Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Casanova Ở Bolzano

Năm 1756, trốn thoát khỏi buồng chì kiên cố ở Venice, không cưỡng nổi sự thôi thúc bí ẩn của định mệnh, kẻ phiêu lưu khét tiếng và phong tình lừng danh của thế kỷ 18 Giacomo Casanova tìm đường trở về Bolzano, nơi chàng từng chạm trán Tử thần trong cuộc quyết đấu cùng vị hôn phu quyền lực của thiếu nữ Francesca tuyệt sắc. Lần trở lại này của Casanova khiến cả thành phố chấn động. Tin tức cũng lan tới lâu đài của Bá tước Parma, lúc này đã kết hôn cùng Francesca. Bá tước tới nơi chàng Casanova trọ để làm một cuộc thương lượng lạ lùng. Một bí mật sẽ vĩnh viễn trở thành kỷ niệm, một nỗi đau sẽ được gói lại lần cuối, để không gì còn xen vào cuộc sống của người đàn bà quý giá của đời ông...  Hư cấu và tưởng tượng, không vay mượn từ Histoire de ma vie của nhân vật có thực Giacomo Cassanova nổi tiếng trong lịch sử, Márai Sándor  đã tạo nên một kiệt tác văn chương tràn ngập hơi thở mãnh liệt, cám dỗ nồng nàn của cuộc sống, với những đối thoại lạ lùng, thông thái, đam mê, bất ngờ và đầy tính cách ngôn sâu xa xoay quanh một tình yêu khắc khoải. Casanova ở Bolzano chứng minh rằng Márai Sándor - một trong những bậc thầy xuất sắc của nền văn học Hungary và thế giới - đã in dấu ấn vô cùng đặc biệt trên diện mạo văn chương thế kỷ 20. *** Lời khen tặng dành cho Casanova ở Bolzano “Câu chuyện mê đắm về tình yêu, tình bạn và sự phản bội…  Phong phú, cám dỗ, nồng nàn và châm biếm.” - Elle   “Sâu sắc và đầy chiêm nghiệm… Tràn ngập niềm vui cuộc sống.” - Vogue “Sáng chói… Cuộc đấu phức tạp của những trí tuệ… Casanova ở Bolzano cung cấp thêm bằng chứng về sự xuất sắc bị quên lãng của tác gia lớn trong thời đại chúng ta: Márai Sándor.”  - Chicago Tribune *** Ghi chú Trong gương mặt và tính cách nhân vật của tôi chắc hẳn độc giả tưởng mình nhận ra diện mạo đặc trưng của Giacomo Casanova1 kẻ phiêu lưu khét tiếng vào thế kỷ 18. Thật khó cưỡng lại nổi sự nhận biết này, mà trong mắt một số người có thể nó cũng là sự phê phán. Nhân vật của tôi cực kỳ giống anh chàng liều lĩnh, vô gia cư và dẫu sao có lẽ vẫn bất hạnh, người vào nửa đêm ngày 31 tháng Mười năm 1756 đã dùng thang dây trèo từ buồng giam mái lợp chì của Công quốc Venice, còn gọi là buồng chì, xuống eo biển và cùng một tu sĩ đã bị tước quyền hành đạo tên là Balbi bỏ trốn khỏi lãnh địa của Nước Cộng hòa2 về phía Munchen. Điều biện hộ cho tôi là từ câu chuyện cuộc đời của nhân vật, tôi không quan tâm đến câu chuyện lãng mạn, mà quan tâm đến tính cách lãng mạn của anh ta. Vì thế những thứ khác, như thời điểm và hoàn cảnh cuộc trốn thoát, tôi không vay mượn từ cuốn Những hồi tưởng3lừng danh. Tất cả những thứ khác mà độc giả tìm thấy trong tiểu thuyết này, đều là chuyện hư cấu và tưởng tượng. M.S. *** Một đức ông, từ Venice Chàng từ biệt những người chèo thuyền ở Mestré; người bạn hư hỏng Balbi thiếu chút nữa đã làm chàng rơi vào tay cảnh sát ở đây, vì đúng lúc chiếc xe ngựa chở khách khởi hành thì chàng hoài công tìm kiếm, mãi rồi mới thấy anh ta trong một quán cà phê - đang vô tư nhâm nhi một cốc sô cô la - và tán tỉnh cô hầu bàn. Đến Treviso thì chàng hết sạch tiền; họ lủi qua cổng Saint Thomas ra cánh đồng, và theo sau những khu vườn, đi men theo ven những cánh rừng, lúc mặt trời lặn thì đến trước những ngôi nhà của Valdepiadene. Đến đây chàng rút con dao găm ra dọa người bạn đường khó chịu, hai người hẹn sẽ gặp nhau ở Bolzano, rồi chia tay. Cha Balbi buồn bã bước đi giữa những thân cây trơ trụi trong rừng ô liu; nom ông gầy guộc và nhếch nhác, vừa đi vừa ngoái nhìn lại bằng cái nhìn vụng trộm tăm tối, lủi thủi như một con chó ghẻ bị chủ xua đuổi. Khi cha cố đã đi khuất, chàng đi vào thành phố, bằng một bản năng mù lòa và đáng tin cậy chàng hỏi chỗ ở trong nhà của viên chánh cẩm. Bà vợ ông ta, một phụ nữ thuần hậu, tiếp đón chàng, cho chàng ăn tối, rửa các vết thương cho chàng - trên gối và trên mắt cá chân máu đã đông lại, trong khi chạy trốn, lúc nhảy từ những mái nhà lợp chì, khuỷu tay và gối chàng bị xước -, và trước khi đi ngủ chàng được biết ông chánh cẩm đang đi vắng, ông đang săn lùng chính chàng, kẻ chạy trốn. Lúc rạng sáng chàng bỏ đi. Chàng ngủ ở Pergine, sang ngày thứ ba thì đến Bolzano trên xe ngựa, vì giữa đường đã moi được của một người quen sáu đồng tiền vàng. Balbi đã đợi chàng. Chàng thuê phòng trong một quán trọ có tên là Con Hươu. Chàng không có đồ đạc gì, quần áo rách mướp, chiếc áo đuôi tôm may từ thứ lụa màu nay chỉ còn lại những mảnh tơi