Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Quyến Rũ

Mười năm trước, đối với Brenna Marcelli, gia đình, nghề làm rượu vang, và một người con trai là tất cả thế giới của cô. Sau gần mười năm xa cách và một cuộc hôn nhân thất bại, Brenna quay trở về điền trang Marcelli để sống cùng ông bà và cha mẹ mình. Giữa một loạt những biến cố và sự kiện mới của gia đình - một đám cưới đôi của chị và em gái cô, sự xuất hiện của một người anh trai lưu lạc từ lúc mới chào đời, những ám ảnh về một mối hận thù truyền đời giữa gia đình cô và nhà hàng xóm Giovanni - Brenna quyết định sẽ gây dựng một xưởng rượu mới cho riêng mình. Và cô chỉ có một lựa chọn duy nhất để thực hiện được ước mơ của mình - đó là đi vay tiền Nic Giovanni, kẻ thù của gia đình, cũng là mối tình đầu của cô. Và cô nhận ra, quãng thời gian mười năm xa cách, những đổi thay và thất bại trong cuộc sống, tất cả không thể làm thay đổi được tình yêu của cô dành cho rượu vang, cho đám nho, và hơn thế nữa, cho một con người... Là tác phẩm thứ ba trong serie năm cuốn về năm anh chị em nhà Marcelli của Susan Mallery, The Seductive One có tất cả những yếu tố của một cuốn Romance nhẹ nhàng mà mi_do_ri yêu thích: một gia đình đông vui, đầm ấm, một nghề làm rượu vang gia truyền đầy hấp dẫn, một mối tình đầu nóng bỏng, mê say, một chút thù hận và trả thù cho hợp với chất Ý... Mình không giỏi viết giới thiệu và tóm tắt, chỉ biết nói đây là tác phẩm mình thích nhất trong serie này và muốn được chia sẻ với mọi người. *** Vay một triệu dollar của quỷ xứ là một chuyện, kháng cự lại được với hắn khi làm điều đó lại là một chuyện khác. Brenna Marcelli tự cho mình cũng thông minh trên mức trung bình. Với một tương lai còn đang mù mịt, cô sẽ chẳng thể làm gì được ngoài việc cố tỏ ra hoàn toàn dễ thương trong suốt cuộc đối thoại sắp tới với Nicholas Giovanni. Cô sẽ tự tin, sẽ đầy thuyết phục, thậm chí là lôi cuốn nữa. Cô sẽ không nổi nóng, cầu xin, hay nghĩ đến sex. Đặc biệt là sex. Dù cho nó đã từng tuyệt đến thế nào đi nữa. Nhưng nó đã rất tuyệt, cô nghĩ, khi sải bước dọc theo chiều dài sảnh đợi khu văn phòng của Wild Sea Vineyards. Còn hơn cả tuyệt nữa. Một lần, họ đã làm chuyện đó trên bãi biển, và cũng đêm đó, chương trình tin tức đã đưa tin về một cơn trều cường cao bất ngờ. Brenna vẫn luôn thắc mắc liệu cô với Nic có một phần trách nhiệm trong hiện tượng đó hay không. “Quá khứ,” cô nói thầm, ép chặt tập hồ sơ trước ngực. “Một quá khứ cổ xưa rồi. Còn bây giờ là một thập kỷ mới – thậm chí là một thế kỷ mới. Mình có khả năng. Mình độc lập. Mình đang thực sự khó chịu vì anh ta đã để cho mình phải chờ đợi.” Cô quay lại và nhìn về phía cánh cửa đang đóng dẫn đến văn phòng riêng của Nic. Khi cô trợ lý của anh yêu cầu cô đợi và hứa là ông chủ sẽ gặp cô ngay thôi, Brenna đã tin tưởng cô ta. Giờ, gần mười phút trôi qua, cô trợ lý đã biến mất và vẫn không thấy bóng dáng Nic đâu. “Chỉ là một trò cân não thử sức thôi,” cô tự nhủ, hít một hơi thở dài lấy lại bình tĩnh. “Mình sẽ không bỏ cuộc đâu. Anh ta có thể khiến mình đợi lâu đến chừng nào anh ta muốn.” Ngoại trừ là bụng cô đang quặn lại, cô thấy thực sự hối tiếc vì đã cố cái cốc cà phê thứ năm đó, và cô có một cảm giác xấu là nếu cô ngừng đi lại quá lâu, hai đầu gối cô sẽ run rẩy mất. Đó không hẳn là bức chân dung về một con người chuyên nghiệp tự tin mà cô đang muốn phác họa ra. Cô thực sự cần – Cánh cửa văn phòng bật mở và chính con quỷ bước ra. Thôi được, có lẽ gọi Nic là quỷ là hơi quá, nhưng anh trông kín bưng, nguy hiểm, và đến mức này rồi thì cô sẽ bán cả linh hồn mình cho anh để có được cái cô muốn. Một đóa hồng được gọi trại đi bằng một cái tên khác, hay gì cũng được. “Brenna.” Nic mỉm cười gọi tên cô. Cứ như thể họ vẫn gặp nhau thường ngày. “Thật vui được gặp em.” Giá như là thế, cô nghĩ. Cô đã không đặt chân đến nhà Giovanni mười năm rồi. Và vì một lý do chính đáng. “Xin chào, Nic.” Anh ra hiệu về phía văn phòng của mình và cô bước vào chốn riêng tư ấy. Căn phòng không thay đổi nhiều so với lần cuối cùng cô nhìn thấy nó. Vẫn rộng lớn, vẫn bị thống trị bởi một cái bàn có từ thế kỷ thứ mười tám. Cái máy tính là mới, cũng như người chủ của nó. Mười năm trước, ông nội của Nic là người làm chủ chốn này. Từ đây, ông điều hành toàn bộ công chuyện làm ăn của Wild Sea Vineyards. Giờ, người già đã ra đi và Nic là người tiếp nối. Tiếp nối và bành trướng, cô nghĩ khi đứng trước tấm bản đồ treo trên tường đối diện với cái bàn bề thế. Cô quan sát những khu vực được bôi đậm, thể hiện chi tiết đất đai của nhà Giovanni, cho thấy họ đã mở rộng được đến cỡ nào trong bảy năm trở lại đây. Nic vẫn luôn muốn trở thành người lớn mạnh nhất và cừ nhất. Và không cần phải bàn cãi gì nữa, anh đã đạt được mục tiêu đó. Tất nhiên, tập trung vào tấm bản đồ cho phép cô không nghĩ đến cái bàn chết tiệt sau lưng. Thật không may, rồi cô sẽ phải quay lại và nhìn nó. Sẽ không tệ đến thế đâu nếu cô và Nic chưa từng, ừ, làm chuyện đó trên cái bàn ấy. Đó là một ngày chủ nhật, khoảng ba giờ sáng. Màn đêm yên tĩnh, lạnh và lãng mạn lạ thường. Tất nhiên, đó là hồi cô mười bảy tuổi và đang yêu, đang ở cái thời khắc mà dù có làm việc đáng chán nhất trần đời là ngồi chờ đợi một vệt màu nước khô đi, cũng vẫn thấy lẵng mạn như thường. “Xin hoan nghênh em ngồi xuống đấy,” anh nói, một chút thích thú trong giọng anh. Chắc chắn rồi, cô nghĩ, hất thẳng vai và quay lại đối mặt với quá khứ của mình. Nic làm việc ở đây hàng ngày. Anh hiển nhiên là đã quên những gì xảy ra trên cái khối gỗ đó. Nhưng cô thì không. Cô đi về phía một chiếc ghế tựa quá khổ và buông mình xuống lớp da êm ái. Nic đi vòng qua chiếc bàn của mình và ngồi đối mặt với cô. “Anh đã ngạc nhiên khi biết em hẹn gặp anh đấy,” anh nói một cách dễ dàng. “Anh hy vọng là mọi chuyện vẫn ổn với gia đình em.” “Mọi người khỏe cả. Thực sự là, tuyệt vời ý. Francesca đã đính hôn rồi.” Còn hơn cả đính hôn nữa, nhưng chuyện đó phải dành để lần khác kể thôi. “Ông nội em chắc hạnh phúc lắm.” Cô gật đầu và nhận thấy tia nhìn của mình đang chiếu lên gương mặt anh. Những đường nét mạnh mẽ, cô nghĩ, chợt nhớ đến người con trai ngày xưa khi cô quan sát người đàn ông trước mặt. Anh vẫn luôn có những nét mạnh mẽ. Đôi mắt hút hồn, cái mũi thẳng, cái cằm cương nghị, và thậm chí là ương bướng nữa, và cái miệng đã từng hôn cô khiến cô quên cả thời gian. Tiết trời tháng tám ấm, nhưng anh vẫn mặc một cái áo sơ mi dài tay màu đen, một cái quần tối màu. Không phải là quần jeans và áo T-shirt như cô vẫn từng quen nhìn. “Anh ăn mặc trang trọng quá,” cô nói.       “Vì cuộc gặp mặt của chúng ta đấy.” Anh mỉm cười, một nụ cười chậm rãi, lôi cuốn, khiến cô nhớ đến những nụ cười khác. Như nụ cười anh đã từng dùng để thuyết phục cô, rằng sẽ thực sự rất ổn khi làm tình vào buổi đêm trên cánh đồng nho. Đó là lần đầu tiên của họ, và cô đã mất đi sự trong trắng của mình giữa hợp âm của đàn dế và – Ngừng lại ngay lập tức, cô tự bảo mình. Chìm vào dòng hồi ức đó sẽ chỉ khiến cô dấn sâu thêm vào rắc rối thôi. Cô ở đây với một nhiệm vụ không liên quan chút gì đến những nụ cười lôi cuốn đó, hay là cái hơi nóng của ngọn lửa đang cháy dần xuống phía bụng dưới của cô. Cô bắt mình thả lỏng trên cái ghế da. Cô cẩn thận bắt chéo chân, và cố biểu lộ một vẻ thích thú vừa phải, uể oải vừa vừa. Ai mà biết được, biết đâu nó lại hiệu quả. “Tất cả chuyện ăn mặc rắc rối đó là vì em à? Em không nghĩ vậy đâu.’ Anh cười lục khục. “Được rồi. Cuối giờ chiều nay anh có một cuộc gặp với mấy nhà phân phối nước ngoài. Anh nghĩ là mặc đồ jeans sẽ khiến họ rút lui mất.” Không đâu, nếu họ là phụ nữ, Brenna nghĩ, trước khi cô kịp ngăn mình lại. “Vậy là bọn anh lại đang mở rộng tiếp,” thay vì vậy, cô nói. “Luôn luôn. Trở thành kẻ lớn mạnh nhất và cừ nhất.” “Anh thực sự đã thắng lợi về mặt số lượng rồi đấy.” “Không phải người ta vẫn nói vấn đề về kích cỡ đấy sao?” “Chỉ những ai không biết tận dụng những gì mình đang có thôi.” Một chớp mắt trước khi quá muộn, cô chợt nhớ đến lời thề của mình về chuyện sẽ không tranh cãi với anh. “Xin lỗi,” cô lẩm bẩm. Anh nhướng mày. “Vì đã không đồng ý với anh à? Lần đầu tiên đấy. Giờ thì thậm chí anh thấy tò mò rồi đây.” Anh toét miệng cười và ngả người về phía trước. “Được rồi, Brenna. Em đang ở đây, em diện một bộ cánh, và em mang theo cái đám trông như một núi giấy tờ vậy. Sao em không nói cho anh biết đang có chuyện gì vậy?” Vậy là họ sẽ đi thẳng vào vấn đề. Cô hắng giọng và đặt tập hồ sơ lên bàn. Khoảnh khắc đó, não cô như đông lại, và mọi câu nói thông minh, logic, đầy giọng điệu tài chính cô đã luyện tập bay sạch khỏi đầu. “Em là một trong những người cừ nhất trong chuyện làm ăn,” cô bắt đầu, rồi lại ngập ngừng, tự hỏi không biết nói vậy nghe có tự cao quá không. Ít ra anh cũng không phá ra cười. “Anh sẽ phải thừa nhận là anh không muốn đối đầu cạnh tranh với em đâu.” anh thừa nhận. Lời khen ngợi khiến cô thêm tự tin và muốn cựa quậy trên ghế của mình.Cô tự hài lòng với bản thân bằng một nụ cười nhẹ. “Như nội em vẫn nói, ngoài nội ra, em là người duy nhất trong gia đình có đam mê với rượu vang. Em vẫn dành cả cuộc đời mình cho nó.” Anh định nói gì đó, nhưng cô nhanh chóng tiếp lời. Không đời nào cô để anh nhắc cô nhớ lại mười năm cô đã bỏ bẵng Marcelli Wines. Mười năm cô đã sống như một con ngốc. “Nội đã cho em phụ trách nhà máy rượu vang. Em biết cần phải làm những gì để có được thành công ở một cấp độ mới.” “Vậy là em đến đây không phải để xin việc.” “Không.” Cô mở tập hồ sơ. “Em đến đây để xin một khoản vay.” Nic thẳng người. “Tại sao? Gia đình em đâu có vấn đề gì về tiền bạc đâu.” “Marcelli Wines thì không có. Việc kinh doanh chưa bao giờ tốt đến thế. Nhưng em không phải là họ. Em làm việc cho nội. Công ty vẫn thuộc sở hữu của nội.” “Rồi em sẽ thừa kế nó mà.” Giá như là thế. Sự thật không nên vẫn cứ gây đau đớn thế này, nhưng nó vẫn thế. Nó khiến cô đau đớn rất nhiều. “Việc thừa kế của các chị em gái em và em không còn chắc chắn nữa rồi.” Cô ngừng lời, biết rằng giữ bí mật cũng chẳng để làm gì. Rồi cuối cùng anh cũng