Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Án Tử Một Tình Yêu - The Death Of A Love

Thể loại: Tình cảm, tử tù + trại giam, đề tài xã hội, cuộc sống, nhân sinh Số chương: 19 chương full Nội dung: Một thiếu nữ mới hai mươi ba tuổi thế nhưng đã phải kết thúc cuộc đời tươi đẹp của mình, bước chân ngừng lại trong chốn lao tù... Vân Du đã giết hại hai mạng người, vừa vào Trại giam lại có định tự sát... Đồng Văn, một bác sĩ trẻ điều trị tâm lý cho tù nhân trong Trại giam, mang ác cảm đối với những tù nhân giết người. Và định mệnh đã sắp đặt cho hai con người mang nỗi đau trong quá khứ, bí mật không thể nói, được gặp gỡ nhau vào thứ ba hàng tuần, với tư cách bác sĩ điều trị tâm lý và bệnh nhân trong bộ áo tù nhân... Thông qua những dòng nhật ký trị liệu, họ - từ con người hứng chịu tổn thương - trở thành người chữa lành cho đối phương. "Yêu thương thật sự phải là thứ tình cảm có trách nhiệm." - ----------------------------- Đôi lời của tác giả: Tôi nhớ trước đây có tác giả nào đó đã nói thế này, trích lược thôi: "Con người thường gánh lấy nỗi đau do con người gây ra. Thế nhưng cũng nhờ con người mà những nỗi đau đó được xoa dịu...", có lẽ nó thích hợp với câu chuyện này. Đây không hề là câu chuyện tình lãng mạn, lâm li hay cao trào ngược luyến, mà chỉ là một tác phẩm rất thực, ý nghĩa nhất mà tôi viết từ trước đến nay. Một thứ tình lặng lẽ âm thầm giữa hai con người trong vai trò đặc biệt và cũng trong bối cảnh thật đặc biệt - Trại giam, nơi tối tăm lẫn tội lỗi. Là câu chuyện nước mắt của những phụ nữ trong buồng giam nữ số 5, của người mẹ trẻ vì cứu con mà giết người; của cô gái đôi mươi lầm lỡ; hay của người mẹ bụng mang dạ chửa bởi cái đói nghèo nên phạm tội... Khi hoàn thành tác phẩm, tôi cảm giác bản thân mình cũng đã trưởng thành hơn, cũng để hiểu: Làm người chưa bao giờ dễ dàng, phải dũng cảm đến dường nào để không phải làm tổn thương ai. Và rằng: Sống, chính là phải vượt lên trên những nỗi đau. Có lẽ đó cũng là nghĩa vụ của con người! "Án tử một tình yêu" hoàn thành vào năm 2017 nên thời gian trong truyện sẽ không phải năm 2019, và tôi cũng lấy mốc diễn ra câu chuyện là năm 2011 trước khi nhà nước ban hành luật tử hình bằng tiêm thuốc độc. *** Ngày... tháng... năm... Có một loài chim luôn hót vào đầu hạ, lúc sẩm tối, hoặc là sau cơn mưa hoặc vào các đêm trăng sáng. Tiếng hót lại nghe thê thiết, não nề. Nó khiến người ta nghĩ về nỗi mất mát, nhớ về những điều đã qua, thời gian và cả sự vô thường. Lần đầu tiên bước chân vào nơi lạnh lẽo âm u ấy, tôi đã không ngừng tự hỏi, lí do gì mình lại ở đây? Tôi đã gây ra tội lỗi gì để đến bước đường cùng này? Tôi phải chịu đựng sự giày vò, dằn vặt mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút. Chúng ám ảnh tôi trong những giấc ngủ chẳng tròn. Nước mắt không ngừng chảy mỗi đêm bằng cả ngàn ngày cộng lại, tôi chờ đợi đến lúc bản án tử được đề ra. Tôi sợ. Nhưng phải thanh thản đón nhận. Vì tôi, thật sự là kẻ có tội. Nhật kí tù nhân 3969. ***** Tháng 8 năm 2017. Buổi sớm đầu thu ở Trại giam nằm trên một con đường thuộc Sài Gòn, vang lên tiếng khua lịch kịch lạnh tanh từ ổ khóa gỉ sét, phá tan sự tĩnh lặng buồn bã ở nơi này. Bác sĩ Đồng Văn cầm theo chồng hồ sơ bệnh lí, khẽ lách mình đi qua khoảng trống vừa đủ giữa cửa hàng rào mục với bức tường ố vàng cao sững. Văn chậm rãi tiến vào bên trong khoảng sân vắng vẻ sau khi cảm ơn bảo vệ. Dưới làn gió thu mát dịu, Văn vận áo khoác xanh sậm với những đường sọc xám. Hai mép áo ép sát vào mỗi khi anh co người lại, giấu bên trong bộ blouse trắng, thứ màu riêng biệt và xa lạ giữa không gian lạnh lẽo âm u ở Trại giam. Vài phút băng qua bãi đất trống, tốc độ đôi chân nhanh hơn, Văn sắp đến nhà của quản giáo khu giam nữ. Dừng lại ở bậc tam cấp xi măng cao nhất, Văn gõ cửa bằng âm thanh thật đều, đôi vai hơi chùng xuống cho vài giây chờ đợi. Chẳng quá lâu cửa mở nhanh, xuất hiện một phụ nữ trung niên khoác bộ áo cảnh phục màu xanh lá cây quen thuộc thể hiện cho công lí và thật thi pháp luật. Đó là chị Ngà, cán bộ quản giáo khu giam nữ tại đây. Nhác thấy gương mặt Văn đứng trước cửa lúc trời còn tờ mờ sáng, chị ngạc nhiên hỏi: - Bác sĩ Văn đến tìm chị sớm vậy? Văn chậm rãi đưa chồng hồ sơ bệnh lí cho chị Ngà, mỉm cười bảo đây là kết quả kiểm tra của các phạm nhân nữ hồi tuần trước. Chị Ngà khẽ lướt mắt qua từng hồ sơ xem còn sót ai không, rồi tự dưng chậc lưỡi: - Bác sĩ Văn nhọc công quá, để lát chị qua khu bệnh xá lấy cũng được mà. - Em sắp đến gặp Phó giám thị Dũng, tiện thể qua đây đưa chị luôn. - Bác sĩ gặp Phó giám thị có chuyện gì sao? - Cũng chỉ là báo cáo tình hình tâm lí của một phạm nhân nam bên khu II. Lát, em phải đi gặp một người, sợ là không kịp đến lúc Phó giám thị đi họp về. Sự tò mò trong đôi mắt quản giáo Ngà hiện lên rõ rệt. Văn chẳng che giấu gì, nói rằng chốc nữa anh sẽ đi gặp Hoàng Oanh. Tức thì đôi mắt chị Ngà sáng lên do mừng rỡ trước cuộc tái ngộ sắp diễn ra giữa những người xưa: - Thế à? Mèn ơi, cũng lâu lắm rồi đấy! Bé Oanh vẫn khỏe chứ? - Bé Oanh sống với chú Thạch rất tốt, năm nay nó sẽ vào trường trung học. - Tốt rồi, thế này thì Vân Du cũng yên lòng... Chưa kịp nói hết câu thì sự ngập ngừng tràn ra đầu lưỡi khiến âm thanh mắc lại cuống họng, quản giáo Ngà phát hiện mình vừa nhắc lại cái tên không nên nhắc trước mặt Văn. Chị càng tự trách hơn khi thấy nỗi buồn xuất hiện trong mắt anh. Đối diện, như hiểu sự im lặng đột ngột đó, Văn cất tiếng: - Em cũng nghĩ vậy. Hẳn, Vân Du rất vui khi con gái có cuộc sống tốt. Dẫu khỏa lấp bằng nụ cười nhẹ nhàng thanh thản nhưng nỗi buồn sâu thẳm vẫn ngự trị trong đáy mắt tối đen do đứng ngược chiều sáng, Văn không thể che giấu được quản giáo Ngà. Người phụ nữ này chợt hiểu, có lẽ sau ngần ấy năm chàng bác sĩ trẻ thuở xưa chưa một lần thôi đau. Lẽ nào, có những yêu thương trải qua nhiều năm cách biệt chẳng hề vơi bớt mà ngày càng sâu đậm? Chị Ngà liền hỏi sang lí do Hoàng Oanh đến gặp Văn là gì. Chàng bác sĩ ba mươi ba tuổi trả lời với giọng đều đều: - Em cần đưa lại cho bé Oanh cuốn nhật kí của Vân Du, năm nay con bé đã mười hai tuổi rồi. Đó là lời hứa của em... Tiếng chuông điện thoại thình lình vang lên. Giấu tiếng thở dài đặc trưng, quản giáo Ngà đến bên bàn, nhấc máy nghe. Văn nhìn chị quay lại với nét mặt biểu hiện ý nghĩa rằng chị sẽ phải rời khỏi đây bây giờ. - Có rắc rối ở dãy nhà khu giam nữ, chị phải qua đó xem sao. Bác sĩ gặp bé Oanh thì gửi lời hỏi thăm của chị nhé. Dặn dò xong câu cuối cùng, quản giáo Ngà liền đi như chạy về phía dãy nhà khu giam nữ. Còn lại một mình, Văn bước chậm rãi xuống từng bậc tam cấp, thả bộ ra khoảng sân vắng vẻ. Nắng sớm lấp liếm sắp chảy tràn lên chân, Văn đảo mắt nhìn quanh. Không phải tò mò quan sát, mà chỉ để nhớ. Một thời gian dài, Văn ít khi đến đây. Mỗi lần có việc, quản giáo Ngà sẽ đến bệnh xá tìm anh. Văn nhìn cảnh vật hiện tại, cứ ngỡ khung cảnh sáu năm trước đang tái hiện. Vẫn lớp cỏ úa bên dưới bị giẫm đạp không mọc lên nổi. Vẫn bóng cây cao uể oải cho một cái vươn mình trong nắng sớm. Vẫn là những luống rau, bụi hoa do các phạm nhân nữ thay nhau trồng vào giờ lao động. Cuối cùng, vẫn bốn bức tường vàng ố bao bọc xung quanh, phía trên là dãy hàng rào kẽm sắc bén từng làm chùn chân nhiều kẻ liều lĩnh muốn bỏ trốn. Chỉ một bức tường, bên kia và bên này, ấy vậy tạo nên hai thế giới khác xa nhau. Tự do và tù đày. Chỉ một giây phút lầm lỡ thôi, ai đó sẽ mãi mãi bỏ lại sau lưng bầu trời rộng lớn xanh ngát, bỏ lại tháng ngày sống trọn vẹn kiếp người để bước chân vào đây. Trại giam, nơi không biết đã đón nhận bao nhiêu kẻ tội lỗi, dường như mất hẳn bốn mùa xuân hạ thu đông. Tồn tại duy nhất ở đây là ngày sang đêm, chờ đợi quyện với nước mắt. Đằng sau chấn song sắt đen, mỗi người mang trong mình câu chuyện riêng, bi kịch riêng mà chẳng ai giống ai. Gió nổi. Những đám mây bị đánh tan ra trôi lãng đãng vô tư lự, trả lại cho bầu trời vùng trong xanh yên ả, sắc màu đó mang đến sự an nhiên lạ lùng. Một cánh bướm màu xanh dương thẫm hiển hiện dưới đáy mắt Văn, bay chấp chới qua hàng rào kẽm trên bức tường. Con vật mê chơi bay lạc vào chốn tù đày u ám. Sự phát hiện thú vị làm chàng trai trẻ tiếp tục nhìn theo đôi cánh rực rỡ kia rung rinh trong gió. Con bướm đậu lên khóm hoa nghiêng ngả bên dưới, vui đùa là bản năng của loài phù du. Gió thổi mạnh hơn, mang theo những chiếc lá trên cành cây trụi lơ. Gió vô tình hất nhẹ con bướm xanh vướng vào cành hoa. Nó mắc kẹt, giãy cánh mãi. Cái nhìn của Văn đong đầy phân vân giữa việc giúp đỡ hay để con bướm tự thoát ra. Nhưng Văn sẽ không thể biết được kết quả của hai điều đó khi một bàn tay mềm mại luồn qua khóm hoa, nhẹ nhàng tháo đôi cánh xinh đẹp ra khỏi sự mắc kẹt. Con vật mang ơn, bay là là xung quanh người đó. Một cô bé mười sáu tuổi. Cho em tự do, không phải tù đày Quên đi năm tháng hao gầy thương anh Em ở bên này một bức tường ranh Đêm ngày trông ngóng mong manh chờ người... Cô bé cất tiếng hát, giọng trong trẻo bay vút. Tưởng chừng như thứ thanh âm réo rắt không bị xiềng xích đó vượt qua bức tường chết chóc lạnh lẽo, qua hàng rào kẽm giam cầm đến với bầu trời cao. Không gì bó buộc được cô. Văn đứng chết lặng, sững sờ đến mức không rõ hình ảnh đang thấy là thật hay mơ, là người hay chỉ là ảo ảnh nhóm lên từ nỗi thương nhớ tràn trề. Cô