Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hồi Kí Nguyễn Hiến Lê

Tên ebook: Hồi ký Nguyễn Hiến Lê (full prc, pdf, epub) (Bản đầy đủ, bao gồm cả nội dung bị kiểm duyệt) Tác giả: Nguyễn Hiến Lê Thể loại: Hồi ký, Lịch sử, Văn học Việt Nam Nhà xuất bản: Văn học Năm xuất bản: 1993 Đánh máy, rà soát - sửa lỗi và bổ sung chú thích: Goldfish Tạo ebook: BiN Ngày hoàn thành ebook: 11/07/2014​ Nguồn: tve-4u.org Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Hồi Kí Nguyễn Hiến Lê Giới thiệu:   (Lưu ý: Nội dung bị kiểm duyệt bao gồm các chương XXI, XXII, XXIV, XXX, XXXI, XXXII và Phụ lục “Kinh hoàng trên đảo Kokra”. Các mục này không nằm trong nội dung sách của Nxb mà được tìm thấy trên mạng (chưa rõ ai là người đưa lên) và bổ sung vào ebook) Nguyễn Hiến Lê ra đời trong hoàn cảnh nho học không còn được sủng ái. Cha mất sớm, ông sống nhờ bàn tay tảo tần buôn bán của người mẹ. Cuộc sống những năm thiếu thời của ông ở giữa ranh tốt và xấu: hư hỏng, tha hoá và trong sạch, trinh trắng. Sau những ngày tháng lêu lổng, cậu bé Nguyễn Hiến Lê còn biết giật mình nghĩ lại để rồi mình hứa với mình tu chí học hành, phấn đấu vươn lên. Người mẹ ít học kia lại là người biết bù đắp những thiếu hụt về kiến thức cho con trai bằng cách cho cậu bé điều kiện tiếp cận với Hán học. Vậy là vừa học trường Tây, chữ Tây, cậu bé hiếu học côi cút kia đã tận dụng những mảnh nhỏ thời gian trong cuộc đời nghèo khó của mình để học chữ của Thánh hiền. Đây là chiếc cầu nối quan trọng dẫn Nguyễn Hiến Lê, cậu bé ham hiểu biết, trở thành Nguyễn Hiến Lê – học giả. Không phải là người cách mạng, là nhà văn cách mạng, nhưng Nguyễn Hiến Lê cũng không phải là nhà văn của chế độ cũ, mặc dù ông sống giữ lòng xã hội ấy suốt mấy chục năm. Một lần nữa Nguyễn Hiến Lê lại ở giữa lằn ranh nhân cách và phi nhân cách. Có người cho rằng ông đi giữa hai làn đạn. Và một lần nữa ông đã tỏ ra bản lĩnh vững vàng trước sau ông vẫn giữ được nhân cách của mình. Ngòi bút Nguyễn Hiến Lê, tâm hồn và con tim Nguyễn Hiến Lê ngay từ đầu đã thuộc về nhân dân, những người lao động, những ai cực khổ, bần hàn và bất hạnh. Niềm tự hào về dòng giống, tổ tiên và nỗi đau về dân tộc trước những cuộc ngoại xâm đã kéo Nguyễn Hiến Lê, một nhà văn luôn ý thức lánh xa những gì phù phiếm như chức tước, địa vị và sự giàu sang không lương thiện, xích gần với Cách mạng và tự coi mình là người của Cách mạng, bởi lẽ dễ hiểu, những điều Cách mạng đang làm cũng chính là những mơ ước của ông. Hồi ký Nguyễn Hiến Lê - Những nội dung bị kiểm duyệt Dầu đứng ở những góc nhìn khác nhau, ai cũng dễ tìm thấy ở Nguyễn Hiến Lê một cái gì đó gần với tâm trạng của dân tộc mình, một cái gì đó thuộc nhân bản của con người cầu tiến luôn vươn tới mục đích cao thượng và hoàn mỹ. Rất nhiều thế hệ độc giả khác nhau đều kính phục sự nghiêm túc của học giả này. Tính nghiêm túc của Nguyễn Hiến Lê có được bởi nó bắt nguồn từ trí nhớ tuyệt vời của ông và cùng với