Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Đốm Lửa Lưu Lạc

"Đôi khi người ta cần phải cắt đứt quan hệ với những nơi họ sinh ra, với quá khứ của chính họ và bắt đầu lại từ đầu. Giống như những ngọn lửa thảo nguyên. Sau khi lửa thiêu rụi, đất sẽ màu mỡ hơn và những thứ mới mẻ có thể sinh sôi." Ở Shaker Heights, một vùng ngoại ô cấp tiến và yên bình, mọi thứ đều tuân theo trật tự định sẵn - từ cách bố trí các con đường quanh co, màu sắc của những ngôi nhà, đến sự sung túc, thịnh vượng của cư dân trong vùng. Không ai hiểu rõ điều ấy như Elena Richardson. Thế nhưng, sự xuất hiện của người mẹ đơn thân Mia Warren cùng cô con gái tuổi teen Pearl đã làm thay đổi cuộc sống của gia đình Richardson, gây xáo trộn cộng đồng vốn nề nếp đến từng chi tiết này. Một câu chuyện xúc động về sự gắn kết mãnh liệt của tình mẫu tử, sức nặng của những bí mật, bản chất của nghệ thuật và tính đồng nhất trong một cộng đồng, như những ngọn lửa âm ỉ ủ trong vẻ ngoài tĩnh lặng, cứ chực chờ bùng cháy. "Dí dỏm, thông minh và êm ái. Thật là một điều kỳ diệu." - Paula Hawkins "Phi thường! Những quyển sách thế này không thường xuất hiện." - John Green *** Có quá nhiều câu hỏi về hạnh phúc trong tiểu thuyết “Những đốm lửa lưu lạc” của tác giả người Mỹ gốc Hoa Celeste Ng. Ðây là tác phẩm day dứt về gia đình và cả bản ngã của mỗi người. Sách do NXB Phụ nữ phối hợp với Phương Nam Book phát hành năm 2019. Mở đầu câu chuyện là vụ hỏa hoạn thiêu rụi căn nhà của gia đình Richardson, may mắn không ai thiệt mạng hay bị thương. Từ đây, những chuyện xảy ra trước đó được kể lại. Lần lượt từng gia đình, nhân vật được khắc họa, mở ra nhiều bí mật, bất ngờ. Hai mẹ con Mia Warren và Pear đi khắp nơi bằng chiếc xe tải chất đầy đồ đạc và đổi chỗ ở liên tục. Nhưng đến vùng ngoại ô Shaker Heights, thuê được căn hộ tốt của ông bà Richardson với giá bình dân, cuộc sống của họ ổn định hơn. Khi thấy con gái Pear gắn bó và vui vẻ khi ở cạnh gia đình Richardson, người mẹ đơn thân Mia quyết định sẽ ở hẳn nơi này. Thế nhưng, mối quan hệ giữa những đứa con vị thành niên của hai nhà, rồi việc ông bà McCullough, một gia đình hàng xóm hiếm muộn, nhận con nuôi, bị vướng vào kiện tụng với mẹ ruột đứa trẻ; đã khiến mọi chuyện phức tạp, dẫn đến kết cục không ngờ. Tác phẩm có nhiều nhân vật, nhiều chi tiết, nhưng tác giả đã khéo léo khắc họa rõ nét tính cách và tâm lý, vừa dẫn dắt câu chuyện khúc chiết. Ấn tượng nhất là những người mẹ và tình mẫu tử. Mia Warren, một tài năng nhiếp ảnh đã từ bỏ tương lai, trốn gia đình mà cô ký hợp đồng mang thai hộ, để được sống bên cạnh con. Bà Richardson nghiêm khắc với con gái út khiến cô bé luôn chống đối, nhưng cũng vì bà lo lắng cho đứa con sinh non, ốm yếu này. Hai người phụ nữ ấy đối lập trong tính cách, hoàn cảnh sống và cả cách nuôi dạy con cái. Nếu Mia phóng khoáng, cảm xúc và đeo đuổi nghệ thuật; thì Richardson gò mình trong khuôn khổ và kế hoạch cuộc đời. Cuối cùng, họ đối đầu vì những đứa con. Ở một hoàn cảnh khác là cuộc tranh chấp của 2 người phụ nữ giành quyền nuôi con. BeBe Châu, cô gái Trung Quốc, trong lúc túng quẫn, trầm cảm đã bỏ rơi đứa con mới sinh khi người yêu bỏ rơi. Sau những tháng ngày dằn vặt, cô đòi lại con từ gia đình nhận nuôi đứa trẻ. Trong khi đó, bà McCullough quyết liệt giữ đứa bé đến cùng, khiến người đọc xót xa trước những đau khổ của cả hai người mẹ. Tình mẫu tử là chủ đề của tác phẩm, nhưng có lẽ bản ngã và sự cố chấp của mỗi người, từ các bà mẹ đến những đứa con, mới là mấu chốt làm nên câu chuyện hấp dẫn, giúp “Những đốm lửa lưu lạc” là một trong những tác phẩm bán chạy nhất do New York Times bình chọn. Cát Ðằng *** Ở Shaker Heights mọi người vẫn đang bàn tán về chuyện xảy ra vào mùa hè năm ấy: tại sao mà con bé Isabelle, đứa con út của gia đình Richardson, lại có thể phát điên mà châm lửa đốt nhà. Suốt mùa xuân, chuyện về bé Mirabelle McCullough trở thành chủ đề buôn chuyện - hoặc, tùy bạn đứng về phía nào, mà có thể gọi bé là Châu Mai Linh - còn bây giờ, rốt cuộc cũng có chuyện mới, một đề tài hấp dẫn để bàn luận. Một sáng thứ Bảy của tháng Năm, vừa non trưa, nhiều khách đang đẩy xe hàng mua sắm trong siêu thị Heinen’s đã nghe tiếng xe cứu hỏa inh ỏi chạy loạn xạ, hướng thẳng về phía hồ vịt. Khoảng 12 giờ 15 phút, bốn chiếc xe cứu hỏa đỗ thành một dãy đỏ lộn xộn dọc đường Parkland Drive, nơi cả sáu phòng ngủ của gia đình