tả, không có áo khoác ngoài. Ở Bolzano, trên những con phố hẹp gió tháng Mười một đã bắt đầu quất mạnh. Người chủ quán lúng túng nhìn những vị khách rách rưới. -      Những phòng đẹp nhất ư?! - ông ta lúng túng. -      Những phòng đẹp nhất! - chàng đáp khẽ, dứt khoát. - Và hãy chú ý đến đồ ăn đấy! -      Ở đây các người hay nấu với các thứ mỡ đã ôi, thay vì dầu, và từ khi rời khỏi Nước Cộng hòa ta chưa được ăn ở đâu một miếng cho tử tế! Hãy quay gà trống thiến và mái tơ vào bữa tối, không phải một, mà ba con, với hạt dẻ. Và kiếm loại vang Cyprus. Ngươi nhìn quần áo ta ư?... Ngươi tìm hành lý của ta ư? Ngươi ngạc nhiên vì ta đến đây tay không ư? Tin tức không tới đây hay sao? Ngươi không đọc Leyden Gazette sao!... Đồ ngốc! - chàng gào lên giọng khản đặc, vì giữa đường chàng bị cảm lạnh, và cơn ho đang hành hạ phế quản chàng. - Ngươi không nghe tin một nhà quý tộc Venice và thư ký cùng đám gia nhân vừa bị cướp ngoài biên giới ư? Cảnh sát còn chưa tới tìm ta ư? -      Dạ chưa thấy, thưa đức ông, - người chủ quán hốt hoảng đáp. Balbi bụm miệng cười. Cuối cùng đúng là họ đã được những phòng đẹp nhất: phòng khách, hai cửa sổ có cánh mở ra quảng trường chính, những đồ gỗ có chân mạ vàng và gương Venice đặt trên lò sưởi. Giường kiểu Pháp có màn che. Balbi ở phía cuối hành lang, gần một cầu thang hẹp và dốc dẫn lên tầng áp mái của những người hầu. Cách bố trí như thế làm chàng rất mãn nguyện. -      Thư ký của ta đấy, - chàng giới thiệu Balbi với ông chủ quán trọ. -      Cảnh sát, - người chủ quán trọ nói như thanh minh. - Ở đây cảnh sát cũng rất nghiêm. Họ sẽ đến đây ngay. Họ xem xét tất cả những người lạ mặt. -      Bảo với họ rằng, - chàng đáp qua loa - có khách quý. Một đức ông... -      Nhưng dù sao! - người chủ quán cố nài, và cúi đầu thật thấp, tay cầm chiếc mũ, tò mò và lễ phép. - Một đức ông, từ Venice! - chàng nói. Chàng nói điều này như thể thông báo một phẩm tước đặc biệt nào đó. Đến mức Balbi cũng phải chú ý tới âm điệu của chàng. Rồi bằng nét chữ nhọn và thành thục, chàng viết tên mình vào quyển sổ lớn. Người chủ quán hồi hộp đến đỏ mặt: day day thái dương bằng những ngón tay mập mạp, và không biết nên chạy đi gọi cảnh sát hay quỳ mọp xuống để hôn tay chàng? Thế là ông ta cứ đứng một chỗ, bối rối và im lặng. Rồi ông châm đèn và đưa các vị khách lên tầng trên. Những người phục dịch đã xếp dọn các phòng: mang nến đến trên những giá đỡ lớn mạ vàng, nước nóng đựng trong các bình bạc, những chiếc khăn lau Limburg bằng vải bông. Chàng bắt đau chậm rãi cởi quần áo, như một đấng quân vương, giữa đám hầu cận: chàng đưa từng chiếc áo bẩn cho người chủ quán trọ và những người hầu phòng, chiếc quần lụa dính máu bết vào da thịt phải dùng kéo cắt ở phía ngoài hai bên ống quần, chàng ngâm chân khá lâu trong cái chậu rửa bằng bạc, người ngả trên một chiếc ghế bành, lim dim ngủ vì mệt mỏi, nom tã tượi và thế thảm. Thỉnh thoảng chàng chợt ngủ trong một khoảnh khac, lẩm bẩm, hét lên một tiếng. Balbi, ông chủ quán, những người hầu phòng há miệng đi đi lại lại quanh chàng: người ta đang trải giường trong buồng ngủ, kéo kín các rèm cửa, tắt gần hết nến. Đến giờ ăn tối họ gõ cửa rất lâu. Sau bữa ăn chàng lại đi ngủ ngay; chàng ngủ đến trưa ngày hôm sau, với gương mặt vô tư và bình thản, lạnh lùng như người mới chết một ngày. Một đức ông, các cô gái bảo nhau rồi ai vào việc nay, khe khẽ hát, cười và thầm thì với nhau, trong bếp và dưới hầm, họ đi rửa xe và lau bát đĩa, chẻ củi, mang nước uống, họ nói nhỏ hơn, đưa ngón tay che miệng, lại khúc khích cười, rồi lại làm mặt nghiêm và truyền nhau cái tin ấy, vẻ quan trọng và cười cợt: một đức ông, đúng, một đức ông, từ Venice. Đến tối thì có hai viên cớm chìm đến quán; tên chàng, đáng ngờ và quyến rũ, hấp dẫn và nguy hiểm, vừa được mạ vàng bởi tin tức về cuộc phiêu lưu lớn, cuộc tẩu thoát, đã thu hút đám mật vụ ở khắp các thành phố. Và họ muốn biết tất cả. Hắn ta ngủ ư?... Không có hành lý gì à? -      Một con dao găm, - chủ quán nói. - Ông ta đến với một con dao găm. Chỉ có thế. -      Một con dao găm, - họ nhắc lại, vẻ am hiểu và ngơ ngác. - Loại dao gì thế? - họ căn vặn. -      Dao găm Venice, - chủ quán đáp vẻ hâm mộ. -      Không còn gì khác? - họ hỏi. -      Không, - chủ quán trọ đáp. - Không có gì khác. Một con dao găm. Chỉ có thế. Tin này làm hai viên cớm chìm bất ngờ. Họ đã không ngạc nhiên nếu chàng tới đây với đầy chiến lợi phẩm, đá quý, túi đựng, vòng cổ và nhẫn quý tháo ra từ ngón tay của những phụ nữ nhà lành trên dọc đường