trí nhớ là cách làm việc khoa học, tỉ mỉ trong từng chi tiết nhỏ, sự học hỏi và lối ghi chép hết sức cẩn thận. Nguyễn Hiến Lê luôn coi trọng tư liệu, bởi hơn ai hết ông hiểu sự khách quan của một tác phẩm là vô cùng quan trọng. Nó là chiếc cầu đầu tiên nối lòng trân trọng hay sự coi thường, khinh miệt của độc giả đối với người cầm bút. Ngay khi nói về mình, Nguyễn Hiến Lê cũng cố giữ tính nghiêm túc và khách quan, luôn luôn tự tách mình ra khỏi văn mạch chủ quan của chính mình. Trên tinh thần tôn trọng một học giả nghiêm túc và được nhiều người mến mộ, kính nể ấy, Nhà xuất bản Văn học trân trọng giới thiệu cuốn Hồi kí của ông. Tuy là hồi ký một người, một nhà văn, nhưng qua đấy người đọc cảm nhận được xã hội Việt Nam xuyên suốt hai cuộc kháng chiến chống xâm lược mà nét hào hùng lẫn những vệt máu và nước mắt vẫn còn thấm đẫm mới rợi trên từng trang sử của dân tộc chúng ta. Từng sự kiện, từng con người (từ nhà chính khách cho đến nhà văn…) đều được cách nhìn Nguyễn Hiến Lê soi rọi và đánh giá. Tất nhiên, dù cố gắng khách quan, chúng tôi thiển nghĩ thật khó có thể thoát khỏi dấu ấn chủ quan. “Văn là người”, điều ấy có thể dẫn đến một số đánh giá của ông chưa được hợp lý theo quan niệm đương thời hoặc theo cách nhìn của một bộ phận, một số người nào đấy chăng? Vì tác giả đã mất, Nhà xuất bản không nở cắt bỏ nhiều quá. Trong quá trình biên tập chúng tôi chỉ lược bớt phần rườm ra và cắt những chỗ không thể nào để lại được. Chúng tôi mong bạn đọc thông cảm. Sự đóng góp của Nguyễn Hiến Lê trong nền văn học Việt Nam đương đại là hết sức quý báu, mức độ tầm cỡ đến đâu chắc chắn cần phải có thời gian mới đánh gia đúng mức được. Một lần nữa chúng tôi tin rằng, xuất bản tập Hồi kí này là hết sức cần thiết, và rất bổ ích, nhưng chúng tôi cũng nghĩ rằng sẽ có những vấn đề cần phải tranh luận. Một tác phẩm ra đời không một tiếng vang đâu hẳn là tác phẩm tốt. Dù thế nào, xét trên cảm hứng chung của ngòi bút Nguyễn Hiến Lê, chúng tôi vẫn thấy trước tiên đây là một học giả đầy trách nhiệm và xây dựng. Nhà xuất bản rất mong sự đóng góp của độc giả trong nước cũng như ngoài nước để lần in sau chúng tôi rút được những kinh nghiệm tốt hơn. Mời các bạn đón đọc Hồi ký Nguyễn Hiến Lê.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhật Ký Franz Kafka - Franz Kafka
Lời Người Dịch: Franz Kafka là một trong những nhà văn phức tạp nhất của thế kỉ XX - phức tạp ngay trong chính tư tưởng sáng tác của ông, phức tạp cả ở sự tiếp nhận, đánh giá ông của công chúng và các nhà nghiên cứu, phê bình khắp thế giới. Ðể hiểu ông hơn phải cần đến những chìa khoá dẫn vào cánh cửa tâm hồn ông. Nhật kí của Kafka, nhiều trăm trang, được viết rải rác trong nhiều năm, là một trong những chìa khoá quan trọng đó. Vì vậy, trong khi làm Tuyển tập tác phẩm Kafka, chúng tôi cố gắng chọn dịch một số trang nhật kí của ông, nhằm giúp bạn đọc có thêm tư liệu tìm hiểu cuộc đời và tác phẩm của nhà văn "bí