn: – Thằng heo kia, mày là một thằng khốn nạn. Mày ăn quá nhiều mỡ nên mập phì! Vị lãnh chúa khoanh tay trên cái áo khoác bằng nhung xanh, lót lụa đen, trợn mắt lườm bà ta. Một tá điền lưng còng có đứa con nhỏ trần truồng đang đeo theo chân gã mà kêu khóc, gã rống lên: – Mày là tai họa cho xứ sở của chúng tao, cái xứ sở không bao giờ là của mày. Mày xuống hỏa ngục cho quy dữ nướng mày đi! Một bà già tay không vũ khí, cúi xuống lượm một viên đá cuội, nhắm cỗ xe mà ném tới, trúng chiếc mũ chóp cao bằng xa-tanh đen của lãnh chúa, làm nó rơi xuống đất. Đám đông liền dành nhau đạp dẹp nó, chỉ một chốc là tiêu tan. Joe thúc cùi chỏ vào hông bạn, bảo: – Danty, đưa vũ khí cho tao, tao giết thằng chó này. Mời các bạn đón đọc Bến Thiên Đường của tác giả Sonja Massie.
Axit Sunfuric
rại tập trung là một chương trình truyền hình thực tế mới, qua đó, khán giả sẽ được xem cảnh những kapo độc ác tra tấn các nạn nhân đầy cam chịu. Chỉ có một nạn nhân chống cự và thái độ ấy đưa cô cùng các bạn đồng hành cũng như khán giả và những người chịu trách nhiệm khác đi từ cú sốc này đến cú sốc kia… Câu chuyện xoay quanh khu trại đặc biệt này không hề là sản phẩm của trí tưởng tượng. Ngòi bút sắc sảo của Amélie Nothomb đã biết đào sâu và nhào nặn những sự kiện, những biến đổi thường nhật trong khía cạnh đạo đức con người để tạo thành một Axit sunfuric độc đáo, có tính chất dự báo tương lai của chúng ta, một tương lai trống rỗng và nhẫn tâm nếu chúng ta không biết để ý và sửa đổi những thói quen văn hóa tưởng chừng vô hại. Bất kỳ ai đọc cũng bị cuốn vào cuộc đấu tranh thiện-ác mà tác phẩm miêu tả, cũng bị ngập trong những cảm xúc xót xa, hồi hộp, bất bình rồi thở phào nhẹ nhõm và thậm chí lâng lâng cảm giác yêu thương.    Axit sunfuric tuyệt vời vì nó khiến độc giả phải dừng lại và ngẫm xem ngày nay, trong quan hệ giữa người với người, liệu người này còn thực sự đóng vai trò quan trọng với người khác và liệu chúng ta có thể giúp một người xấu trở nên tốt đẹp hay không. - www.e-litterature.net Amélie Nothomb đã thực sự làm độc giả bị sốc khi gây ra cuộc tranh cãi kỳ lạ song hết sức sáng tạo về cái thiện và cái ác, về thủ phạm của những chương trình truyền hình thực tế tác động xấu đến khán giả trong Axit Sunfuric. Thêm một tác phẩm nữa khiến chúng ta tự hỏi đến bao giờ nữ văn sĩ thông minh người Bỉ này thấy chán thành công và những niềm vinh dự. - L’Express Một trong những nhiệm vụ của tiểu thuyết là dự đoán được các “điểm đến” của thế giới. Axit sunfuric đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó khi tưởng tượng ra một câu chuyện kỳ lạ giúp người đọc hiểu hơn thực tế họ đang sống, dù câu chuyện ấy thật kinh hoàng. - Tạp chí Lire Amélie Nothomb không hề sáng tạo ra các nhân vật cùng tình tiết trong Axit Sunfuric mà đây thực sự là cuốn tiểu thuyết “dự báo” tương lai của chúng ta. Đó là lý do khiến báo giới tranh luận bấy lâu và là điểm thành công tuyệt vời của nữ văn sĩ. - www.evene.fr *** Đến một lúc sự đau khổ của người khác vẫn chưa đủ với họ; họ muốn nhìn thấy cảnh tượng ấy. Người ta có thể bị bắt mà không cần đến một lý do nào cả. Những cuộc vây ráp diễn ra ở bất cứ đâu: tất cả mọi người bị hốt đi, không ai được chống lại. Miễn sao là con người. Buổi sáng hôm đó, Pannonique đi dạo trong Công viên Bách thảo(1). Những nhà tổ chức chương trình đến và càn quét cả công viên, không để sót một mục tiêu nào. Cô gái trẻ bị đưa lên một chiếc xe tải. Chuyện này diễn ra trước khi chương trình đầu tiên được phát sóng: mọi người còn chưa biết điều gì sẽ xảy đến với mình. Họ giận dữ. Tại nhà ga, họ bị lèn chặt