biết chuyện thôi. “Có vẻ như bố mẹ em đã có một đứa con riêng, như bố mẹ nói thế. Một đứa con trai. Khi đó cả hai vẫn còn đang học trung học. Vì áp lực của gia đình, họ đã cho đứa trẻ làm con nuôi.” Nic vẫn điềm tĩnh như mọi khi. Thay vì để lộ bất cứ chút cảm xúc nào trên gương mặt, anh dựa lưng vào ghế. “Chuyện này sẽ thay đổi mọi thứ,” anh thừa nhận. “Em biết được khi nào?” “Trong buổi Đại tiệc đêm mùng bốn tháng bảy của nhà em. Thực ra thì chỉ là một buổi tiệc có bắn pháo hoa thôi. Vấn đề là, đứa trẻ thất lạc nay đã là một người đàn ông ba mươi tuổi.” Hai gia đình Marcelli và Giovanni có thể không còn nói chuyện với nhau được gần ba thế hệ rồi, nhưng họ vẫn phát triển trên cùng một chuẩn giá trị truyền thống Italia. Thuyết bình đẳng nam nữ vẫn còn chưa đặt chân được đến lãnh địa những vườn nho của họ. Nic nhận ngay ra vấn đề. “Và ông nội em đủ lạc hậu để thấy thoải mái hơn khi để lại công việc làm ăn của gia đình cho một người thừa kế nam. Anh đoán là người anh thất lạc bấy lâu đó có hứng thú chứ?” “Nó là cả một đống tiền. Anh có thể không hứng thú được không?” cô hỏi lại với một sự vui vẻ nhẹ nhàng mà cô không nhận thấy. “Tất cả chuyện này khiến em chỉ còn là một mẩu nhỏ trong chuyện thừa kế.” Giờ đến phần khó khăn rồi đây. “Em biết việc làm rượu vang đã ăn sâu trong máu em. Em không muốn làm bất cứ cái gì khác nữa trong suốt cuộc đời mình.” “Nếu suy nghĩ của em là đúng và anh trai em sẽ được thừa kế, thì sao anh ấy lại không để em tiếp tục điều hành mọi việc?” “Anh ấy có thể làm thế, nhưng em không sẵn sàng chỉ đứng một bên để đợi chờ và quan sát. Em cũng có những ý tưởng và kế hoạch riêng của mình nữa. Em muốn gây dựng một nhãn hiệu mới của riêng mình.” Anh chỉ vào chồng hồ sơ trước mặt cô. “Kế hoạch đề xuất của em đây à?” Cô gật đầu. “Em đã liệt kê chi tiết tất cả. Loại nho nào em muốn mua, mức giá nguyên liệu, các thùng đựng rượu, kho chứa. Còn có cả một mảnh đất em đang quan tâm nữa.” “Gây dựng một nhãn hiệu mới tốn không ít tiền đâu.” “Em biết.” Cái nhìn kín bưng của anh chưa một lần rời gương mặt cô. “Em còn đi vay tiền ở những chỗ nào nữa?” “Bất cứ đâu có những kẻ cho vay nặng lãi.” Anh gật đầu. “Để anh đoán nhé. Họ muốn biết tại sao em không thể lấy tiền từ ông nội em.” “Kiểu thế. Họ còn bận tâm là sao em không có bất kỳ bảo đảm nào. Em đã giải thích rượu vang chính là bảo đảm rồi, nhưng có vẻ chả gây được ấn tượng gì cho họ cả.” Cô nhún vai. “Anh là một người ưa mạo hiểm, nhưng chỉ với những món hời. Và em chắc chắn rồi, chính là cái mà anh đang tìm kiếm đấy.” Anh nhướng mày. “Thật không?” Brenna có thể hớn hở mà ném mình vào một chiếc xe tải đang lao tới. Cô có thể cảm thấy mặt mình đang nóng bừng lên, nhưng nhờ làn da oliu, nét ửng đỏ ấy không lộ ra. Chỉ là một sự an ủi nho nhỏ, nhưng cũng đủ để cô bám vào, như đang níu chặt người sẽ giải cứu cả cuộc đời cô vậy. “Anh biết là em có thể làm được mà,” cô nói, làm như cô chưa hề bị anh bắt thóp là đang chơi chữ vậy. “Có thể,” anh nói. “Nhưng tại sao anh lại cần phải hỗ trợ cho đối thủ của mình chứ?” Lần đầu tiên kể từ lúc đặt chân đến đây, Brenna được thư giãn. “Ôi, làm ơn đi. Nếu may mắn, phải mất năm năm em mới có thể đạt được mười phần trăm những gì anh đang có. Em không nghĩ là anh sẽ lo ngại em ngáng đường làm ăn của anh đâu.” “Có vẻ hợp lý đấy. Thế tại sao em lại đến chỗ anh?” “Anh là người duy nhất em biết có dư tiền mặt.” “Bố mẹ em có thể giúp em.” “Rõ ràng là vậy. Nhưng em không muốn khiến bố mẹ phải lựa chọn giữa em và nội. Anh là người hoàn toàn trung lập.” “Anh là một người nhà Giovanni. Điều ấy không khiến anh trở thành anh em với quỷ dữ sao?” Thế, đúng là cái ý tưởng cô đã có lúc trước, chỉ có điều, trong mắt cô, mối quan hệ anh em đó có gần gũi hơn chút ít nữa. Đến chỗ Nic là hy vọng cuối cùng của cô, nhưng cũng là một sự mạo hiểm đã được cân nhắc kĩ. Mối thù giữa hai gia đình Marcelli và Givanni đã kéo dài hàng bao năm trời. Có thể nội cô sẽ biết chuyện về món nợ nếu cô đi vay từ những kênh truyền thống như ngân hàng, nhưng nội sẽ không bao giờ biết được nếu như Nic là người cho cô vay. Nội Lorenzo thà cắt lưỡi của mình còn hơn phải nói chuyện với một người nhà Giovanni. Brenna và các chị em của cô chưa bao giờ quan tâm đến mối thù truyền kiếp đó cả. Nic cũng chưa bao giờ, anh đã chứng mình như vậy từ lần đầu tiên cô gặp anh. Nhưng với ông bà của cô – sự thù địch đó vẫn còn nguyên. “Có chút ít mỉa mai trong cuộc nói chuyện này,” cô thừa nhận. “Em chỉ muốn nghĩ rằng nó sẽ hấp dẫn anh.” Anh quan sát cô. Brenna muốn biết anh đã thấy những gì, nhưng có lẽ anh không nhìn thấy gì cả lại tốt hơn. Cô vẫn còn đang trong giai đoạn phục hồi từ vụ cắt tóc bốc đồng thảm hại lần trước. Vài tháng ở nhà với sự chăm bẵm ăn uống của hai bà đã đắp thêm vào những đường cong vốn đã đầy đặn của cô bảy pound nữa. Cô nghĩ bộ cánh cô chọn mặc nhìn rất ổn, nhưng như vậy đã đủ chưa? Cô đã khác xa với cô nhóc mười bảy tuổi, người đã từng hứa sẽ yêu Nic bằng cả trái tim; nhưng vấn đề là, liệu anh có còn bận tâm đến sự thay đổi đó là tốt hay xấu nữa không? “Người ta vẫn đồn anh là một tên con hoang tàn nhẫn đấy,” anh nói bất chợt. “Em có nghe rồi. Em có nên sợ không?” “Nói anh nghe xem.” Cô có thể nhớ mọi thứ về Nic – cái cách anh chạm vào cô, cách anh hôn cô, mùi hương của làn da anh. Cô đã từng biết anh, người con trai ngày xưa, chứ không phải là người đàn ông này. Cái gì vẫn vậy và cái gì đã thay đổi? Mà chuyện đó liệu có quan trọng nữa không? Có là tên con hoang tàn nhẫn hay không, thì cô vẫn cần tiền của anh. “Giờ em không còn sợ hãi dễ dàng vậy đâu.” Cô đẩy tập hồ sơ về phía anh. “Anh thử xem xem rồi cho em biết anh nghĩ gì.” Anh đặt bàn tay lên cái bìa da nhưng không mở nó ra. “Bao nhiêu?” Trong bụng cô như đang xuất hiện cả đàn bướm và chúng đang bắt đầu bay. Cô nghĩ chúng có thể đang luyện tập màn hạ-cánh-và-tiếp-đất. Miệng cô khô khốc, ngón tay cô ướt đẫm, và cả căn phòng bỗng nhiên chao đảo. “Một triệu dollar.” Nic không có bất kỳ một phản ứng gì – ít nhất là vẻ bề ngoài. Anh không nheo mắt, vẫn ngồi yên trên ghế; anh thậm chí không cười. Nhưng bên trong, sự tò mò thích thú của anh đã biến thành một mối sửng sốt sâu sắc. Anh lôi ví từ túi quần sau và trỏ vào đám giấy bạc. “Em có muốn tất cả bằng đồng hai mươi dollar không?” “Em không phải đang ở vị thế được đòi hỏi. Tiền hai mươi dollar cũng ổn rồi.” “Anh không nghĩ hôm nay anh mang theo mình nhiều ngần ấy đâu.” "Bất tiện quá." Cô nhìn anh, đôi mắt đang mở lớn đã phản bội sự bối rối của cô. Cô đang cùng đường rồi, và cả hai người bọn họ đều biết vậy. Nếu anh từ chối cô, cô sẽ không thể có được khoản vay. Mọi giấc mơ về một nhãn hiệu của riêng cô vậy là sẽ tan tành. Ồ, chắc rồi, cô vẫn có thể mua được vài tấn nho ngoài chợ nông sản, đi mượn trang thiết bị, rồi làm ra vài tá thùng rượu vang rẻ tiền cất ở một gara nào đó. Cô có thể có được sự ủng hộ từ những người trung thành với Marcelli, một chút chú ý, có thể là một vài lời từ Hiệp hội rượu vang. Nhưng không có tiền, cô sẽ không bao giờ có cơ hội để làm một cái gì to tát cả. Không, khi anh có quan tâm quái gì đến chuyện đó đâu. Tất cả những gì anh quan tâm, là mục đích của anh. Làm sao cái yêu cầu của cô có thể ghép vừa vào bức tranh to lớn đó? Anh đứng lên, đi vòng qua bàn đến đứng trước mặt cô, anh tựa vào bàn, khoanh hai tay trước ngực. Đó là một tư thế đầy hăm dọa. Đầy thách thức. Brenna phản ứng lại bằng cách buông hai chân, rồi lại bắt chéo chân trở lại. Trong sự yên lặng của căn phòng, tiếng cọ sát của đôi tất lụa của cô như nghiến vào tai anh. Anh nhận thấy mình đang dõi theo chuyển động đó, nhìn chăm chăm vào đường viền trên váy cô, tưởng tượng ra cặp đùi cô phía dưới cái váy. Và phía trên cặp đùi cô? Là thiên đường. Ít nhất, đó là những gì cơ thể cô mang lại mười năm trước. Kín đáo, trơn mượt, bí mật – là con đường dẫn tới sự cứu thế. Để rồi thay vào đó, cô đã đưa anh thẳng xuống địa ngục. Vì cô, anh đã bị đuổi khỏi nhà. Anh đã phải sống tha hương, bị bỏ rơi, và bị ruồng bỏ cho đến chết. Thật không may, hồi ức đó chẳng giúp được cái khỉ gì cho trạng thái căng cứng bất chợt đang lan khắp người anh. Anh vội nhìn đi chỗ khác trước khi tự biến mình thành mất trí với những kỷ niệm không nên nhớ đến. “Anh không nói không,” anh nói với cô. “Anh đang đùa!” Cô đứng bật dậy, vẫn thấp hơn một foot so với anh. Đủ gần để cho anh có thể thấy những tia vàng nâu trong mắt cô, và cả vết sẹo nho nhỏ nơi khóe miệng cô. Đủ gần để mùi hương của cô chiếm hữu toàn bộ không gian của anh. Mùi hương đã khác, nhưng phản ứng của anh với nó thì không. Hơi nóng đã bị lãng quên từ lâu bỗng thức dậy, lan tỏa, tìm kiếm nơi chế ngự. Anh cố gạt đi hơi nóng và ham muốn. Không đúng nơi và không đúng thời điểm, và cả cô, chắc chắn quá đi rồi, là không đúng người. Điểm chính bây giờ là anh vốn đã có một kế hoạch. Trong những năm qua, anh đã học được rằng, một kế hoạch thấu đáo sẽ luôn là đảm bảo cho anh giành chiến thắng. Khi mục tiêu là sự trả thù, thì điều duy nhất cần là phải kiên nhẫn chờ đợi. Bản năng của anh mách bảo món nợ của Brenna là một quả home-run trời cho từ cú đập đầu tiên. Tất cả những gì anh phải làm là quẳng cây gậy của mình đi và chạy vòng quanh sân bóng. Nhưng anh muốn chắc chắn hơn. “Rất nhiều tiền đấy,” anh nói.   Mời các bạn đón đọc Quyến Rũ của tác giả Susan Mallery.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ba Gã Say Luận Đàm Thế Sự