đi. Tiếng tăm chàng đã đến trước, như một kẻ dẫn ngựa đi tiền trạm, và bố cáo tên chàng. Sáng ra đức giám mục đã thông báo cho viên chánh cẩm, và yêu cầu trục xuất ngay vị khách nguy hiểm. Ở Tirol và Lombardia, buổi sáng sau lễ cầu kinh, buổi tối trong các quán rượu, người ta đã kể cho nhau nghe về cuộc tẩu thoát của chàng. -      Hãy cẩn thận với hắn! - đám cớm chìm nói. - Chúng tôi muốn biết hết hắn nói gì. Phải rất chú ý hắn. Hắn có nhận thư không, và nhận từ ai? Hắn có gửi thư không, và gửi cho ai? Hãy để ý đến nhất cử nhất động của hắn! Hình như, - họ thì thầm, dùng bàn tay chụm lại làm loa ghé sát vào tai ông chủ quán, - hắn có người che chở. Cả đức giám mục cũng chẳng làm gì nổi hắn. -      Trước mắt, - ông chủ quán nói với vẻ từng trải. -      Trước mắt, - những tay cớm chìm buồn bã nhắc lại. Rồi họ nhón chân bỏ đi, gương mặt bí hiểm và đầy lo âu. Ông chủ quán ngồi xuống trong phòng nước, thở dài. Ông không thích những người khách có tiếng tăm, những người gây nên sự chú ý của đức giám mục và cảnh sát. Ông nghĩ tới đôi mắt của vị khách, đen ánh lửa tăm tối và than hồng bập bùng uể oải trong đôi mắt ấy, và ông sợ. Ông nghĩ đến con dao găm, con dao găm Venice, đồ vật duy nhất của người khách, và ông sợ. Ông nghĩ đến tin tức theo sau vị khách, và bắt đầu rủa thầm. -      Teresa! - ông cáu kỉnh gọi. Một cô gái, đã bận áo khoác ngoài buổi tối, bước vào. Cô mười sáu tuổi, một tay cầm cây nến đang cháy, tay kia kéo hai vạt áo ngủ trước ngực. -      Nghe đây! - ông thì thầm, bảo cô bé ngồi xuống gối. - Ta chỉ tin con thôi. Chúng ta có một vị khách nguy hiểm. Teresa, ông khách này... -      Từ Venice đến? - cô bé nói giọng học trò, như hát. -      Đúng, từ Venice, từ Venice, - ông nói hốt hoảng. - Từ trong tù. Từ lũ chuột. Từ dưới giá treo cổ. Nghe đây, Teresa. Hãy chú ý xem ông ta nói những gì. Tai mắt con hãy luôn luôn ở cạnh lỗ khóa. Ta yêu con như con gái ta. Con là con nuôi ta; nhưng nếu ông ta gọi vào phòng thì con đừng ngại. Con sẽ đem bữa sáng cho ông ấy. Hãy coi chừng đức hạnh của con và hãy chú ý. -      Vâng, - cô bé đáp. Rồi vẫn cầm cây nến trên tay, cô bé đi về phía cửa, nhẹ nhàng như một cái bóng. Đến trước cửa, cô bé than, kéo dài giọng như giọng trẻ con: -      Cháu sợ. -      Ta cũng thế, - ông chủ quán nói. - Giờ con đi ngủ đi. Trước đó hãy đem cho ta rượu vang đỏ. Nhưng đêm đầu tiên tất cả đều trằn trọc.   Mời các bạn đón đọc Casanova Ở Bolzano của tác giả Márai Sándor & Giáp Văn Chung (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bà Mụ - Chris Bohjalian
Vào một đêm mùa đông bão bùng năm 1981, một ca đẻ tại nhà ở bang Vermont, miền bắc nước Mỹ, đã biến thành bi kịch. Đường dây điện thoại bị đứt, đường sá bị phong tỏa vì băng đá. Không thể đưa bệnh nhân đến bệnh viện, bà mụ Sibyl Danforth đã nỗ lực hết sức để cứu cả bà mẹ lẫn thai nhi trong lúc người học việc thiếu kinh nghiệm của bà và người chồng hoảng sợ của thai phụ chỉ biết bất lực đứng nhìn. Thai phụ đã chết nhưng đứa bé được sống nhờ quyết định vào phút chót của Sibyl: mổ lấy thai. Nhưng cơn ác mộng chỉ mới bắt đầu: người học việc một mực cho rằng thai phụ chưa chết lúc Sibyl tiến hành mổ đẻ. Trong tiểu thuyết Bà mụ, tác giả Chris Bohjalian đã tường thuật lại những sự kiện dẫn đến phiên tòa xét xử Sibyl Danforth, một bà mụ lành nghề ở thị trấn nhỏ Reddington, từng đỡ đẻ cho hơn 500 đứa trẻ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đó không đơn thuần là phiên tòa về tội bất cẩn gây chết người của Sibyl, mà còn là cuộc đối đầu giữa giới bác sĩ và bà mụ, những người luôn bị xem là cái gai trong mắt chính quyền và cộng đồng y tế. Bà mụ được kể lại qua cách nhìn của Connie, cô con gái mười bốn tuổi của Sibyl. Khi câu chuyện về điều gì đã xảy ra trong đêm mùa đông định mệnh ấy dần mở ra cũng là lúc người đọc bước vào một thế giới lạ lùng của nghề bà mụ. Ở đó có những người phụ nữ không xem việc đỡ đẻ là một “nghề nghiệp” mà là một “duyên phận” chỉ dành riêng cho một số người, và họ thực hiện nó như một nghi thức tôn giáo thiêng liêng. Những người như Sibyl Danforth luôn tin rằng “phụ nữ đẻ con hiệu quả nhất trong môi trường mà họ thông thuộc nhất và điều đó khiến họ cảm thấy thoải mái nhất; tương tự, việc chào đón một đứa trẻ đến với thế giới này trong một căn phòng ấm áp, và đỡ lấy đứa bé với đôi tay trìu mến, là điều rất quan trọng”. Ở đó có những ca đẻ tại nhà với sự cộng hưởng cảm xúc của tất cả những người có mặt khiến ta chỉ muốn “đóng chai những rung cảm trong căn phòng