Richardson đang ngùn ngụt cháy, ai nấy trong vòng nửa dặm đều thấy khói bốc lên từ những ngọn cây giống như đám mây giông đen ngòm dày đặc. Sau đó, người ta đồn rằng từ lâu đã xuất hiện nhiều dấu hiệu rõ ràng: rằng Izzy là con nhỏ điên loạn, rằng gia đình Richardson lúc nào cũng có gì đó kỳ lạ, rằng vừa nghe tiếng còi báo động vào sáng hôm ấy thì họ biết chắc có chuyện khủng khiếp đã xảy ra rồi. Dĩ nhiên, lúc bấy giờ Izzy vẫn mất tích, không ai biện hộ cho cô và thiên hạ có thể - hoặc đã - đồn đoán bất cứ thứ gì mà họ thích. Dù khi xe cứu hỏa đến, và rồi sau đó một lúc, cũng không ai biết được chuyện gì đã xảy ra. Những người hàng xóm nép sát hết mức vào rào chắn tạm thời - chiếc xe tuần dương của cảnh sát, đỗ chắn ngang cách xa vài trăm mét - để quan sát đội cứu hỏa tháo các cuộn ống trong nét mặt khắc nghiệt của người đã nhận ra sự vô vọng. Bên kia đường, đàn ngỗng trong hồ vẫn ngụp đầu xuống nước lặn tìm rong, hoàn toàn không chút xáo trộn trước sự hỗn loạn này. Bà Richardson đứng trên bờ cỏ, tay túm chặt cổ áo choàng màu xanh nhạt. Dù trời đã sang chiều, bà vẫn còn đang ngủ khi đầu báo khói rú lên. Bà đã đi ngủ muộn, cố vào giấc, tự nhủ thầm phải gắng nghỉ ngơi sau một ngày dài khó nhọc. Tối hôm qua, từ cửa sổ tầng trên, bà nhác thấy một chiếc xe hơi cố đậu lại trước nhà. Lối lái xe vào nhà vừa xa vừa vòng, hình cung trũng kiểu móng ngựa uốn cong từ lề đường đến trước cửa rồi trở ra - vì vậy con đường chính chỉ cách cỡ trăm bước, nhưng với bà nó xa đến mức bà khó lòng nhìn rõ, dù bây giờ vẫn đang là tháng Năm , huống hồ lúc đó là chín giờ rưỡi đêm, trời đã sầm tối. Tuy vậy bà nhận ra chiếc Volkswagen cỡ nhỏ màu nâu vàng nhạt của vị khách thuê nhà, cô Mia, với chiếc đèn pha sáng rực. Cửa phụ mở ra, một dáng người mảnh mai xuất hiện, khép hờ cánh cửa: đứa con gái tuổi teen của Mia, là Pearl. Đèn dưới mui chiếu sáng bên trong khiến chiếc xe giống như một hộp trưng bày, nhưng chiếc xe xếp đầy nào hộp, nào túi đến gần chạm trần và bà Richardson chỉ có thể nhận ra chiếc bóng mờ nhạt tạo ra từ đầu cô Mia với búi tóc rối bù ngự trên đỉnh đầu. Pearl cúi xuống hộp thư, và bà Richardson chỉ có thể hình dung được tiếng cót két yếu ớt phát ra khi cửa hộp thư mở ra, rồi đóng lại. Sau đó Pearl nhảy lò cò trở vào xe và đóng cửa. Đèn phanh xe lóe lên đỏ rực sau đó chớp tắt, chiếc xe tất tả lao vào màn đêm đang buông đầy. Lòng thấy nhẹ nhõm, bà Richardson xuống chỗ hộp thư và nhìn thấy bộ chìa khóa đặt trên một chiếc nhẫn trơn, không một lời nhắn. Bà định sáng mai sẽ xem xét kỹ lưỡng cũng như kiểm tra căn hộ ở đường Winslow, dù bà biết rõ hai mẹ con họ đã đi rồi. Nhờ biết chuyện này nên bà mới chịu đi ngủ, và bây giờ là mười hai giờ rưỡi, bà đang đứng trên bờ cỏ trong chiếc áo choàng tắm, chân xỏ đôi giày tennis của cậu con trai Trip, nhìn căn nhà của gia đình đang cháy thành tro bụi. Khi bị đánh thức bởi tiếng rít ầm ĩ từ đầu báo khói, bà chạy hết phòng này đến phòng khác tìm cậu, tìm Lexie, tìm Moody. Thật ngạc nhiên khi bà không tìm Izzy, có vẻ như bà đã đinh ninh rằng Izzy là đứa gây nên tội. Phòng nào cũng trống trơn nhưng lại nồng nặc mùi xăng cùng ngọn lửa nhỏ đang cháy tanh tách ngay giữa mỗi chiếc giường, y như có con điên đang cắm trại trên đó. Đến khi bà kiểm tra phòng khách, phòng sinh hoạt gia đình, phòng giải trí và phòng bếp thì khói đã bắt đầu lan rộng bao phủ hoàn toàn, cuối cùng bà tháo chạy ra ngoài, nghe tiếng còi báo động, tín hiệu phát ra từ hệ thống an toàn của căn nhà. Ngoài ngõ vào, bà thấy chiếc Jeep của Trip không còn, cả chiếc Explorer của Lexie, xe đạp của Moody cũng vậy và dĩ nhiên chiếc ô-tô mui kín của chồng bà cũng vắng mặt. Người ta phải gọi cho ông từ sở làm. Sau đó bà sực nhớ Lexie, ơn trời, tối qua con nhỏ qua đêm ở nhà Serena Vương. Bà tự hỏi liệu Izzy đã đi đâu. Bà tự hỏi liệu mấy đứa con trai của bà đang ở đâu, và làm cách nào tìm được chúng để báo chúng biết chuyện gì đã xảy ra. Khi ngọn lửa được dập tắt, ngôi nhà chưa đến mức bị thiêu rụi hoàn toàn nhưng bà Richardson vẫn còn rất sợ hãi. Tất cả cửa sổ đều cháy rụi nhưng khung gạch của ngôi nhà vẫn còn, ẩm ướt, đen nhẹm đi và bốc đầy hơi nước, phần lớn mái nhà, các tấm bảng màu đen bóng bẩy lấp lánh giống như những chiếc vảy cá họ mới vừa ngâm tẩm. Trong vài ngày tới, gia đình Richardson không được vào nhà cho đến khi các kỹ sư của sở cứu hỏa kiểm tra xong tất cả