bé đứng gần bụi hoa mặc chiếc váy trắng dài qua đầu gối, gương mặt nghiêng nhẹ bừng sáng, mái tóc ngắn mềm mại phủ ót cùng một đôi vai mỏng manh. - Vân Du... Sau tiếng gọi thân thương phát ra từ bờ môi Văn, cô bé với chiếc váy trắng tung xòe đã quay qua nhìn với đôi mắt phẳng lặng tựa bờ hồ thu. Cô hơi nghiêng đầu, nở nụ cưởi êm đềm với anh. Điều ấy khiến Văn càng thêm choáng ngợp trong niềm hân hoan đường đột này. Với sự xúc động mãnh liệt, Văn đã không biết đôi chân mình đang tiến lại gần. Vân Du vẫn đứng yên, sự im lặng toát lên người cô tạo thành một lớp vỏ bọc đơn độc giống hệt năm xưa. Tại thời khắc này, Văn khao khát muốn ôm trọn lấy Du, cảm nhận hơi ấm da thịt lan tỏa vào nhau, điều mà khi Du còn sống anh không bao giờ được làm. Thế nhưng đôi tay xụi lơ, Văn mất hết sức lực để nhấc lên, để ôm cô... ***** Cuối tháng 3 năm 2011. Đêm mưa sáu năm trước thật khác với đêm mưa của những năm sau đó. Nó dữ dội, ướt át, vần vũ. Tiếng mưa nghe hệt âm thanh gào thét ai oán từ đất trời. Số phận có lẽ biết được một bi kịch thảm thiết sắp xảy đến nên để cơn mưa này là một điềm báo trước. Chẳng ai nhận ra giọng hét kinh hoàng của người phụ nữ len lỏi qua màn mưa buốt giá, tê tái. Thứ âm thanh ám ảnh phát ra từ bệnh viện đa khoa. Ngay cửa phòng bệnh, dáng cô hộ lí ngồi sững bất động, hoàn toàn lả đi như mất hết sự sống, riêng đôi mắt vẫn mở trừng trừng phản chiếu nỗi bàng hoàng và hai bàn tay bấu chặt vào thành cửa đến nỗi tươm máu. Những người xung quanh từ y tá, bệnh nhân cho đến người thăm bệnh, ngạc nhiên khi thấy cô hộ lí chẳng hiểu vì sao lại thét lên thất thanh rồi ngồi bệt dưới đất như bị đột qụy. Trước đó, ai nấy đều giật mình vì nghe tiếng la của những người trong phòng bệnh, họ chạy ra ngoài đầy sợ hãi. Tất cả liền chạy đến. Và khi đưa mắt nhìn vào phòng, lập tức họ đồng loạt mang những hành động không khác cô hộ lí ban nãy. Sững sờ. Hãi hùng. Thậm chí, có người yếu bóng vía đến nỗi ngất lịm. Ở giữa căn phòng trắng lạnh lẽo, được mô tả bằng mùi thuốc sát trùng nồng nặc và mấy dụng cụ y tế kim loại khô khốc, bóng dáng cô gái trẻ đứng nghiêng người toát lên hơi nồng tanh tưởi của máu. Dung dịch đậm đà mùi sắt đó vấy bẩn quần áo cô mặc, lên gương mặt từ mang tai xuống cằm, lên cả những sợi tóc ngắn lòa xòa hơi rối. Nơi nhuốm máu nhiều nhất, là bàn tay phải cô đang cầm kéo. Mũi kéo sắc lẹm, chết chóc. Dưới đất có hai thân thể nằm bất động. Mọi cử động trên người cô gái trẻ đều đứng yên, giống hệt bị hóa đá. Duy nhất một thứ nơi cô đang chuyển động, nhen nhúm sự nhận thức hiếm hoi. Đôi mắt. Với cái nhìn sâu, tăm tối như đáy hồ nhưng vẫn le lói chút hoang mang. Như kiểu, khung cảnh man rợ bày ra trước mặt lúc này không phải do cô cố ý gây nên. Dù vài phút trước thôi, chính cô đã đâm mạnh chiếc kéo vào hai cơ thể ấm nóng, kết thúc mạng sống của họ. Buông kéo. Cô xoay người thật chậm, chẳng khác gì khúc cây gãy bị đau, ánh mắt vô hồn sâu hun hút vô tình lướt qua mấy chục gương mặt xa lạ xuất hiện ngay cửa phòng, giờ đây chỉ còn những nét nhăn nhúm hãi hùng. Nhưng không có ý dọa họ, cũng không có ý thể hiện bản thân là kẻ cuồng sát, cô đang tìm kiếm một bóng hình nhỏ bé mà nãy giờ mình đã để vụt mất khỏi tầm mắt. Cái nhìn đau đáu mong mỏi khiến người ta nghĩ, thứ mà kẻ sát nhân đó đang tìm hẳn vô cùng quan trọng, biết đâu đấy là phần tốt đẹp duy nhất còn sót lại trong trái tim tội lỗi. Vài phút sau, bờ môi trắng bệch nứt nẻ chợt mấp máy, nụ cười nhẹ nhõm lướt qua khi cô thấy trong góc tường đứa con gái nhỏ đang ngồi co người, trông giống lưng tôm. Mái đầu của nó tựa lên hai đầu gối, đôi mắt tròn nhìn khung cảnh máu đổ người chết mà không chút sợ hãi, chỉ ngơ ngác. Bóng đổ từ chiếc tủ cao ngay bên cạnh chảy tràn trên thân hình và nhấn chìm nó vào màn tối. Mau chóng, con bé nghe tiếng ai gọi tên mình, bằng hơi thở mệt mỏi: - Hoàng Oanh, lại đây với mẹ. Bé Oanh ngước nhìn cô gái đứng trước mặt với cơ thể mềm ngặt nhưng vẫn cố đứng vững, như chống chọi lại bất hạnh do số phận đè xuống. Từ nãy đến giờ, nó thắc mắc không hiểu cô gái vừa giận dữ vừa đâm kéo vào hai người kia để rồi sau đó bị nhuốm máu trên quần áo ấy, có phải mẹ Du? Vì khi nghe tiếng la đau đớn của bà ngoại kế thì nó bỗng sợ. Tuổi còn nhỏ không cho phép nó nhận thức được ý nghĩa hành động mà mẹ gây ra cho bà. Nhưng giờ nghe tiếng gọi quen thuộc đó, bé Oanh chắc mẩm mẹ Du đây rồi. - Mẹ Du ơi! Vân Du đón con gái vào lòng, không bận tâm nó sẽ khó chịu với mùi tanh đeo bám trên người mình. Du vùi mặt vào mái tóc thơm ngát của con vì muốn lưu giữ mùi thơm êm đềm này thật lâu bởi hiểu rõ, lát nữa thôi cô phải rời xa Oanh. Một thời gian dài, hay cũng có thể suốt đời Du sẽ mãi mãi không gặp lại con được nữa. Không lâu sau, công an được gọi đến. Họ giải tán đám đông hiếu kỳ rồi ập vào căn phòng nơi diễn ra cuộc sát hại. Dáng vẻ ai nấy đều thận trọng dè dặt vì họ nghe người gọi điện nói với giọng đứt quãng về "một tên sát nhân cuồng loạn". Khung cảnh khiến người ta muốn choáng ngất vì mọi thứ đều nhuốm máu, bên dưới hai xác người nằm im lìm, cơ thể ngập trong dung dịch màu đỏ. Nhưng khi nhóm công an lia mắt sang tên giết người thì gương mặt họ được vẽ lên bởi sự ngạc nhiên, là một cô gái ngoài đôi mươi đang ôm đứa trẻ tầm sáu tuổi. Cả hai có vẻ quyến luyến không rời. Trông cứ như thể đây là cuộc đoàn viên mỹ mãn, và nó thật đối lập với không gian chết chóc ghê rợn. Nhóm công an đứng tần ngần vài giây, thình lình nghe tiếng giục gấp gáp của ai đó trong đám đông đang hồi hộp quan sát sự việc: - Con nhỏ tóc ngắn giết người đó! Gì mà ác dữ vậy trời! Công an mau bắt nó nhanh đi, kẻo nó điên lên giết luôn đứa trẻ, tội nghiệp! Hai người công an bước đến kéo xốc Du đứng dậy, để hai tay cô ra phía sau. Hai người khác đẩy bé Oanh lùi ra. Không hề kháng cự, Du đứng yên như khúc gỗ, mặc công an tra còng số tám lạnh ngắt vào tay mình. Khi người ta cảm nhận rõ rằng mọi thứ kể từ giờ đã kết thúc thì hành động kháng cự chẳng còn ý nghĩa nữa. Du đờ đẫn, mất luôn cảm giác đau dù bị những bàn tay thô cứng bấu siết vào người mình. Về phía bé Oanh, nó ngó cảnh mẹ mình tự dưng bị ba bốn người đàn ông xa lạ dẫn đi, vẻ mặt ngẩn ngơ. Ngay chính nó cũng đang bị kìm giữ. Bé Oanh bỗng liên tưởng đến mấy câu chuyện cổ tích mẹ Du hay kể, về việc kẻ xấu xa thường bắt những đứa trẻ nhỏ đi mất. Tức thì, nó gào khóc giãy giụa: - Bỏ ra! Bỏ ra đồ xấu xa! Mẹ Du, cứu con! Mẹ Du ơi! Nghe bé Oanh vừa khóc vừa gọi, bấy giờ Du mới sực tỉnh, hồn trở lại xác kéo theo sự tỉnh táo quay về. Lập tức đưa mắt nhìn con gái, Du thảng thốt: - Oanh! Oanh à! Chờ mẹ nhé! Nhận thấy nữ tội phạm có ý muốn chạy đến chỗ đứa bé gái, hai người công an bên cạnh giữ chặt Du hơn, đồng thời kéo cô ra khỏi phòng. Đám đông đứng xem dần tản ra tránh đường cho công an áp tải tội phạm ra ngoài xe. Vài âm thanh bàn tán trỗi dậy khe khẽ như tiếng vỗ cánh vo ve của lũ ruồi muỗi bay khắp không gian bốc mùi tử khí nơi đây. Họ đang tự hỏi nguyên do gì khiến cô gái trẻ măng này xuống tay giết chết hai mạng người. ***** Tiếng chuông điện thoại đổ vang nghe đứt quãng, giữa căn phòng tĩnh mịch chìm trong bóng tối, cùng lúc bên ngoài sấm rền vang não nề. Chuông kêu dai dẳng khô khốc làm bật tung một giấc ngủ mơ màng chỉ vừa thiếp đi khoảng vài phút. Mí mắt cục cựa kèm theo âm thanh trở mình uể oải, Đồng Văn xoay người nằm ngay ngắn trên giường, nén chặt giấc ngủ mà khó khăn lắm mới đến với mình, trong từng nhịp thở đều đều. Văn mở mắt chớp chớp vài cái cho quen với bóng tối, lòng tự nhủ chẳng rõ chủ nhân cuộc gọi là quản giáo Ngà bên khu giam nữ hay quản giáo Thái bên khu giam nam. Văn nhanh chóng ngồi dậy, đôi mắt vừa mới mở đang cố tìm kiếm trong bóng tối đen kịt chiếc điện thoại bàn với từng hồi chuông réo rắt. Đưa tay chụp lấy, anh bắt máy. Giọng của quản giáo Thái đầy thúc giục bên kia, bảo rằng có một phạm nhân tinh thần không ổn định nên Văn hãy qua khu phòng giam. Văn đứng dậy, vớ lấy áo khoác dày màu xám, bước ra khỏi phòng bệnh xá. Bên ngoài mưa giăng lối mịt mùng khiến đêm tối càng thêm tối đen như mực. Không tiếng động nào tồn tại giữa chuỗi âm thanh va đập của hàng ngàn giọt nước lạnh giá buông xuống đất. Mưa trong Trại giam thường lạnh lẽo, rét mướt hơn bên ngoài rất nhiều. Màn mưa dữ dội cũng không làm Văn bận tâm khi cầm dù chạy băng qua khoảng sân rộng ngập nước lênh láng. Dọc theo dãy hàng rào ngăn cách, bóng đèn neon vàng vọt trên cao hắt ra thứ ánh sáng leo lét, trở thành ngọn hải đăng giữa đêm mưa bão. Mặc mưa đổ xuống chiếc dù dữ dội như cú đánh của người lực lưỡng, Văn tiếp tục lội nước mưa ngập gần đến nửa ống quần, bằng những bước hối hả đến phân trại số II. Cùng thời điểm đó, người công an ấn mạnh Vân Du ngồi xuống ghế. Họ đang tiến hành làm giấy cho phạm nhân nhập trại. Lúc họ ngồi trên xe áp tải, mưa rất lớn và bây giờ vẫn chưa thuyên giảm, tiếng mưa rơi lộp bộp trên mái tôn của căn phòng không quá rộng nhưng yên ắng đến ngột ngạt này. Mời các bạn đón đọc Án Tử Một Tình Yêu - The Death Of A Love của tác giả Võ Anh Thơ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vụ Chơi Khăm Ngài Triệu Phú