đó và để dành một ít cho những ca đẻ cô đơn hơn”. Bà mụ cũng có thể được xem là “duyên phận” của tác giả Chris Bohjalian khi ý tưởng viết quyển sách đến với ông như một sự sắp đặt. Chris kể rằng khoảng sáu tháng sau khi cô con gái của ông chào đời, vợ chồng ông đến dự một buổi tiệc tối tại Vermont nơi họ sinh sống, và ngồi cạnh ông là một bà mụ hành nghề độc lập ở địa phương. Nghe tin vợ chồng ông phải lặn lội lái xe hơn 50 cây số giữa đêm mới đến được bệnh viện gần nhất để sinh con, bà đã mỉm cười nói: “Nếu anh chị dùng đến tôi, thì anh chị đã có thể đẻ con trong phòng ngủ của mình và anh đã có thể đích thân đỡ lấy cháu bé rồi.” Nhà văn kể lại: “Tôi chưa bao giờ nghe người ta nói động từ “đỡ” trong bối cảnh sinh đẻ, thế là tôi lập tức cảm thấy thích thú. Ngày hôm sau, chúng tôi ăn trưa với nhau, và bà chia sẻ với tôi những quyển sách về nghề bà mụ như Trái tim và đôi tay và Nghề bà mụ thiêng liêng. Rồi bà giới thiệu tôi với những ông bố bà mẹ từng đẻ con tại nhà. Tôi đã gặp gỡ những bà mụ và bác sĩ sản phụ khoa khác, và tôi phát hiện ra rằng một câu chuyện tuyệt vời đang chờ được viết ra.” Bà mụ (xuất bản năm 1997) là tiểu thuyết thứ năm của Chris Bohjalian. Là tác giả, Chris nhớ ơn người phụ nữ đã gợi ra cho ông một đề tài sáng tác tuyệt vời. Là bạn đọc, tôi cám ơn cuộc gặp gỡ định mệnh đó, vì nó là duyên lành cho sự ra đời của một tác phẩm hé mở về thế giới ít được biết đến của những bà mụ, của một nghề đang dần mai một. Đọc Bà mụ, thấy đồng cảm với niềm tin bất biến của những người làm nghề đỡ đẻ vào sự thiêng liêng không thể thay thế của sinh đẻ tại nhà. Thấy thương hơn những vất vả “mang nặng đẻ đau” của người làm mẹ, dù ở đâu và bên cạnh ai. Rồi bất chợt nhận ra, hình như có một lúc nào đó giữa những trang sách, ta đang nghĩ về giờ phút chào đời của chính ta và thấy yêu mẹ của ta nhiều hơn một chút. Đó là khi ta chạm đến sự đồng điệu với tác giả, như ông đã tâm sự: “Bà mụ đề cập đến nhiều câu chuyện, nhưng trên hết, tôi xem quyển tiểu thuyết này như một câu chuyện về tình mẫu tử thiêng liêng.” Thi Trúc Sài Gòn, tháng 11 năm 2010   *** Chris Bohjalian đã cho ra đời mười ba tác phẩm, mới nhất là Bí mật vườn địa đàng (Secrets of Eden) xuất bản tháng 2/2010. Tiểu thuyết Bà mụ từng chiếm vị trí số 1 trong danh sách bán chạy của New York Times, đoạt giải “Quyển sách hay nhất” của Publishers Weekly và được tuyển chọn trong Câu lạc bộ sách của Oprah. Tác phẩm của Chris Bohjalian đã được dịch ra hơn 25 ngôn ngữ và xuất bản ở hai mươi mốt quốc gia. Đến nay, đã có hai tiểu thuyết của ông được dựng thành phim, gồm Bà mụ và Băng qua khán đài. Năm 2002, ông đoạt giải thưởng sách New England (New England Book Award) ở thể loại hư cấu. Ngoài sáng tác tiểu thuyết, ông còn viết bài cho nhiều tạp chí, trong đó có Cosmopolitan, Reader’s Digest, và Boston Globe Sunday Magazine, và là người phụ trách chuyên mục xã luận Chủ nhật cho báo Burlington Free Press từ năm 1992 đến nay. Hiện ông sống ở Vermont với vợ và con gái. Tiểu thuyết The double bind (Nghịch lý) Before you know kindness (Trước khi bạn biết lòng tử tế) The buffalo soldier (Chiến binh trâu) Trans-sister radio (Đài phát thanh chị em) The law of similars (Lấy độc trị độc) Midwives (Bà mụ) Water witches (Phù thủy nước) Past the bleachers (Băng qua khán đài) Hangman (Người treo cổ) A killing in the real world (Một vụ giết người trong thế giới thật) Tuyển tập tản văn Idyll Banter: Weekly excursions to a very small town (Idyll Banter: Những cuộc dạo chơi hàng tuần đến một thành phố nhỏ)   *** Lời khen tặng dành cho tiểu thuyết Bà mụ của Chris Bohjalian Giải Quyển sách hay nhất của Publishers Weekly[1] “Một Bản đồ thế giới thứ hai... xúc động... đau đớn.” Glamour “Sự kết hợp giữa cường độ kể chuyện, nhân vật và bối cảnh thuyết phục, giọng văn xuôi tinh tế và chủ đề quan trọng đủ hiếm thấy để được trân quý.” Portland Oregonian “Quyển sách phải đọc của mùa này.” Woman’s Own “Thông minh và phóng khoáng... Bà mụ còn hơn cả một quyển sách hay để đọc.” Burlington Free Press “Quyến rũ... Bohjalian chuyển tải sự nhạy cảm đáng kinh ngạc vào tác phẩm mô tả nữ giới của ông.” San Antonio Express-News “Một quyển sách hay mê hoặc... Bohjalian... là bậc thầy trong tác phẩm của ông.” Concord Sunday Monitor (New Hampshire) “Lôi cuốn, sâu lắng... Độc giả sẽ bị mê hoặc trước sức hút không thể cưỡng lại của câu chuyện.” Publishers Weekly “Một tiểu thuyết hấp dẫn, phức tạp.” Kirkus Reviews Mời các bạn đón đọc Bà Mụ của tác giả Chris Bohjalian.