ẩn" này. Dịch nhật kí rất khó, đặc biệt là nhật kí Kafka, chúng tôi là người đầu tiên làm việc này, - nghĩa là dịch nhật kí Kafka sang tiếng Việt, mà lại qua một thứ tiếng trung gian, - nên chắc chắn không thể nào tránh khỏi sai sót (ngay ở hai bản tiếng Nga của cùng một dịch giả mà chúng tôi sử dụng đã có những khác biệt nhiều khi trái nghĩa nhau, nên rất khó xử lí). Chúng tôi chỉ hi vọng rằng đây mới là bước đầu có ích cho người khác về sau tiếp tục công việc hoàn chỉnh, tốt hơn. Mong được bạn đọc thông cảm, các nhà nghiên cứu, phê bình chỉ bảo, giúp đỡ.  Bản dịch nhật kí này được Ðoàn Tử Huyến thực hiện từ bản tiếng Nga (của E. Caxeva in trong tạp chí Những vấn đề văn học số 3 năm 1968, tham khảo thêm văn bản lấy từ Internet), có sử dụng một số đoạn do Nguyễn Văn Thảo và Nguyễn Kiều Diệp phác dịch và Ðoàn Tử Huyến hiệu đính. Người dịch cám ơn dịch giả tiếng Ðức Lê Chu Cầu, hiện đang sống và làm việc ở Cộng hoà Liên bang Ðức, đã nhiệt tình đọc đối chiếu với nguyên bản tiếng Ðức và góp nhiều ý kiến sửa chữa cho bản dịch này.  *** Franz Kafka sinh ngày 3/7/1883 tại Prague, khi đó thuộc Đế quốc Áo – Hung, trong một gia đình Do Thái thuộc tầng lớp trung lưu. Cha ông là Hermann Kafka, một nhà buôn còn mẹ là Julie Kafka, con một thương gia giàu có. Trong lịch sử văn học, có lẽ không có người cha nào lại trở thành đối tượng sáng tác văn học dai dẳng và ám ảnh như cách ông Hermann Kafka xuất hiện trong các tác phẩm của con trai Franz Kafka. Không riêng gì cha, mà cả ông nội Jakob Kafka cũng phủ bóng trong sáng tác của nhà văn. Nhìn rộng hơn, lý lịch Do Thái tác động sâu sắc tới Kafka, đồng thời luôn khiến ông cảm thấy bị cô lập. Bản thân Kafka luôn tuyên bố rằng mình không dính dáng gì tới Do Thái, nhưng rõ ràng, xã hội thời đó đã ảnh hưởng rất lớn tới ông, người thuộc về một gia đình Do Thái thiểu số, trong một cộng đồng Do Thái thiểu số ở Prague lúc bấy giờ. Ngay trong gia đình, Kafka cũng là một trường hợp thiểu số. Là đứa con trai duy nhất còn sống, anh trai của ba cô em gái, Kafka là mối kỳ vọng lớn của ông bố gia trưởng. Giữa hai người là một mối quan hệ mâu thuẫn phi lý: chung huyết thống, yêu thương nhau, hiểu nhau nhưng bất hòa đến cay nghiệt. Chính người cha đã hình thành nên phong cách văn học đặc trưng của Kafka: nền văn học thiểu số, phi lý và ám ảnh quyền lực. Sinh thời, Kafka học và có bằng tiến sĩ luật. Kafka đạt thành tựu trong nghề bảo hiểm, nhưng viết lách mới là thiên hướng của ông. Sau này, ông đã phải nghỉ việc để tập trung viết lách. Thậm chí, là người yêu đương mãnh liệt nhưng ông cũng nhiều lần lỡ hẹn với những hôn thê, cũng chỉ vì muốn hết mình cho văn chương. Chỉ duy nhất cái chết mới khiến ông ngừng viết. Ngày 3/6/1924, ông qua đời Vienna vì bệnh lao, khi mới 41 tuổi. Những ước nguyện sau cùng của ông cũng là về văn chương: đốt hết các bản thảo. ... Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Franz Kafka của tác giả Franz Kafka.
