Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trăng Trên Thung Lũng Jerusalem

Bản dịch Nguyễn Thu Hồng SHMUEL YOSEF AGNON (1888-1970)SHMUEL YOSEF AGNON sinh năm 1888 1 và lớn lên trong một gia đình gồm những học giả tại Buczacz thuộc miền Đông Galicia (nay là vùng Tây Ukraina). Buczacz là một cộng đồng Do-thái không quá tám ngàn người và cũng là một trung tâm đào tạo các rabbi (thầy cả) Do-thái giáo. Agnon đã được hấp thụ nền văn hóa cổ truyền của Do-thái do thân phụ ông đích thân truyền dạy. Galicia lúc đó là một trong những trung tâm của nền văn chương tân Hy-bá. Ngay từ nhỏ Agnon đã khởi sự văn nghiệp trên báo chí tiếng Hy-bá và tiếng Yiddish 2 ở địa phương. Và kể từ năm 1907 tức là năm ông trở về Palestine, ông thôi không viết bằng tiếng Yiddish nữa. Việc Agnon từ đó chuyên sáng tác bằng tiếng Hy-bá có lẽ phần nào đã do ảnh hưởng của phong trào phục quốc Zion của người Do-thái mà ông đã tham gia. Nếu nhìn vào số ngôn ngữ được sử dụng tại Israel ngày nay người ta sẽ thấy trong số hơn hai triệu dân, đã có tới một triệu tám sử dụng ngôn ngữ chính thức là tiếng Hy-bá. Lớp di dân đầu tiên từ các ngả trên thế giới trở về Israel còn nói hoặc hiểu được tiếng Yiddish và một số ngôn ngữ dùng trong các nghi lễ Do-thái giáo, nhưng hiện nay số thanh niên Israel chỉ dùng có ngôn ngữ Hy-bá ngày càng thêm đông đảo. Tuy vậy, thứ tiếng Hy-bá của Agnon không hẳn là thứ tiếng mà thế hệ trẻ hơn của Israel hiện sử dụng. Đúng hơn đó là ngôn ngữ của nền văn chương truyền thống Hy-bá với những nhà văn tiêu biểu như Bialik, Tchernichowsky và Shneur. Đứng giữa ngôn ngữ văn chương cổ truyền của dân tộc và tiếng Hy-bá hiện đại hóa, Agnon đã quyết định nối kết các thế hệ Do-thái bằng một nội dung đề cao truyền thống dân tộc, nhưng trong khi chờ đợi một nền văn chương ổn cố của ngôn ngữ Hy-bá hiện đại, ông đã lựa chọn diễn tả bằng thứ ngôn ngữ trang trọng của nền văn chương Hy-bá cổ truyền (xuất hiện từ thế kỷ XI và còn kéo dài cho đến ngày nay). Agnon làm thơ từ năm lên 9 và bài thơ đầu tiên của ông được đăng vào năm ông mười sáu tuổi. Câu chuyện đầu tay của ông in tại Palestine là truyện "Agunot". Ngay từ năm 1913, Shalom Streit đã nói về tác phẩm này: “Một luồng điện chạy qua toàn thể cộng đồng chúng tôi khi đọc truyện ấy.” Cùng với "Agunot" có nghĩa là cô đơn, trơ trọi hoặc đơn độc, 3 ông khởi sự dùng bút hiệu Agnon thay vì tên thực là Czaczkes. Khi được hỏi là bút hiệu này có liên hệ với truyện trên hay không, Agnon đã xác nhận là có. 4 Những năm kế đó, tuần báo Hapo’el Hatza’ir của nhóm xã hội chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Tolstoi và những tư tưởng địa dân (narodniki) đã đăng tải cuốn sách đầu của Agnon nhan đề Vehaya he’akov lemishor (Và những nơi cong queo sẽ được uốn ngay lại). Tác phẩm dài này đã làm say mê độc giả Do-thái đương thời không ít đến nỗi Joseph Haim Brenner đã phải dốc cạn túi tiền để xuất bản thành sách (1912). Đối với một người vô thần như Brenner thì đây là “tác phẩm đầu tiên của nền văn chương thế tục Hy-bá trong đó truyền thống đã trở thành phương tiện diễn đạt nghệ thuật thuần túy...” Năm 1913 Agnon qua Đức. Ông định ở lại vài năm nhưng vì chiến tranh 5 nên mãi tới năm 1924 ông mới trở lại Jerusalem