Vị Tư Lệnh Mong Muốn Vĩnh Hằng - Kresley Cole
Nhân vật Nikolai Wroth trong tựa tiểu thuyết full này là vị tướng quân ma cà rồng tàn nhẫn, sẽ không để thứ gì ngáng con đường tìm kiếm Cô Dâu của anh, người phụ nữ duy nhất có thể 'trao đổi máu' cùng anh, khiến trái tim anh đập, cũng đồng thời khiến sức mạnh tràn ngập thân thể anh. Chỉ lạnh lùng hứng thú với sức mạnh mà Cô Dâu ấy có thể mang đến, anh khó thể tin khi Myst Kẻ Được Khao Khát đánh thức cơ thể - và linh hồn của anh. Nổi danh trên khắp thể giới là con Valkyrie xinh đẹp nhất, Myst đã cống hiến cuộc đời mình để bảo vệ một món nữ trang ma thuật, và để chiến đấu chống lại bọn ma cà rồng. Với Wroth, cô thấy được cơ hội tuyệt vời để hành hạ kẻ thù không đội trời chung của mình - khi mỗi nhịp đập của trái tim hắn đi kèm với khát khao tình dục chỉ cô mới có thể thỏa mãn. Từ chối hắn, cô bỏ trốn, gắng sức quên đi nụ hôn cháy bỏng, đầy tính chiếm hữu ấy của hắn. Cô trốn tránh được anh trong năm năm, nhưng cuối cùng anh đã săn cô đến tận cùng trái đất rồi đoạt mất món nữ trang ma thuật của cô, món nữ trang trao tất cả quyết định của cô về tay anh. Giờ khi mà cô đã sẵn ở đấy trước mặt anh, anh định để cô tự mình trải nghiệm qua khát khao tình dục đau đớn không có điểm dừng cô đã khiến anh chịu dụng nửa thập kỉ qua. Thế nhưng khi Nikolai nhận ra điều anh muốn từ Myst còn hơn cả thù hận rồi thả tự do cho cô, liệu cô có quay trở về bên anh? *** Tất cả mọi sinh vật hay vật thể được suy nghĩ là trong truyền thuyết … không phải như thế. Họ tất cả đều tồn tại song song với loài người và tận hưởng món quà của sự bất tử.Có đến hàng trăm các loài khác nhau: từ Ma cà rồng đến Lykae, từ Furies đến Người biến hình, từ loài Yêu tinh đến loài Valkyrie. Những người bất tử đó gọi thế giới của họ là The Lore. Bạn đã có thể có một cuộc va chạm với một trong những loài Lore rồi. Vị tỉ phú kì quặc với một sự thu hút lôi cuốn – và một sự dị ứng với ánh nắng mặt trời. Một người qua đường trông nhẹ hều với vẻ đẹp không thể có – người mà móng tay nhìn giống như là vuốt hơn. Một người Cao Nguyên với âm giọng Scotland thế kỉ mười bảy và một lực hút thú vật – người mà không thể nào được vẽ lại trong một đêm trăng tròn. Họ bước đi trong chúng ta, nhưng họ lại đấu tranh trong nội bộ mình. Mỗi phần tử có sức mạnh, điểm yếu, và những định kiến nghìn năm củ nó đối với những phần tử khác. Cứ mỗi năm trăm năm, cuộc Accession, một cuộc chiến cho sự đứng đầu, nổi lên. Thời gian đó là bây giờ … Bộ Immortals After Dark gồm có: Book 1: The Warlord Wants Forever (Vị tư lệnh mong muốn sự vĩnh hằng) Book 2: A Hunger Like No Other (Cơn khao khát không như bất cứ gì) Book 3: No Rest For The Wicked (Không có sự yên nghỉ cho kẻ đen tối) Book 4: Wicked Deeds On A Winter’s Night (Những việc đen tối trong đêm đông) Book 5: Dark Needs At Night Edge (Những nhu cầu tối tăm tại một góc bóng đêm) Book 6: Dark Desire After Dusk (Nhưng khao khát đen tối sau hoàng hôn) Book 7: Kiss Of A Demon King (Nụ hôn của một vị vua demon) Book 8: Untouchable (Không thể chạm được) Book 9: Pleasure Of A Dark Prince (Sự thỏa mãn của một vị hoàng tử đêm tối) Book 10: Demon From The Dark (Quỷ dữ từ đêm tối) Book 11: Dreams Of A Dark Warrior (Giấc mơ của một chiến binh đêm tối) Book 12: Lothaire (published day: Jan 10, 2012) *** Nguồn gốc loài