những thanh xà còn trụ lại, tuy vậy, chỉ cần đứng từ bờ cỏ - nơi gần nhất với bảng CẢNH BÁO màu vàng mà họ được phép đến - họ vẫn nhìn thấy chút gì đó còn sót lại trong căn nhà đổ nát. “Trời ơi,” Lexie sửng sốt. Cô ngồi ngay mép mui xe của mình, chiếc xe đang đỗ bên kia đường, trên bãi cỏ giáp cái hồ vịt. Cô và Serena vẫn đang say ngủ, lưng đâu lưng cuộn tròn trong chiếc chăn cỡ queen của Selena thì bác sĩ Vương lay vai cô, nói nhỏ, “Lexie. Cục cưng Lexie. Dậy nào. Mẹ con vừa gọi đấy.” Họ đã thức đến hơn hai giờ sáng, nói chuyện - như họ đã làm suốt mùa xuân - về bé Mirabelle McCullough, tranh luận về việc quyết định của quan tòa là đúng hay sai, liệu bố mẹ nuôi của con bé có nên nhận được quyền giám hộ hoặc liệu có nên trả nó về với mẹ ruột. Cuối cùng Serena nói “Thậm chí Mirabelle McCullough cũng không phải tên thật của con nhỏ, ôi trời,” và Lexie đáp lại, “Mẹ nó đã từ bỏ nó, đồng nghĩa cô ta từ bỏ luôn quyền đặt tên cho nó,” rồi họ rơi vào không khí tĩnh lặng ảm đạm cho đến khi cả hai ngủ thiếp đi. Bây giờ Lexie nhìn đám khói cuồn cuộn bốc ra từ cửa sổ phòng ngủ của cô, cái cửa sổ hướng ra bãi cỏ, và nghĩ đến mớ đồ đạc trong phòng chẳng còn gì. Mỗi chiếc áo phông trong ngăn tủ kéo, mỗi cái quần jean trong tủ quần áo. Mớ ghi chú mà Serena đã viết cho cô từ hồi lớp Sáu hãy còn xếp lại thành các quả banh giấy, chúng được cất giữ trong một hộp giày đặt dưới giường; cả cái giường, các tấm ga trải giường và chiếc chăn bông đều cháy rụi thành than. Đóa hồng cài áo mà bạn trai Brian đã tặng trong chuyến hành hương được treo trên bàn trang điểm đến khô đi, những cánh hồng đỏ thắm, sẫm lại hóa đỏ bầm. Giờ chẳng còn gì ngoài tro tàn. Đột nhiên Lexie nhận ra rằng, trong bộ đồ vừa thay mà cô mang đến nhà Serena, thì cô còn khá khẩm hơn các thành viên còn lại trong nhà: trên ghế sau cô có cái túi du lịch, cái quần jean và bàn chải đánh răng. Bộ đồ ngủ. Cô liếc vội mấy đứa em, nhìn qua mẹ, mẹ hãy còn mặc áo choàng tắm đứng nơi bờ cỏ, và cô nghĩ, Thật luôn, mọi người chẳng còn gì ngoài bộ đồ dính trên người. “Thật luôn” là một trong những từ cửa miệng của Lexie, thậm chí cô gán nó vào những tình huống chẳng thật chút nào. Trong trường hợp này, chí ít một lần, không ít thì nhiều cô cũng dùng chính xác. Ngay cạnh cô, Trip thất thần đưa tay xước tóc. Lúc này mặt trời đang đứng bóng, mồ hôi làm cho những lọn tóc quăn của cậu cứ ngang tàng dựng ngược. Cậu đang chơi bóng rổ tại trung tâm cộng đồng thì nghe tiếng xe cứu hỏa rền rĩ, nhưng cậu chẳng mấy để ý. Ngay sau đó, mọi người đói bụng và quyết định nghỉ chơi, cậu lập tức lái xe về nhà. Đúng kiểu Trip, thậm chí cửa xe có đang hạ xuống thì cậu cũng không bận tâm đến đám khói khổng lồ phảng phất bay về phía mình mà chỉ bắt đầu nhận ra chuyện không ổn khi thấy xe cảnh sát phong tỏa con đường. Sau mười phút giải thích, cuối cùng cậu cũng được phép đỗ chiếc Jeep của mình ở phía bên kia ngôi nhà, nơi Lexie và Moody đang ngồi đợi từ lúc nào. Ba chị em ngồi trên mui xe theo thứ tự, như thứ tự trong các bức ảnh chân dung gia đình từng treo chỗ cầu thang, những bức ảnh giờ đã thành tro bụi. Lexie, đến Trip, Moody: học sinh năm cuối, năm ba, năm hai. Cạnh bên, mấy chị em nhận ra chỗ trống mà Izzy, học sinh năm nhất, “con cừu đen” trong nhà, một đứa bất định, đã để lại. “Rồi chúng ta sẽ ở đâu?” Trip hỏi. Phút lặng thinh bỗng chốc vây lấy ba chị em khi họ nhìn lại tình cảnh của nhà mình. “Chúng ta sẽ đến khách sạn hoặc nơi nào đó đại loại thế,” cuối cùng Lexie trả lời. “Chị nghĩ trước đây gia đình Josh Trammell cũng làm vậy.” Ai cũng biết chuyện này: vài năm trước, Josh Trammell, một học sinh năm hai đã ngủ quên khi đèn cầy còn cháy làm căn nhà của bố mẹ cậu bị thiêu rụi. Nhiều năm qua, ở trường trung học vẫn đồn rằng nguyên nhân không phải cây đèn cầy mà vì hút cần sa, nhưng bên trong ngôi nhà đã bị hủy hoại hoàn toàn nên chẳng thể nào biết được, và Josh mắc kẹt trong chuyện cây đèn cầy của chính mình. Người ta vẫn xem cậu là thằng đầu đất đốt nhà, dù chuyện này đã trôi qua nhiều năm, và mới đây Josh đã tốt nghiệp Đại học Ohio State với tấm bằng danh dự. Giờ đây, dĩ nhiên, đám cháy của Josh Trammell không còn là vụ hỏa hoạn lừng danh nhất ở Shaker Heights này nữa. “Một phòng khách sạn? Cho cả bọn?” “Sao cũng được. Thì hai phòng. Hoặc chúng ta sẽ đến khách sạn Embassy Suites. Chị không biết.” Lexie nhịp mấy ngón tay lên