vào một toa chở súc vật. Pannonique phát hiện thấy cô và mọi người đang bị quay phim: rất nhiều máy quay dõi theo họ, không một biểu hiện lo âu vụn vặt nào trên gương mặt họ bị bỏ qua.. Cô hiểu rằng việc chống cự chẳng những không giúp ích được gì, mà còn trở thành tiêu điểm hấp dẫn cho truyền hình. Vì thế trong suốt chuyến đi, cô im lặng không để lộ một cảm xúc nào. Xung quanh cô bọn trẻ gào khóc, người lớn la mắng, người già uất ức đến nghẹt thở. Họ bị lùa xuống một cái trại giống như những cái trại tập trung vốn chưa cổ xưa gì của phát xít Đức, chỉ có một chi tiết khác biệt duy nhất đập ngay vào mắt: những chiếc máy quay giám sát được gắn ở khắp nơi. Để trở thành nhà tổ chức, không cần bất cứ điều kiện nào. Những người chủ xướng chương trình cho các thí sinh lần lượt đi qua và chọn ra những “gương mặt độc nhất”. Sau đó, những thí sinh này phải hoàn thành bảng trắc nghiệm hành vi. Zdena đã được chọn, đó là kẻ cả đời chưa bao giờ vượt qua nổi một cuộc thi. Ả lấy thế làm hãnh diện lắm. Từ nay, ả có thể khoe rằng ả làm ở đài truyền hình. Ở tuổi hai mươi, không một tấm bằng, có được công việc đầu tiên: rốt cuộc thì những người xung quanh sẽ phải ngưng chế nhạo ả. Người ta giải thích với ả các nguyên tắc của chương trình. Những người phụ trách hỏi ả có cảm thấy sốc không. - Không. Mạnh đấy, ả trả lời. Vẻ đăm chiêu, vị phụ trách nhân sự nói với ả rằng chính xác là như vậy. - Đó là những gì mọi người muốn, ông ta nói thêm. Những kiểu trình diễn giả tạo, màu mè đã hết thời rồi. Ả vượt qua những cuộc kiểm tra khác một cách xuất sắc, cho thấy mình có khả năng gây ấn tượng với người lạ, gào thét những lời lăng mạ vô cớ, chứng tỏ quyền lực của mình, không mủi lòng trước những lời kêu than. - Điều quan trọng, là phải tôn trọng khán giả, một người phụ trách nói. Không một khán giả nào đáng để bị coi thường. Zdena đồng tình. Ả được giao vị trí kapo(2). - Chúng tôi sẽ gọi cô là kapo Zdena, người ta nói với ả như vậy. Thuật ngữ quân sự này khiến ả thích thú. - Trông mày oách lắm, kapo Zdena ạ, ả tự nói với mình trong gương. Ả đã không còn để ý đến những chiếc máy quay phim đang thu hình ả nữa. Báo chí chỉ nhắc đến sự kiện này. Các bài xã luận bùng nổ, những người có lương tâm la ó. Ngay sau buổi phát sóng đầu tiên, khán giả yêu cầu được xem tiếp. Với tên gọi ngắn gọn “Trại tập trung”, chương trình đã thu hút được lượng khán giả kỷ lục. Chưa bao giờ người ta gây được ảnh hưởng trực tiếp đến vậy lên tội ác. “Có điều gì đó đang xảy ra,” thiên hạ kháo nhau. Máy quay phim thỏa sức ghi hình. Nó hướng vô số các con mắt của mình đến mọi lán trại nơi nhốt các tù nhân: những cái nhà tiêu, với tiện nghi duy nhất là các chồng đệm rơm. Bình luận viên chương trình cố gắng miêu tả mùi nước tiểu và cái lạnh ẩm thấp mà, tiếc thay, truyền hình không có khả năng chuyển tải. Mỗi kapo có vài phút để tự giới thiệu mình. Zdena không khỏi bất ngờ trước đặc quyền này. Trong vòng hơn năm trăm giây, chiếc máy quay sẽ chỉ hướng mắt về phía ả. Và cái con mắt nhân tạo ấy sẽ kết nối với hàng triệu con mắt bằng xương bằng thịt. - Đừng bỏ lỡ dịp tỏ ra thân thiện, một người tổ chức chương trình nói với các kapo. Khán giả nhìn các bạn như những kẻ độc ác, thô lỗ: hãy chứng tỏ cho họ thấy các bạn là con người. - Và cũng đừng quên rằng truyền hình có thể là một diễn đàn dành cho những ai trong số các bạn có ý tưởng, có lý tưởng, một người khác gợi ý với nụ cười nham nhở khiến người ta liên tưởng ngay đến những điều ghê tởm mà hắn hy vọng được nghe thấy các kapo tuôn ra. Mời các bạn đón đọc Axit Sunfuric của tác giả Amélie Nothomb.