Ba gã say luận đàm thế sự ra đời năm 1887, đúng thời điểm đất nước Nhật Bản đang đứng giữa ngã ba đường của lịch sử, loay hoay tìm đường hướng phát triển quốc gia: Phải lựa chọn chế độ chính trị như thế nào? Cần theo đuổi chính sách ngoại giao ra sao để có thể trở thành một cường quốc ở châu Á? Là xác lập chủ nghĩa lý tưởng Tây phương, qua hình tượng chàng Thân sĩ Tây học, sống trong “khuê các tư tưởng”? Là đi theo chủ nghĩa quốc quyền, qua hình tượng vị Hào kiệt, con người của hành động, thao thao bất tuyệt về mưu toan bành trướng Trung Hoa? Hay là chủ nghĩa hiện thực với đường lối trung dung, tùy thời tiến thoái, như hình tượng vị Nam Hải tiên sinh? Được cấu tứ dựa trên ý tưởng một cuộc luận đàm về chính trị giữa ba gã say, Ba gã say luận đàm thế sự đã chỉ ra những ưu nhược điểm của chủ nghĩa phương Tây, chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa quốc quyền, bành trướng, như một lời chỉ dẫn về con đường Nhật Bản nên đi và cũng được xem như điềm báo về sự thịnh suy của đế quốc Nhật Bản trong tương lai. Với văn phong cổ kính, ngôn từ hàm súc, sử dụng nhiều điển tích Đông Tây kim cổ, cuốn sách đã khắc họa một bức tranh đa diện, nhiều màu sắc về lịch sử văn minh thời Minh Trị, về những vấn đề mà giới tinh hoa Nhật Bản đang đau đáu bận tâm. Tác phẩm được coi như một danh tác tiêu biểu cho văn minh thời Duy tân Minh Trị. “Nói rằng nhiều vấn đề trọng đại của Nhật Bản hiện tại như hòa bình, tự do, phòng vệ, tiến bộ - bảo thủ, dân quyền - quốc quyền… được gói gọn trong Ba gã say luận đàm thế sự cũng không phải quá lời.”       --- Kuwabara Takeo *** VÀI NÉT VỀ TÁC PHẨM   Nakae Chōmin tên thật là Tokusuke, sinh ngày 1 tháng Mười một năm 1847 tại Kochi phiên Tosa (nay là tỉnh Kochi). Cha của ông là Tameshichi (sau đổi thành Motosuke, Yasosuke), mẹ là Yanagi và một người em trai tên Kōma. Tổ tiên của nhà Nakae có thể tính lùi về đến ông cố của Tokusuke là Densaku. Không có nhiều thông tin về lai lịch của Densaku, chỉ biết vào năm 1766 ông được tuyển làm Ashigaru của phiên Tosa, được cấp sinh hoạt phí gấp đôi và nhận bổng lộc bốn thạch lúa gạo. Tokusuke là đời thứ tư, sau người ông Katsuji và cha Tameshichi. Cha ông bị ràng buộc ở Edo nên thời thơ ấu được một tay mẹ nuôi dưỡng. Người ta truyền rằng ông vốn trầm tính như con gái và rất thích đọc sách. Năm 1861, cha mất, ông kế tục làm một Ashigaru. Năm sau, ông vào học Bunbukan (Văn Võ quán) khi nơi này vừa được thành lập, rồi nhận được sự chỉ dạy của Hosokawa Junjiro, một nhà Tây dương học nổi tiếng, người này sau làm Viện trưởng Đế quốc học sĩ. Nhờ sự tiến cử của Hosokawa, ông được gửi đến Nagasaki với tư cách là du học sinh của phiên và học tiếng Pháp với Hirai Gijūrō. Hai năm sau, ông lên Edo, theo học bậc thầy Pháp học Murakami Hidetoshi nhưng vì quá phóng đãng nên đã bị khai trừ. Khi Công sứ Léon Roches xuống phía tây vì vấn đề mở cửa Hyogo, ông đi theo với vai trò là tùy viên hỗ trợ phiên dịch. Trước và sau Minh Trị Duy tân, Chōmin không có hành động của một chí sĩ, ông chỉ học tiếng Pháp và nghiên cứu Pháp điển đồng thời khổ luyện âm khúc truyền thống Edo như Nagauta. Sau Duy tân, ông là học trò tại trường tư của Mitsukuri Rinsho, rồi trở thành người đứng đầu trường tư Nisshinsha (Nhật Tân xã) của Fukuchi Gen’ichirō, sau đó nhận giảng dạy tiếng Pháp tại Đại học Nankō (Nam Hiệu, sau là Đại học Tokyo). Năm Minh Trị thứ 4 (1871), ông có nguyện vọng sang Pháp du học, nhờ sự tận tình của Ōkubo Toshimichi, ông vào phục vụ ở Tư pháp sảnh [Bộ Tư pháp], rồi đồng hành cùng Iwakura Tomomi với tư cách là Đại sứ toàn quyền sang Tây dương. Trong thời gian lưu trú tại Pháp, ông từng giao du với Saionji Kinmochi và Komyoji Saburō, học hỏi nhà tư tưởng chính trị cấp tiến Acollas. Năm 1874, ông về nước và mở “Pháp Lan Tây học xá” để dạy Pháp học tại nhà, nhưng đến năm Minh Trị thứ 8 (1875) ông đến nhậm chức Hiệu trưởng trường Ngoại ngữ Tokyo. Chōmin nhận chức hiệu trưởng này chưa được ba tháng đã từ chức, có thuyết cho rằng vì ông chủ trương giáo dục Nho giáo nhưng bị phản đối. Việc này không có chứng cứ xác thực, nhưng có một sự thật là sau này vì yêu thích Hán học ông đã vào trường tư thục của Okamatsu Ōkoku. Genrōin (Nguyên lão viện) được thành lập, ông được thư ký quan của viện mời về làm việc, công việc ở đây cũng nhàn, lại thuận tiện cho việc kinh doanh “Pháp Lan Tây học xá” nên ông chuyển việc đến đó cũng là lẽ tự nhiên. Nhưng ở Genrōin, ông lại xung đột với Mutsu Munemitsu, nên đã từ chức vào năm 1877. Sau đó, ông vẫn nhận công việc phiên dịch do chính phủ ủy thác nhưng không thuộc chế độ phục vụ suốt đời. Có vẻ như khí chất ông không thể chịu được cuộc sống viên chức. Cuộc vận động tự do dân quyền cũng bắt đầu vào năm Chōmin về nước, nhóm người Itagaki Taisuke dâng bản điều trần [kiến bạch thư] thiết lập dân tuyển nghị viện. Chōmin không lập tức tham gia cuộc vận động này, ông phổ cập tư tưởng chủ nghĩa dân chủ, xây dựng cơ sở lý luận cho nó dựa vào Pháp học. Ông thử nghiệm việc dịch Khế ước Xã hội, nhưng rồi sau đó ông cùng Saionji Kinmochi sáng lập tờ báo Tōyō Jiyū shimbun(Đông Dương Tự do tân văn), do Saionji làm chủ tòa soạn, còn bản thân ông thì làm chủ bút. Số đầu tiên ra ngày 18 tháng Ba năm Minh Trị thứ 14 (1881). Đây là lần đầu tiên từ “Tự do” xuất hiện trên mặt báo ở Nhật Bản. Chính phủ lo sợ cuộc vận động tự do dân quyền lan rộng, bèn dựa vào uy quyền của Thiên hoàng đàn áp tờ báo, ép Saionji từ chức, tờ báo không tránh khỏi bị đình bản sau khi đã ra được 34 số. Cuộc vận động dân quyền phát triển đến mức, Iwakura Tomomi cho rằng “dù là thời điểm trước cách mạng Pháp, e cũng không sánh được với tình thế hiện tại”. Thế nhưng phe phản chính phủ cũng có nhiều yếu điểm nên cuộc vận động sớm nảy sinh chia rẽ, một bộ phận phần tử cấp tiến đã tự ý hành động trực tiếp, chẳng hạn như các vụ bạo động ở Gunma, Kabasan; hệ quả tất yếu là trung ương bộ của Đảng Tự do tự giải tán (tháng Mười năm 1884). Trước sự kích động như thế, Chōmin hầu như chưa có hoạt động chính trị nào. Ông phản đối đường lối khởi sự thô bạo mà chỉ muốn đào sâu về lý luận, ông dốc sức dịch sách L’Esthetique của Eugene Veron (1883), Histoire de la Philosophic của Alfred Jules Émile Fouillee (1886) và viết Rigaku Kogen(Lý học câu huyền) và Kakumeizen France Niseki Kiji (Ký sự hai thế kỷ nước Pháp trước cách mạng), quyển Ba gã say luận đàm thế sự này cũng là một trong những thử nghiệm đó. Chúng tôi sẽ bàn về điều này sau. Tuy nhiên, trong thư phòng của Chōmin chắc chắn sẽ không có những nghiên cứu thấu triệt mà chuyên sâu làm thỏa mãn việc tranh luận về lý luận chính trị. Sau khi quyển sách này xuất bản không lâu, nhân dịp Ngoại tướng [Bộ trưởng Bộ Ngoại giao] Inoue Kaoru phản đối kế hoạch Cải chính Điều ước*, cuộc vận động tổng lực của phái tự do dân quyền đã bùng nổ trở lại, đả đảo chính phủ phiên phiệt. Chōmin tham gia tích cực vào cuộc vận động này, đóng vai trò chỉ đạo, chấp bút thượng tấu buộc tội chính phủ thay cho Gotō Shōjirō. Thế nhưng chính phủ lo sợ cuộc vận động này nên đã công bố Điều lệ Bảo an vào cuối năm Minh Trị thứ 20 (1887), liệt ông cùng 570 người nhóm Ozaki Yukio, Hoshi Tooru vào thành phần nguy hiểm và bị trục xuất khỏi Tokyo, ông đành phải dời về Osaka. Nhưng, ở Osaka ông lại lập tức thành lập và kiêm chủ bút tờ Shinonome shimbun (Đông Vân tân văn), ra sức phổ cập tư tưởng dân quyền, ủng hộ việc thiết lập quốc hội. Mạch chính trong chủ trương của Chōmin là đưa việc khâm định hiến pháp vào quốc hội, cho phê duyệt từng hạng mục [điểm duyệt], qua đó có thể thực hiện được chủ trương dân chủ hóa. Nhờ đợt ân xá vào thời điểm công bố Hiến pháp, lệnh trục xuất Chōmin được giải trừ, ông quay lại Tokyo, ra ứng cử Khu số 4 Osaka và trúng cử trong cuộc tuyển cử Chúng nghị viện lần thứ nhất. Trong quốc hội, thành phần chống đối chiếm đa số nhưng không thể gắn kết trong một chiến tuyến thống nhất, bị chia rẽ bởi chính sách mua chuộc của chính phủ, tháng Hai năm Minh Trị thứ 24 (1891), dự toán thỏa hiệp với chính phủ được xác lập do phe Tosa phản bội, Chōmin giận dữ, nộp đơn từ chức “Tiểu sinh sắp tới đây e là phát bệnh do trúng độc rượu, không tiện đi lại, khó tham dự cuộc bỏ phiếu, vậy nay trình đơn này xin phép được từ chức” và rời bỏ quốc hội. Dù rất nhiệt tâm nhưng ông không thành công trong cuộc vận động thực tiễn có tính tổ chức. Đó phần nào cũng do tính cách cá nhân của riêng ông, nhưng cũng là bởi tình hình quá tệ, ông từng mắng những nghị viên nhút nhát là bọn sâu mọt không máu, cuối cùng lại phải ôm mối tuyệt vọng với giới chính trị hủ bại và dời về Hokkaido, ông làm chủ bút tờ Hokumon Shinbo (Bắc Môn tân báo) ở thành phố Otaru. Mùa hè năm Minh Trị thứ 25 (1892), ông rút khỏi tờ Hokumon Shinbo,sau đó bắt đầu sự nghiệp kinh doanh. Xét thấy nếu không có tiền thì cả hoạt động chính trị lẫn sáng tác đều mất tự do và suy thoái, ông quyết định sẽ kiếm tiền trước, ông cai rượu, quyết tâm dấn thân vào nhiều ngành nghề nhưng phần nhiều bị cho là mang tính môi giới. Tất cả liên tục bị thất bại, Chōmin rơi vào cảnh nghèo túng. Trong thời gian kinh doanh ông đã dịch lại Die beiden Grundprobleme der Ethik của Authur Schopenhauer từ tiếng Pháp nhưng trước sự can thiệp của ba nước sau chiến tranh Nhật-Thanh, ông đã phẫn uất thốt lên rằng “đó là vết nhơ lớn hằn sâu vào trang sử của Đế quốc Nhật Bản chúng ta”. Sau đó vào năm Minh Trị thứ 31 (1898), hầu như một mình ông tự sáng lập Kokuminto (Quốc dân đảng), phát hành bản tin Hyaku rei ichi (Bách linh nhất). Tuy nhiên, cương lĩnh đó không phải là chủ nghĩa quốc quyền mà là chủ nghĩa tự do tiến bộ, là yêu sách về tuyển cử phổ thông, miễn phí giáo dục tiểu học, tự do ngôn luận, xuất bản. Năm Minh Trị thứ 33 (1900), ông gia nhập Kokumin Domeikai (Quốc dân Đồng minh hội) của Konoe Atsumaro nhằm tiến vào đại lục, đồng thời khích lệ Risodan (Lý tưởng đoàn) của Kuroiwa Shuroku, Uchimura Kanzo cân nhắc đến việc bãi bỏ quyền sở hữu đất đai và quyền kế thừa tài sản, lại gia nhập “Phổ thông tuyển cử kỳ thành Đồng minh hội” (1901). Qua đó để thấy có không ít hành động trong cuộc đời ông bộc lộ sự mâu thuẫn. Tháng Ba năm Minh Trị thứ 34 (1901), Chōmin đến Osaka vì công việc kinh doanh và ngã bệnh, ông được chẩn đoán là ung thư thực quản, thời gian còn lại chỉ là một năm rưỡi. Sau khi làm phẫu thuật, ông viết lchinen yūhan(Nhất niên hữu bán) và Zoku lchinen yūhan (Tục nhất niên hữu bán) trong cơn đau bệnh. Ngày 13 tháng Mười hai, ông kết thúc cuộc đời 54 năm tại nhà riêng ở quận Koishikawa, thị trấn Takeshima. Mời bạn đón đọc Ba Gã Say Luận Bàn Thế Sự của tác giả Nakae Chōmin & Nguyễn Mạnh Sơn , Võ Vương Ngọc Chân (dịch).