đầu gối. Cô muốn làm một điếu, nhưng sau những gì vừa xảy ra - và trước mắt mẹ với mười người lính cứu hỏa - cô không dám châm điếu. “Bố mẹ sẽ tính toán thiệt hại. Và phía bảo hiểm sẽ bồi thường cho nhà mình.” Mặc dù chỉ hiểu biết mơ hồ về thủ tục bảo hiểm, thì suy nghĩ này của cô nghe có vẻ hợp lý. Dù sao đi nữa, đây là chuyện của người lớn, không phải của bọn trẻ. Những lính cứu hỏa cuối cùng đang từ nhà bước ra, kéo chiếc mặt nạ bảo hộ ra khỏi mặt. Khói từ đám cháy hầu như đã không còn, nhưng cảm giác oi bức vẫn bao phủ khắp nơi rất giống bầu không khí phòng tắm sau khi tắm nước nóng. Mui xe nóng dần lên và Trip duỗi chân xuống kính chắn gió, di mũi dép tông đẩy đẩy vào cần gạt nước. Rồi cậu phì cười. “Gì mà vui vậy?” Lexie hỏi. “Chỉ đang tưởng tượng cảnh con Izzy chạy loanh quanh để đánh diêm khắp nhà.” Cậu khịt mũi. “Cái con điên.” Moody đang ngồi vắt chéo chân trên bãi cỏ cạnh chiếc xe đạp của mình. “Sao ai cũng khẳng định là nó?” “Thôi đi.” Trip nhảy khỏi xe. “Là Izzy chứ ai. Chúng ta đều ở đây. Mẹ cũng ở đây. Bố thì trên đường về. Còn thiếu ai nữa?” “Vì Izzy không có ở đây. Nên nó là đứa duy nhất có khả năng gây ra hay sao?” “Thủ phạm?” Lexie cắt ngang. “Izzy á?” “Bố đang ở sở làm,” Trip nói tiếp. “Chị Lexie ở nhà Serena. Em thì đang chơi bóng bên đường Sussex. Còn em, Moody?” Moody ngập ngừng. “Em đạp xe đến thư viện.” “Đó. Chị thấy chưa?” Với Trip, đáp án quá hiển nhiên. “Kẻ tình nghi duy nhất chỉ còn Izzy và mẹ. Mà mẹ thì đang ngủ.” “Biết đâu đường điện nhà mình bị chập. Hoặc giả có người quên tắt lò nướng thì sao.” “Đội cứu hỏa nói có nhiều mồi lửa rải khắp nhà,” Lexie nói. “Rất nhiều điểm phát lửa. Khả năng có cả chất xúc tác. Không phải sự cố.” “Chúng ta đều biết con nhỏ đó thần kinh mà.” Trip ngả người tựa vào cửa xe. Bên kia đường, xe cứu hỏa bắt đầu cuộn ống vào guồng. Ba đứa trẻ còn lại của nhà Richardson dõi theo đội cứu hỏa buông rìu xuống và cởi bỏ những lớp áo khoác vàng ám đầy mùi khói. “Đứa nào qua đó ngồi với mẹ đi,” Lexie bảo, nhưng chẳng ai nhúc nhích. Sau một phút, Trip tuyên bố, “Khi bố mẹ tìm thấy Iz, họ sẽ nhốt nó vào bệnh viện tâm thần đến hết đời.” Không ai bận tâm đến việc cô Mia và Pearl vừa rời khỏi căn hộ ở đường Winslow. Bà Richardson, đang quan sát đội trưởng đội cứu hỏa tỉ mỉ ghi chép vào hồ sơ tạm nên đã hoàn toàn quên mất hai vị khách thuê cũ của mình. Bà còn chưa báo với chồng hay bọn trẻ về chuyện đó; nhưng sáng sớm hôm ấy, Moody đã phát hiện sự vắng mặt của họ và cậu vẫn không chắc mình nên làm gì. Phía cuối đường Parkland Drive, đốm xanh nhỏ - chiếc BMW của bố chúng - đang tiến lại gần. “Sao anh biết chắc họ sẽ tìm ra nó?” Moody hỏi. Mời các bạn đón đọc Những Đốm Lửa Lưu Lạc của tác giả Celeste Ng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Dưới Ánh Sao Thu - Knut Hamsun
Dưới ánh sao thu (Under høstjernen) của Knut Hamsun, Nguyễn Thành Nhân dịch từ bản tiếng Anh Under the Autumn Star của W. W. Worster. *** Knut Hamsun tên thật là Rnud Pedersen, (04.8.1859 - 19.02.1952) nhà văn Na Uy đoạt giải Nobel Văn học năm 1920. Ông là nhà văn làm đổi mới văn xuôi Na Uy và là người luôn cố gắng thể hiện đời sống tâm hồn vô thức.   Năm 1890, tác phẩm Sult (Đói) của ông được xuất bản, gây chấn động lớn trong văn giới bấy giờ với một bút pháp lạ lùng sâu thẳm, mô tả rất xác thực, tinh vi, nhưng đôi khi cũng khá hài hước những cảm xúc và ý tưởng của một nhà văn trẻ đang hồi khốn khó. Có lẽ đây là tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc nhất cho giới phê bình học giả cũng như bạn đọc toàn cầu kể từ ngày nó ra đời cho tới nay. Tác phẩm này cũng đã được dựng thành phim hai lần. Lần thứ nhất năm 1966, do Henning Carlsen (sinh 1929) nhà sản xuất phim lừng danh người Đan Mạch đạo diễn; lần thứ hai năm 2001 do đạo diễn, biên kịch người Mỹ Maria Giese đạo diễn. Từ đó trở đi, bút lực của ông ngày càng dồi dào sung mãn. Về mặt bút pháp, ông là một trong những nhà văn cùng thời khác như James Joyce (1882-1941), Marcel Proust (1871-1922) và Virginia Woolf (1882-1941)… đã khai thác một cách tài tình thủ pháp Dòng ý thức ; hình thành nên trào lưu văn học hiện đại. Nếu không xét tới quan điểm chính trị của Knut Hamsun – vốn đã trăm phần trăm sai trái, không có gì cần bàn cãi nữa (có lẽ bản thân Knut Hamsun cũng đã nhận ra những sai lầm của ông trong quãng thời gian cuối đời), có thể khẳng định đa phần