Quê Hương Tôi - Tràng Thiên
Trong tập tuỳ bút này, Tràng Thiên bàn về đủ chuyện của nước Việt: từ chiếc áo dài, cho đến những món ăn, rồi những tập tục, tiếng nói, ngôn ngữ, v.v.. Dù bàn luận về chuyện gì, thì trong đó luôn hàm chứa một nỗi niềm trăn trở, khắc khoải với quê hương. *** Nhã khúc quê hương  Đọc Quê Hương Tôi của Tràng Thiên (Võ Phiến), tôi chợt nghĩ tới ca từ trong bài hát Mái Đình Làng Biển: "Gửi vào đây vào đây vui buồn người Việt Gửi vào đây vào đây tâm hồn người Việt...., Ơi nước non ân tình Hồn Việt Nam như thế Hơ ... thuở bình minh" Có lẽ "Quê hương tôi" (QHT) chính là vậy! Và trước mắt tôi hiển hiện hình dáng cụ Võ Phiến đang so dây chiếc đàn bầu, gảy từng tiếng lòng của đất nước, giữa một khán phòng nhạc giao hưởng phương Tây. Tiếng đàn dân tộc độc đáo chợt như lạ lẫm, và bỡ ngỡ trước những đổi thay của xã hội trong thời đại mới... đàn đôi lúc ngân nga cung đúng của dân ca miền Bắc, lúc là cung oán của dân ca miền Nam, rồi lại chuyển sang cung ai trong dân ca Thừa Thiên - Quảng Trị. Đọc QHT để cảm nhận tình yêu đất nước tha thiết của một người Việt đã sống hơn nửa đời người, nhìn đất nước thay da đổi thịt theo vòng quay của thời cuộc, mà hoài niệm, mà lo lắng; đó có lẽ cũng là tâm trạng chung của một thế hệ cha ông chúng ta trước sự du nhập của một trào lưu mới, đang làm thay đổi phần nào cách sống, cách nghĩ của dân tộc mình, đất nước mình. Với tôi, QHT như một điệu lý dân dã, ngọt ngào nhiều luyến láy, trúc trắc, lại gần gũi thân thương. Điệu hò ấy sẽ dẫn ta đi suốt chiều dài đất nước, từ Bắc, lên Thượng du, xuôi dọc Trung, vào tới Nam.  Thủ thỉ cho ta nghe đặc điểm của từng vùng miền, từ giọng Huế dịu dàng, đến vẻ bình thản của người Huế, chững chạc mà khuôn phép...Từ cuộc di dân Nam tiến của người Bình Định, làm thay đổi cả giọng nói, cách nói... Từ nhận xét rằng trong huyết quản của mỗi người dân Quảng hình như đều có tí máu "chính trị luân lưu"... đến cái tính cách "rụp rụp" mau mắn của dân miền Nam, với cái tiếng" rồi" tiếng "luôn" rất đặc trưng điển hình. Từ câu lục bát ru con của dân tộc Chàm, đến hình ảnh cô giáo người Thượng ngày ngày điệu con lên lớp; giải nghĩa cho ta biết xuất xứ của tên gọi nhiều địa danh, nghe quen đọc hoài mà giờ mới hiểu như Đà Nẵng, Hội An, kinh Vĩnh Tế...  Đàn cũng réo rắt tỉ tê với tôi về chiếc áo dài dân tộc, như tự hào về nét đẹp truyền thống, tuy kín đáo mà lại gợi mở nhẹ nhàng thướt tha đón gió. Và chiếc áo dài quốc phục này hầu như chỉ dành riêng nhất cho dáng vẻ dịu dàng của phụ nữ Việt Nam. Và trong giai điệu trầm bổng lao xao cả tiếng rao hàng nơi góc chợ: "Hai tay xách hai vịm, Một vài mụ le te, Tiếng non rao lảnh lót: Chốc chốc: 'Ai ăn chè'?" Quê hương có chè Huế tế nhị, thanh tao, có món bún bò Huế cay cay dậy mùi quyến rũ, hay với bát nước chè Huế ngon lành được nấu tỉ mỉ, công phu, bát chè phải thật nhiều bọt, đầy bọt, bọt hầu như phủ kín mặt