Trong Vụ chơi khăm ngài triệu phú, Arsène Lupin đã dựng lên một kế hoạch tinh vi nhằm lấy trộm chiếc vương miện của ngài Gourney-Martin. Cũng giống như mọi lần, trước khi ra tay, Lupin gửi đến cho ngài triệu phú một bức thư thách thức. Ngài triệu phú đã phải cầu viện đến cảnh sát và cậu con rể tương lai là Công tước Chamerace để chống lại gã đạo chích tinh quái. Liệu Lupin có thực hiện được trót lọt phi vụ táo bạo này? Hay anh ta sẽ phải chịu khuất phục trước lực lượng cảnh sát hùng hậu và không kém phần mưu trí? *** “Siêu trộm hào hoa”, “Hoàng tử đạo chích”, “Robin Hood của giới tội phạm”, đó là những mỹ danh được dành tặng cho một trong những nhân vật tiếng tăm nhất của dòng văn học trinh thám phiêu lưu nước Pháp: Arsène Lupin. Ra mắt độc giả vào năm 1905 dưới dạng truyện ngắn dài kỳ trên tạp chí Je sais tout, gã đạo chích thông minh, quyến rũ nhưng không kém phần hài hước và láu cá ấy đã khiến cảnh sát khốn khổ vò đầu bứt tai, cánh nhà giàu ngày đêm lo ngay ngáy vì mất của, còn công chúng thì thích thú tán thưởng và hồi hộp dõi theo những màn trình diễn đầy hấp dẫn và không thể đoán trước kết cục. *** Arsène Lupin là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong loạt truyện thám tử, tiểu thuyết trinh thám của nhà văn Pháp Maurice Leblanc, cũng như một số phần tiếp theo và rất nhiều phim truyền hình, phim điện ảnh như Night Hood, Arsène Lupin, các vở kịch và truyện tranh phỏng theo.   Cùng thời với Arthur Conan Doyle, Maurice Leblanc (1864-1941) đã sáng tạo ra nhân vật Arsène Lupin, một nhân vật có tầm phổ biến rộng khắp và lâu dài ở các nước nói tiếng Pháp, giống như Sherlock Holmes (tải eBook) ở các nước nói tiếng Anh. Serie Arsène Lupin gồm hai mươi tập truyện được viết bởi chính Leblanc cộng thêm năm phần tiếp đã được ủy quyền cho nhóm viết của Boileau-Narcejac thực hiện, cũng như nhiều tác phẩm khác phỏng theo. Nhân vật Lupin được giới thiệu lần đầu trên tạp chí Je Sais Tout qua một loạt truyện ngắn, bắt đầu từ số thứ 6, ngày 15 tháng 7 năm 1905. Ban đầu nhân vật mang tên Arsène Lopin, nhưng vấp phải sự phản đối từ một chính trị gia trùng tên, kết quả là "Lopin" đã bị đổi thành "Lupin". Arsène Lupin là một siêu đạo chích có tài hóa trang, một tên trộm quý tộc chuyên trộm đồ của nhà giàu trong khi núp bóng quý ông lịch thiệp. Nhân vật Lupin giống với Marius Jacob nên có khi được cho là dựa trên hình mẫu này.xuất hiện trong 12 tập truyện ngắn đã cho thấy đây là một nhân vật có thể sánh ngang cùng với các nhân vật khác như Holmes cua Conan Doyle, Hercule Poirot cuả Agatha. Hình tượng Lupin đã được nhiều bộ phim nổi tiếng lấy làm mẫu nhân vật như Kaito Kid trong bộ manga nổi tiếng Thám tử lừng danh Conan (tải eBook). *** Maurice Leblanc sinh năm 1864 tại Rouen, Pháp. Tên tuổi của ông thực sự được biết tới và để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả suốt hơn một thế kỷ qua nhờ series truyện dài kỳ cho tạp chí Je sais tout về nhân vật siêu đạo chích Arsène Lupin. Nhờ những cống hiến không ngừng nghỉ của mình, Leblanc đã được trao tặng Huân chương Bắc Đẩu bội tinh. Ông mất năm 1941 tại Perpignan. Dưới đây là một số tác phẩm của Maurice Leblanc được dịch và xuất bản tại Việt Nam: - Cái chết rình rập - Đối đầu Sherlock Holmes - Sa bẫy địa ngục - Những cú siêu lừa của Arsène Lupin - Những cuộc phiêu lưu của Arsène Lupin - Tám vụ phá án của Arsène Lupin - Ngôi nhà bí ẩn - Báo Thù - Nữ bá tước Cagliostro - Hòn Đảo 13 chiếc quan tài - Hai Nữ Tướng Cướp - Tam giác vàng ma quỷ - Arsene Lupin và Hồi Ức Bí Mật - Vụ Chơi Khăm Ngài Triệu Phú - Cây Kim Rỗng - Lời Thú Tội - ... *** N hững luồng ánh nắng tháng Chín tràn ngập đại sảnh lâu đài Công tước xứ Charmerace, thứ ánh nắng dịu dàng làm sáng ngời những món chiến lợi phẩm hội tụ về đây từ bao nhiêu thời kỳ và bao nhiêu xứ sở, được bài trí hỗn độn với gu thẩm mỹ gớm ghiếc thông thường là căn bệnh cố hữu của những kẻ có tiêu chuẩn giá trị duy nhất là tiền. Ánh nắng óng vàng sưởi ấm những bức tường ốp ván và những đồ đạc cũ kĩ, khiến chúng hắt sáng mờ mờ. Nó trả lại cho nước sơn son thếp vàng đang phai của những chiếc tràng kỷ và những chiếc ghế dựa thời Đế chế thứ Nhất⦾ một chút gì rực rỡ xa xưa. Nó chiếu vào cả một dãy dài các bức tranh treo trên tường, chân dung những thành viên dòng họ Charmerace đã khuất bóng, những gương mặt đàn ông hoặc lạnh lùng hoặc vui vẻ, những chiến binh, những chính khách, những công tử phong nhã hào hoa, những gương mặt phụ nữ với vẻ đẹp hoặc độc đoán hoặc hiền hòa. Nó làm các bộ áo giáp sắt bật ra những tia lấp lóe và làm các bộ áo giáp đồng hắt sáng mờ mờ. Màu sắc của những món đồ sứ quý hiếm, của những chiếc tủ ngăn kéo phong cách phương Đông hoặc Phục Hưng được chạm khảm lộng lẫy lẫn với màu sắc của các bức tranh, các tấm thảm lớn và các tấm thảm nhỏ Ba Tư đặt rải rác khắp mặt sàn bóng loáng, đem đến cho sảnh đường sự phong phú, rực rỡ sắc màu. Giữa tất cả những thứ đẹp đẽ và giá trị mà ánh nắng ấm áp làm cho vẻ đẹp bộc lộ rõ ràng hơn ấy, gương mặt một cô gái trẻ ngồi viết bên bàn, trước khung cửa sổ trải dài, mở ra bãi cỏ rộng mênh mông tuổi đời đã bao nhiêu thế kỷ nay, là thứ đẹp đẽ và giá trị nhất. Đó là một vẻ đẹp thanh khiết, gần như mong manh. Làn da trong suốt, láng mịn tựa lớp men sứ cổ, đôi gò má trắng muốt, chỉ hơi phơn phớt hồng. Chiếc mũi thẳng tắp, thanh tú, cái cằm tròn trĩnh tuyệt diệu. Một người yêu cái đẹp sẽ bối rối, không biết nên chiêm ngưỡng cặp mắt xanh trong, thật đáng yêu và dễ khiến trái tim tan chảy, hay nên chiêm ngưỡng cái miệng nhạy cảm, với đôi môi đầy đặn, mọc mời những nụ hôn. Tuy nhiên, anh ta chắc chắn sẽ thấy nhói lòng bởi vẻ buồn bã khôn nguôi trên gương mặt xinh đẹp ấy, cái vẻ u uẩn bâng khuâng của người Slav bị một nỗi bất hạnh, đau khổ riêng tư nhuốm đậm thêm. Mái tóc vàng mềm mại ôm lấy gương mặt cô gái trẻ. Nắng đậu xuống khiến những món tóc óng ánh. Những lọn tóc quăn nho nhỏ, không tuân theo chiếc lược, lòa xòa trước vầng trán trắng muốt, phủ lớp lông tơ óng ánh vàng. Cô gái đang viết địa chỉ lên các phong bì, bên tay trái cô là một danh sách dài dằng dặc những cái tên. Cứ viết xong địa chỉ lên chiếc phong bì nào, cô lại nhét nhanh vào đó một tấm thiệp mời đám cưới. Mỗi tấm thiếp in hàng chữ: Ngài Gournal-Martin hân hạnh thông báo với quý vị đám cưới của con gái ngài, tiểu thư Germaine và Công tước xứ Charmerace. Cô gái viết đều đều, hết phong bì này tới phong bì khác, chồng phong bì mỗi lúc một dày lên trước mặt cô, sẵn sàng để được đưa tới bưu điện. Nhưng thỉnh thoảng, khi mấy người con gái đang chơi tennis ngoài bãi cỏ – mặt mũi ửng đỏ, tươi cười – cao giọng hơn bình thường đọc điểm số, khiến cô mất tập trung vào công việc, ánh mắt cô lại lang thang nhìn ra qua cửa sổ, rầu rầu dừng ở mấy người con gái kia, và khi ánh mắt cô trở về với nhiệm vụ của mình, cô bâng khuâng thở dài, khẽ khàng đến nỗi cô hầu như chẳng biết là mình vừa thở dài nữa. Rồi một giọng gọi to vang lên từ bãi cỏ: “Sonia! Sonia!” “Vâng, thưa chị Germaine.” Cô gái đang viết trả lời. “Trà! Em gọi trà, nhé!” Cô gái hét lên, giọng nóng nảy, khá gay gắt đối với tai người nghe. “Vâng, thưa chị Germaine.” Sonia đáp, viết nốt địa chỉ đang viết dở, rồi đặt chiếc phong bì lên chồng phong bì đã sẵn sàng để được đưa tới bưu điện. Cô đi ngang qua căn phòng, tới trước chiếc lò sưởi lớn lâu đời, rung chuông. Cô đứng bên lò sưởi một lúc, cắm lại bông hồng bị rơi từ lọ hoa xuống bệ lò sưởi, tư thế của cô với hai cánh tay vươn lên cắm lại lọ hoa bộc lộ nét duyên dáng của cái cơ thể mảnh dẻ. Cô vừa buông tay xuống thì người hầu bước vào. “Ông làm ơn đem trà ra nhé, Alfred.” Sonia nói bằng giọng trong ngần, thánh thót như chuông, món quà quý giá nhất tạo hóa ban cho chỉ một vài nữ diễn viên xuất sắc nhất. “Cho mấy người, thưa cô?” Alfred hỏi. “Cho bốn người, trừ phi ông chủ của ông đã về.” “Ồ, chưa. Ông ấy chưa về, cô ạ. Ông ấy đi Rennes ăn trưa bằng xe hơi, mà Rennes thì cách đây nhiều dặm đường. Phải một tiếng đồng hồ nữa ông ấy mới về được.” “Còn Công tước, ngài ấy cưỡi ngựa dạo chơi chưa về, phải không?” “Vâng, cô ạ.” Alfred đáp rồi quay đi. “Hẵng khoan.” Sonia nói. “Tất cả gia nhận đã gói ghém xong hành lý để đi Paris rồi chứ? Ông biết đấy, mọi người sẽ phải khởi hành sớm. Tất cả đám hầu gái đã sẵn sàng chưa?” “À, đám đàn ông con trai đã sẵn sàng rồi, tôi biết, cô ạ. Nhưng còn đám đàn bà con gái, tôi không biết, cô ơi. Bọn họ cứ lăng xa lăng xăng suốt ngày, có điều bọn họ bao giờ cũng mất nhiều thời gian hơn bọn tôi.” “Ông bảo bọn họ khẩn trương lên, và làm ơn chuẩn bị trà nhanh nhất có thể nhé.” Sonia nói. Alfred rời khỏi căn phòng. Sonia quay lại bàn viết. Cô không cầm bút mà cầm lên một tấm thiệp mời đám cưới. Đôi môi cô chầm chậm mấp máy đọc, vẻ trầm tư, muộn phiền. Cái giọng nóng nảy, hống hách khi nãy cắt ngang sự trầm ngâm của Sonia. “Em đang làm gì thế, Sonia? Em không tiếp tục viết đi à?” Germaine Gournay-Martin cao giọng bực bội, bước qua khung cửa sổ mở sát xuống đến sàn để vào sảnh. Cô gái thừa kế hàng triệu franc nhà Gournay-Martin cầm chiếc vợt tennis trong tay, đôi má vốn hồng hào càng hồng hào hơn vì vừa chơi thể thao. Đó là một cô gái xinh đẹp theo kiểu đỏ đắn, dễ thu hút sự chú ý, có phần lồ lộ, rất đối lập với vẻ đẹp thanh khiết của Sonia. Môi cô ta hơi mỏng quá, mắt không sâu chút nào, hai điều này kết hợp lại đem đến cho cô ta một vẻ khá khắc nghiệt, hoàn toàn tương phản với gương mặt dễ thương, hiền hậu của Sonia. Hai cô bạn vừa chơi tennis