Cảnh Đồi Mờ Xám
Nhận được tin Keiko, con gái lớn của mình tự tử, Etsuko, một phụ nữ Nhật Bản sống một mình ở Anh đã bắt đầu cuộc hành trình chìm đắm vào những kí ức về một mùa hè ở Nagasaki hậu chiến. Trung tâm của những kí ức mơ hồ ấy là một tình bạn lạ lùng với Sachiko, người đã bị cuộc chiến tranh tước đi tất cả trừ đứa con gái nhỏ cùng một khao khát mãnh liệt phải đến nước Mỹ bằng mọi giá. Trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, Kazuo Ishiguro đã khắc họa nên bức tranh những số phận ở nước Nhật Bản bại trận, nơi các nhân vật của ông vật lộn, xoay xở, dằn vặt với những thay đổi đến quá nhanh và quá dữ dội. Nhưng sâu hơn, cuốn sách còn là một cuộc thăm dò đầy tinh tế cái bí ẩn của kí ức. Cuộc sống hiện tại đặt nền móng trên kí ức, nhưng đến lượt mình, chính kí ức lại vô cùng bất trắc, khó lường. *** Chương một Niki, cái tên chúng tôi rốt cuộc đặt cho con gái út của mình, không phải tên tắt mà là một thỏa hiệp giữa tôi với cha con bé. Trái khoáy ở chỗ, anh lại là người muốn chọn một cái tên Nhật Bản cho nó, còn tôi - có lẽ vì một mong muốn ích kỷ không muốn gọi lại quá khứ - nên cứ nhất quyết đòi một cái tên Anh. Cuối cùng thì chồng tôi cũng đồng ý với Niki, vì tin rằng có đôi chút Đông phương phảng phất trong đó. Con bé về thăm tôi hồi đầu năm nay, vào tháng Tư, khi ngày vẫn trôi qua trong lạnh giá và mưa phùn. Có thể nó vốn định ở lại lâu hơn. Tôi không biết nữa. Nhưng ngôi nhà thôn quê và sự tĩnh lặng xung quanh khiến nó bức bối, chẳng bao lâu sau, tôi thấy rõ nó đã rất nóng lòng muốn trở về cuộc sống của mình ở London. Nó nghe các đĩa hát cổ điển của tôi với vẻ bồn chồn, lật vội qua biết bao cuốn tạp chí. Điện thoại thường xuyên đổ chuông, nó vội bước qua tấm thảm, thân hình mảnh dẻ siết trong bộ quần áo bó, cẩn thận đóng cánh cửa sau lưng để tôi không nghe được cuộc nói chuyện. Nó rời đi sau năm ngày. Phải tới ngày thứ hai nó mới nhắc đến Keiko. Hôm ấy là một buổi sáng hút gió ảm đạm, chúng tôi đã kê ghế bành ra gần cửa sổ để ngắm mưa rơi xuống mảnh vườn nhà. “Mẹ có nghĩ con sẽ đến không?” nó hỏi. “Ý con là đến lễ tang ấy.” “Không, mẹ nghĩ là không. Mẹ không thực sự nghĩ con sẽ tới.” “Nghe tin về chị ấy, con cũng buồn. Con đã suýt đến đấy.” “Mẹ chưa bao giờ nghĩ con sẽ tới.” “Mọi người không ai hiểu con bị làm sao,” nó nói. “Con không hề nói với bất kỳ ai. Chắc vì con thấy xấu hổ. Quả thực họ sẽ không hiểu được, họ sẽ không thể hiểu cảm giác của con về chuyện ấy. Chị em gái lẽ ra phải là người ta thấy gần gũi, đúng không. Có thể ta không thích họ lắm, nhưng ta vẫn gần gũi với họ. Nhưng sự thực lại không phải thế. Đến bây giờ, con thậm chí còn không nhớ chị ấy trông thế nào.” “Đúng thế, lần cuối cùng con gặp chị cũng đã khá lâu rồi.” “Con chỉ nhớ chị ấy luôn khiến con khổ sở. Con chỉ nhớ có thế về chị ấy. Nhưng mặc dầu vậy, con vẫn buồn khi nghe tin.” Có lẽ điều thôi thúc con gái tôi quay trở lại London không chỉ là sự tĩnh lặng. Vì dù chúng tôi không bao giờ nói chuyện lâu về cái chết của Keiko, chủ đề ấy không bao giờ khuất dạng, luôn lảng vảng bất cứ khi nào chúng tôi trò chuyện với nhau. Không giống Niki, Keiko là người Nhật thuần và hơn một tờ báo đã mau mắn bám vội lấy chi tiết này. Người Anh thích nghĩ rằng tự vẫn đã ăn sâu vào máu người Nhật chúng tôi, cứ như thể chẳng cần phải giải thích gì thêm; vì đó là tất cả những gì họ đưa lên mặt báo, rằng con bé là người Nhật và nó đã treo cổ trong phòng riêng. ⁎ ⁎ ⁎ Cũng chính buổi tối hôm ấy, khi đang đứng cạnh các ô cửa sổ đưa mắt nhìn ra bóng tối ngoài kia, tôi bỗng nghe tiếng Niki sau lưng mình: “Mẹ đang nghĩ gì thế?” Nó đang ngồi vắt ngang người trên ghế trường kỷ, một cuốn sách bìa mềm đặt trên đầu gối. “Mẹ đang nghĩ về một người mẹ từng quen. Một phụ nữ mẹ từng quen.” “Một người mẹ quen hồi mẹ… Trước khi mẹ đến Anh?” “Mẹ quen cô ấy hồi mẹ sống ở Nagasaki, nếu đó là điều con muốn hỏi.” Thấy nó tiếp tục nhìn mình, tôi nói thêm, “Đã lâu lắm rồi. Rất lâu trước khi mẹ gặp cha con.” Có vẻ hài lòng với câu trả lời nên sau khi buông một lời bình luận bâng quơ, nó quay lại với cuốn sách. Nói chung, Niki là một đứa trẻ biết quan tâm. Nó đến đây không chỉ để xem tôi đón nhận tin về cái chết của Keiko thế nào; nó đến thăm tôi xuất phát từ cảm giác sứ mệnh. Vì trong mấy năm gần đây, do quyết định cảm phục một số khía cạnh nhất định trong quá khứ của tôi, nó đã chuẩn bị tinh thần để nói với tôi rằng mọi chuyện đến giờ không có gì thay đổi, rằng tôi không nên ân hận vì những lựa chọn trước đây của mình. Nói ngắn gọn, để trấn an rằng tôi không phải chịu trách nhiệm trước cái chết của Keiko. Lúc này, tôi hoàn toàn không muốn nói nhiều về Keiko vì điều ấy không an ủi tôi là mấy. Tôi nhắc đến Keiko ở đây chỉ vì chuyện đó liên quan đến chuyến thăm của Niki hồi tháng Tư này, và vì chính trong chuyến thăm ấy, tôi lại nhớ đến Sachiko sau ngần ấy thời gian. Tôi chưa bao giờ thực sự thân với Sachiko. Trên thực tế, tình bạn của chúng tôi chỉ kéo dài có vài tuần lễ, không hơn, trong một mùa hè đã nhiều năm về trước. ⁎ ⁎ ⁎ Lúc ấy, những ngày khủng khiếp nhất đã qua. Lính Mỹ vẫn đông như trước - vì đang có chiến trận ở Triều Tiên - nhưng ở Nagasaki, sau những gì đã xảy ra trước đó thì đó là những tháng ngày yên ả và nhẹ nhõm. Có cảm giác thế giới đang thay đổi. Tôi và chồng sống tại một khu vực ở phía Đông của thành phố, chỉ cách trung tâm một chuyến xe điện ngắn. Gần chỗ chúng tôi ở có một con sông, có lần tôi nghe nói từng có một ngôi làng mọc lên ven bờ sông hồi trước chiến tranh. Nhưng rồi bom giội xuống và tất cả những gì còn sót lại chỉ là những đống đổ nát cháy đen. Việc tái thiết đã được tiến hành và chẳng bao lâu sau, bốn tòa nhà bê tông đã mọc lên, mỗi tòa có khoảng bốn mươi căn hộ riêng biệt. Trong số bốn tòa nhà tập thể ấy, tòa của chúng tôi được xây sau rốt, cũng chính vào thời điểm chương trình tái thiết bị tạm hoãn; vậy là giữa chúng tôi và con sông là một vùng đất trống vài mẫu toàn bùn khô và mương rãnh. Rất nhiều người phàn nàn coi ni đó là một mối đe dọa về mặt sức khỏe, và quả thật việc thoát nước ở đó rất kinh khủng. Quanh năm suốt tháng, lúc nào cũng có những hố đầy nước tù đọng, vào những tháng mùa hè, muỗi nhiều đến mức không ai chịu nổi. Thỉnh thoảng cũng thấy các viên chức tới sải chân đo đạc hoặc nguệch ngoạc ghi chép, nhưng rồi nhiều tháng trôi qua mà đâu vẫn hoàn đấy. Cư dân của khu tập thể cũng là những người như chúng tôi - các cặp vợ chồng trẻ, chồng tìm được công việc khá khẩm tại những công ty đang lên. Các công ty là chủ sở hữu của nhiều căn hộ, họ cho nhân viên của mình thuê lại với giá rất hào phóng. Căn hộ nào cũng giống nhau; sàn tatami, nhà tắm và bếp theo thiết kế phương Tây. Chúng đều nhỏ và rất khó giữ cho mát mẻ trong những tháng nóng nực, nhưng về tổng thể, các cư dân ở đây dường như đều có chung cảm giác hài lòng. Tuy vậy, ở đó, tôi vẫn còn nhớ rõ một bầu không khí tạm bợ không lẫn đi đâu được, như thể tất cả chúng tôi đang chờ đến ngày được chuyển tới sống ở một nơi khác tiện nghi hơn thế. Có một ngôi nhà gỗ nhỏ vẫn tồn tại qua sự tàn phá của cả chiến tranh lẫn những cỗ xe ủi đất của chính quyền. Tôi có thể thấy ngôi nhà từ cửa sổ căn hộ của mình, đứng lẻ loi cuối bãi đất trống rộng lớn, gần như ngay sát bờ sông. Đó là một ngôi nhà nhỏ kiểu thường gặp ở nông thôn, mái ngói dốc xuống gần sát mặt đất. Trong những khoảnh khắc trống rỗng, tôi vẫn thường đứng bên cửa sổ trân trân nhìn ngôi nhà đó. Nếu xét tới những chú ý mọi người dành cho sự xuất hiện của Sachiko, thì tôi không phải người duy nhất để mắt đến ngôi nhà ấy. Người ta bàn tán rất nhiều về hai nam công nhân một ngày nọ làm việc ở đó - những chuyện như không biết họ có phải viên chức nhà nước hay không, về sau người ta đồn rằng có người phụ nữ và đứa con gái nhỏ đến sống tại ngôi nhà, chính tôi cũng đã vài dịp thấy hai mẹ con đi qua bãi đất đầy mương rãnh. Lúc ấy là đầu hè - tôi đang mang bầu được ba hoặc bốn tháng - khi tôi lần đầu tiên để ý thấy chiếc xe Mỹ to đùng màu trắng và móp méo đang xóc nẩy chạy trên khu đất, hướng về phía bờ sông. Lúc đó trời đã sẩm tối, mặt trời đang lặn xuống sau căn nhà, thoáng chốc lóe lên trên lớp vỏ xe bằng sắt. Rồi một buổi chiều nọ, tôi nghe thấy hai phụ nữ ở trạm chờ xe điện nói chuyện về người đàn bà đã chuyển tới căn nhà vô chủ bên sông. Một