nước, thứ bọt dẻo quánh lại, và nhỏ hạt, uống một bát là uống cả niềm sảng khoái dân dã, thâm tình. Món ngon rải đều khắp mọi miền đất nước, những món ăn gắn với lịch sử nước nhà như bánh tráng của Bình Định, có món là đặc thù của vùng miền như nước mắm Phan Thiết, sa-kê và mắm của miền Nam. Đâu chịu dừng ở món ăn, Võ Phiến còn vẽ những bức tranh rất thơ với cây liễu, cây nhãn lồng ở Huế, hoa dầu bay bay Sài Thành, sắc anh đào hồng thắm Đà Lạt, cây bàng đất Vũng Tàu... hay phượng đỏ rực trời Đà Nẵng. Nhưng điệu xàng xê của QHT không chỉ là giọng kể, mà tràn đầy nỗi niềm lo lắng trước sự đổi thay, lo về những tập tục truyền thống như cúng giỗ, thờ tổ tiên bị xem nhẹ, lo về cái thú hưởng nhàn tao nhã của tiền nhân sắp bị thay thế, về cái tình trong đối nhân xử thế rồi sẽ bị cái lý soán ngôi. Cả nỗi lo về vốn từ ngữ của dân tộc không phong phú, không phát triển như Tàu, như Tây.  Nhẩn nha đọc lại Võ Phiến mới thấy câu ca dao xưa thật hay: "Yêu nhau trái ấu cũng tròn Ghét nhau bồ hòn cũng méo" Trái ấu trong QHT nằm trong hai tập tính của dân mình: chửi (chửi tục) và không cười. Kiểu nào thì Võ Phiến vẫn cứ "đáng yêu" và lập luận thật lý lẽ, nghe xong chỉ có thể mỉm cười xoa tay hài lòng.  Điệu hò QHT khi kết thúc vẫn còn âm vang trong tôi tiếng chim én "những cánh én lao tới lao lui, rộn cả lên," nó ríu rít, "nó cuống quýt, nôn nao, rộn rực một niềm vui không chịu được, niềm vui rung lên trong tiếng kêu." Cùng với đó là hình ảnh "ở chân trời, vài đám khói ùn lên, chậm chạp, tỏa cao và rộng. Khói đốt cỏ: Nông dân phát cỏ, dồn lại đốt, để chuẩn bị làm mùa. Chao ơi, những đám khói đốt cỏ ở chân trời trong nắng trưa, sao mà xúc động, cảm hoài." Chao ôi! Tiện tay phóng bút sao hay đến vậy? Bằng lối hành văn bình dị mà giàu cảm xúc, êm như thơ mà hóm hỉnh, trào lộng, thêm chút châm biếm tê người, Võ Phiến đã tấu lên một nhã khúc mang bóng hình Đất - Nước - Tâm - Hồn người Việt chúng ta. Lichan - Happiness Project Mời các bạn đón đọc tập tùy bút Quê Hương Tôi của tác giả Tràng Thiên.
Miếng Ngon Hà Nội - Vũ Bằng
Văn học Việt Nam thời xưa có nhiều tác phẩm có giá trị to lớn về mặt nhân văn và nghệ thuật, đã được công nhận và chứng thực qua thời gian. Bộ sách Việt Nam danh tác bao gồm loạt tác phẩm đi cùng năm tháng như: Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), Việc làng (Ngô Tất Tố), Gió đầu mùa, Hà Nội băm sáu phố phường (Thạch Lam), Miếng ngon Hà Nội (Vũ Bằng), Vang bóng một thời (Nguyễn Tuân)... Hy vọng bộ sách sau khi tái bản sẽ giúp đông đảo tầng lớp độc giả thêm hiểu, tự hào và nâng niu kho tàng văn học nước nhà. *** Vào khoảng năm tàn tháng hết, ở miền Nam nước Việt có những buổi tối đìu hiu lạnh như mùa thu đất Bắc. Gió buồn đuổi lá rụng trên hè. Mây bạc nặng nề trôi đi chầm chậm như chia mối buồn của khách thiên lý tương tư. Người xa nhà đột nhiên thấy trống trải trong lòng. Lê bước chân trên những nẻo đường xa