Valkyrie Giữa làn tuyết đẫm máu, một chiến binh đơn độc khuỵu gối, cơ thể yếu đuối run rẩy. Tuy nhiên, cánh tay nàng vẫn giương kiếm trước binh đoàn gần đến. Chiếc áo giáp bằng sắt móp méo nuốt trọn thân hình bé nhỏ của nàng. Gió gào rú từng cơn, khiến mái tóc nàng tung bay, nhưng nàng vẫn nghe được tiếng“tưng” khi một tên nhả dây cung. Nàng cất tiếng thét trong cơn thịnh nộ; mũi tên đâm thủng chính giữa áo giáp nàng, lực đánh hất người nàng ra sau. Mũi tên ấy đã đi xuyên qua lớp kim loại, chạm hờ được đến xương ức của nàng, đủ để mỗi nhịp tim là một lần trái tim nàng chạm đến đầu nhọn mũi tên. Nhịp tim đập dũng cảm của chính nàng đang khiến nàng chết dần chết mòn. Nhưng tiếng hét của nàng đã đánh thức hai vị thần đang chìm trong giấc ngủ cùng nhau suốt một thập kỉ lạnh lẽo khắc nghiệt gần đấy. Âm thanh ấy đã khuấy động họ, khiến họ nhìn xuống người thiếu nữ, thấy ngọn lửa can đảm rực rỡ cháy trong đôi mắt nàng. Cả đời nàng là quãng thời gian tràn đầy lòng dũng cảm và quyết tâm, nhưng ánh sáng ấy mờ dần khi cái chết cận kề, và họ thương tiếc nó. Freya (*), vị nữ thần, thì thầm rằng họ nên giữ sự can đảm ấy bất diệt bởi vì nó rất quý giá. Woden (*) đồng ý, và cùng nhau họ mang tia sét xuyên qua thinh không để đánh vào người trinh nữ đang dần chết. (*) Wóden, Freya: hai vị thần cai trị tất cả các thần trong thần thoại Bắc Âu. Tia sáng ấy dữ dội, rất lâu sau mới tan đi và làm cho cả binh đoàn kia run sợ. Khi bóng tối lại phủ lên một lần nữa, nàng trinh nữ tỉnh dậy không thương tích trong một nơi lạ lẫm. Thân thể nàng lành lặn, nhân kiếp hữu hạn của nàng không thay đổi. Nhưng không lâu sau, nàng sẽ hạ sinh một đứa con gái bất tử – người con gái mà sở hữu sự dũng cảm của nàng, trí thông minh ranh mãnh của Woden với bản tính vui vẻ với vẻ đẹp yêu tinh của Freya. Dù người con này hấp thụ năng lượng của tia sét để làm nguồn dinh dưỡng, cô cũng thừa kế tính kiêu ngạo từ Woden và niềm đam mê học hỏi từ Freya – những điều chỉ khiến họ cưng chiều nàng hơn. Hai vị thần thấy thỏa mãn còn người trinh nữ yêu quý đứa con đầu lòng của mình. Thế nhưng khi một thời đại lại thoăn thoắt trôi qua, các vị thần nghe thấy tiếng kêu can đảm của một người phụ nữ khác khi nàng chết trong cuộc chiến chống lại kẻ thù đen tối. Nàng không phải thuộc về loài người, mà nàng là Furie, một loài trong The Lore – một tầng lớp xã hội gồm các giống loài thông minh đã thuyết phục con người rằng họ chỉ là tồn tại trong trí tưởng tượng. Giây phút sơ hỡ đã khiến sinh vật ấy trả giá – trong đêm tối lạnh giá, hơi thở nàng đã không còn hiện hữu. “Sảnh của chúng ta rất rộng, tuy nhiên gia đình chúng ta lại nhỏ,” Freya nói, mắt nàng lấp lánh, ánh sáng rực rỡ đến mức một thủy thủ ở phương Bắc bị chói lòa bởi các vì sao trong phút chốc mà suýt nữa lạc lối. Woden nghiêm nghị nắm lấy tay nàng, không nỡ từ chối lời đề nghị ấy. Những kẻ xung quanh con Furie đang chết dần ấy lại nhìn thấy tia sét xé toạc bầu trời một lần nữa. Và nó sẽ giáng xuống lần nữa và nữa trong những năm sau đó, tiếp tục đến khi những nữ chiến binh – dù là con người, demon, tiên cá, người biến hình hay các sinh vật dũng cảm khác trong The Lore – biết cầu nguyện chúng đến khi họ chết. Từ đó, giống loài Valkyrie ra đời. ... Mời các bạn đón đọc Vị Tư Lệnh Mong Muốn Vĩnh Hằng của tác giả Kresley Cole.