được. Tuy nhiên những năm ở Đức đã ảnh hưởng lớn lao đến văn nghiệp ông sau này. Ông tiếp xúc với văn chương châu Âu và yêu chuộng sự hoàn hảo đến độ các truyện sáng tác thường viết đi viết lại tới sáu, bảy lần. Trong thời kỳ này ông xuất bản rất ít, chỉ chăm lo sửa chữa các tác phẩm cũ và viết những truyện mới. Ông cũng làm khá nhiều thơ và viết một cuốn tiểu thuyết tự sự. Nhưng tới tháng Sáu năm 1924, căn nhà ông ở tại Homburg gần Frankfurt bị hỏa hoạn 6 và toàn bộ bản thảo, giấy tờ và tủ sách Hy-bá do ông sưu tập được đều biến ra tro. Biến cố này đã thay đổi hẳn con người Agnon. Ông thôi không sáng tác thi ca nữa và không bao giờ viết lại tác phẩm tự sự trên. Năm 1929, sau khi ông đã trở về Palestine, căn nhà ông tại ngoại ô Jerusalem lại bị người Ả-rập cướp phá. 7 Lần này ông trở lại Galicia trong một chuyến thăm viếng ngắn ngủi và ở lại Đức tới gần một năm để chứng kiến bốn cuốn đầu gồm các tác phẩm mà ông đã thu thập, sửa chữa trong năm năm trời được ấn hành tại đây. Cũng nên ghi nhận là Agnon là một nhà biên soạn các tuyển tập văn chương rất có tài. Trong những năm ở Đức, ông đã biên soạn hai tuyển tập bằng Đức ngữ. Ở Jerusalem ông đã bỏ khá nhiều ngày giờ để biên soạn ba tuyển tập văn chương. Trong tuyển tập đầu nhan đề Những ngày kinh sợ, gồm một kho tàng những chuyện cổ dân tộc, ông đã hài hước sắp thêm vào đó những mẩu truyện trích trong một tác phẩm tưởng tượng được mệnh danh là Kol Dodi (Tiếng nói của người tôi yêu dấu) và ghi chú rất tự nhiên ở phần thư mục là “một bản thảo mà tác giả hiện giữ”. Trong ý định soạn những tuyển tập Do-thái này, Agnon cũng đã đồng ý cộng tác với một triết gia Do-thái là Martin Buber nhưng về sau tác phẩm chung của hai người bị thiêu hủy và Agnon không soạn lại tác phẩm đó nữa. Công cuộc soạn thảo các tuyển tập này đã ảnh hưởng tới Agnon. Trong một số truyện, nhân vật chính của Agnon cũng là những học giả. Hình như hình ảnh tận tụy vô vọng của các học giả có một sức thôi miên tột độ đối với Agnon. "Trăng trên thung lũng Jerusalem" (Ido và Eynam) 8cũng là một câu chuyện của một học giả; sự say mê tìm kiếm một thứ ngôn ngữ và những ca khúc mà thế nhân đã để lạc mất trong vô tận của sa mạc thời gian tưởng chừng như một việc phù phiếm, nhưng dưới ngòi bút của Agnon lại mang những ẩn dụ sâu sắc và tế nhị (luôn luôn dựa trên một sự hiểu biết căn bản về Do-thái giáo), gợi ra được cái khát vọng vô biên của những con người sống trong một thế giới Babel hiện đại, và có một sức chiêu dụ đến mê hoặc tột độ. Gabriel Gamzou, nhân vật khó quên trong truyện này đã phản ảnh phần nào tác giả, một tâm hồn xao xuyến luôn khát vọng hợp nhất, sẵn sàng đương đầu với những tiếng nói của ngày Phán xét cuối cùng, như sách đã viết: “Ngay từ tiền sảnh, con hãy sửa soạn để đi vào phòng khách”. Với "Trăng trên thung lũng Jerusalem", câu chuyện thường được coi như là truyện ngắn đẹp nhất của Agnon, người đọc có thể tìm thấy qui tụ lại nhiều khía cạnh của tài năng Agnon và những chủ đề chính của ông: sự thiếu quân bình của cái hiện tại còn hoài niệm một thời đại vàng son khi mà “người Do-thái còn biết cầu nguyện và ngợi ca Chúa trong một niềm tin ngây thơ và chân thành”; sự xao xuyến cô đơn và nỗi sợ hãi phải mất