người kể cho người kia mình đã nói chuyện với người ấy vào sáng hôm đó và được đáp lại bằng một thái độ khinh khỉnh không lẫn đi đâu được. Người đi cùng đồng ý rằng người mới đến có vẻ thiếu thân thiện - thậm chí có khi là kênh kiệu nữa. Cô ta trẻ lắm cũng phải ba mươi tuổi, vì con gái cô ta ít nhất cũng đã lên mười. Người phụ nữ thứ nhất bảo cô ta nói giọng Tokyo và chắc chắn không phải dân Nagasaki. Họ bàn tán một lúc về “người bạn Mỹ” của cô, rồi người phụ nữ nhắc lại thái độ kém thân thiện người lạ mặt dành cho mình sáng hôm đó. Tôi không nghi ngờ gì rằng trong số các phụ nữ cùng sống ở khu tập thể vào thời điểm đó, có những người đã phải chịu đau khổ, mang trong mình những ký ức buồn thương và kinh hoàng. Nhưng khi chứng kiến cảnh họ từng ngày bận bịu với chồng con, tôi thấy thật khó tin họ đã từng có lúc sống cuộc đời chất chứa những thảm kịch và ác mộng thời chiến. Tôi không bao giờ cố ý tỏ ra thiếu thân thiện, nhưng nếu bảo tôi không cố chứng minh điều ngược lại thì chắc cũng chẳng sai. Vì vào thời điểm ấy trong đời mình, tôi vẫn còn muốn mọi người để mình được yên. Vậy là tôi chăm chú lắng nghe hai phụ nữ nói chuyện về Sachiko. Tôi có thể hồi tưởng lại một cách sống động buổi chiều hôm ấy ở trạm chờ xe điện. Đó là một trong những ngày rực rỡ ánh nắng đầu tiên sau mùa mưa tháng Sáu, và quanh chúng tôi, các bức tường gạch và bê tông dầm nước đang dần khô ráo. Chúng tôi đang đứng trên cây cầu xe lửa và ở một bên đường ray ngay dưới chân đồi, ta có thể thấy một đám mái nhà tụm lại một chỗ, như thể các ngôi nhà đã xô nhau cùng trượt xuống dốc. Xa hơn một chút là khu tập thể của chúng tôi, nhìn như bốn cột bê tông. Lúc đó, tôi thấy đồng cảm với Sachiko, thấy phần nào hiểu được thái độ xa lánh tôi đã nhận ra khi quan sát cô từ xa. Chúng tôi rồi sẽ trở thành bạn bè với nhau vào mùa hè ấy và tôi sẽ được cô gửi gắm tâm sự riêng, ít nhất là trong một khoảng thời gian ngắn. Giờ thì tôi không nhớ chúng tôi đã gặp nhau lần đầu tiên như thế nào. Chỉ nhớ một chiều nọ tội nhận ra cô đang đi trước mình trên con đường nhỏ dẫn ra khỏi khu dân cư. Tôi vội vã đuổi theo, còn Sachiko cứ bình thản bước. Chắc hẳn lúc ấy chúng tôi đã biết tên nhau rồi, vì tôi nhớ đã gọi cô khi đến gần. Sachiko quay lại chờ tôi bắt kịp. “Có chuyện gì sao?” cô hỏi. “Thấy chị ở đây em mừng quá,” tôi nói, có chút hụt hơi. “Con gái chị, lúc em ra khỏi nhà, nó đang đánh nhau. Ở đằng kia, gần mấy rãnh nước ấy.” “Nó đánh nhau sao?” “Với hai đứa trẻ khác. Một đứa là con trai. Chúng đánh nhau dữ lắm.” “Vậy hả.” Sachiko bắt đầu đi tiếp. Tôi đi bên cạnh cô. “Em không muốn làm chị hoảng hốt,” tôi nói, “nhưng hình như chúng đánh nhau dữ lắm. Em còn thấy một vết cắt trên má con gái chị nữa thì phải.” “Vậy sao.” “Ở đằng kia, phía cuối bãi đất.” “Chúng nó vẫn đang đánh nhau à?” Cô tiếp tục đi lên đồi. “Không. Em thấy con gái chị bỏ chạy.” Sachiko mỉm cười nhìn tôi. “Em không quen thấy trẻ con đánh nhau phải không?” “Trẻ con đánh nhau thì cũng không tránh được. Nhưng em nghĩ nên nói cho chị biết. Và em nghĩ nó không định đến trường đâu. Mấy đứa kia tiếp tục đi về phía trường học, nhưng con gái chị lại quay về phía bờ sông.” Sachiko không trả lời, chỉ tiếp tục đi lên đồi. “Sự thực là,” tôi tiếp tục, “em đã định nói với chị chuyện này từ trước. Chị thấy đấy, dạo này em đã nhiều lần bắt gặp con gái chị. Hình như con bé trốn học chút ít hay sao ấy.” Con đường chia ngả trên đỉnh đồi. Sachiko dừng lại, chúng tôi nhìn nhau. “Em quan tâm đến con gái chị như vậy thật tử tế quá, Etsuko ạ,” cô nói, “hết sức tử tế. Nhất định em sẽ trở thành một bà mẹ tuyệt vời.” Cũng như hai phụ nữ ở trạm chờ xe điện, trước đây tôi vẫn nghĩ Sachiko khoảng ba mươi tuổi. Nhưng có lẽ dáng người trẻ trung của cô đã đánh lừa chúng tôi, vì nét mặt cô già dặn hơn nhiều. Cô đang nhìn tôi với vẻ thích thú thoáng hiện trên khuôn mặt, cái nhìn của cô có gì đó khiến tôi phải lúng túng cười trừ. “Chị rất cảm ơn khi em tìm chị thế này,” cô nói tiếp. “Nhưng như em thấy đấy, giờ chị đang bận chút việc. Chị phải vào Nagasaki.” “Không sao. Em chỉ nghĩ tốt hơn cả là đến nói cho chị hay, chỉ vậy thôi.” Trong khoảnh khắc, cô lại tiếp tục nhìn tôi vẫn với ánh mắt thích thú ấy. Rồi cô nói, “Em mới tử tế làm sao. Giờ thì chị xin phép. Chị phải vào thành phố.” Cô cúi chào, sau đó quay sang ngả đường dẫn lên trạm chờ xe điện. “Chỉ vì nó có vệt xước trên má thôi,” tôi nói, hơi cao giọng. “Còn con sông nữa, nhiều khúc rất nguy hiểm. Em chỉ nghĩ tốt nhất nên tìm gặp chị rồi nói cho chị hay.” Cô quay lại nhìn tôi một lần nữa. “Etsuko này, nếu em không còn việc gì để làm,” cô nói, “thì chắc hôm nay em sẽ không ngại trông con bé giúp chị đâu nhỉ. Buổi chiều chị sẽ về. Chị tin chắc em với nó sẽ rất hợp nhau.” “Em sẽ không phản đối, nếu chị muốn thế. Em phải nói là em có cảm giác con gái chị vẫn còn quá nhỏ để ở một mình suốt ngày.” “Em mới tử tế làm sao,” Sachiko nhắc lại. Rồi cô mỉm cười một lần nữa. “Đúng thế, chị tin rằng em sẽ trở thành một bà mẹ tuyệt vời.” Sau khi chia tay Sachiko, tôi xuống đồi, đi qua khu dân cư để quay về nhà. Chỉ một lúc sau, tôi thấy mình đã về đến bên ngoài tòa nhà nơi mình ở, nhìn ra dải đất trống. Không thấy bóng dáng con bé đâu, đang định quay vào thì tôi bỗng phát hiện có thứ gì đó di chuyển dọc bờ sông. Chắc con bé chỉ vừa mới đứng lên, vì giờ tôi có thể thấy rõ bóng dáng bé bỏng của nó bên kia khoảng đất đầy bùn. Thoạt đầu, một cảm giác hối thúc dâng lên trong lòng, khiến tôi những muốn quên hết chuyện này đi để quay về làm việc nhà. Nhưng cuối cùng, tôi vẫn tiến về phía con bé, cẩn thận tránh những rãnh nước tù. Theo những gì tôi nhớ thì đó là lần đầu tiên tôi nói chuyện với Mariko. Cách hành xử của nó vào buổi sáng hôm ấy chắc cũng không có gì quá bất thường, vì thực ra tôi cũng chỉ là một người lạ mặt. Nó hoàn toàn có quyền ngờ vực tôi. Và nếu quả là tôi có cảm giác bất an lạ lùng nào đó vào hôm ấy, thì có lẽ cũng chỉ là phản ứng bình thường trước thái độ của Mariko. Sau mùa mưa vài tuần trước, nước sông sáng hôm ấy vẫn khá cao và chảy xiết. Bờ đất dốc thẳng xuống mặt nước, bùn ở chân dốc nơi con bé đang đứng trông sũng nước hơn hẳn. Mariko mặc một chiếc váy bông đơn giản, dài tới gối, mái tóc cắt ngắn khiến nó có vẻ giống con trai. Không cười, nó ngẩng lên nhìn tôi đang đứng trên đỉnh con dốc bùn. “Chào cháu,” tôi nói, “cô vừa nói chuyện với mẹ cháu xong. Cháu là Mariko phải không?” Cô bé tiếp tục nhìn tôi không chớp mắt, chẳng nói một lời. Vệt trên má khi nãy tôi tưởng là máu, giờ hóa ra chỉ là một vết bùn. “Giờ này lẽ ra cháu phải ở trường chứ, đúng không?” tôi hỏi. Nó im lặng một lát. Rồi lên tiếng: “Cháu không đi học.” “Nhưng trẻ em là phải đi học. Cháu không thích đi học à?” “Cháu không đi học.” “Nhưng mẹ cháu không gửi cháu tới trường nào ở đây sao?” Mariko không đáp. Thay vào đó, nó lùi lại một bước. “Cẩn thận đấy,” tôi nói. “Không là cháu sẽ ngã xuống nước mất. Trơn lắm đấy.” Nó tiếp tục đứng dưới chân dốc nhìn lên chỗ tôi đứng. Tôi thấy đôi giày nhỏ xíu của nó nằm ngay cạnh. Cả giày và đôi chân trần của nó đều lấm lem bùn. “Cô vừa nói chuyện với mẹ cháu,” tôi nói, mỉm cười mong nó yên tâm. “Mẹ cháu nói sẽ rất vui nếu cháu lên nhà cô chờ mẹ về. Nhà cô đằng kia kìa, ở khu tập thể ấy. Cháu có thể lên nhà với cồ, ăn thử bánh cô làm hôm qua. Cháu có thích không, Mariko? Rồi cháu có thể kể chuyện của cháu cho cô nghe nữa.” Mariko vẫn nhìn tôi đầy cảnh giác. Rồi không rời mắt khỏi tôi, nó cúi xuống nhặt giày. Lúc đầu, tôi cứ tưởng điều đó có nghĩa nó chuẩn bị đi theo mình. Nhưng khi thấy nó vẫn tiếp tục nhìn mình, tôi mới hiểu ra nó nhặt giày lên là để sẵn sàng bỏ chạy nếu cần. “Cô không làm hại cháu đâu,” tôi nói rồi cười một cách căng thẳng. “Cô là bạn của mẹ cháu mà.” Theo những gì tôi nhớ, hai chúng tôi chỉ nói với nhau có thế vào buổi sáng hôm ấy. Không muốn làm con bé hoảng sợ thêm nên chỉ một lúc sau, tôi đã quay người, vượt qua bãi đất trống về nhà. Quả thực, phản ứng của con bé có phần khiến tôi phật ý; vì trong khoảng thời gian ấy, những điều tuy nhỏ nhặt vậy thôi nhưng lại khơi dậy trong tôi biết bao nỗi e sợ về bổn phận làm mẹ. Tôi tự nhủ chuyện vừa xảy ra chẳng có gì to tát và dù sao chăng nữa, trong những ngày tiếp theo, thế nào cũng có thêm nhiều cơ hội để tôi kết bạn với nó. Nhưng hóa ra, phải