Seoul Ngọt Ngào - Jung Yi Hyun
Cuốn sách đưa người đọc vào thế giới nội tâm của một cô gái Hàn Quốc hiện đại trước ngưỡng của tuổi ba mươi với biết bao trăn trở về tình yêu, đường đời và cuộc sống. "Seoul ngọt ngào" là chuyện đời của Oh Eun Shu - một phụ nữ bước sang tuổi ba mươi với cuộc đời hết sức bình thường tại thành phố Seoul náo nhiệt, nhưng các vấn đề tiền bạc và tình duyên đã hợp thành một thách thức to lớn, khác thường mà cô phải đối mặt.   Giọng văn của Jung Yi Hyun hài hước, nhẹ nhàng nhưng không kém phần cuốn hút. Chị dẫn dắt người đọc đến với một thế hệ U30 của thành phố Seoul hiện đại náo nhiệt, nơi có những cô gái hối hả tìm kiếm hạnh phúc riêng cho mình, đấu tranh để có được tự do cá nhân trong thời đại mới và thỏa hiệp với những truyền thống cũ. "Trong mỗi cuộc đời bình thường luôn đầy ắp những điều khác thường và đặc biệt" đó là điều mà nữ nhà văn xứ Hàn gửi gắm trong cuốn tiểu thuyết đầu tay này. Tiểu thuyết này giúp Jung Yi Hyun nhận giải thưởng văn học Lee Sang, giải thưởng văn học Lee Hyo Seok (Hàn Quốc). Độc giả Hàn đã đón nhận Seoul ngọt ngào rất nồng nhiệt và nó mau chóng trở thành tiểu thuyết ăn khách tại Hàn Quốc. Tác phẩm cũng đã được chuyển thể thành phim truyền hình. *** Nhà văn Jung Yi Hyun sinh năm 1972 tại Seoul. Truyện ngắn đầu tay Tình yêu lãng mạn và xã hội nhận được giải thưởng nhà văn trẻ của giải thưởng Văn học và xã hội lần 1, giúp chị có mặt trong văn đàn. Tiếp theo, truyện ngắn Sự cô độc của người khác của chị được giải thưởng văn học Lee Hyo Seok năm 2004, truyện ngắn Trung tâm thương mại Sam Pung đoạt giải thưởng văn học hiện đại lần thứ 51 (2006). *** Vào ngày kết hôn của người yêu cũ, người ta thường làm gì nhỉ? Có thể sẽ bỏ đi du lịch một mình. Nằm dài bên bờ biển Nam Thái Bình Dương, vừa nhâm nhi cocktail vừa tận hưởng cảm giác mát mẻ, đằng nào chuyện cũng thế rồi thì hãy cầu cho bọn họ được hạnh phúc vậy. Cũng có thể chất đầy một ba lô đá cuội leo lên núi Bắc Hàn, hoặc đi bộ qua cầu ngầm Jamsu. Và vừa xuống núi vừa ném từng hòn đá cuội, hoặc đứng lặng nhìn sóng nhấp nhô trên sông rồi đột nhiên òa lên nức nở, thế cũng chẳng sao cả. Vậy còn tôi thì sao? Tôi đã đi làm. Vào sáng thứ tư, như tất cả những nhân viên công ty khác trên đời. Kì nghỉ phép của năm nay tôi đã dùng hết từ mùa hè năm ngoái, vả lại chiều nay có một buổi thuyết trình quan trọng nên tôi không thể đến nói rằng “Sếp, cho em nghỉ một ngày để em lên núi Bắc Hàn nhé!”. Và cũng không thể điện thoại cho chú rể để chất vấn tại sao anh lại cưới vào đúng ngày thứ tư mà không phải là ngày cuối tuần. Không biết là may mắn hay bất hạnh, nhưng tôi không phải là người làm quá tới mức ấy. Thành thật mà nói cho đến tận trưa, tôi đã quên béng mất hôm nay là ngày cưới của anh ta cho đến khi dịch vụ báo tin của điện thoại réo lên báo hiệu ngày kỉ niệm. Khoảnh khắc từ 11g59 sáng chuyển sang 12g00 trưa, tôi đang nghĩ xem nên ra phở Hòa ăn phở Việt hay tới Dong Chung Hung để ăn mì đen thì chuông điện thoại réo vang. Màn hình điện thoại hiện ra dòng chữ “Tin buồn, Gorilla thiệt mạng!”. Gorilla[1], cái biệt danh mà anh ta không hề muốn công nhận nó. Gorilla, nếu tôi có lỡ miệng nói ra cái từ “kết hôn” thì kiểu gì anh ta cũng run lên bần bật. — Con gái gì mà không biết suy nghĩ sâu xa. Em không biết ở xã hội Hàn Quốc này, kết hôn cũng giống như cái cương ngựa ghìm chân người ta hay sao? Khoảnh khắc làm lễ cưới, đó chính là lúc người ta bước chân vào trong mộ mà nằm. Chính miệng anh ta đã phát ra từ “mộ”, vậy thì đúng 12g00 trưa, tại một nhà hàng tiệc cưới nào đó ở Kangnam, anh ta chắc chắn sẽ thở hắt ra cho mà coi. Mới ngày nào còn ngon ngọt rằng đừng trói buộc nhau bởi cái cách kết hợp vô nghĩa và đầy hình thức ấy, hãy sống và yêu nhau mãi mãi một cách tự do. Mới chia tay với tôi chưa đầy sáu tháng, anh ta đã gửi thiệp cưới tới. Cùng với tấm thiệp cưới là mảnh giấy nhỏ với dòng chữ “Eun Shu thân mến! Chúng ta đã thật sự như người nhà đúng không nào? Với em thì anh tin rằng em sẽ thực lòng chúc mừng cho anh. Chúc em mạnh khỏe”. Kiểu viết gà bới vẫn không hề thay đổi. Tôi, sau khi lần lượt xé nhỏ tấm thiệp cưới và mảnh giấy vứt vào thùng rác bèn mở máy điện thoại, vào menu dịch vụ báo ngày kỉ niệm, nhập ngày cưới của anh ta vào với suy nghĩ đến ngày đó, sau khi hướng về phía Nam chắp tay thành tâm vái, tôi sẽ ném một bông hoa cúc xuống sàn và dẫm nát nó bằng gót giày cao gót. Điện thoại báo cho tôi biết ngày này, giờ chỉ cần bùng lên cơn phẫn nộ đã kìm nén bấy