những di sản văn học mà ông để lại cho nhân loại là vô cùng quý báu. Và người đọc chúng ta có thể tri ân ông ở khía cạnh này. Một số tác phẩm: - Den Gaadefulde. En kjærlighedshistorie fra Nordland (Con người bí ẩn, dưới tên Knud Pedersen, 1877), tiểu thuyết - Bjørger (dưới tên Knud Pedersen Hamsund, 1878), tiểu thuyết  - Fra det moderne Amerikas Aandsliv (Cuộc sống tinh thần của xã hội Mỹ hiện đại, 1889), tiểu luận  - Sult (Đói, 1890), tiểu thuyết  - Fra det ubevidste sjaceleliv (Từ cuộc sống vô thức của tâm hồn, 1890), tiểu luận  - Mysterier (Những điều bí ẩn, 1892), tiểu thuyết  - Redaktør Linge (Biên tập viên Linge, 1893)  - Ny Jord (Đất mới, hoàn tất năm 1893)  - Pan (Quý ngài, 1894), tiểu thuyết  - Ved Rigets Port (Nơi cổng vương quốc, 1895), kịch  - Livets Spil (Trò đời, 1896)  - Aftenrøde. Slutningspil (Hoàng hôn, 1898), kịch  - Victoria. En kjærlighedshistorie (Victoria, 1898), tiểu thuyết  - Munken Vendt. Brigantines saga I (1902), kịch thơ  - Det vilde Kor (Bản hợp xướng hoang dã, 1904), thơ  - Under Høststjærnen. En Vandrers Fortælling (Dưới ngôi sao mùa thu, 1906), tiểu thuyết  - Benoni (1908), tiểu thuyết  - En Vandrer spiller med Sordin (Kẻ lang thang chơi đàn không dây, 1909), tiểu thuyết  - Den sidste Glæde (Niềm vui cuối cùng, 1912), tiểu thuyết  - Børn av Tiden (Những đứa con của thế kỉ, 1913), tiểu thuyết  - Segelfoss By (Thị trấn Segelfoss, 2 tập, 1915), tiểu thuyết  - Markens Grøde (Nhựa của đất, 2 tập, 1917), tiểu thuyết  - Konerne ved Vandposten (Những người đàn bà bên giếng, 2 tập, 1920), tiểu thuyết  - Siste Kapitel (Chương cuối, 2 tập, 1923), tiểu thuyết  - Landstrykere (Những kẻ lang thang, 2 tập, 1927), tiểu thuyết  - August (Tháng Tám, 2 tập, 1930), tiểu thuyết  - Ringen sluttet (Vòng vây đã khép, 1936), tiểu thuyết  - Paa gjengrodde Stier (Theo lối mòn hoang, 1949) *** Tôi lê bước tới đường Raadhusgaten, và đứng một hồi cạnh trạm xe ngựa, quan sát lối vào khách sạn Victoria. Nhưng dĩ nhiên nàng đã ra ngoài thăm mấy người bạn. Tôi nhắm mắt đưa chân vào khách sạn, nói chuyện với người gác cửa. Phải, Fruen đang ở trong phòng số 12, tầng một. Vậy bà ta không ra ngoài thăm bạn sao? Không. Có phải bà ta chỉ ra ngoài chốc lát không? Fruen không hề nói thế. Tôi lại bước ra đường; những người đánh xe vung vẫy những tấm da phủ chân, mời mọc tôi hạ cố. Tôi chọn một cỗ xe và trèo vào. “Tới đâu ạ?” “Cứ ở yên tại chỗ. Tôi thuê anh theo giờ.” Những gã đánh xe đi quanh xì xào, kẻ bàn thế này, người tán thế kia: ông ta đang theo dõi khách sạn; ra ngoài để bắt ghen vợ ông ta đang hẹn hò với một thương gia đi du lịch nào đó. Phải, tôi đang theo dõi chỗ này. Có ánh đèn trong một hai căn phòng, và đột nhiên tôi chợt nghĩ ra rằng có thể nàng đang đứng ở một ô cửa sổ và trông thấy tôi. “Chờ chút,” tôi nói với người đánh xe, và lại đi vào khách sạn. “Phòng số 12 ở đâu?” “Tầng một.” “Nhìn ra đường Raadhusgaten phải không?” “Vâng.” “Vậy đó phải là em gái của tôi,” tôi nói, bịa đặt đôi điều để chuồn qua người gác cửa. Tôi đi lên cầu thang, và để không cho mình có cơ hội quay lại, tôi gõ cửa ngay khoảnh khắc tôi nhìn thấy con số. Không trả lời. Tôi gõ lần nữa. “Có phải hầu phòng không?” từ trong phát ra một giọng nói. Tôi không thể đáp phải; giọng tôi sẽ phản bội tôi. Tôi thử xoay nắm cửa – cửa đã bị khóa. Có lẽ nàng e rằng tôi có thể tới; có thể nàng đã nhìn thấy tôi ở bên ngoài. “Không, đây không phải là người hầu phòng,” tôi nói, và tôi có thể nghe những từ run rẩy một cách lạ lùng ra sao. Sau đó tôi đứng lắng nghe hồi lâu; tôi có thể nghe tiếng ai đó di chuyển bên trong, nhưng cửa vẫn đóng. Rồi có hai hồi chuông ngắn từ một trong những căn phòng dưới sảnh. Hẳn đó là nàng, tôi tự nhủ; nàng đang cảm thấy khó chịu, và đã ấn chuông gọi người hầu phòng. Tôi bước xa khỏi cửa, để tránh bất kỳ sự lúng túng nào cho nàng, và, khi người hầu phòng tới, tôi bước ngang qua như thể đang đi xuống thang. Lúc ấy người hầu phòng nói, “Phải, hầu phòng đây,” và cửa mở. “Không, không,” người hầu phòng nói; “chỉ có một quý ông đang xuống thang.” Tôi nghĩ tới việc lấy một phòng ở khách sạn, nhưng ý tưởng này khiến tôi khó chịu; nàng không phải là một bà vợ bỏ trốn để hẹn hò với những thương gia đi du lịch. Khi xuống tới dưới, tôi nhận xét với người gác cửa rằng hình như Fruen đang nằm nghỉ. ... Mời các bạn đón đọc Dưới Ánh Sao Thu của tác giả Knut Hamsun.