nơi cư ngụ thể chất là mái nhà, hoặc nơi cư ngụ tinh thần là nhà nguyện; sau rốt là giấc mơ như một dự cảm hay sức hấp dẫn huyền diệu, mê hoặc, giữa sự sống và sự chết... Quả thật, như giáo sư Gershom Scholem của viện Đại học Hy-bá ở Jerusalem đã viết, “Agnon đã khởi sự văn nghiệp bằng cách viết những truyện ngắn, và chính trong lối sáng tác này ông đã đạt được một sự hoàn hảo khiến người đọc phải theo rõi đến đứt hơi thở”. "Trăng trên thung lũng Jerusalem" cùng với một số truyện ngắn khác của Agnon đã trở thành những tác phẩm cổ điển châu báu của dân tộc Israel ngay trong thế kỷ 20. Bí quyết chính của sự hoàn hảo này là Agnon đã khéo léo phong phú hóa tác phẩm bằng vô vàn chi tiết lọc lựa hết sức nghệ thuật trong một hình thức văn chương vô cùng giới hạn. Trong tác phẩm của Agnon, những đam mê của con người chiếm phần quan trọng chính, nhưng Agnon có một lối viết, một ngôn ngữ diễn đạt điềm tĩnh lạ thường, khác hẳn thứ ngôn ngữ đầy xúc cảm của những nhà văn Hy-bá trước ông. Agnon cũng thường lưu tâm tới những con người hèn mọn, bình thường, mà cuộc sống với muôn vẻ đều bày ra những cảnh tượng hết sức thực mà đồng thời lại đầy những mầu sắc huyền bí. Bởi thế mà rất nhiều khi trong truyện của Agnon một nỗi buồn khôn tả thường đi đôi với một niềm an ủi siêu nhiên. Trong một truyện ngắn của Agnon, một công nhân nghèo khổ nọ, một người đơn độc trơ trọi trên đời, đã cần mẫn dành dụm chút tiền để có thể trở về “Đất Thánh”. Nhưng không biết giấu tiền ở đâu cho chắc dạ, bác đã bỏ tiền vào một hộp lạc quyên đặt bên dưới cây thập tự ngoài đường lộ. Sau cùng, khi tìm đến lấy lại món tiền đã giấu thì bác bị bắt về tội ăn trộm của thánh. Bác bị tù và bị kết án tử hình, nhưng trong ngục bác được “Người” tới thăm viếng – trong tiếng Hy-bá “Người” đây chỉ Jésus – và đưa tới thành thánh Jerusalem nơi đồng bào bác nhận thấy bác đã chết. Sau khi trở lại Jerusalem, 9 Agnon đã sáng tác một số tiểu thuyết dài. Những tác phẩm xuất sắc nhất của ông hợp thành một bộ ba cuốn mô tả đời sống Do-thái trong một trăm năm từ 1830 đến 1930. Ấy là những cuốn Của hồi môn của nàng dâu (1931), Người khách trọ một đêm (1940) và Cách đây không lâu (Tmol shilshom, 1946). Của hồi môn của nàng dâu (Hakhnasat Kalla) kể lại những cuộc phiêu lưu của Thầy cả Jude Hasid, người đã phải lang thang khắp vùng Đông Galicia để thu thập chút của hồi môn cho ba cô con gái đi lấy chồng. Trong tác phẩm này Agnon không những đã mô tả tục lệ phải lo của hồi môn cho con đi lấy chồng của Do-thái mà còn vẽ lại một cách chính xác và đầy màu sắc lối sống thuần túy Do-thái ở thế kỷ 19, trước khi va chạm với thời hiện tại. Tám mươi năm sau khung cảnh đã hoàn toàn thay đổi hẳn. Yitzhak Kummer, vai chính của Cách đây không lâu, là cháu của Thầy cả Judel. Tuy nhiên lý tưởng của thế hệ trẻ là xây dựng một xã hội mới, là tái tạo một dân tộc Do-thái nơi cố hương. Trong thời kỳ này, những nền tảng của xã hội cũ như tôn giáo, truyền thống đều bị lung lay. Mọi sự đều ở trong giai đoạn chuyển tiếp, bất ổn. Kummer tha thiết với ý tưởng phục quốc nhưng anh cũng không muốn chối bỏ truyền thống. Anh không tìm thấy chỗ đứng của mình giữa xã hội cũ ở Jerusalem và xã hội mới ở Tel Aviv và những nông trại. Anh luôn