lâu nay là được! Nhưng thật lạ! Máu không trào ngược lên, ngực không hồi hộp và tim cũng chẳng đập thình thình. Cũng không hề cảm giác bị phản bội, ghen tuông hay thương hại mình nữa. Chỉ thấy bụng đói dã man vào giữa trưa như bao nhiêu ngày khác. Tôi gọi một tô mì Jajangmyeon lớn và vét sạch sành sanh. Ăn xong chỉ ợ lên một tiếng vì no chứ không hề cảm thấy một tí tình cảm mãnh liệt nào. Thay cho ly cocktail của resort bên bờ Nam Thái Bình Dương là ly cà phê Mocha giá 3.800 won trong quán Starbucks. Trong lúc cầm ly cà phê và quay trở lại văn phòng, đầu tôi mông lung với suy nghĩ lạ lùng. Tôi đã yêu anh ta. Anh ta cũng đã yêu tôi. Chắc chắn là như vậy. Tôi đã nghĩ như vậy. Nhưng tại sao tôi lại không hề có cảm giác gì nhỉ? Hay tại máu tôi đã trở nên nguội ngắt rồi? Và sau này sẽ dần dần trở nên lạnh giá? Đột nhiên tôi cảm thấy sợ. Cứ như thế này, biết đâu lại già đi và đông cứng như cá đông lạnh để trong tủ đông. Có nghĩa là trở thành một con người vô cảm mãi mãi. Ngụm cà phê Mocha, mặc dù đã đổ đầy siro sao vẫn đắng ngắt trong miệng. Điều này không phải là vì kí ức còn lại với người yêu cũ. Nghĩ tới tương lai u ám, mờ đục giống như mắt cá đông lạnh khiến sống mũi tôi cay xè. Tôi nhìn đồng hồ. Chỉ còn hai tiếng nữa, tôi sẽ phải thực hiện một bài thuyết trình vô cùng quan trọng. Nếu để cho mascara nhòe đi sẽ thật nguy hiểm. Thay vì đóng cửa toilet lại để nức nở, tôi xì mũi một cái thật mạnh. Vào ngày cưới của người yêu cũ, tôi đã không nhỏ một giọt nước mắt. Chỉ thấy rằng mình đã trở thành người lớn. Sau khi lau sạch mũi, vừa bước vào văn phòng đã nghe văng vẳng tiếng ông Hwang trưởng phòng: — Các cô cũng chuẩn bị nhanh lên, trang điểm lại đi. — Sao ạ? Hai cô bé sinh viên mới vào thực tập cách đây mấy ngày, mắt tròn mắt dẹt. — Các cô cũng cùng tới công ty khách hàng luôn. Khi thuyết trình mà bối cảnh nhạt nhẽo quá cũng không được. Thêm các cô cho có không khí chứ, chỉ có mấy cái mặt nặng trình trịch của tôi và cô Eun Shu kia thì hỏng việc. Có thêm mấy khuôn mặt trắng trẻo như của các cô đây cho người ta ngắm cũng sẽ đỡ buồn hơn. Mời các bạn đón đọc Seoul Ngọt Ngào của tác giả Jung Yi Hyun.
Ngày 210 - Natsume Soseki
"Ngày 210" được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1096 tại Nhật Bản. Một cuốn sách nhỏ, dày chưa đến 100 trang, nhưng lại chứa đựng trong đó sức nặng ghê gớm. Tiểu thuyết thể nghiệm một lối kể chuyện qua hình thức đối đáp kéo dài giữa hai chàng thanh niên khác nhau về tính cách là Kei và Roku khi họ cố sức leo lên đỉnh Aso đang rền rĩ như muốn bùng nổ phun trào dung nham. Và họ phải đối mặt với ngày 210, theo âm lịch là ngày bão tố. Những trường đoạn đối đáp của họ không chỉ thể hiện không khí căng thẳng khốc liệt của thiên nhiên vào ngày núi lửa và bão tố hoành hành mà còn cho thấy những xung đột xã hội gay gắt âm u. Hành trình leo núi đầy ám ảnh của họ liệu có thành không, tác giả để mở cho trí tưởng tượng của người đọc. Tiểu thuyết còn là một phối hợp thú vị giữa thể nhật ký văn chương rất Nhật có truyền thống lâu đời và thể tự truyện pha hư cấu của phương Tây. Tác phẩm dựa trên một hành trình thật sự của Soseki đến Kyushu năm 1899 cùng với người bạn thân là Yamakawa Shinjiro. Hai người gặp bão tố ngày 210 khi thực hiện cuộc leo lên đỉnh Aso. Núi lửa phun trào, văn hóa cũ suy tàn, bão tố ập về… Và những người trẻ tuổi vẫn đi lên với những bước chân đầy trầm tư, khát vọng. Soseki vốn được xem là “một con tắc kè hoa” trong văn hóa, tức là luôn luôn biến đổi chứ không bao giờ chịu đóng khung mình trong những hình thức lặp lại. Người mới đọc Soseki hẳn sẽ có chút ngỡ ngàng nếu biết rằng một Gối đầu lên cỏ mong manh đẹp đẽ như hư ảo, và một Tôi là con mèo sắc sảo, hài hước, giễu nhại lại đều do một Soseki tạo nên. Ngày 210 có lẽ là cuốn sách thể hiện sự đổi mới quyết liệt nhất trong suốt thời gian sáng tác của Soseki. Với lối viết thể nghiệm mới, khi sáng tác cả một tiểu thuyết chỉ bằng những trường đoạn đối thoại dài liên tục, Soseki không những tạo được sự mới mẻ, mà còn đề cập được rất nhiều vấn đề sâu sắc về con người, thời cuộc của xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ. Kết thúc cuốn sách, người đọc không hề biết rằng Kei và Roku rốt cuộc có tiếp tục đi đến đỉnh của ngọn núi lửa Aso ấy không. Chỉ có một cõi bụi mù thẫm sương mở ra trước mắt. Ấy cũng là một cái kết rộng mở như dư âm đọng lại trong những bài thơ haiku rất ngắn trong văn học Nhật. Mời các bạn đón đọc Ngày 210 của tác giả Natsume Soseki.