với Germaine theo cô ta vào sảnh: Jeanne Gautier – vóc người cao ráo, làn da tối màu, vàng vọt, có vẻ gì như hiểm độc và Marie Bullier – thấp, tròn, tầm thường và ủy mị. Bọn họ đi tới trước bàn Sonia đang ngồi viết. Marie chỉ chồng phong bì, hỏi: “Tất cả đây đều là thiếp mời đám cưới à?” “Ừ. Mà mới tới được vần V.” Germaine nói, cau mày với Sonia. “Công nương de Vernan… Công tước phu nhân de Vauvineuse… Hầu tước… Hầu tước phu nhân? Cậu mời cả quận Faubourg Saint-Germain ấy nhỉ!” Marie nói, xáo trộn chồng phong bì vẻ ghen tị. “Cậu hầu như sẽ chẳng biết ai vào với ai ở đám cưới của cậu.” Jeanne khúc khích cười đầy ác ý. “Xin lỗi các cậu.” Germaine nói vẻ khoe khoang. “Hôm trước, phu nhân de Relzières – chị họ chồng sắp cưới của tớ – đã tổ chức một buổi tiếp khách tại gia để tỏ lòng yêu quý tớ đấy. Ở buổi tiếp khách, bà ấy đã giới thiệu tớ với cả nửa Paris, cái thành phố Paris mà tớ chắc chắn sẽ quen thuộc, cái thành phố Paris mà các cậu sẽ thấy trong phòng khách của tớ.” “Nhưng bọn tớ sẽ chẳng còn xứng đáng làm bạn cậu khi cậu trở thành Công tước phu nhân Charmerace.” Jeanne nói. “Tại sao?” Germaine hỏi, rồi vội vã nói thêm: “Việc quan trọng nhất này, Sonia, đừng quên Veauléglise, 33 phố Đại Học… 33 phố Đại Học.” “Veauléglise, 33 phố Đại Học.” Sonia nói, lấy một chiếc phong bì mới và bắt đầu điền địa chỉ. “Khoan, khoan. Đừng đóng phong bì vội. Tôi đang phân vân không biết Veauléglise phải được đánh một dấu thập, hai dấu thập hay ba dấu thập.” Germaine nói với vẻ cực kỳ quan trọng. “Thế nghĩa là thế nào?” Marie và Jeanne đồng thanh kêu lên. “Một dấu thập có nghĩa là mời tới lễ nhà thờ, hai dấu thập có nghĩa là mời tới đám cưới và ăn sáng, ba dấu thập có nghĩa là mời tới đám cưới, ăn sáng và lễ ký giấy giá thú. Các cậu nghĩ nên dành cho Công tước phu nhân Veauléglise mấy dấu thập? “Đừng hỏi tớ. Tớ chưa có hân hạnh quen biết bà phu nhân cao quý đó.” Jeanne kêu lên. “Tớ cũng vậy.” Marie nói. “Tớ cũng vậy mà.” Germaine nói theo. “Nhưng tớ có ở đây danh sách khách khứa của Công tước phu nhân Charmerace đã quá cố, mẹ Jacques. Hai bà phu nhân này ngày trước hết sức thân thiết với nhau. Ngoài ra, Công tước phu nhân Veauléglise mặc dù đã sức tàn lực kiệt nhưng vẫn rất được ngưỡng mộ vì lòng sùng đạo. Bà ấy đi dự lễ sớm ở nhà thờ mỗi tuần ba lần.” “Thế thì đánh ba dấu thập.” Jeanne nói. “Tớ thấy không nên.” Marie nói nhanh. “Ở vị trí của cậu, bạn yêu quý, tớ sẽ không liều lĩnh để xảy ra sơ suất. Tớ sẽ hỏi ý kiến chồng sắp cưới của tớ. Anh ta hiểu biết cái xã hội này mà.” “Trời đất, chồng sắp cưới của tớ! Anh ta cóc quan tâm đến những chuyện kiểu này đâu. Bảy năm qua, anh ta đã thay đổi nhiều. Chứ bảy năm trước, anh ta coi mọi việc trên đời đều chẳng có gì hệ trọng. Anh ta đã lên đường đi thám hiểm Nam Cực chỉ để gây ấn tượng với mọi người. Ôi, ngày xưa, anh ta đích thực là một bậc công tước.” “Còn ngày nay?” Jeanne hỏi. “Ôi, ngày nay, anh ta là một kẻ kề rà kề rề, rất đỗi bình thường. Những chuyện thù tiếp khiến anh ta khó chịu. Anh ta nghiêm trang y như ông quan tòa vậy.” Germaine trả lời. “Ngài ấy hết sức vui vẻ mà.” Sonia bất ngờ phản đối. Germaine bĩu môi nói với Sonia: “Ồ, anh ta cũng vui vẻ ra phết đấy, mỗi khi anh ta bỡn cợt mọi người. Nhưng những lúc khác thì anh ta nghiêm trang y như ông quan tòa vậy.” “Cha cậu ắt hẳn hài lòng với sự thay đổi này.” Jeanne nhận xét. “Đương nhiên cha tớ thấy hài lòng rồi. Hôm nay cha tớ đang ăn trưa với ông Bộ trưởng, chủ đề bàn bạc duy nhất là tặng thưởng huân chương cho Jacques đấy.” “Chà, được huân chương Bắc Đẩu bội tinh thì tuyệt.” Marie nói. “Bạn yêu quý! Huân chương Bắc Đẩu bội tinh đối với những người thuộc tầng lớp trung lưu thì tuyệt, nhưng đối với một bậc công tước thì không phù hợp đâu!” Germaine kêu lên. Alfred mang khay trà vào, đặt lên chiếc bàn nhỏ gần chiếc bàn Sonia đang ngồi viết. Germaine cảm thấy mình quan trọng tới mức không thể ngồi yên, cứ đi đi lại lại xung quanh phòng. Bỗng nhiên, cô ta dừng phắt lại, chỉ một bức tượng bằng bạc đặt trên chiếc đàn piano, hỏi: “Cái gì thế này? Tại sao bức tượng này lại ở đây?” “Sao vậy nhỉ? Khi chúng ta vào đây, nó ở trên chiếc tủ ngăn kéo, chỗ thường lệ của nó mà.” Sonia nói, có phần kinh ngạc. “Ông đã vào sảnh lúc chúng tôi chơi ngoài vườn à, Alfred?” Germaine hỏi ông già gia nhân. “Không ạ, thưa cô.” Alfred đáp. “Nhưng ắt hẳn một kẻ nào đó đã vào đây.” Germaine khăng khăng. “Tôi không nghe thấy có ai vào. Còn lúc nãy thì tôi ở dưới bếp ạ.” Alfred nói. “Chuyện này hết sức kỳ quặc.” Germaine nhận xét. “Kỳ quặc thật đấy!” Sonia nói. “Tượng không có chân mà tự di chuyển chỗ này chỗ kia được.” Tất cả mọi người nhìn chằm chằm vào bức tượng, như thể họ chờ cho bức tượng lại ngay tức khắc di chuyển, trước mắt họ. Rồi Alfred đặt nó trở về vị trí cũ trên một chiếc tủ ngăn kéo, đoạn rời khỏi căn phòng. Sonia rót trà, mấy cô con gái vừa uống trà vừa dông dài bàn luận về đám cưới sắp sửa diễn ra, về việc sẽ mặc váy áo ra sao, về những món quà Germaine đã nhận được. Chuyện này nhắc nhở cô ta hỏi Sonia xem có ai từ ngôi nhà của cha cô ta ở Paris gọi điện đến chưa, Sonia trả lời là chưa có ai gọi cả. “Thật bực mình quá!” Germaine nói. “Thế tức là hôm nay chưa có ai gửi quà cho tớ.” Cô ta vừa bĩu môi vừa nhún vai với dáng vẻ của đứa bé vốn vẫn được cưng chiều, chẳng phù hợp với một thiếu nữ hai mươi ba tuổi đã hoàn toàn trưởng thành. “Hôm nay là Chủ nhật. Các cửa hiệu không giao đồ vào Chủ nhật ạ.” Sonia nhẹ nhàng nói. Nhưng Germaine vẫn bĩu môi chẳng khác nào đứa bé hư. “Chàng Công tước hay ho của cậu không đến uống trà với bọn mình à?” Jeanne hơi sốt ruột hỏi. “Ồ, phải rồi. Tớ đang đợi anh ta tới lúc bốn rưỡi. Anh ta phải cưỡi ngựa dạo chơi với hai anh em nhà du Buit. Họ cũng sẽ đến uống trà đấy.” Germaine nói. “Cưỡi ngựa dạo chơi với anh em nhà du Buit? Nhưng bao giờ vậy?” Marie hấp tấp kêu lên. “Chiều nay.” Mời các bạn đón đọc Vụ Chơi Khăm Ngài Triệu Phú của tác giả Maurice Leblanc.
Đối Đầu Herlock Sholmès
Chiếc tủ cổ từ thời Napoleon, tấm vé số trúng thưởng một triệu franc, viên kim cương xanh suốt hơn một thế kỉ được bao kẻ truy lùng, ham muốn… Bất kể chúng được cất giữ ở đâu, trong những tòa lâu đài kiên cố hay kề sát ngay bên chủ nhân, chỉ cần muốn, Arsène Lupin sẽ luôn có được chúng, với những mánh lới được tính toán chi li, tỉ mỉ. Bất lực trước những manh mối đi vào ngõ cụt, thanh tra Ganimard buộc phải nhờ đến sự trợ giúp của thám tử lừng danh người Anh Herlock Sholmès. Rốt cuộc màn đấu trí giữa bộ đôi thám tử - kẻ trộm nổi tiếng sẽ có kết quả ra sao? Tiếp theo tập 1 Arsène Lupin – Quý ông kẻ trộm, tập 2 Arsène Lupin đối đầu Herlock Sholmès gồm 8 truyện. Nhân vật chính của truyện, ngoài Arsène Lupin và thanh tra Ganimard như ở phần 1, còn có thêm Herlock Sholmès (viết lái từ Sherlock Holmes) – một thám tử nổi tiếng người Anh. 6 truyện đầu thuật lại lần đối đầu thứ nhất giữa Arsène Lupin và Herlock Sholmes. Còn 2 phần truyện sau là lần đối đầu thứ hai của họ. Ra đời vào năm 1905 tại Pháp, nhân vật kẻ trộm Arsène Lupin được cho là đối lập với vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes tựa như tà đối với chính, giang hồ phong lưu với chính nhân quân tử, bỡn cợt hài hước với lạnh lùng nghiêm túc. Chính vì thế, để đáp ứng sự trông đợi của độc giả, Maurice Leblanc đã cho vị thám tử người Anh xuất hiện trong truyện của mình dưới tên gọi được lái đi để tạo nên màn so tài vô tiền khoáng hậu giữa hai nhân vật trinh thám nổi tiếng nhất thế giới. *** “Siêu trộm hào hoa”, “Hoàng tử đạo chích”, “Robin Hood của giới tội phạm”, đó là những mỹ danh được dành tặng cho một trong những nhân vật tiếng tăm nhất của dòng văn học trinh thám phiêu lưu nước Pháp: Arsène Lupin. Ra mắt độc giả vào năm 1905 dưới dạng truyện ngắn dài kỳ trên tạp chí Je sais tout, gã đạo chích thông minh, quyến rũ nhưng không kém phần hài hước và láu cá ấy đã khiến cảnh sát khốn khổ vò đầu bứt tai, cánh nhà giàu ngày đêm lo ngay ngáy vì mất của, còn công chúng thì thích thú tán thưởng và hồi hộp dõi theo những màn trình diễn đầy hấp dẫn và không thể đoán trước kết cục. *** Arsène Lupin là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong loạt truyện thám tử, tiểu thuyết trinh thám của nhà văn Pháp Maurice Leblanc, cũng như một số phần tiếp theo và rất nhiều phim truyền hình, phim điện ảnh như Night Hood, Arsène Lupin, các vở kịch và truyện tranh phỏng theo.   