Đừng Nói Mãi Mãi - Linda Howard
Đây là cuốn sách tình yêu của Linda Howard - người từng đạt giải thưởng Career Achievement Award dành cho các tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn xuất sắc nhất. Đừng nói mãi mãi là câu chuyện về Maxwell Conroy - Phó giám đốc điều hành tại tập đoàn Spencer Nyle. Anh chàng đào hoa này được giao nhiệm vụ tiếp cận thư ký Claire Westbrook của hãng Hợp kim Bronson để tìm mọi thông tin, nhằm chuẩn bị cho cuộc thâu tóm của tập đoàn. Với vẻ ngoài đẹp trai và trí tuệ lạnh lùng, Maxwell Conroy tin tưởng công việc này sẽ nhanh chóng kết thúc. Nhưng nhiệm vụ của Max đã vấp phải khó khăn bởi Claire Westbrook không hề giống như những người phụ nữ khác anh từng gặp. Sống độc thân sau cuộc chia tay đầy đau đớn vì người chồng cũ phản bội, Claire đã thề sẽ xây dựng cuộc sống độc lập về vật chất và tình cảm. Cô không hẹn hò, mất niềm tin với đàn ông, đặc biệt là những người đẹp trai và quyến rũ như chồng cũ. Đối mặt với một người phụ nữ dường như miễn nhiễm với đàn ông này, Max lại chính là người bị quyến rũ và trót đem lòng yêu Claire. Cuối cùng, tình yêu của Max và Claire sẽ ra sao? Liệu Claire có dễ dàng tha thứ cho Max và đón nhận hạnh phúc từ anh? *** Linda Howard tên thật là Linda S. Howington. Cô sinh ngày 3/8/1950 tại tiểu bang Alabama thuộc miền Nam Hoa Kỳ. Cô là một trong những tiểu thuyết gia thuộc trường phái lãng mạn nổi tiếng thế giới. Các tác phẩm của cô thường xuyên lọt vào danh sách những cuốn sách bán chạy nhất do tạp chí New York Times bình chọn. Năm 2005, cô đạt giải Career Achievement Award - giải thưởng dành cho các tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn xuất sắc nhất. Linda Howard nói rằng từ lâu sách đã đóng một vai trò to lớn trong cuộc đời bà, dù là để đọc hay viết. Tác giả tiểu thuyết lãng mạn đầu tiên bà đọc là Margaret Mitchen và kể từ đó trở đi bà đọc rất nhiều với tất cả đam mê. Trong những năm gần đây, mối quan tâm của bà tập trung chủ yếu vào dòng tiểu thuyết lãng mạn, bởi bà “dễ dàng thấy chán chuyện giết người, bạo lực và chính trị”. Sau hai mươi mốt năm viết truyện chỉ để mua vui cho mình, rốt cuộc Howard đã gom đủ dũng cảm để gửi một tiểu thuyết tới nhà xuất bản - và lập tức thành công. Nhà văn gốc Alabama giờ đã trở thành người nhiều lần xuất hiện trong danh sách tác giả sách bán chạy nhất của tờ New york Times. Tuyển Tập Linda Howard gồm có: Against The Rules (Tiếng Việt) Almost Forever (Tiếng Việt) An Independent Wife (Tiếng Việt) Angel Creek (Tiếng Việt) Băng Đá Bluebird Winter (Tiếng Việt) Cầu Vồng Lúc Nửa Đêm Con Gái Của Sarah Con Trai Của Bình Minh Đêm Định Mệnh Duncan's Bride (Tiếng Việt) Đường Về Nhà Giã Từ Nước Mắt Hẹn Hò Theo Kiểu Của Em Kill And Tell (Tiếng Việt) Lời Dối Gian Chân Thật Những Điều Hào Nhoáng Núi Tình Quý Bà Miền Tây Quý Ông Hoàn Hảo Sắc Màu Hoàng Hôn The Cutting Edge (Tiếng Việt) Thiên Sứ Tử Thần Thiêu Hủy Tội Ác Trong Mơ Trăng Xanh Tưởng Chừng Mãi Mãi Vịnh Kim Cương *** Claire nặn ra một nụ cười cứng nhắc với nữ tiếp viên hàng không khi cô ta đến rót thêm trà cho cô. Họ sẽ hạ cánh xuống Heathrow trong vòng một tiếng nữa. Cô mừng vì chuyến bay dài và chán ngán đã đến hồi kết, nhưng lòng không khỏi hồi hộp bất kể khi nào nghĩ đến việc gặp gỡ gia đình Max. Cô đã nói chuyện trên điện thoại với mẹ anh và cảm nhận được sự ấm áp từ những lời chúc mừng của bà, nhưng cô vẫn tự hỏi làm sao mình vượt qua được thử thách gặp mặt họ thực sự. Cô đã học thuộc lòng tên của anh trai và em gái anh, cũng như tên tuổi vợ hay chồng họ và đàn con, nhưng đó mới chỉ là những cái tên đầu tiên. Trong danh sách còn có các cô dì, chú, bác, thông gia quyến thuộc, ông bà nội ngoại, ông bà trẻ cũng như con cái và vợ hoặc chồng họ. Một gia đình lớn như thế vượt ngoài kinh nghiệm bản thân cô. Bà Alma và ông Harmon đang ngồi ngay trước mặt họ. Hôm nay là đúng một tuần trước đám cưới và bà Alma làm việc với những danh sách luôn kè kè bên mình suốt cả chuyến đi. Vợ chồng Martine và Steve cùng mấy đứa trẻ sẽ bay sang trong ba ngày nữa, tiếp theo đó là các vị khách còn lại. Rome và Sarah có tham dự cùng Missy và Jed. Sarah đã gợi ý để bọn trẻ ở nhà cùng cô trông trẻ nhưng Claire đã yêu quý chúng đặc biệt tới mức rất muốn chúng tới dự. Rốt cuộc đám cưới của cô đã đầy rẫy bọn nhóc rồi; thêm hai đứa nữa có là gì? Rome và Sarah sẽ mang theo một người bạn trẻ tên là Derek Taliferro, cậu là sinh viên đang về nghỉ hè và giành rất nhiều thời gian với nhà Matthew. Claire mới gặp Derek hai lần nhưng đã thích cậu ngay, một việc vốn không bình thường với cô. Cô thường cẩn trọng hơn nhiều với người lạ, nhưng ở Derek có một điều gì đó làm cô dễ chịu. Cậu đẹp trai khác thường với mái tóc xoăn đen và đôi mắt nâu vàng bình thản làm cô cảm động tận tâm can, trong khi đáng lẽ vẻ đẹp trai của cậu phải làm Claire cảnh giác ngay từ đầu. Nhưng cậu thanh niên cao và đầy cơ bắp này lại toát lên vẻ bình tĩnh và đĩnh đạc vô cùng, cậu cũng hết sức dịu dàng với bọn trẻ, đứa nào cũng yêu thích cậu, và bản năng Claire bảo cô tin vào cậu. Dù còn ít tuổi nhưng Derek đàn ông hơn cả những người gấp đôi số tuổi của cậu. Max và Rome đối xử với cậu ngang hàng trong khi bản thân họ cũng đâu phải người bình thường. Claire liếc nhanh Max, tự hỏi anh có chút nghi ngại nào với đám cưới khi nó đã gần kề hay không, nhưng cô không đọc được gì từ khuôn mặt anh. Dù đã trải qua biết bao nhiêu giờ đầy đam mê trong vòng tay anh, đôi khi cô vẫn cảm thấy như anh là một người lạ, một người lạ đẹp trai và khó hiểu luôn dành cho cô ham muốn của anh, nhưng không phải là ý nghĩ. Anh luôn niềm nở, quyến rũ, chu đáo nhưng lúc nào cô cũng cảm thấy như anh còn che giấu điều gì. Cô yêu anh sâu sắc nhưng vẫn phải giữ kín tình yêu đó, bởi dường như anh không muốn kiểu yêu hết mình đó từ phía cô. Anh muốn có sự bầu bạn, cơ thể cô bên dưới anh mỗi đêm, nhưng dường như anh không muốn cảm xúc của cô. Anh không đòi hỏi điều đó nên cũng không cho đi điều đó. Claire nhận ra đó mới chính là căn nguyên thực sự cho nỗi bất an của mình. Cô có thể đối mặt với cả một đội quân họ hàng dễ dàng nếu biết chắc tình cảm của Max. Tất cả những người ấy sẽ theo dõi cô, đánh giá cô y như tình huống cô từng gặp phải hồi cưới Jeff. Làm sao cô có thể hòa hợp với một gia đình như thế, với quá nhiều thành viên và sống cách xa nhau nhưng lại gắn bó khăng khít một cách kỳ lạ? Cô chưa bao giờ dễ dàng kết bạn và dường như cả gia đình anh đều là những người nồng nhiệt và hướng ngoại. Làm sao họ hiểu được khó khăn của cô trong việc nhiệt tình chào đón mọi người? Liệu họ có nghĩ cô lạnh lùng và không thân thiện không? Hai bàn tay Claire lạnh băng và cô phải siết chặt chúng với nhau hòng làm chúng ấm lên. Tín hiệu thắt dây an toàn đã bật sáng trên đầu họ và ngực Claire thắt lại khiến cô phải thở từng hơi ngắn và nông. Max không để ý thấy sự lo lắng của cô; anh đang mong đợi được gặp gia đình mình, sự háo hức khiến đôi mắt anh sáng như đá quý đặt trên một cái đầu tượng thần bằng vàng. ... Mời các bạn đón đọc Đừng Nói Mãi Mãi của tác giả Linda Howard.