đến một buổi chiều khoảng hai tuần sau đó, tôi mới lại nói chuyện với Mariko. ⁎ ⁎ ⁎ Trước chiều hôm ấy, tôi chưa bao giờ đặt chân vào bên trong ngôi nhà nhỏ và đã khá ngạc nhiên khi được Sachiko mòi vào. Trên thực tế, tôi đã lập tức nhận ra cô mời mình là có mục đích gì đó. Quả đúng như vậy, tôi không nhầm. Căn nhà rất gọn gàng, nhưng tôi vẫn nhớ nó tỏa ra một vẻ tồi tàn ảm đạm; xà nhà bằng gỗ trên trần nhìn cũ kỹ và thiếu an toàn, chỗ nào trong nhà cũng phảng phất một mùi ẩm thấp. Cửa trượt ở mặt trước ngôi nhà đã được mở tung cho ánh sáng mặt trời tràn qua hiên vào trong. Mặc dầu thế, phần lớn ngôi nhà vẫn chìm trong bóng tối. Mariko đang nằm ở góc nhà cách xa nguồn sáng mặt trời nhất. Dù rất tối, tôi vẫn thấy có gì đó đang cựa quậy cạnh nó. Lại gần, tôi nhận ra đó là một con mèo lớn đang cuộn tròn trên mặt sàn tatami. “Xin chào, Mariko,” tôi nói. “Cháu có nhớ cô không?” Nó ngừng vuốt ve con mèo và ngước lên. “Cô cháu mình gặp nhau hôm nọ,” tôi nói tiếp. “Cháu không nhớ sao? Ở bờ sông ấy.” Con bé không có vẻ gì đã nhận ra tôi. Nó nhìn tôi một lúc, sau đó lại bắt đầu vuốt ve con mèo. Sau lưng mình, tôi nghe tiếng Sachiko đang pha trà trên bếp đặt ở giữa phòng. Đang định lại chỗ cô thì đột nhiên Mariko lên tiếng, “Nó sắp đẻ rồi.” “Thật sao? thế thì thích thật.” “Cô có muốn một con mèo con không?” “Cháu thật tốt, Mariko. Để cô xem thế nào đã nhé. Nhưng cô tin chắc thế nào lũ mèo con cũng tìm được một mái nhà tử tế.” “Sao cô không lấy một con mèo con?” cô bé hỏi. “Cô kia bảo sẽ lấy một con.” “Để cô nghĩ đã nhé, Mariko. Cô nào cơ?” “Cô bên kia sông. Cô ấy bảo sẽ lấy một con.” “Nhưng cô không nghĩ có ai sống ở bên kia sông, Mariko. Bên ấy chỉ toàn cây cối với rừng thôi mà.” “Cô ấy nói sẽ dẫn cháu đến nhà cô ấy. Cô ấy sống bên kia sông. Cháu không đi theo cô ấy.” Tôi nhìn cô bé trong giây lát. Rồi chợt nghĩ ra, tôi cười phá lên. “Nhưng đó chính là cô mà, Mariko. Cháu không nhớ sao? Cô bảo cháu lên nhà cô chờ mẹ cháu từ thành phố về mà.” Mariko lại ngẩng lên nhìn tôi. “Không phải cô,” nó nói. “Mà là cô kia. Cô ấy sống bên kia sông cơ. Tối hôm qua cô ấy đến đây. Khi mẹ cháu đi vắng.” “Tối hôm qua? Khi mẹ cháu đi vắng?” “Cô ấy nói sẽ dẫn cháu sang nhà cô ấy, nhưng cháu không chịu. Vì lúc ấy trời đã tối. Cô ấy nói thế thì cầm đèn theo” - con bé đưa tay chỉ chiếc đèn xách tay treo trên tường - “nhưng cháu không đi theo cô ấy. Vì lúc ấy trời đã tối.” Phía sau tôi, Sachiko đã đứng dậy và đang nhìn con gái. Mariko trở nên im lặng, sau đó ngoảnh đi và tiếp tục vuốt ve con mèo. “Ra ngoài hiên đi,” Sachiko nói với tôi, tay bê khay trà. “Ngoài ấy mát hơn.” Hai chúng tôi làm theo lời cô, để Mariko lại một mình ở góc nhà của nó. Từ ngoài hiên, tuy không thể nhìn thấy dòng sông, nhưng tôi vẫn thấy rõ nơi triền đất dốc xuống và lớp bùn càng gần mặt nước trông càng ẩm ướt hơn hẳn. Sachiko ngồi lên một tấm đệm và bắt đầu rót trà. “Ở đây nhan nhản mèo hoang,” cô nói. “Chị không thấy lạc quan cho lắm về tương lai của lũ mèo con này đâu.” “Đúng thế, có quá nhiều mèo hoang,” tôi đáp. “Thật đáng thương. Mariko tìm thấy con mèo mẹ ở đây hả chị?” “Không, mẹ con chị mang nó theo. Nếu là chị thì chị đã bỏ nó lại rồi, nhưng Mariko nhất quyết không chịu nghe lời.” “Chị đưa nó về đây từ tận Tokyo sao?” “Không. Chị với con bé đã sống gần một năm trời ở Nagasaki mà. Ở phía bên kia thành phố.” “Ôi vậy sao? Em không biết đấy. Chị sống ở đó cùng… cùng bạn à?” Sachiko ngừng rót trà và nhìn tôi, hai tay ôm ấm trà. Tôi thấy trong ánh nhìn của cô biểu cảm thích thú từng toát ra khi cô quan sát tôi vào lần gặp trước. “Chị e là em nhầm rồi, Etsuko ạ,” cuối cùng cô cũng lên tiếng. Rồi lại tiếp tục rót trà. “Chị sống ở nhà bác trai chị.” “Chị yên tâm, em chỉ…” “Ừ, tất nhiên rồi. Thế nên không việc gì phải ngại ngùng, đúng không?” Cô cười to rồi đưa tôi một chén trà. “Chị xin lỗi, Etsuko ạ, chị không định đùa em. Sự thật là, chị có việc này muốn hỏi em. Muốn nhờ vả em một chút.” Sachiko bắt đầu rót trà cho chính mình, và khi làm việc đó, dường như thái độ cô trở nên nghiêm túc hơn trước. Rồi cô đặt ấm trà xuống, nhìn tôi. “Em thấy đấy, Etsuko, một vài dự tính của chị không tiến triển như đã định. Vì thế nên hiện tại chị cần tiền. Không nhiều lắm, em hiểu không. Chỉ cần một chút.” “Em hiểu,” tôi nói, hạ thấp giọng. “Chắc chị rất vất vả khi phải lo cho Mariko.” “Etsuko này, chị nhờ em việc này được không?” Tôi cúi người. “Em có chút tiền tiết kiệm,” tôi nói, gần như thì thầm. “Em sẽ rất vui nếu giúp được chị phần nào.” Tôi rất ngạc nhiên khi Sachiko cười to. “Em tốt quá,” cô nói. “Nhưng thực ra, chị không muốn mượn tiền của em. Chị đang nghĩ đến việc khác. Hôm nọ em có nhắc tới một việc. Em có một người bạn có quán mì.” “Ý chị là bác Fujiwara?” “Em bảo chị hình như bác ấy đang cần người giúp việc. Một công việc nhỏ như vậy sẽ giúp được chị rất nhiều.” “À,” tôi đáp, hơi do dự. “Nếu chị muốn, em sẽ hỏi giúp.” “Thế thì tuyệt lắm.” Sachiko nhìn tôi trong giây lát. “Nhưng hình như em hơi lưỡng lự về chuyện đó, đúng không Etsuko?” “Hoàn toàn không. Bao giờ gặp bác ấy, em sẽ hỏi giúp chị. Nhưng em chỉ băn khoăn” - tôi lại hạ giọng - “ai sẽ trông con gái chị vào ban ngày?” “Mariko hả? Nó có thể giúp chị ở quán mì. Nó cũng khá được việc đấy.” “Em tin thế. Nhưng như chị thấy đấy, em không biết chắc bác Fujiwara sẽ nghĩ thế nào. Dù sao thì ban ngày Mariko nên tới trường mới phải.” “Chị đảm bảo với em, Etsuko ạ, Mariko sẽ không gây ra một phiền toái nào, dù chỉ là nhỏ nhất. hơn nữa, tuần sau là hết năm học rồi. Chị sẽ đảm bảo nó không làm vướng chân ai. Em có thể yên tâm về điều đó.” Tôi lại cúi người. “Em sẽ hỏi khi gặp bác ấy.” “Chị rất cảm ơn em.” Sachiko nhấp một ngụm trà. “Thực ra, chị muốn nhờ em hỏi bác ấy ngay trong vài hôm tới.” “Em sẽ cố.” “Em thật tốt.” Chúng tôi ngồi im một lát. Nãy giờ, tôi vẫn mải chú ý đến ấm trà của Sachiko; nhìn có vẻ là một sản phẩm cao cấp làm từ sứ trắng. Cả chén trà tôi đang cầm trong tay cũng được làm từ cùng một thứ vật liệu tinh tế ấy. Lúc này khi đang ngồi uống trà cùng nhau, đây không phải lần đầu tiên tôi sửng sốt về sự tương phản kỳ cục giữa bộ ấm chén với vẻ tồi tàn của ngôi nhà cùng mặt đất lầy lội đầy bùn dưới hiên. Khi ngẩng lên, tôi nhận ra Sachiko đang quan sát mình. “Chị quen dùng đồ sứ chất lượng cao rồi, Etsuko ạ,” cô nói. “Em biết đấy, cuộc sống của chị không phải lúc nào cũng giống…” - cô khoát tay về phía ngôi nhà - “thế này. Tất nhiên là chị không ngại một chút bất tiện. Nhưng có một số thứ chị vẫn không thể xuê xoa cho được.” Tôi cúi đầu, không nói gì. Cả Sachiko cũng bắt đầu ngắm nghía chén trà của mình. Cô tiếp tục xem xét, cẩn thận xoay nó trong tay. Rồi cô đột nhiên nói, “Chị nghĩ nói mình lấy trộm bộ ấm chén này cũng chẳng sai. Cơ mà, chắc bác chị cũng không quá nhớ nhưng bộ ấm chén này đâu.” Tôi nhìn cô, hơi ngạc nhiên. Sachiko đặt chén trà xuống trước mặt, phẩy tay xua ruồi. “Có phải chị nói chị sống ở nhà bác chị?” tôi hỏi. Cô chậm rãi gật đầu. “Một ngôi nhà xinh đẹp vô cùng. Với ao cá trong vườn. Khác xa với quang cảnh xung quanh đây.” Trong giây lát, cả hai chúng tôi cùng đưa mắt nhìn vào trong. Mariko vẫn nằm nguyên ở góc nhà từ khi chứng tôi ra ngoài, xoay lưng về phía chúng tôi. Dường như nó đang thì thào nói chuyện với con mèo. Chúng tôi lại ngồi im lặng một lúc lâu, rồi tôi lên tiếng. “Em không biết có người sống bên kia sông.” Sachiko quay ra nhìn những rặng cây ở bờ bên kia. “Không, chị cũng chưa bao giờ thấy ai bên ấy.” “Nhưng cô trông trẻ của chị. Mariko lúc nãy bảo cô ấy đến từ bên kia sông.” “Chị làm gì có người trông trẻ, Etsuko. Ở đây chị không quen ai.” “Mariko có nói về một người phụ nữ nào đó…” “Em đừng để ý đến nó.” “Ý chị là nó bịa ra sao?” Hình như Sachiko thoáng cân nhắc gì đó. Rồi cô nói, “Đúng, nó chỉ bịa chuyện ra thôi mà.” “Vâng, em đoán trẻ con thường hay làm thế.” Sachiko gật đầu, “Khi nào làm mẹ, Etsuko ạ,” cô mỉm cười nói, “em sẽ phải quen dần với những chuyện như thế.” Sau đó, chúng tôi chuyển sang các chủ đề khác. Dạo ấy là thời kỳ đầu trong tình bạn của chúng tôi và chúng tôi chủ yếu chỉ nói về những chuyện vặt vãnh. Phải đến một buổi sáng vài tuần sau đó, tôi mới nghe Mariko nhắc lại về người phụ nữ đã tìm đến nó. Mời bạn đón đọc Cảnh Đồi Mờ Xám của tác giả Kazuo Ishiguro & Lan Young (dịch).