Cùng thời với Arthur Conan Doyle, Maurice Leblanc (1864-1941) đã sáng tạo ra nhân vật Arsène Lupin, một nhân vật có tầm phổ biến rộng khắp và lâu dài ở các nước nói tiếng Pháp, giống như Sherlock Holmes (tải eBook) ở các nước nói tiếng Anh. Serie Arsène Lupin gồm hai mươi tập truyện được viết bởi chính Leblanc cộng thêm năm phần tiếp đã được ủy quyền cho nhóm viết của Boileau-Narcejac thực hiện, cũng như nhiều tác phẩm khác phỏng theo. Nhân vật Lupin được giới thiệu lần đầu trên tạp chí Je Sais Tout qua một loạt truyện ngắn, bắt đầu từ số thứ 6, ngày 15 tháng 7 năm 1905. Ban đầu nhân vật mang tên Arsène Lopin, nhưng vấp phải sự phản đối từ một chính trị gia trùng tên, kết quả là "Lopin" đã bị đổi thành "Lupin". Arsène Lupin là một siêu đạo chích có tài hóa trang, một tên trộm quý tộc chuyên trộm đồ của nhà giàu trong khi núp bóng quý ông lịch thiệp. Nhân vật Lupin giống với Marius Jacob nên có khi được cho là dựa trên hình mẫu này.xuất hiện trong 12 tập truyện ngắn đã cho thấy đây là một nhân vật có thể sánh ngang cùng với các nhân vật khác như Holmes cua Conan Doyle, Hercule Poirot cuả Agatha. Hình tượng Lupin đã được nhiều bộ phim nổi tiếng lấy làm mẫu nhân vật như Kaito Kid trong bộ manga nổi tiếng Thám tử lừng danh Conan (tải eBook). *** Maurice Leblanc sinh năm 1864 tại Rouen, Pháp. Tên tuổi của ông thực sự được biết tới và để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả suốt hơn một thế kỷ qua nhờ series truyện dài kỳ cho tạp chí Je sais tout về nhân vật siêu đạo chích Arsène Lupin. Nhờ những cống hiến không ngừng nghỉ của mình, Leblanc đã được trao tặng Huân chương Bắc Đẩu bội tinh. Ông mất năm 1941 tại Perpignan. Dưới đây là một số tác phẩm của Maurice Leblanc được dịch và xuất bản tại Việt Nam: - Cái chết rình rập - Đối đầu Sherlock Holmes - Sa bẫy địa ngục - Những cú siêu lừa của Arsène Lupin - Những cuộc phiêu lưu của Arsène Lupin - Tám vụ phá án của Arsène Lupin - Ngôi nhà bí ẩn - Báo Thù - Nữ bá tước Cagliostro - Hòn Đảo 13 chiếc quan tài - Hai Nữ Tướng Cướp - Tam giác vàng ma quỷ - Arsene Lupin và Hồi Ức Bí Mật - Vụ Chơi Khăm Ngài Triệu Phú - Cây Kim Rỗng - Lời Thú Tội - ... *** Vào ngày mùng Tám tháng Mười hai năm ngoái, ông Gerbois, giảng viên môn Toán trường Cao đẳng Versailles, trong khi lục tung một cửa hiệu đồ cổ đã khám phá ra chiếc bàn viết gỗ gụ khiến ông rất đỗi hài lòng, vì nó có vô số các ngăn kéo. “Đúng là thứ thích hợp để làm quà sinh nhật cho Suzanne.” Ông nghĩ. Và vì ông vốn vẫn luôn luôn cố gắng đem đến những niềm vui giản dị cho con gái, phù hợp với thu nhập khiêm tốn của mình, ông hỏi giá, rồi sau khi mặc cả hết sức gắt gao, ông đồng ý trả sáu mươi lăm franc. Ông đang đưa địa chỉ cho người chủ cửa hiệu thì một thanh niên phục sức tao nhã, lịch duyệt trước đó đã xem xét các đồ vật khác – trông thấy chiếc bàn và ngay lập tức hỏi giá. “Đã có khách mua rồi.” Người chủ cửa hiệu nói. “A! Tôi đồ là ông này!” Ông Gerbois cúi chào rồi rời khỏi cửa hiệu, khá hãnh diện được sở hữu một món đồ mà ngay đến một thanh niên quyền quý cũng chú ý, quan tâm. Nhưng chưa đầy mươi bước chân, chàng thanh niên đã vượt lên phía trước ông. Mũ cầm trong tay, anh ta nói với ông bằng giọng cực kỳ lịch thiệp: “Thưa ông, xin lỗi ông, tôi muốn hỏi ông một câu mà ông có lẽ sẽ cho là không phải phép. Câu hỏi là liệu ông có mục đích đặc biệt gì khi mua chiếc bàn viết đó không?” “Không, tôi tình cờ bắt gặp và tự dưng thấy thích thôi.” “Tuy nhiên ông không quá thích nó chứ?” “Ồ! Tôi sẽ giữ nó, vậy thôi.” “Vì nó là một món đồ cổ, có lẽ thế chăng?” “Không, vì nó tiện lợi.” Ông Gerbois tuyên bố. “Trong trường hợp đó, ông bằng lòng đổi nó lấy chiếc bàn khác cũng hoàn toàn tiện lợi như thế mà tình trạng còn tốt hơn?” “Ồ! Chiếc bàn này đủ tốt rồi, và tôi thấy chả có lý do gì để đổi lấy chiếc khác.” “Nhưng…” Ông Gerbois tính khí dễ cáu kỉnh, nên ông đáp gắt gỏng: “Thưa ông, xin lỗi ông, ông đừng nài nỉ.” Chàng thanh niên vẫn khăng khăng: “Thưa ông, tôi không biết ông đã trả bao nhiêu tiền, nhưng tôi xin trả ông gấp đôi.” “Không.” “Gấp ba.” “Ô! Đủ rồi.” Ông thầy giáo kêu lên một cách sốt ruột. “Tôi không muốn bán nó.” Chàng thanh niên nhìn ông chằm chằm theo cái cách khiến ông chẳng dễ dàng quên đi được, rồi vội vã quay bước. Một tiếng đồng hồ sau, chiếc bàn được đưa đến nhà ông thầy giáo trên đường Viroflay. Ông gọi bảo con gái: “Cha có cái này cho con, miễn là con thấy thích.” Suzanne là cô gái xinh đẹp, bản tính vui vẻ, nồng nhiệt. Cô ôm cổ cha, sung sướng hôn ông. Đối với cô, chiếc bàn trông đúng là một món quà hết sức vương giả. Buổi tối hôm đó, với sự giúp đỡ của người đầy tớ Hortense, cô kê chiếc bàn vào phòng mình, rồi cô phủi bụi, lau sạch sẽ các ngăn kéo, các hộc, cẩn thận xếp giấy tờ, bút, mực, thư từ, bưu thiếp, và vài món đồ lưu niệm của ông anh họ Philippe mà cô bí mật cất giữ vào các ngăn kéo. Bảy rưỡi sáng hôm sau, ông Gerbois đến trường. Lúc mười giờ, theo thông lệ, Suzanne ghé đến chỗ cha, và ông sung sướng được trông thấy cái dáng mảnh mai, nụ cười thơ trẻ của cô con gái đợi mình ở cổng trường. Hai cha con cùng trở về nhà. “Chiếc bàn viết của con… tình hình nó sáng hôm nay thế nào?” “Tuyệt vời! Hortense và con lau những cái núm bằng đồng cho tới lúc chúng trông như làm bằng vàng ấy.” “Vậy là con hài lòng với nó?” “Hài lòng với nó ư? Ôi, con không biết làm sao con có thể sống không có nó suốt bao nhiêu lâu nay.” Khi hai cha con đang đi trên lối dẫn vào nhà, ông Gerbois nói: “Chúng ta sẽ ngắm nó một chút rồi mới ăn sáng nhé?” “Ồ! Vâng, ý tưởng tuyệt vời đấy ạ!” Suzanne lên cầu thang, đi phía trước cha, nhưng đến cửa phòng mình, cô kêu lên đầy choáng váng, kinh ngạc. “Có chuyện gì thế?” Ông Gerbois lắp bắp hỏi. “Chiếc bàn viết biến mất rồi!” Khi cảnh sát được gọi tới, họ sửng sốt trước cái cách đơn giản đáng thán phục mà tên trộm áp dụng. Trong lúc Suzanne đi vắng, người đầy tớ ra chợ, và vì thế ngôi nhà chẳng có ai trông, một gã đánh xe, đeo huy hiệu hẳn hoi – mấy người hàng xóm láng giềng đã trông thấy – dừng xe phía trước ngôi nhà, rung chuông hai lần. Tưởng Hortense ở nhà, những người hàng xóm chẳng hề ngờ vực, do đó gã kia tiếp tục hành động một cách êm thấm, lặng lẽ. Ngoài chiếc bàn, ngôi nhà không mất mát gì nữa. Thậm chí chiếc xắc Suzanne đặt trên chiếc bàn đó cũng được đặt sang chiếc bàn bên cạnh, các thứ đựng bên trong hoàn toàn chẳng bị động đến. Rõ ràng tên trộm đã có ý đồ từ trước, điều này làm cho vụ việc bí ẩn thêm, vì tại sao hắn sẵn sàng liều lĩnh đến thế chỉ để đổi lấy một vật rất chi bình thường? Manh mối duy nhất ông thầy giáo có thể cung cấp là sự kiện lạ lùng của buổi tối hôm trước. Ông khai: “Gã thanh niên vô cùng bực bội vì bị tôi từ chối. Tôi có cảm tưởng lúc gã bỏ đi, gã đã đe dọa tôi.” Nhưng manh mối đó là một manh mối mơ hồ. Người chủ cửa hiệu không thể làm sáng tỏ gì vụ việc. Ông ta cũng không biết gã thanh niên kia. Còn về chiếc bàn, ông ta mua nó với giá bốn mươi franc từ một người thi hành di chúc ở Chevreuse, và tin tưởng rằng mình đã bán lại nó với giá phù hợp. Cảnh sát không điều tra ra kết quả gì hết. Nhưng ông Gerbois cứ ôm ấp cái ý nghĩ là ông phải chịu một tổn thất hết sức lớn lao. Ắt hẳn đã có một gia tài được cất giấu trong một ngăn kéo bí mật, và vì thế mà gã thanh niên đã ra tay đoạt lấy nó. “Cha tội nghiệp của con, chúng ta sẽ làm gì với cái gia tài đó chứ?” Suzanne hỏi. “Con ơi! Với một gia tài như thế, hôn sự của con có thể vô cùng thuận lợi đấy.” Suzanne thở dài đầy chua chát. Cô có ước ao ai hơn ông anh họ Philippe đâu, kẻ thực ra rất đỗi tồi tệ. Và cuộc sống trong ngôi nhà nhỏ ở Versailles này chẳng còn sung sướng, mãn nguyện như xưa. Hai tháng trôi qua. Xuất hiện những sự việc liên tiếp đáng chú ý, vận may lẫn với bất hạnh khủng khiếp! Ngày đầu tiên của tháng Hai, lúc năm rưỡi, ông Gerbois bước vào nhà, cầm trên tay tờ báo buổi chiều, ngồi xuống, giương mục kỉnh và bắt đầu đọc. Vì chẳng quan tâm đến chính trị, ông giở các trang bên trong. Ngay lập tức, ông chú ý tới một mục có đầu đề: Đợt quay số thứ ba của giải Xổ số Hiệp hội Báo chí Vé số 514, series 23, trúng một triệu franc Tờ báo tuột khỏi tay ông Gerbois. Các bức tường xoay mòng mòng trước mắt ông, và tim ông không đập nổi nữa. Ông đang giữ tờ vé số 514, series 23. Ông đã mua tờ vé số từ một người bạn nhằm mục đích giúp đỡ người bạn đó, chứ không hề có ý nghĩ sẽ trúng giải, và ngạc nhiên chưa, nó lại là con số may mắn! Ông Gerbois hấp tấp rút cuốn sổ ghi chép ra. Phải, ông nhớ hoàn toàn chính xác. Con số 514, series 23, được ghi ở mặt trong bìa. Nhưng còn tấm vé xổ số! Ông Gerbois lao tới bàn làm việc của mình, tìm chiếc hộp đựng phong bì đã cất tấm vé xổ số, tuy nhiên chiếc hộp không thấy ở đó, và ông bất chợt nhận ra ông không thấy nó ở đó đã vài tuần nay. Ông nghe thấy tiếng bước chân trên lối đi rải sỏi dẫn từ phố vào. Ông gọi: “Suzanne! Suzanne!” Cô vừa đi dạo về. Cô vội vã bước vào nhà. Ông Gerbois nghẹn giọng lắp bắp: “Suzanne… chiếc hộp… chiếc hộp đựng phong bì?” “Chiếc hộp nào ạ?” “Chiếc hộp cha mua ở Bảo tàng Louvre… một hôm thứ Bảy… nó được bày ở phía cuối bàn.” “Cha, cha không nhớ à, chúng ta đã cất tất cả những thứ đó vào một chỗ với nhau.” “Bao giờ?” “Buổi tối hôm ấy… cha biết mà… đúng cái buổi tối hôm ấy…” “Nhưng cất chỗ nào?… Nói đi, mau mau con!… Chỗ nào?” “Chỗ nào ư? Ô kìa, trong ngăn kéo cái bàn viết ấy cha.” “Cái bàn viết đã bị trộm?” “Vâng.” “Ôi, trời đất!