luôn cố gắng nối kết cuộc sống hiện tại với thế giới truyền thống đầy hứa hẹn an ủi nhưng mọi cố gắng dường như đều vô ích. Cuộc sống mới mà phong trào phục quốc Zion đề xướng chưa đạt được những kết quả mong muốn. Và lối sống cũ, với những vinh quang quá khứ, thì không sao tìm thấy đường về với hiện tại. Các truyện ngắn và tiểu thuyết của Agnon thường đi lại giữa hai thái cực không sao đạt tới được này. Ở cuối tác phẩm Cách đây không lâu, Agnon có hứa hẹn sẽ viết về đời sống của thế hệ trẻ ở Israel hiện tại, lẽ dĩ nhiên với những hình thái tích cực hơn của xã hội mới. Tuy nhiên cuốn tiểu thuyết này chưa xuất hiện. Người khách trọ một đêm dường như là tác phẩm sầu muộn nhất của Agnon, một người sùng thượng thế giới đẹp đẽ cổ truyền của dân tộc ông. Ngược lại với Kummer đi tìm thế giới mới và chỉ gặp thấy trống rỗng trong sinh hoạt ở phần đất Palestine của Israel, người kể truyện trong Người khách trọ một đêm từ thế giới mới trở về thăm thế giới cũ của thị trấn Szybuscz sau hai mươi năm trời xa vắng. Và nơi chôn nhau cắt rốn giờ đây chỉ là một nơi khốn khổ, hoang tàn, thoi thóp những phút cuối cùng của đổ nát. Tất cả những cố gắng tái tạo dĩ vãng dường như cũng hoài công, vô vọng. Và trong dĩ vãng ấy của cố hương, người kể chuyện chỉ là một “khách trọ qua đêm”. Trong truyện nhân vật chính đã phải thốt ra như sau: “Khi còn trẻ tôi có thể thấy trong trí tất cả những gì tôi ao ước thấy; ngày nay tôi không thấy cả những gì tôi ao ước thấy lẫn những gì người ta chỉ cho tôi”. Với một tâm hồn yêu mến quá khứ như Agnon, nỗi buồn kia đã trở thành một ám ảnh vô cùng đau đớn. Trong viễn tượng ấy của những khát vọng trần thế, những năm gần đây, Agnon đã khởi sự viết một tác phẩm tự sự thật kỳ lạ. Trong tác phẩm mới ông đã ngược dòng thời gian đến cả hàng ngàn năm và kể lại những cuộc thiên cư của tâm hồn ông qua mọi giai đoạn quan trọng của lịch sử kể từ những ngày Sáng thế. Tác phẩm tự sự có tích chất lịch sử-siêu hình này mang nhan đề là Hadom ve-Kissei(Ghế và Ngai) 10 cho đến nay vẫn chưa hoàn tất, tuy nhiên nhiều đoạn dài đã được trích đăng. Năm 1934, Agnon được tặng giải thưởng Bialik nhờ cuốn Của hồi môn của nàng dâu. Và giải thưởng Ussischkin cũng đã về tay ông với tác phẩm Cách đây không lâu. Năm 1954, Agnon được bầu làm nhân viên Hàn lâm viện Hy-bá và cùng năm đó, toàn bộ tác phẩm của Agnon đã được giải thưởng Văn chương cao nhất của Do thái, Giải ISRAEL. Agnon thường được coi như một nhà văn kiệt xuất đã nối kết được thế hệ đi tiền phong trong phong trào phục quốc Do-thái và thế hệ đương lên hiện tại ở Israel bằng một nội dung thâm trầm và sâu sắc nêu cao truyền thống dân tộc trong mọi tác phẩm. Năm 1966, Agnon đã được Hàn lâm viện Thụy điển trao tặng giải thưởng Nobel văn chương cùng với nữ văn sĩ Nelly Sachs. Tác phẩm của ông đã được phiên dịch ra chừng 15 thứ ngôn ngữ trên thế giới. Shmuel Yosef Agnon 11 không những là một nhà văn lớn của Israel mà còn là của toàn thế giới – như Edmund Wilson, người đã đề nghị trao tặng giải Nobel cho ông, đã nói: “... điều làm cho Agnon đáng kể như vậy và xứng đáng với giải thưởng Nobel là ở chỗ ông đã có thể thể hiện tới mức ấy trong thế giới Do-thái của ông, cái nhân loại tính chung của chúng ta...” Mời các bạn đón đọc Trăng Trên Thung Lũng Jerusalem của tác giả ShmuelYosef Agnon & Nguyễn Thu Hồng (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tử Tước Chẻ Đôi - Italo Calvino