21 Bài Học Cho Thế Kỷ 21
Sau khi tìm hiểu quá khứ và tương lai của nhân loại qua hai cuốn sách gây tiếng vang là Sapiens và Homo deus, Yuval Noah Harari đi sâu vào các vấn đề “ngay tại đây” và “ngay lúc này”, tức các sự kiện hiện tại và tương lai gần nhất của xã hội loài người. Những triển vọng đầy hứa hẹn của công nghệ sẽ được đưa ra bàn luận bên cạnh những hiểm họa như “đứt gãy” do công nghệ gây ra, việc kiểm soát thế giới bên trong dẫn tới sự sụp đổ của hệ thần kinh hay “tự do trong khuôn khổ”. Chính trị và tôn giáo có còn bắt tay nhau như trong quá khứ hay sẽ thao túng con người theo những cách riêng rẽ, mới mẻ hơn? Và những vấn đề toàn cầu ấy liên quan mật thiết tới hành vi và đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ như thế nào? Xét cho cùng, những thách thức lớn nhất và những lựa chọn quan trọng nhất của ngày nay là gì? Ta cần chú ý đến điều gì? Ta nên dạy con cái ta những gì? “Cuộc khủng hoảng sinh thái đang lấp ló, mối đe dọa của các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt [...] và sự trỗi dậy của các công nghệ đột phá mới” là những nỗi lo không của riêng ai; và Harari sẽ đồng hành cùng bạn trên con đường bóc tách từng vấn đề một cách thấu đáo. *** Khác với nội dung hai tác phẩm nổi tiếng được bạn đọc săn tìm vừa qua là Sapiens lược sử về loài người và Homo Deus lược sử tương lai, lần này là một quyển sách đề cập trực diện những vấn đề có tính toàn cầu nhưng rất sát sườn với số đông người đọc. 21 bài học cho thế kỷ 21 là phần việc như chính tác giả bộc bạch: "Tôi muốn xoáy ống kính vào vấn đề "ngay tại đây" và "ngay lúc này". Tiêu điểm của tôi đặt ở các sự kiện hiện tại và tương lai gần nhất của xã hội loài người. Điều gì đang xảy ra ngay lúc này? Những thách thức lớn nhất và những lựa chọn quan trọng nhất của ngày nay là gì? Ta cần chú ý đến điều gì? Ta nên dạy con cái ta những gì?". Sự sát hợp của quyển sách này còn ở chỗ: bản thảo được bắt đầu từ những thắc mắc của độc giả và các đồng nghiệp mà tác giả có điều kiện ghi nhận được. Nhưng điều đặc biệt quan trọng chính là khả năng của tác giả trong nhìn nhận bao quát vấn đề và trình bày trong phương pháp biện giải nhân quả, cùng với phân tích định lượng các biến cố xã hội đang xảy ra. Có thể hình dung công chúng đang nhìn thấy cây, còn Noah Harari chỉ ra đây là một khu rừng loại gì, đang ở đâu trên bản đồ toàn cầu, nó vừa bị cơn bão nào tràn qua và sắp sửa có những cơn lũ nào quét tới. Quan trọng hơn nữa, Harari không đơn thuần chỉ ra một cách xác đáng những vấn đề mà nhiều người còn chưa tường tận, vị giáo sư năm nay ở tuổi 43 còn đề xuất các hướng tiếp cận chuyên biệt để cải thiện tình hình. Đơn cử một phát biểu của Harari về chủ nghĩa khủng bố: "Chủ nghĩa khủng bố vừa là một vấn đề chính trị toàn cầu vừa là một cơ chế tâm lý học nội tại. Chủ nghĩa khủng bố hoạt động bằng cách nhấn một cái nút sợ hãi thẳm sâu trong tâm trí ta và cướp đi những tưởng tượng riêng tư của hàng triệu người". Với cách hiểu như vậy, có lẽ phải cần một ít thời gian nữa, để những ai ngày ngày theo dõi tin tức qua tivi và cả những nhà làm chính sách của các quốc gia "đàn anh thế giới" đang thương lượng các khoản ngân sách để chi cho công cuộc chống khủng bố có thể đồng cảm và nhìn thấy từ đó một hướng ra bền vững hơn. Trở lại với 21 bài học cho thế kỷ 21, ở đây công chúng sẽ được dịp nghe đề cập hàng loạt câu chuyện tối quan trọng đang diễn ra, đang song hành với con người và còn có nguy cơ tiếp diễn trong tương lai. Trong ngồn ngộn dữ kiện và chằng chịt các mối quan hệ, bạn đọc vẫn tìm được cảm giác thích thú và bị hấp dẫn do lẽ tác giả đã rất tài tình trong sử dụng ngôn ngữ diễn đạt: trong sáng, logic và cả dí dỏm hồn nhiên. Cho nên những vấn đề to tát được trình thuật một cách rất giản dị, "sự nổi lên của Donald Trump nói lên điều gì? Ta có thể làm gì với vấn nạn "tin giả"? Tại sao nền dân chủ tự do lại lâm vào khủng hoảng? Chúa đã trở lại rồi chăng? Một cuộc thế chiến mới đang đến? Nền văn minh nào thống trị thế giới: Phương Tây, Trung Quốc hay Hồi giáo? Châu Âu có nên mở cửa cho người nhập cư? Chủ nghĩa dân tộc có giải quyết đươc các vấn đề bất bình đẳng và biến đổi khí hậu không? Ta nên làm gì với chủ nghĩa khủng bố". Nhưng có những dự liệu của Harari có thể khiến người đọc rùng mình: "Các thuật toán Big Data có thể tạo ra những "nền độc tài số", mọi quyền lực tập trung trong tay một nhóm tinh hoa cực nhỏ trong khi hầu hết những người khác phải gánh chịu, không phải sự bóc lột mà là một thứ tồi tệ hơn: sự vô dụng". Và như thế, những trang viết của Harari có thể cùng cư dân toàn cầu mở rộng vấn đề đến vô lượng vô biên... *** Bạn đọc Việt Nam đã biết đến cây viết thể loại lịch sử-triết học Yuval Noah Harari qua hai tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt của ông là Sapiens và Homo Deus. Lần này chúng tôi xin giới thiệu tiếp cuốn thứ ba có tựa đề: 21 bài học cho thế kỷ 21. Trong cuốn sách này, tác giả xuất phát từ góc nhìn của một nhà tương lai học để hình dung ra thế giới hiện đại trong kỷ nguyên số sẽ vận hành ra sao. Từ đó, ông nêu ra các giả thiết về sự tác động to lớn của kỷ nguyên số tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người, cũng như các quan niệm truyền thống về tự do, hy sinh, dân tộc, tôn giáo, v.v. Cũng giống như Newton đã thắc mắc khi nhìn thấy quả táo rơi xuống đất - mà người bình thường khác thì không để ý – để từ đó làm tiền đề cho sự phát hiện ra định luật hấp dẫn, tác giả Yuval Noah Harari luôn “lật ngược lại vấn đề” để có một cái nhìn “trái chiều”, khác lạ với cách nhìn quen thuộc từ xưa đến nay. Chính điều này làm cho nội dung cuốn sách trở nên cuốn hút người đọc. Tuy nhiên, tác giả cũng thừa nhận mình là người đa nghi và không muốn mọi người có ấn tượng sai lầm rằng cái gì có tác dụng với ông thì cũng sẽ có tác dụng với tất cả mọi người, bởi lẽ các cá nhân không ai giống ai, cả về cấu tạo cơ thể, hệ thần kinh lẫn duyên nghiệp, v.v. ông cũng không ngần ngại tuyên bố là độc giả cũng nên biết cặp kính ông dùng “để nhìn thế giới, từ đó bóp méo tầm nhìn cũng như những viết lách của tôi, có màu gì” và ông cũng sẵn sàng đặt mình vào “tầm ngắm” để độc giả phán xét. Do vậy, độc giả hãy đọc cuốn sách với tinh thần phản biện vì không phải tất cả các luận thuyết của tác giả đều đã, hay sẽ là đúng đắn, là chân lý, là khách quan. Cấc triết gia cứ việc luận bàn, còn thế giới sẽ vận hành theo quy luật riêng của nó! Nhà xuất bản Thế giới *** Xin chào ACE, tôi thực hiện cuốn sách này chủ yếu do sở thích. Thế nên tôi không cần phải động viên hay phải có một lợi ích nào cả. Ở Việt Nam tôi thấy tri thức, sách vở đúng giờ là thoải mái nhất, chỉ cần lên mạng và tải là có. Người làm sách thì có hẳn một cộng đồng, nhưng chả ai cần donate hay phải trả giá mới làm cả. Có người còn mua sách rồi xé ra làm. Riêng cá nhân tôi chỉ làm những sách mình cảm thấy hứng thú, và cũng không muốn OCR sách mới cho lắm. Nhưng với cuốn này nó hợp với tôi, cho nên tôi đã quyết định OCR lại và làm một mình, vì một số lần trước cũng muốn thắp lên phong trào làm sách cho group mà tôi đang tham gia. Nhưng có vẻ như là một trò đùa thôi. Dù sao, việc làm nó có ý nghĩa với riêng bản thân tôi, nên chả sao cả. Tôi sẽ làm vì bản thân, và chia sẻ cho những người cần đến. Và tôi có một mục tiêu mà muốn đạt đến là làm 100 cuốn sách song ngữ A-V, về nhiều thể loại khác nhau. Để cho nếu như có người thích học TA bằng cách này luôn tìm được một số cuốn nào đó hợp với sở thích để tìm đọc. Nhưng mục tiêu này là rất xa khi mới đến cuốn thứ 7. Thế nên để chờ đến sách mà bạn cần, khi 7 cuốn này không có cuốn nào bạn thích thì sẽ rất lâu. Các bạn chỉ có thể dùng tạm mà thôi. Rất cảm ơn ý tưởng của các bạn trên group, đã giúp tôi có được cách làm dạng sách này. Tôi không phải người nghĩ đến đầu tiên, nhưng hiện nay là người tìm ra giải pháp để biến nó thành hiện thực và người duy nhất làm ra loại sách như thế này. Về cách làm thì tôi đã chia sẻ rồi, mong là có một ai đó cùng làm với một ý thức tốt để cho ra cùng dòng sách có chất lượng tốt. Tôi tự tin là để bằng được tôi cũng phải đầu tư công sức lớn đấy. Dù sao, có người làm thì mục tiêu 100 chỉ là con số nhỏ. Lời cuối, vì sách mới nên sau 2 năm tôi mới tung ra bản ebook sách tiếng Việt. Các bạn có thể đọc thuần Việt bằng cách đọc trong note. Với mục đích tôn trọng NXB và tác giả. Muốn cái gì tồn tại thì đều cần có tiền, mà sách mới ra đã chia sẻ tràn lan thì sách mới sẽ không thể có nữa. Thế nên tôi đã làm cho các bạn không làm lại được bản TV từ bản SN này hoặc phải tốn công nhiều mới làm lại được. Tháng 12, năm 2019 Lamtaxy Mời bạn đón đọc 21 Bài Học Cho Thế Kỷ 21 của tác giả Yuval Noah Harari.