Đứa Con Người Yêu - Pearl S. Buck
Một phong thư mang một con tem lạ - con tem Triều Tiên - với tên người gửi là Kim, đã đến với thượng nghị sĩ Christoper Winters vào lúc ông đang tranh cử chức Thống Đốc tiểu bang tại Hoa Kỳ. Ông vội chuồi nó xuống dưới đống thư tín để che mắt vợ. Quá khứ đột nhiên hiện ra trong tâm trí ông. Kim là đứa con của ông và cô Kim Sương, một cô gái Triều Tiên mà ông thực sự yêu một cách nào đó... trong chiến tranh. Đứa bé vừa tròn một tháng tuổi thì Trung úy Chris được gọi về Mỹ. Kể từ đó, với Laura, vợ ông, Chris đã sống một cuộc sống vô cùng hạnh phúc và hầu như quên hết... Ban đầu Chris có ý đinh giấu vợ, nhưng sau nhiều đêm suy nghĩ ông đã thú thật với bà. Vô cùng hốt hoảng, Laura bay đi Séoul để tìm đứa bé và bà đã gặp nó cùng với Kim Sương trong một phòng trà. Bé Kim, con trai một quân nhân Mỹ, đã bị cộng đồng người Triều Tiên ruồng bỏ và nó đang hát tại một phòng trà. Với sự đồng ý của Kim Sương Laura đã đưa thằng bé về Mỹ... *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Chris đợi Laura và bé Kim tại phi trường Los Angeles. Chàng xinh trai biết bao! Laura thầm nghĩ. Không phải bà đã quên điều đó, nhưng vì bà đã quen nhìn một loại đàn ông xinh trai khác mà ông Chu là tiêu biểu. Bây giờ bà có cảm tưởng rằng thế giới này chia thành hai loại đàn ông và đàn bà mà Kim Christopher thì đứng một mình ở giữa cô độc. Không, nó không cô độc vì bà đã chấp nhận nó kể từ khi nó cất tiếng đầu tiên gọi bà bằng mẹ. Nó đã dứt bỏ mọi quá khứ để theo bà, Sương là một người đàn bà tế nhị và có giáo dục: cái chi phiếu mà bà đã đưa cho nàng, khoảng năm Rgàn đô la, nàng chỉ liếc mắt trông qua và để xuống bàn mà không gấp lại bỏ ngay vào túi. Tại phi trường, nàng đã dặn dò bé Kim từng li từng tí, chẳng sót điều gì. Nàng nói : - Con hãy vâng lời cha con. Con cũng phải vâng lời bà Winters bởi vì bà là vợ yêu quý của cha con. Con ráng nhớ lời mẹ dặn. Khi cha con bước vào phòng, con phải lễ phép đứng dậy. Con hãy chăm lo học hành hằng ngày để cha con được vui lòng. Ban sáng, con hãy mang trà lại cho cha con trước tiên. Trong bữa ăn, con phải đợi cha con bắt đầu ăn trước. Con hãy nhớ tất cả những gì mẹ đã dặn con nhé! Nàng tỏ cho Laura biết, nàng là một người khéo dạy con. Kim Christopher chăm chú nghe, không nói gi. Hơn nữa nó đã lẳng lặng mãi cho đến khi phi cơ cất cánh. Chi khi đó mới quay sang Laura và cất tiếng gọi "Mẹ!". Bà đã mỉm cười cùng nó, nhưng hai mắt bà rưng rưng ngấn lệ. Bây giờ đã về đến Mỹ quốc, Kim Christopher nhìn cha nó. Nó nghiêng mình chào và im lặng chờ đợi. Cha nó nói : - À con. Có vẻ ngượng nghịu, ông ngắm nhìn đứa bé - đích thực là con trai của ông, không nghi ngờ gì nữa - với những đường nét giống nhau đến thế thì làm sao chối cãi được? Tim ông bắt đầu đập mạnh hơn. Ông ngắm nhìn Kim Christopher và thương yêu nói : - Con cao lớn lắm! ... Mời các bạn đón đọc Đứa Con Người Yêu của tác giả Pearl S. Buck.