… Trong cái bàn viết đã bị trộm!” Ông Gerbois hạ giọng nói câu cuối cùng, với vẻ như choáng váng, ngơ ngẩn. Rồi ông tóm lấy bàn tay của cô con gái, hạ giọng hơn nữa, nói: “Một triệu trong đó đấy, con ơi!” “Ôi! Sao cha chẳng nói với con?” Suzanne ngây thơ lẩm bẩm. “Một triệu!” Ông Gerbois lặp lại. “Nó đựng tấm vé xổ số trúng giải nhất của Hiệp hội Báo chí.” Mức độ khủng khiếp của tai họa áp đảo họ hoàn toàn, và hai cha con im lặng hồi lâu, không dám cất lời phá vỡ sự im lặng ấy. Cuối cùng, Suzanne nói: “Nhưng, cha ạ, người ta sẽ vẫn trả tiền cho cha thôi.” “Bằng cách nào? Dựa trên chứng cứ nào?” “Cha nhất thiết phải có chứng cứ ạ?” “Đương nhiên.” “Và cha không có chứng cứ gì?” “Nó nằm trong chiếc hộp.” “Trong chiếc hộp đã biến mất.” “Phải, và bây giờ thì tên trộm sẽ lĩnh tiền.” “Ôi! Cha ơi, thế thì kinh khủng quá. Cha phải ngăn chặn việc này.” Ông Gerbois không nói gì một lát, rồi trong cơn bột phát sức lực, ông nhảy chồm chồm trên sàn, kêu lên: “Không, không, hắn sẽ không có được một triệu đó, hắn sẽ không có được! Sao hắn có được chứ? A! Khôn ngoan như hắn cũng chẳng thể làm gì. Nếu hắn đi lĩnh tiền, người ta sẽ gô cổ hắn lại. A! Bây giờ thì chúng ta cứ chờ xem, anh bạn quý hóa!” “Cha, cha sẽ làm gì?” “Bảo vệ quyền lợi chính đáng của chúng ta, cho dù là có chuyện gì xảy ra! Chúng ta sẽ thắng lợi. Một triệu franc đó thuộc về cha, và cha dự định lĩnh nó.” Mấy phút sau, ông Gerbois đã đánh đi bức điện như sau: Gửi ngài Giám đốc Ngân hàng Tín dụng Nhà đất Đường Capucines, Paris Tôi là chủ nhân tờ vé số 514, series 23. Bằng mọi biện pháp pháp lý, tôi phản đối bất cứ người nào khác đòi lĩnh giải. GERBOIS Gần như cũng cùng lúc ấy, bức điện sau đây được chuyển đến Ngân hàng Tín dụng Nhà đất: Tờ vé số 514, series 23, đang nằm trong tay tôi. ARSÈNE LUPIN Mỗi lần tôi bằng lòng thuật lại một trong số những câu chuyện phiêu lưu mạo hiểm phi thường đánh dấu cuộc đời của Arsène Lupin, trong tôi đều xuất hiện cảm giác ngượng ngùng, xấu hổ, vì đối với tôi, có vẻ là các độc giả đã biết rất rõ những câu chuyện phiêu lưu mạo hiểm cũ rích ấy rồi. Thực tế, không một vụ việc nào do tên trộm của nhân dân (cái cách gọi hết sức phù hợp) tiến hành mà lại chưa được phổ biến rộng rãi tới quảng đại quần chúng, không một kỳ tích chói lọi nào mà lại chưa được nghiên cứu trên đầy đủ mọi phương diện, không một hành vi, hoạt động nào mà lại chưa được bàn luận cặn kẽ theo kiểu vốn vẫn chỉ dành cho những hành vi, hoạt động quả cảm, anh hùng. Chẳng hạn, ai mà không biết câu chuyện kỳ lạ về Tiểu thư Tóc vàng, với các chương chứa đựng những tình tiết khác thường, được các báo chạy tít đen đậm, như Tấm vé xổ số 514, series 23!… Tội ác trên đại lộ Henri-Martin!… Viên kim cương xanh!…Người ta quan tâm chú ý vì có sự tham gia điều tra của viên thám tử lừng danh Anh quốc, Herlock Sholmès! Người ta thấy hồi hộp ly kỳ vì những cuộc chiến đấu chẳng lần nào giống lần nào giữa những nghệ sĩ tiếng tăm lừng lẫy ấy! Và sự chấn động trên đường phố mới lớn làm sao, cái ngày mà những thằng bé bán báo rao to: “Arsène Lupin đã bị bắt!” Lý do để tôi nhắc lại những câu chuyện này vào thời điểm này là vì chính tôi sẽ cung cấp chiếc chìa khóa mở cánh cửa bí ẩn. Những chuyến phiêu lưu mạo hiểm kia dù ít dù nhiều từ trước tới nay đều bị một màn sương mờ bao phủ, và tôi bây giờ sẽ xóa tan đi màn sương mờ này. Tôi sao chép những bài báo cũ, tôi xem xét các bức thư xưa, tôi liên kết các cuộc phỏng vấn từng diễn ra, nhưng tôi đã sắp xếp, phân loại tất cả những thứ đó và quy chúng về sự thật hoàn toàn. Hợp tác với tôi thực hiện việc này chính là Arsène Lupin, ngoài ra có cả Wilson – người bạn cực kỳ tâm phúc của Herlock Sholmès nữa. Hết thảy mọi người sẽ nhớ lại tràng cười dữ dội chào đón hai bức điện được công bố. Cái tên Arsène Lupin bản thân nó đã kích thích thói hiếu kỳ, hứa hẹn là trò tiêu khiển cho đám khán giả bình dân. Và, trong trường hợp này, đám khán giả bình dân chính là toàn bộ thế giới. Ngân hàng Tín dụng Nhà đất ngay lập tức mở một cuộc điều tra và đã xác minh được những thông tin sau: Tấm vé xổ số 514 đã được văn phòng chi nhánh Versailles của Công ty Xổ số bán cho một sĩ quan pháo binh tên là Bessy, người sau đó tử vong do ngã ngựa. Trước khi qua đời ít lâu, ông ta có nói với các đồng đội của mình là đã bán lại tấm vé xổ số cho một người bạn. Mời các bạn đón đọc Đối Đầu Herlock Sholmès của tác giả Maurice Leblanc.
Những Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ
Những cuộc phiêu lưu kỳ lạ là tập truyện ngắn đầu tiên trong series về Arsène Lupin. Tập truyện bao gồm chín truyện ngắn, kể về các phi vụ trộm cắp nổi tiếng của gã siêu đạo chích. Thông qua đó, độc giả sẽ có được cái nhìn rõ hơn về thân phận, tính cách, tài năng cũng như những thủ đoạn tinh vi của nhân vật đặc biệt này.   Arsène Lupin bị bắt Arsène Lupin trong tù Arsène Lupin trốn thoát Lữ khách bí ẩn Chiếc vòng cổ của nữ hoàng Quân bài bảy cơ Két của bà Imbert Viên trân châu đen Herlock Sholmès đến quá muộn “Siêu trộm hào hoa”, “Hoàng tử đạo chích”, “Robin Hood của giới tội phạm”, đó là những mỹ danh được dành tặng cho một trong những nhân vật tiếng tăm nhất của dòng văn học trinh thám phiêu lưu nước Pháp: Arsène Lupin. Ra mắt độc giả vào năm 1905 dưới dạng truyện ngắn dài kỳ trên tạp chí Je sais tout, gã đạo chích thông minh, quyến rũ nhưng không kém phần hài hước và láu cá ấy đã khiến cảnh sát khốn khổ vò đầu bứt tai, cánh nhà giàu ngày đêm lo ngay ngáy vì mất của, còn công chúng thì thích thú tán thưởng và hồi hộp dõi theo những màn trình diễn đầy hấp dẫn và không thể đoán trước kết cục. *** Arsène Lupin là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong loạt truyện thám tử, tiểu thuyết trinh thám của nhà văn Pháp Maurice Leblanc, cũng như một số phần tiếp theo và rất nhiều phim truyền hình, phim điện ảnh như Night Hood, Arsène Lupin, các vở kịch và truyện tranh phỏng theo.   Cùng thời với Arthur Conan Doyle, Maurice Leblanc (1864-1941) đã sáng tạo ra nhân vật Arsène Lupin, một nhân vật có tầm phổ biến rộng khắp và lâu dài ở các nước nói tiếng Pháp, giống như Sherlock Holmes (tải eBook) ở các nước nói tiếng Anh. Serie Arsène Lupin gồm hai mươi tập truyện được viết bởi chính Leblanc cộng thêm năm phần tiếp đã được ủy quyền cho nhóm viết của Boileau-Narcejac thực hiện, cũng như nhiều tác phẩm khác phỏng theo. Nhân vật Lupin được giới thiệu lần đầu trên tạp chí Je Sais Tout qua một loạt truyện ngắn, bắt đầu từ số thứ 6, ngày 15 tháng 7 năm 1905. Ban đầu nhân vật mang tên Arsène Lopin, nhưng vấp phải sự phản đối từ một chính trị gia trùng tên, kết quả là "Lopin" đã bị đổi thành "Lupin". Arsène Lupin là một siêu đạo chích có tài hóa trang, một tên trộm quý tộc chuyên trộm đồ của nhà giàu trong khi núp bóng quý ông lịch thiệp. Nhân vật Lupin giống với Marius Jacob nên có khi được cho là dựa trên hình mẫu này.xuất hiện trong 12 tập truyện ngắn đã cho thấy đây là một nhân vật có thể sánh ngang cùng với các nhân vật khác như Holmes cua Conan Doyle, Hercule Poirot cuả Agatha. Hình tượng Lupin đã được nhiều bộ phim nổi tiếng lấy làm mẫu nhân vật như Kaito Kid trong bộ manga nổi tiếng Thám tử lừng danh Conan (tải eBook). *** Maurice Leblanc sinh năm 1864 tại Rouen, Pháp. Tên tuổi của ông thực sự được biết tới và để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả suốt hơn một thế kỷ qua nhờ series truyện dài kỳ cho tạp chí Je sais tout về nhân vật siêu đạo chích Arsène Lupin. Nhờ những cống hiến không ngừng nghỉ của mình, Leblanc đã được trao tặng Huân chương Bắc Đẩu bội tinh. Ông mất năm 1941 tại Perpignan. Dưới đây là một số tác phẩm của Maurice Leblanc được dịch và xuất bản tại Việt Nam: - Cái chết rình rập - Đối đầu Sherlock Holmes - Sa bẫy địa ngục - Những cú siêu lừa của Arsène Lupin - Những cuộc phiêu lưu của Arsène Lupin - Tám vụ phá án của Arsène Lupin - Ngôi nhà bí ẩn - Báo Thù - Nữ bá tước Cagliostro - Hòn Đảo 13 chiếc quan tài - Hai Nữ Tướng Cướp - Tam giác vàng ma quỷ - Arsene Lupin và Hồi Ức Bí Mật - Vụ Chơi Khăm Ngài Triệu Phú - Cây Kim Rỗng - Lời Thú Tội - Răng Cọp - Bí Ẩn Nút Chai Pha Lê - Người Đàn Bà Bí Ẩn - Arsène Lupin Tái Xuất - Mật Mã 813 - ... *** Arsène Lupin bị bắt Đó là kết thúc đáng ngạc nhiên cho một chuyến đi với khởi đầu đầy hứa hẹn. Chiếc tàu thủy hơi nước vượt Đại Tây Dương mang tên Provence được trang bị đầy đủ tiện nghi, vận tốc lớn, nằm dưới sự chỉ huy của vị thuyền trưởng rất đỗi nhã nhặn, ân cần. Hành khách trên tàu làm thành một xã hội chọn lọc, vui vẻ. Thời gian trôi qua dễ chịu nhờ sức hấp dẫn của những mối quen biết mới và những trò giải trí ngẫu hứng. Chúng tôi tận hưởng cảm giác thư thái khi được tách khỏi cái thế giới thường nhật để sống, có thể nói là, trên một hòn đảo xa lạ, và vì vậy buộc phải giao lưu với nhau thôi. Đã khi nào bạn dừng lại nghĩ xem liệu có bao nhiêu sự tự nhiên, mới mẻ trong cách cư xử của những cá nhân riêng biệt này? Những con người buổi tối hôm trước thậm chí chưa hề biết nhau, mà giờ đây, trong vòng vài ngày, đành sống một cuộc sống cực kỳ thân mật, gần gũi, cùng nhau đương đầu với những cơn cuồng nộ của đại dương, với những lần vùi dập khủng khiếp của sóng biển, sự hung hãn của bão tố, và sự buồn tẻ đến khổ sở những lúc mặt nước phẳng lặng, im lìm. Một cuộc sống như thế trở thành một dạng bi kịch, với những bão tố bên cạnh những hùng vĩ của biển cả, với những đơn điệu bên cạnh những trạng thái muôn vẻ muôn màu, và đó có lẽ là lý do tại sao chúng ta bắt đầu hành trình ngắn ngủi ấy trong tâm trạng vừa thích thú vừa lo sợ. Tuy nhiên, vài năm gần đây, du khách vượt Đại Tây Dương được trải nghiệm thêm cảm giác mới. Hòn đảo nhỏ bé trôi nổi nay đã có sự ràng buộc với cái thế giới nó từng tách biệt hoàn toàn. Một mối liên hệ gắn kết hai chốn này ngay cả khi hòn đảo ấy trôi nổi giữa những vùng biển xa xôi hoang vắng nhất của Đại Tây Dương. Mối liên hệ đó chính là đường điện tín không dây, nhờ nó chúng ta có thể tiếp nhận thông tin theo cái cách kỳ bí nhất. Chúng ta đều biết rất rõ ràng rằng các bức điện không truyền đi qua