lạ, y thấy tiếc nhớ một cái gì không mất hẳn, nhưng không còn thấy. Nhớ vẩn vơ, buồn nhẹ nhẹ. Cái buồn không se sắt, cái nhớ không day dứt, nhưng chính cái buồn và cái nhớ đó mới thực làm cho người ta nhọc mệt, thẫn thờ. Lòng người, cũng như cánh hoa, chóng già đi vì thế. Người ta không nặng lắm về hiện tại, nhưng thiết tha với quá khứ hơn. Một tiếng dế ở chân tường, một ngọn gió vàng heo hắt, hay một tiếng lá đụng cành trâm đều nhắc nhở ta những kỷ niệm xa xôi, dìu dịu. Ngày xưa, người cung nữ ở trong tiêu phòng lạnh ngắt thấy xe dê thì nhớ đến lúc được quân vương ấp ủ thương yêu. Tiếng con ý nhi gợi lại ở trong lòng người chinh phụ buổi người tráng sĩ “lâm hành”. Tại kinh đô Trương Hàn thấy lá ngô rụng giếng thu thì sực nhớ đến rau thuần, cá lư và muốn treo ấn trở về quê cũ. “Gió thu một tiếng bên tai, Thuần, lư sực nhớ đến mùi Giang Nam.” Đôi khi cũng mang bệnh nhớ nhung, người viết sách này vào lúc năm tàn hầu hết cũng ưa nghĩ đến một vài kỷ niệm xa xưa. ... Mời các bạn đón đọc Miếng Ngon Hà Nội của tác giả Vũ Bằng.
Món Lạ Miền Nam - Vũ Bằng
Suốt những năm tháng ròng rã vật lộn mưu sinh tại miền Nam, của ngon vật hiếm nơi đất khách đã giúp Vũ Bằng vơi đi nỗi buồn hoang hoải hướng về cố hương. Món lạ miền Nam đã ra đời như vậy, cuốn tùy bút độc đáo của Vũ Bằng về những trải nghiệm hương vị ẩm thực mà mới nghe tên thôi người ta đã cảm thấy thích thú. Công bằng mà nói, món ngon hay không là do khẩu vị mỗi người. Mỗi miếng ngon có thể sẽ thay đổi, biến chuyển theo từng giai đoạn để vừa lòng ông thần khẩu. Nhưng đồ ăn miền Nam thì không đổi thay. Thứ hương vị làm người xa quê cảm thấy ngon lành, khang khác, nhận thức được lòng thương yêu của cõi nhân sinh ở chung quanh vì thế mà tự nhiên rõ rệt đậm đà. *** Có người đọc cuốn "Miếng ngon Hà Nội" 1 của tôi xong, thúc giục: - Miền Nam nước Việt có nhiều thức ngon lành lắm, sao không sưu tầm lại mà viết thành một cuốn nữa coi chơi? Tôi bỏ nhà đi lang bạt từ lúc mười bảy tuổi. Đến Sài Gòn dạo đó, tôi đã ăn nem Thủ Đức, thưởng thức phá lấu Lồ Ồ, ăn tóp mỡ nhiễn đường ở Sa Đéc, nếm suông ở Cây Mai, thịt bò bảy món Bà Hom, mì Cột Đèn Năm Ngọn. Rồi đến kỳ này, lại trở về quê ngoại mến thương, tôi đã thưởng thức nhiều món hơn, nhưng thú thực tôi không thấy các món đó có nói lên được cái gì mới mẻ, lạ lùng cho lắm. Có lẽ tô cá chìa vôi ngon thực, nhưng lòng còn gởi về cố lý nên cá rô đầm Sét vẫn là hơn, trái su su mát như da cô gái tuyết trinh, ô hay, sao lại như đăng đắng, mà miếng thịt gà muốn chế hóa cách gì đi nữa cũng vẫn cứ nhạt phèo? Mãi đến gần đây, tôi mới nhận ra rằng hương vị của những miếng ngon không hoàn toàn do nơi khẩu cái. Tự nhiên, không vì lý do gì hết, vào một buổi chiều xuống mầu kia, mình thấy miếng thịt gà đậm đà hơn, trái su su thoang thoảng ngọt và con cá chìa vôi ăn béo mà thơm. Ồ, tại sao lại thế? ... Mời các bạn đón đọc Món Lạ Miền Nam của tác giả Vũ Bằng.