Chỉ Thời Gian Có Thể Cất Lời
Được biết đên rộng rãi ở Việt Nam với cuốn tiểu thuyết Hai số phận (tập 1 của series Kane và Abel), Jeffrey Archer là một tiểu thuyết gia với thủ pháp kể chuện cực kỳ lôi cuốn và hấp dẫn độc giả khiến chúng ta không thể rời mắt khỏi cuốn sách ngay từ trang đầu. Tài năng tuyệt vời ấy thêm một lần nữa lại được tác giả sử dụng trong Biên niên Clifton, series ăn khách toàn thế giới của ông đang được Bách Việt mang tới với độc giả Việt Nam. Lấy bối cảnh thành phố cảng Bristol nước Anh vào những thập niên đầu thế kỷ 20 mà nhân vậy chính là một cậu bé, Harry Clifton, người mang trong mình những bí ẩn về thân thế. Số phận đưa đẩy khiến Harry có một cuộc đời khác với cha và các bác ruột mình, cậu gắng sức chiến thắng định mệnh dường như đã được ăn bài sẵn để mở cho mình một lối đi riêng. Liệu rằng, Harry có thực sự vượt lên được những hoàn cảnh éo le đeo đuổi cậu suốt từ thời thơ ấu cho tới tận khi trưởng thành? *** Câu chuyện này sẽ không bao giờ được viết ra nếu tôi không có thai. Các bạn biết đấy, tôi vẫn luôn lên kế hoạch sẽ để mất đi sự trong trắng của mình vào dịp đi chơi ở Weston-super-Mare, chỉ có điều, không phải với người đàn ông đó. Arthur Clifton chào đời tại Still House Lane, giống như tôi; thậm chí còn học cùng trường với tôi, trường Tiểu học Merrywood, nhưng vì tôi kém anh hai tuổi, nên thậm chí anh còn chẳng biết tôi tồn tại trên đời. Tất cả đám con gái lớp tôi đều mê mẩn anh, và không phải chỉ đơn thuần vì anh là đội trưởng đội bóng đá của trường. Cho dù Arthur chưa bao giờ tỏ ra quan tâm đến tôi khi còn học ở trường nhưng điều đó nhanh chóng thay đổi khi anh từ mặt trận phía Tây trở về. Thậm chí tôi không dám chắc anh nhận ra tôi là ai khi mời tôi nhảy vào buổi tối thứ bảy đó ở Palais, song một cách công bằng, tôi cũng phải nhìn đến hai lần trước khi nhận ra anh vì anh đã nuôi một hàng ria bút chì và chải tóc lật ra sau như Ronald Colman. Anh không để mắt tới bất cứ cô gái nào khác tối hôm ấy, và sau khi chúng tôi cùng nhau nhảy điệu waltz cuối cùng, tôi biết chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi anh cầu hôn tôi. Arthur nắm lấy tay tôi trên đường quay về nhà, và khi về tới trước cửa nhà tôi, anh đã cố tìm cách hôn tôi. Tôi quay mặt tránh đi. Xét cho cùng, mục sư Watts vẫn thường nhắc tôi rằng tôi cần giữ mình trong trắng cho tới ngày cưới, và cô Monday, người phụ trách ban đồng ca của chúng tôi, cảnh cáo rằng đàn ông chỉ muốn có một thứ, và một khi có được nó, họ sẽ nhanh chóng mất đi hứng thú. Tôi vẫn thường tự hỏi liệu có phải cô Monday nói từ kinh nghiệm bản thân hay không. Tối thứ bảy tiếp theo, Arthur mời tôi tới rạp chiếu bóng để xem Lilian Gish trong phim Những bông hoa gãy nại, và mặc dù cho phép anh khoác vai mình, tôi vẫn chưa chấp nhận để anh hôn. Anh cũng không làm ầm lên vì chuyện đó. Sự thực là Arthur có phần dè dặt. Đến thứ bảy tiếp theo, tôi cho phép anh hôn mình, nhưng khi anh định luồn một tay vào trong áo tôi, tôi lập tức đẩy anh ra. Kỳ thực, tôi đã không cho phép anh làm thế cho tới khi anh ngỏ lời cầu hôn tôi, trao cho tôi nhẫn đính hôn, còn mục sư Watts đã đọc bản thông báo kết hôn giữa hai người đến lần thứ hai. Anh trai Stan của tôi nói với tôi rằng tôi là cô gái cuối cùng còn trinh bên phía bờ bên này của sông Avon, dù tôi dám ngờ phần lớn những cuộc chinh phục của anh ấy chỉ tồn tại trong đầu anh mà thôi. Tuy vậy, tôi vẫn quyết định đã tới lúc, và còn dịp nào tốt hơn chuyến đi chơi tới Weston-super-Mare với người đàn ông tôi sắp sửa kết hôn trong vài tuần nữa? Tuy nhiên, ngay khi Arthur và Stan nhảy xuống khỏi xe buýt, cả hai lập tức tông thẳng tới quán rượu gần nhất. Nhưng tôi đã dành cả tháng vừa qua để lên kế hoạch cho khoảnh khắc này, thế nên khi rời khỏi xe, như một cô gái ngoan được hướng dẫn chu đáo, tôi đã sẵn sàng. Tôi bước về phía bến tàu với tâm trạng chán nản thì cảm thấy có ai đó đang đi theo tôi. Tôi ngoái lại nhìn và ngạc nhiên khi nhận ra người ấy là ai. Anh ta bắt kịp tôi, và hỏi có phải tôi đang một mình hay không. “Đúng thế,” tôi đáp, biết chắc lúc này Arthur hẳn đã nốc đến vại bia thứ ba rồi. Khi anh ta đưa tay sờ lên mông tôi, đáng lẽ phải tát vào mặt anh ta, song tôi lại không làm thế vì vài lý do. Đầu tiên, tôi nghĩ tới những lợi thế khi làm tình với một người đàn ông nhiều khả năng sẽ chẳng bao giờ gặp lại. Và cũng phải thừa nhận tôi khá thích thú trước sự sỗ sàng của anh ta. Khi Arthur và Stan có lẽ đã cạn hết vại bia thứ tám của họ, người đàn ông kia thuê phòng cho chúng tôi ở một nhà nghỉ ngay gần bờ biển. Dường như tại đó người ta có mức giá đặc biệt cho những khách thuê phòng không có ý định nghỉ qua đêm. Anh ta bắt đầu hôn tôi ngay khi chúng tôi kịp lên tới chiếu nghỉ cầu thang lầu một, và khi cửa phòng ngủ đã đóng lại, anh ta hối hả cởi khuy áo tôi ra. Rõ ràng với anh ta đây không phải là lần đầu tiên. Kỳ thực, tôi tin chắc mình không phải là cô gái đầu tiên được anh ta đưa lên giường trong một chuyến đi chơi như thế này. Nếu không phải khách quen, làm sao anh ta biết được mức giá đặc biệt? Phải thú thực là tôi không trông đợi mọi thứ trôi qua nhanh đến thế. Sau khi rời khỏi người nhau, tôi lao ngay vào phòng tắm, còn anh ta ngồi ở cuối giường và châm một điếu thuốc. Có lẽ lần thứ hai sẽ khá hơn, tôi thầm nghĩ. Nhưng khi quay ra, anh ta đã biến mất. Phải thừa nhận là, tôi cảm thấy có chút thất vọng. Có lẽ tôi đã cảm thấy tội lỗi hơn về chuyện không chung thủy với Arthur nếu anh không nôn ọe ra khắp người tôi trong hành trình trở về Bristol. Ngày hôm sau, tôi kể với mẹ tôi về chuyện đã xảy ra, song không tiết lộ thân phận người đàn ông kia. Suy cho cùng, mẹ tôi chưa bao giờ gặp anh ta, và nhiều khả năng sẽ chẳng bao giờ gặp. Bà bảo tôi hãy giữ mồm giữ miệng, vì bà không muốn phải hủy bỏ đám cưới, thậm chí nếu quả thực tôi có thai đi nữa, cũng sẽ chẳng ai đủ tinh ý để nhận ra, bởi đến khi cái bụng lộ rõ thì chắc hẳn Arthur và tôi đã kết hôn rồi. *** “Chỉ thời gian có thể cất lời” của Jeffrey Archer là một tác phẩm hay, lôi cuốn, hấp dẫn, nhưng còn xa mới có thể trở thành một siêu phẩm. Ctgctcl là cuốn đầu tiên nằm trong series 7 cuốn nằm trong bộ “Biên niên Clifton” nổi tiếng, với nhân vật trung tâm là cậu bé Harry Clifton, một cậu bé có thân phận bí ẩn. Cha cậu bé, Arthur Clifton, vốn là một công nhân chuyên cần, thật thà bỗng nhiên mất tích đầy bí ẩn. Mẹ cậu bé, Maisie, một phụ nữ lôi cuốn, quyến rũ, vốn là một phục vụ bàn trong một tiệm cà phê. Xuyên suốt tác phẩm, độc giả được dõi theo hành trình trưởng thành của Harry Clifton thông qua nhiều góc nhìn của nhiều nhân vật, từ một cậu bé ngày ngày lang thang nơi bến cảng thành một sinh viên Oxford. Cùng với hành trình trưởng thành đó, những bí ẩn trong quá khứ và trong hiện tại cũng dần dần được vén lên. Trong Chỉ thời gian có thể cất lời, tác giả đã trình diễn một kỹ thuật kể chuyện lôi cuốn. Tình tiết truyện diễn biến nhanh, ít những trường đoạn tự sự kiểu nhân vật độc thoại dài cả vài trang sách, nhân vật kể truyện thay đổi liên tục qua các phần giúp câu chuyện đa sắc thái và không bị nhàm chán. Nói không ngoa, nếu có thể rảnh rang ngồi cả ngày để đọc, bạn có thể đọc một lèo hết veo cuốn sách 500 trang này mà không gặp bất kỳ khó khăn gì. Tác phẩm thực sự rất dễ đọc. Tuy nhiên… Trước khi viết những dòng “tuy nhiên” này tôi phải tâm sự thực lòng, tôi là một độc giả khó tính. Tôi ưa thích các tác phẩm mà người đọc buộc phải đọc nhiều lần để hiểu, bỏ thời gian ngẫm nghĩ để khám phá các tầng nghĩa, mất ngủ để phân tích các cấu trúc bí ẩn của tác phẩm, và cuối cùng được trải nghiệm cảm xúc vỡ òa như khi Archimedes reo vang “Eureka!” trong bồn tắm. Chính vì vậy, với cá nhân tôi, Chỉ thời gian có thể cất lời tuy rất hay nhưng chưa thể trở thành một siêu phẩm đúng nghĩa bởi: Jeffrey Archer tuy đã dày công xây dựng nhiều bí ẩn trong tác phẩm nhưng có vẻ ông giấu không kỹ, hoặc tôi đoán mò quá giỏi nên đã “bắt bài” được ông quá sớm, khiến những lần ông dùng thủ pháp chuyển đổi nhân vật dẫn truyện để giải nghĩa các bí ẩn từ các phần trước, tôi thấy nhiều tình tiết bị lặp lại và có vẻ hơi thừa. Cảm giác khi mình biết tỏng cái điều mà nhân vật kể truyện kia đang giấu giấu, giếm giếm, úp úp, mở mở, giống y như khi nghe một chiến sĩ dũng cảm tuyên bố: “Có đánh chết tau cũng không khai ra thèng bạn tau đang nấp trong đống rơm, nha nha nha nha nha!!!” Cảm giác thực sự rất… khó tả. Là một người sinh ra và lớn lên ở nông thôn, bản thân phải tự cố gắng để có thể theo đuổi cái sự học hành, tôi đánh giá, những bi kịch và những khó khăn của cậu bé Harry Clifton phải trải là… quá bình thường. Bởi cậu đã được nhiều người thương yêu và hết lòng giúp đỡ, bởi có những người bạn chân thành, và quan trọng nhất là bởi luôn có các quý nhân xuất hiện đúng lúc, đưa tay giúp đỡ cậu thậm trí trước cả khi cậu bé kịp cảm thấy khổ đau. Đúng là… làm gì có những năm tháng tĩnh lặng trong cuộc đời, chẳng qua khi đó có những người đã thay bạn gánh vác những trách nhiệm, gánh nặng mà thôi. Harry Clifton vì vậy hầu như chỉ phải tập trung vào mỗi việc là chăm chỉ học hành, tập hát và đóng kịch. Tôi nghĩ vui rằng, đáng nhẽ tên tác phẩm nên đổi là “Quý nhân phù trợ” sẽ hợp hơn. – Đặng Xuân Lương Review Mời bạn đón đọc Chỉ Thời Gian Có Thể Cất Lời của tác giả Jeffrey Archer.