một sợi dây rỗng nào cả. Không, sự kỳ bí thậm chí còn huyền bí hơn, lãng mạn hơn, và chúng ta phải viện đến những cánh gió để giải thích cho phép màu mới mẻ này. Suốt ngày đầu tiên của cuộc hành trình, chúng tôi cứ có cảm giác cái giọng nói xa xôi ấy theo sau, hộ tống, thậm chí là dẫn đường mình. Giọng nói ấy đôi lúc lại thầm thì vào tai một người trong chúng tôi vài lời nhắn nhủ từ cái thế giới đang dần dần lùi về phía sau. Hai người bạn trao đổi với tôi. Mười, hai mươi người khác gửi những lời chia tay hoặc vui vẻ hoặc buồn rầu tới những hành khách khác. Vào ngày thứ hai, trong khi đương đầu với một cơn bão dữ dội, chúng tôi nhận được theo đường điện tín không dây, từ bờ biển nước Pháp cách đây năm trăm dặm, thông tin sau: “Arsène Lupin đang ở trên tàu của quý vị, cabin hạng nhất, tóc vàng, cẳng tay phải bị thương, đi một mình dưới cái tên là R…” Đúng lúc ấy, một tia sét kinh khủng rạch ngang bầu trời dông bão. Sóng điện tín gián đoạn. Phần còn lại của bức điện chẳng bao giờ tới với chúng tôi nữa. Chúng tôi chỉ biết được duy nhất chữ cái đầu của cái tên mà Arsène Lupin đang dùng để che giấu thân phận. Nếu đây là tin tức về một nhân vật khác, tôi chắc chắn rằng nhân viên điện tín và các sĩ quan trên tàu sẽ thận trọng kín mồm kín miệng. Nhưng đây lại là một trong những tin tức dù biện pháp giữ bí mật có chặt chẽ đến đâu cũng không tránh khỏi bị lộ lọt. Ngay ngày hôm ấy, thông tin kia nhanh chóng trở thành câu chuyện được bàn tán xôn xao khắp tàu, hết thảy mọi hành khách đều biết Arsène Lupin danh tiếng lẫy lừng đang trà trộn lẫn trong bọn họ. Arsène Lupin đang ở giữa chúng ta! Tên trộm táo bạo mà những thành tích chói lọi trong vòng vài tháng vừa qua đã làm hao tổn giấy mực của tất cả các tờ báo! Cái con người bí ẩn đã làm cho Ganimard, vị thám tử khôn ngoan sắc sảo nhất của chúng ta, vướng vào một cuộc đối đầu không khoan nhượng trong khung cảnh thú vị, đẹp đẽ như tranh. Arsène Lupin, quý ông lập dị chỉ chuyên gây án tại các lâu đài nguy nga và các phòng khách sang trọng, kẻ một đêm đã đột nhập vào dinh thự của Nam tước Schormann, rồi ra đi tay không, tuy nhiên có để lại tấm danh thiếp viết nguệch ngoạc mấy chữ: “Arsène Lupin, tên trộm hào hoa, sẽ trở lại khi nội thất trong nhà ngài là đồ xịn.” Arsène Lupin, con người với hàng ngàn vỏ bọc: lúc là lái xe riêng, lúc là thám tử, kẻ đánh cá ngựa thuê, nhà vật lý Nga, võ sĩ đấu bò Tây Ban Nha, nhân viên chào hàng, một thanh niên cường tráng, hay một ông già hom hem. Vậy hãy thử tưởng tượng tới tình huống đáng kinh ngạc này: Arsène Lupin đang lang thang thơ thẩn trong phạm vi một chiếc tàu thủy hơi nước vượt Đại Tây Dương, trong cái góc hết sức nhỏ bé ấy của thế giới, trong cái phòng ăn ấy, trong cái phòng hút thuốc ấy, trong cái phòng nghe nhạc ấy! Arsène Lupin có lẽ là bất cứ quý ông nào… là người ngồi cùng bàn tôi… thậm chí là người ngủ cùng buồng tôi không chừng. “Và tình thế này sẽ kéo dài năm ngày!” Tiểu thư Nelly Underdown thốt lên. “Thật không thể chịu đựng được! Tôi hy vọng người ta sẽ tóm cổ hắn.” Rồi nàng nói thêm với tôi: “Thưa ông, ông d’Andrésy, ông có quan hệ thân tình với thuyền trưởng, ông hẳn phải biết chút gì chứ?” Tôi sẽ sung sướng nếu biết được thông tin gì đó mà tiểu thư Nelly quan tâm. Nàng là một trong những trang tuyệt sắc giai nhân chắc chắn vẫn luôn luôn thu hút sự chú ý ở bất cứ đám đông nào. Sự giàu có kết hợp với sắc đẹp tạo thành sức hấp dẫn khó cưỡng, và tiểu thư Nelly thì sở hữu cả hai ưu điểm này. Được giáo dục ở Paris bởi bà mẹ người Pháp, tiểu thư Nelly đang trên đường sang thăm ông bố là nhà triệu phú Underdown ở Chicago. Nàng cùng đi với một người bạn, phu nhân Jerland. Ban đầu, tôi đã định tán tỉnh nàng, nhưng trong không khí thân mật tăng lên nhanh chóng giữa những người bạn đồng hành, chẳng mấy chốc tôi bị cung cách duyên dáng của nàng gây ấn tượng mạnh mẽ, và cảm xúc tôi dành cho nàng trở nên quá sâu sắc, quá trân trọng tới mức việc tán tỉnh vớ vẩn là không thể được nữa. Nàng còn chấp nhận sự quan tâm của tôi với thiện ý nhất định. Nàng hạ cố cười vui vẻ trước mỗi lời nhận xét dí dỏm của tôi và tỏ ra thích thú các câu chuyện tôi kể. Nhưng tôi cảm giác rằng mình đang có một đối thủ, một gã trai trẻ trầm lặng, tinh tế. Đôi lúc tôi chột dạ thấy nàng ưa sự hài hước kín đáo của gã hơn sự phù phiếm đậm chất Paris của tôi. Gã cũng trong đám người ngưỡng mộ vây xung quanh tiểu thư Nelly khi nàng hỏi tôi câu bên trên. Tất cả chúng tôi đang ngồi thoải mái trên những chiếc ghế dựa đặt ngoài boong. Cơn bão đêm hôm trước đã tan, bầu trời đã trong xanh lại. Thời tiết lúc bấy giờ quả là dễ chịu. “Tôi không có thông tin chính xác nào, thưa cô.” Tôi trả lời. “Nhưng chúng ta, chính chúng ta đây, chẳng thể tự điều tra về bí ẩn này giống thám tử Ganimard, kẻ thù riêng của Arsène Lupin, hay sao?” “Ôi! Ôi! Ông đi xa quá, thưa ông.” “Không hề, thưa cô. Đầu tiên, tôi xin hỏi nhé, cô có thấy chuyện này là chuyện phức tạp không?” “Rất phức tạp.” “Phải chăng cô quên mất chìa khóa để giải quyết vấn đề mà chúng ta đang nắm giữ?” “Chìa khóa nào vậy?” “Thứ nhất, Lupin tự nhận mình là Ngài R.” “Thông tin này khá mơ hồ.” Tiểu thư Nelly đáp. “Thứ hai, hắn đi một mình.” “Thông tin đó có ích gì chăng?” Tiểu thư Nelly hỏi. “Thứ ba, hắn tóc vàng.” “Thì sao?” “Thì chúng ta chỉ cần rà soát danh sách hành khách và bước tiếp theo là loại trừ dần.” Mời các bạn đón đọc Những Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ của tác giả Maurice Leblanc.
Giết Chỉ Huy Đội Kỵ Sĩ
“Có thể một ngày nào đó tôi sẽ vẽ được chân dung của thứ không có. Như một họa sĩ đã vẽ được bức tranh Giết chỉ huy đội kỵ sĩ. Nhưng để làm được vậy, tôi cần có thời gian. Tôi phải làm bạn với thời gian.” Rời khỏi người vợ đã đơn phương đòi ly hôn, “tôi” - chàng họa sĩ vẽ chân dung ba mươi sáu tuổi lang thang khắp nẻo đường rồi dừng chân tại một biệt thự nằm giữa khu rừng âm u trên đỉnh ngọn núi trông về phía biển, và sống tiếp tại đó trong nỗi cô đơn thăm thẳm. Không lâu sau, con cú đại bàng trên gác mái và tiếng chuông kỳ quái lúc đêm khuya đã khơi mào một chuỗi hiện tượng bí ẩn, dẫn dụ “tôi” bước vào chuyến phiêu lưu tâm linh huyền hoặc. Người đàn ông tóc bạc trắng xuất hiện từ bên kia thung lũng xanh biếc, ngôi miếu với căn hầm đá trong rừng, đĩa hát cũ, “Chỉ huy đội kỵ sĩ”… những chi tiết nửa thực nửa hư chậm rãi hiện hình trong bức tranh siêu thực u hoài, lạnh gáy của Murakami. *** Tác giả Haruki Murakami sinh ngày 12/1/1949 tại Kyoto, lớn lên ở thành phố Ashiya, tỉnh Hyogo nhưng phần lớn thời thanh xuân lại trải qua ở Tokyo. Murakami từng học về kịch tại đại học Waseda, Tokyo. Khi đang còn là sinh viên tại đại học Waseda, ông mở một quán nhạc Jazz có tên là Peter Cat và bắt đầu viết tiểu thuyết. Văn phong của ông chịu ảnh hưởng lớn từ văn học Mỹ, các tác phẩm của ông chủ yếu miêu tả cuộc sống và con người ở đô thị hiện đại. Nhà văn Haruki Murakami Sinh: 12 tháng 1, 1949 (tuổi 66), Fushimi-ku, Kyoto, Kyōto, Nhật Bản Vợ: Yoko Takahashi (kết hôn 1971) Giải thưởng: Giải Jerusalem, Giải Franz Kafka Đề cử: Giải văn học quốc tế Neustadt Nhiều tác phẩm của ông đã dịch ra tiếng Việt và được người đọc Việt Nam ưa thích, như: Lắng nghe gió hát Rừng Na Uy 1Q84 Biên niên ký Chim vặn dây cót Phía Nam biên giới phía Tây mặt trời Kafka bên bờ biển Người tình Sputnik Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới Cuộc săn cừu hoang Ngầm Nhảy nhảy nhảy Tôi nói gì khi nói về chạy bộ Kino Sau Cơn Động Đất Ngày Đẹp Trời Để Xem Kangaroo Những Người Đàn Ông Không Có Đàn Bà Tazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành Hương Truyện Ngắn Murakami - Nghiên Cứu Và Phê Bình Giết Chỉ Huy Đội Kỵ Sĩ   *** "Giết chỉ huy đội kỵ sĩ" ra mắt bản tiếng Nhật năm 2017 và bản tiếng Anh năm 2018. Nhà xuất bản tại Nhật cho biết 1,3 triệu bản sách ra mắt trong lần in đầu. Tại Việt Nam, đơn vị phụ trách xuất bản đã tổ chức cuộc thi thiết kế bìa cho Giết chỉ huy đội kỵ sĩ của Murakami vào cuối năm 2020. Đến ngày 11/1, sách được phát hành. Cũng giống tại Nhật, cuốn sách gây được ấn tượng với bạn đọc Việt. Giết chỉ huy đội kỵ sĩ được giới thiệu là cuốn tiểu thuyết sở hữu nhiều chi tiết nửa thực nửa hư trong bức tranh siêu thực đầy u hoài, đậm chất Murakami, thứ đã "hớp hồn" bạn đọc trong nhiều tác phẩm như Xứ sở kỳ diệu tàn bạo và chốn tận cùng của thế giới hay 1Q84. Đối với Giết chỉ huy đội kỵ sĩ, mặc dù tác phẩm mang đậm phong cách đậm chất Murakami, lại vẫn đem đến nhiều sự mới mẻ. Điều này giúp cho người đọc có được những trải nghiệm mới ngay trong bầu không khí quen thuộc, hấp dẫn. Để nói về chất lượng của cuốn tiểu thuyết, có lẽ cần so sánh Giết chỉ huy đội kỵ sĩ với 1Q84, một trong những tác phẩm thành công nhất sự nghiệp của Haruki Murakami. Tại 1Q84, tác giả đưa người đọc tới một thế giới huyền bí, đan xen giữa thực và ảo. Không chỉ thế, tác phẩm còn được định hình bởi chiều sâu tâm lý, tình cảm của người phụ nữ, trái ngược với sự bạo lực hiển hiện trong truyện. Còn đối với Giết chỉ huy đội kỵ sĩ, có lẽ, cuốn sách còn cần được nhìn ở góc độ đa chiều hơn. Nhân vật "Tôi" đã phải trải qua nhiều thứ cảm xúc hỗn độn, khó tả. Mọi thứ bắt đầu từ việc cô vợ đơn phương đòi ly hôn, rồi những bước đi lạc lõng, cô đơn sau này. Tất cả được đẩy lên cao trào khi anh ta vô tình