Đôi Bạn Chân Tình - Hermann Hesse
Đôi bạn chân tình (nguyên tác Narcissus and Goldmund) là một câu chuyện kể về một thanh niên tên là Goldmund. Anh đã từng theo học trong trường học của tu viện dòng Thiên Chúa giáo để tìm hiểu và nghiên cứu xem cái gì được diễn tả như là “ý nghĩa của cuộc sống”, hay cụ thể hơn, là tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống của chính bản thân anh. Nhưng rồi, anh đã rời bỏ trường và đi lang thang khắp miền trung nước Đức mà không có mục đích gì cụ thể. Narcissus, một thầy giáo trẻ có năng khiếu trong trường học của tu viện đã nhanh chóng kết bạn với Goldmund, vì hai người chỉ chênh nhau có vài tuổi và Goldmund vốn là sáng dạ. Goldmund kính trọng Narcissus, còn Narcissus thì lại rất yêu mến Goldmund. Một hôm, với ý định hái lượm thảo mộc, Goldmund đã thơ thẩn trên cánh đồng quá xa và anh tình cờ gặp một phụ nữ xinh đẹp. Cô hôn anh và đề nghị anh chung giường với mình. Cuộc gặp mặt này trở thành sự kiện Chúa hiển linh đối với Goldmund, và rồi anh nhận biết được rằng anh không thể nào đi tu được. Goldmund ôm trong mình khát vọng trải nghiệm mọi thứ, học hiểu về cuộc sống, về thiên nhiên theo lối thực hành của chính anh. Với sự ủng hộ của Narcissus, anh rời tu viện và lang thang khắp các miền quê, vẽ nên một câu chuyện về sự tương phản giữa nghệ sĩ và nhà tư tưởng. Câu chuyện kéo dài nhiều năm, mô tả chi tiết những sự việc cụ thể có liên quan đến những địa điểm mà ở đó Goldmund đã học được những điều hết sức có ý nghĩa, và anh thường xuyên trầm ngâm suy tưởng đến những trải nghiệm cũng như những lối sống này.   Đôi bạn chân tình của Hermann Hesse xoay quanh những cuộc đối thoại giữa Narcissus (Tri giác) và Goldmund (Trực giác): Con đường tiếp cận chân lý của tôi và anh có thể hòa hợp không? và Chúng ta bổ sung cho nhau những gì? Cuộc hành trình đi tìm bản ngã của Goldmund bắt đầu từ những lời khai minh của Narcissus. Điều này ngụ ý rằng Trực giác luôn cần sự hướng dẫn của Tri giác, đó cũng là khác biệt quyết định giữa Trực giác và Bản năng. Khi cái chết và những trải nghiệm đã bóc tách những lớp vỏ phù phiếm, họ đã gặp nhau ở cuối con đường và cùng bắt đầu một hành trình mới. *** Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên. Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người. Hermann Hesse đã từng viết : "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này". Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. *** Mùa hạ đã qua, hoa ruối hoa bìm đã tàn lụi, ao chuôm nín tiếng ếch kêu, hạc tung cánh bay đi. Goldmund trở về! Y trở về vào một buổi quá trưa âm u mưa bụi, y không vào tu viện mà đến ngay xưởng họa. Y đi chân, không có ngựa. Erich trông thấy y vào thì lo sợ. Thoáng nhìn nó biết ngay và chạy vội ra đón, nhưng hình như nó gặp một người khác: một Goldmund giả, già đi đến vài năm, mặt bơ phờ, ủ rũ, đầy cát bụi, nét mặt nhăn nhúm như người đau đớn bệnh nặng; tuy nhiên y không tỏ vẻ đau đớn mà mỉm miệng cười, một cái cười quen thuộc, bình tĩnh và nhẫn nại, Hai chân kéo lê một cách nhọc nhằn, người ra bộ mệt mỏi thiểu não. Chàng Goldmund đã biến ra người lạ ấy nhìn cậu thợ bạn với cặp mắt kỳ dị. Y trở về một cách kín đáo, làm như ở phòng bên cạnh bước sang, làm như mới hồi nãy vẫn ở đấy. Y giơ tay bắt tay Erỉch, không nói gì cả, không chào hỏi, không chuyện trò. “Tôi phải ngủ một giấc,” y chỉ nói vậy, ra bộ mỏi mệt vô cùng. Y bảo Erich đi chỗ khác và bước vào phòng mình ngay cạnh xưởng. Vào đến nơi y bỏ mũ ra quăng xuống đất, tháo giầy và lại gần giường. Phía trong là tượng Đức Mẹ phủ tấm màn, y tỏ vẻ thân mật nhưng không vén màn lên chào. Trái lại, y bước tới gần cửa sổ, trông thấy Erich sốt ruột đứng đợi ở ngoài, y nói lớn: “Erich, chú đừng nói cho ai biết tôi về nhé. Tôi mệt lắm. Để đến mai hãy hay.” Rồi y để nguyên quần áo mà đi nằm. Nằm một lúc lâu không ngủ được, y trở dậy lê bước nặng nề đến cái gương soi treo tường, nhìn vào thấy một chàng Goldmund nữa nhìn lại; một khuôn mặt quen thuộc nhưng đã thành ra người lạ, hình như không có mặt đối với mình, không có liên lạc gì với mình. Người ấy chỉ làm y nghĩ đến một người mà y biết: nhang nhác thầy Niklaus, nhang nhác nhà quý tộc ngày xưa đã tặng y một bộ quần áo cậu ấm, nhang nhác Thánh Jacques ở nhà thờ, một ông thánh râu ria, đội mũ hành hương, nom già nua lụ khụ, nhưng có vẻ vui vẻ nhân từ. Y nhận kỹ khuôn mặt trong gương như để biết rõ người lạ mặt. Khi đã nhận ra, y vội tỏ dấu thân mật: phải rồi, chính là mình, khuôn mặt đúng là những nét y tưởng tượng ra là nét mặt mình. Đó là một ông già mệt mỏi, đờ đẫn, mới đi xa về, một nhân vật để chọc cười, chẳng đáng đếm xỉa đến; nhưng ông ta chẳng có gì giận y, y còn khoái ông ta là đằng khác, y khám phá ra ông ta có cái gì mà chàng Goldmund xinh trai ngày xưa không có: ông già mỏi mệt và xuống dốc này có vẻ bằng lòng, đúng hơn, vẻ trai lỳ, trơ trơ. Y khẽ mỉm cười, ông già cũng mỉm cười đáp lễ. Chà! Y đi xa về đã dẫn về nhà một người như thế đó! Sau chuyến đi này y trở về, mỏi mệt và lụn bại như vậy đó! Không những y mất cả ngựa, tay nải lẫn tiền nong, y còn mất nhiều cái khác: tuổi trẻ, sức khoẻ, lòng tự tin, cặp má hồng hào, cặp mắt sáng nảy lửa. Tuy nhiên y cũng thích chí: ông già lẩm cẩm và hết gân này lại hợp sở thích của y hơn chàng Goldmund thuở trước. Ông ta có tuổi, yếu đuối và héo hon thật, nhưng chất phác hơn, an phận hơn, người ta dễ thỏa thuận với ông. Y cười, hạ một mi mắt nhăn nheo xuống, rồi vào gường ngủ. ... Mời các bạn đón đọc Đôi Bạn Chân Tình của tác giả Hermann Hesse.