bước vào một chuyến phiêu lưu kỳ ảo. Nhân vật "Tôi" và hành trình tìm về hạnh phúc Đầu tiên, sự mới mẻ của tác phẩm đến từ hội họa - yếu tố cốt lõi xuyên suốt Giết chỉ huy đội kỵ sĩ. Thông qua nội tâm của nhân vật "Tôi", Murakami không giấu giếm sự khâm phục mà mình dành cho nghệ thuật hội họa cũng như văn chương và âm nhạc. Xây dựng nhân vật "Tôi" có cá tính, hoàn cảnh như vậy đồng nghĩa việc Murakami có cơ hội để tạo ra các chi tiết ẩn dụ, truyền tải triết lý của mình về hội họa một cách trôi chảy, mượt mà nhất. Tất nhiên, cuốn tiểu thuyết vẫn có những điểm quen thuộc giống với các tác phẩm trước của Murakami, ví dụ cách ông đưa vào cuốn sách các chi tiết như thú vui tự nấu ăn, âm nhạc, hay những đối thoại hài hước. Giết chỉ huy đội kỵ sĩ không chỉ tạo ra luồng gió mới đối với người hâm mộ Murakami mà tác phẩm còn xây dựng được chiều sâu trong nội tâm mỗi nhân vật. Ảnh: Midori. Bên cạnh đó, Giết chỉ huy đội kỵ sĩ cũng xuất hiện yếu tố thần thoại như trong Kafka bên bờ biển (câu chuyện về Oedipus) là ẩn dụ về dòng sông với người lái đò vô diện được lấy cảm hứng từ sông Styx dưới âm phủ và gã lái đò Charon. Giống với Rừng Na Uy, các tuyến nhân vật được gói trong mối quan hệ tay 3 như Watanabe Toru - Naoko - Kizuki hay Watanabe Toru - Midori - Naoko, thì Giết chỉ huy đội kỵ sĩ cũng được Murkami xây dựng và phân vai theo mối quan hệ ba người như thế. Duy có điều khác biệt ở đây là các mối quan hệ này đều được gắn liền bức họa quan trọng, ví dụ "Tôi" - họa sĩ Amada Tomihiko - bức Giết chỉ huy đội kỵ sĩ, Tôi - Menshiki - bức chân dung Menshiki... Vì thế, dù liên tục xuất hiện những tình tiết ẩn dụ, siêu thực hay một khái niệm khó hiểu nhưng độc giả vẫn có thể theo dõi mạch truyện một cách khá thuận lợi, không bị chồng chéo. Rồi tất cả ý tưởng và ẩn dụ xuất hiện trong truyện được xâu chuỗi, liên kết với nhau bằng luật nhân quả. Thậm chí, sự luân hồi phi thời gian đã đưa nhân vật "Tôi" đi qua tất cả không gian hư hư thực thực trong Giết chỉ huy đội kỵ sĩ. Qua cuộc hành trình ấy, nhân vật "Tôi" đã nhận ra rằng bất cứ ai cũng đều trải qua “ẩn dụ kép” mang tính chất hai mặt. Những sai lầm, nỗi đau và sự sợ hãi có thể còn đáng sợ hơn cả cái chết nhưng đồng thời trong chính những khoảnh khắc tiêu cực ấy, người ta vẫn có thể tìm thấy điều tốt đẹp. *** Haruki là tác giả quốc tế chứ không riêng gì của Nhật nữa, phong cách của ông như một tượng đài trên văn đàn, độc đáo riêng biệt. Hiếm có tác giả nào giữ được sức sáng tác đều tay và tốc độ ra sách nhanh như ông (và làm quái nào mà ổng vẫn chưa đoạt giải Pulitzer nhỉ)  Mối duyên độc giả - tác giả của mình và ông thì hơi bị gián đoạn và chỉ mới nối lại gần dây. Sự gián đoạn tính theo chục năm, thời mình đọc 1 lèo Rừng Nauy, Phía Nam Biên Giới Phía Tây Mặt Trời, Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót - mà quả thực. bây giờ chỉ nhớ rõ nhất mỗi Rừng Nauy vì nhờ coi phim, 17 - 18 tuổi, thời trẩu tre nên thấy cái gì mà khó hiểu phức tạp là thích nhảy vô lắm, mà cái giá của việc đọc mà không cảm không hiểu là ù cạc và mất luôn sự hứng thú với tác giả suốt một thời gian dài, phải đến khi “già chát” như hiện tại thì mới đọc lại, mà cứ nhẩn nhơ tha thẩn mãi mới xong một cuốn, vì đâu còn quỹ thời gian dồi dào như xưa.  Nhưng thích, cuốn đầu tiền mình đọc lại của ông sau giai đoạn “nghỉ chơi dài hơi” là “Những người đàn ông không có đàn bà” (nghe đồn 1 truyện ngắn trong đó sắp được dựng thành phim 3 tiếng - đạo diễn chắc cũng không phải người thường mà có thể dựng 1 truyện ngắn của ổng chưa đầy 3 trang thành phim 3 tiếng). Lần đó đọc sách mà cảm giác bỡ ngỡ rụt rè đúng kiểu gặp lại 1 người bạn vong niên, thậm chí với đứa có tật đọc nhanh như mình mà lần đó có những trang phải giở lại, hoặc nghỉ 1 2 hôm rồi đọc tiếp.  Cuộc gặp gỡ tiếp theo cách đó cũng khá lâu là bộ tiểu thuyết cực nổi thời gian mới ra mắt, 1Q84mà mình cũng là đứa lỗi thời nên 10 năm sau khi sách ra mới tìm đọc. Sau lần đầu bỡ ngỡ thì lần 2 này Haruki đã khiến mình “té” vô tình yêu sách của ổng lần nữa, thiên thời địa lợi thì đúng hơn là “nhân hoà” vì mình nhịn lâu ơi là lâu mới đọc lại tiểu thuyết (sau 1 thời gian nỗ lực xoá nghèo kiến thức với các sách lĩnh vực khác thì trời ơi lúc đó 1Q84 đã tưới mát cánh đồng khô quéo trong mình bằng ngồn ngộn câu từ và một câu chuyện liêu trai phức tạp đúng phong cách của ông)  Và lần 3 là Giết chỉ huy đội kỵ sĩ (gớm mở bài lê thê vãi)  Tại sao mình chọn Giết chỉ huy đội kỵ sĩ chứ không phải 1Q84 để viết về, một phần vì mới đọc gần đây nên vẫn nhớ mang máng (ha ha), nhưng phần lớn là vì mình thích …Kỵ Sĩ hơn là ..84. Nếu ví cả 2 với ẩm thực thì 1Q84 là một bữa ăn đêm Phục Sinh cầu kì, đầy ắp các mỹ bị và món nào cũng được đầu bếp chăm chút với kỹ năng tuyệt đỉnh, bữa ăn kéo dài tận 3 tập (dày) (mà ổng hoàn thành chỉ trong vỏn vẹn 1 năm, khủng khiếp) thì Giết chỉ huy đội kỵ sĩ với mình như một bữa Brunch cuối tuần, ngon, chất lượng và đủ nhiều để lấp đầy bụng cho cả bửa sáng lẫn trưa, quan trọng là chữ “đủ”.  Sức hấp dẫn của Haruki mang đến cho mình trong ...Kỵ Sỹ thực ra cũng là những điều đã giúp ông nổi tiếng bấy lâu, bút lực dồi dào, trí tưởng tượng tuyệt vời, khả năng xây dựng nhân vật sống động và cực kì tỉ mỉ, nhưng điều mà ông làm mình phải ngả mũ trong tiểu thuyết mới nhất này là kiến thức và sự đầu tư ông đã bỏ ra để làm chất liệu cho sách - vốn sống dồi dào, sự thông tuệ cùa ông thể hiện rõ nét trong các nhân vật và tác phẩm của ông, dù là chính hay phụ hay thoáng qua, họ đều có một tư chất nghệ thuật nhất định, họ có gout nghe nhạc, họ đọc sách, họ theo đuổi thứ mà họ đang theo đuổi một cách nghiêm cẩn. Lần này với Chỉ huy đội kỵ sĩ, ông mang đến cho độc giả một lát cắt nghệ thuật mới, là hội hoạ, nhưng cũng như những gì mình từng biết về ông, hội hoạ chỉ là tấm giấy nền, trên tấm giấy ấy, ông vẽ nên câu chuyện của mình bằng những đường cọ sắc nét, táo bạo, và nhiều tầng lớp - và cũng giống như thưởng tranh, đôi khi thứ níu giữ khán giả là sự kết nối của họ với chính tác phẩm đó - với chính người nghệ sĩ hơn là những gì thể hiện trên bức tranh.  “- Nhưng làm thế nào mà cậu phát hiện được bức tranh này? Menshiki hỏi  - Phát hiện?  - Đương nhiên cậu là người vẽ bức tranh này. Cậu đã tự mình sáng tác. Nhưng đồng thời, xét theo một nghĩa khác thì cậu đã phát hiện ra bức tranh. Nghĩa là cậu đã tìm thấy và lấy ra được hình ảnh chôn giấu bên trong cậu. Chắc phải dùng từ khai quật mới đún. Cậu có nghĩ vậy không?  Nói vậy có lẽ cũn đúng, tôi thầm nghĩ. Tất nhiên là tự tôi đã vẽ bức tranh này theo ý mình. Tôi cũng là người chọn màu vẽ, là người dùng cọ, dao và ngón tay để tô màu. Nhưng nếu nhìn theo cách khác thì có lẽ tôi đã dùng Menshiki làm chất xúc tác để tìm và lấy ra thứ được chôn sâu bên trong con người tôi… Menshiki nói:  - Giống như một trận động đất xuất hiện dưới đáy biển sâu. Thay đổi lớn xảy ra ở thế giới vô hình, thế giới không có ánh mặt trời, nói cách khác là vùng vô thức bên trong. Thay đổi ấy lan truyền tới mặt đất, gây ra phản ứng liên hoàn, cuối cùng mới định hình trước mắt chúng ta…” Mình có đọc đâu đó không rõ (chắc là lúc search hình sách để chèn vô bài viết) rằng Giết chỉ huy đội kị sỹ không được đánh giá cao bởi đọc giả yêu thích Haruki, nhưng với mình, khi viết những dòng này, mình chợt nhớ đến 1 nhận xét của báo Thanh Niên về phim Đông Tà Tây Độc, rằng ”Đạo diễn Vương Gia Vệ mượn truyện kiếm hiệp Kim Dung để kể về tình yêu”, mình xin lấy ý tứ của câu này để nói về sách của Haruki, những cuộc phiêu lưu viễn tưởng trong sách của ông thực ra cũng chỉ để làm nền để ông kể về những con nguời cô đơn trên thế giới  này và cách họ kết nối với chính mình, và với thế giới quan xung quanh, một cách kì lạ, khó tin, huyễn hoặc đến vô lý. Như Aomame nắm chặt tay Tengo đi qua đường hầm thông lên đường cao tốc để trở về lại thế giới của họ trong 1Q84, và anh hoạ sĩ chui vào một thế giới sâu trong lòng đất để hoàn thành một nghĩa vụ anh không hiểu là gì nhưng anh tin bằng trực giác của mình và hành động, để rồi khi ra khỏi ở phía bên kia, tất cả đã khác trừ chính anh.  Đôi khi sự rời rạc và vô lý trong cách hành văn của ông lại chính là sự cố ý sắp đặt, vì mỗi con người sẽ có một cách khác nhau để tìm đến bản thể của mình. Liệu tương lai có thật sự là một bí ẩn, hay nó bắt đầu từ rất lâu trước hiện tại, có lẽ sự băn khoăn về sự vĩ mô của cuộc đời được truyền tải tài tình qua con chữ mới là điều khiến độc giả “ghiền” Haruki lâu và dài đến vậy, sự thoả mãn không nằm ở đáp án hay cái kết nào, màn nằm ở hành trình kì diệu nằm sau mỗi trang sách (và mỗi ngày). Tận hưởng và khám phá thôi.  Thực ra, mình vẫn bị “stuck” khi viết review về sách, có nên miêu tả về nhân vật không, có nên tóm tắt câu chuyện không, có nên điểm qua các tình tiết “key” trong sách không. Bởi sách (hoặc phim) nó khác với món ăn hay địa điểm, nó attach khá nhiều với cá nhân, sự cảm thụ, tính cách, gout, tâm trạng nữa…đều khiến mình phải chùng tay mỗi khi viết về sách hay phim, bởi thực sự các lăn tăn kể trên, với mình thì mình nghĩ “phải tự đọc hay xem thì mới nghiệm ra được”, nên stuck là chỗ đó, không biết viết gì thêm… Hy vọng đến những cuốn sau sẽ đỡ stuck hơn.  Mời các bạn đón đọc Giết Chỉ Huy Đội Kỵ Sĩ của tác giả Haruki Murakami & Mộc Miên (dịch).