Thuộc bộ ba tiểu thuyết “Tổ tiên của chúng ta”.  Sáu, bảy năm trời cho một bộ sách, giờ nhìn thấy nó được tạo hình hoàn chỉnh, thấy vui thì ít hơn là thấy oải. I nostri antenati (Tổ tiên của chúng ta) gồm Nam tước trên cây, Tử tước chẻ đôi và Hiệp sĩ không hiện hữu (thứ tự hơi lệch so với nguyên tác, ở đó Tử tước là tập trước của Nam tước). Quá trình hoàn thành bộ sách này trong tiếng Việt cũng đi cùng với một giai đoạn cực kỳ phức tạp của xuất bản và dịch thuật Việt Nam. *** Với gần hai trăm trang sách, Italo Calvino đã tạo dựng mọi giá trị về một câu chuyên mang đậm tính dụ ngôn của thời hiện đại. Tác phẩm mang vẻ đẹp ẩn tàng đằng sau mọi thứ triết lý về Thiện-Ác. Nó như một bể chứa thủy tinh trong suốt đẹp đến ức chế rồi vỡ tung thành từng mảnh ghép, ở đó sự “lưỡng cách” là những điều mở rộng của một cuộc chạy đua đưa linh hồn đến sự nhiệm màu. Một câu chuyện mang đậm hơi thở của cuộc sống và sự vĩnh cửu đơn giản chỉ là những đổi thay... “Tử tước chẻ đôi” được Italo Calvino lấy từ bối cảnh là cuộc chiến với quân Thổ Nhĩ Kỳ làm cuộc sống của tử tước Medardo bị phân đôi thành hai nửa khác nhau. Tác phẩm mở đầu từ những phân cách của số phận và chiến tranh, nó được viết bằng một thứ ngôn ngữ mang đậm vóc dáng của đời sống và lịch sử. Tác giả đã sử dụng một hàm lượng điển tích khi tạo dựng các bối cảnh của tác phẩm. Ông đã khéo léo kéo người đọc vào trong câu chữ của quyển sách bằng một thứ dụ ngôn về: Đời sống, Tình yêu, và các giá trị của Bản ngã. Các chi tiết trong “Tử Tước chẻ đôi” được Italo Calvino đẩy lên đến tận cùng của hiện thực: Hình ảnh của người lính trong đội quân Kitô cho đến tử tước Medardo, giây phút ấm cúng hiếm hoi “ở cái độ tuổi mà mỗi trải nghiệm mới, ngay cả chết chóc và vô nhân cũng đều phập phồng và nồng cháy tình yêu cuộc sống”. Từ Bác thợ cả ThạchĐầuĐinh “làm những giá treo cổ như một tuyệt tác” đến Bác sĩ Trelawney “đi tìm mai vỏ sinh vật biển hóa thạch” là các khái niệm bị đánh tráo, nó mang khoảng lùi lặng lẽ của đời sống; những tín đồ Huguenot “an tâm với thứ tôn giáo thầm kín của chính mình” đến ông cùi Galateo tạo nên sự chất chứa và lưu trữ của một “phúng dụ tự truyện về gia đình”. Từ tôi, nhân vật kể lại câu chuyện đến Esaù “những tội lỗi mà họ bảo tao chưa đủ lớn để hiểu”. Cặp đôi nhân vật này, được xem là trục xoay cho tất cả các nhân vật khác trong tác phẩm di chuyển, đối thoại, tồn tại và phát triển. Italo Calvino đã dệt nên chuyện tình yêu giữa: Cô gái chăn dê Pamela với tử tước Medadro. Nó óng ánh với tất cả những trạng thái: từ hẹn hò, đến rượt đuổi, cuối cùng là tranh đấu. Ý tưởng trong phân đoạn này mang Môtíp cũ: Hiệp sĩ và công chúa để “sáng tạo ra những phương thức mới sống bên nhau”. Nhưng cách viết của tác giả không vì vậy mà trượt theo một lối mòn quen thuộc, cũ kĩ. Tình yêu giữa tử tước Medadro và Pamela là sự đấu tranh giữa yêu thương và thù ghét, tính ích kỷ và lòng vị tha, sự độc ác và nét nhân từ hiền lành, khờ khạo. Sự tồn tại song song hai nửa của một con người, được tác giả cài đặt như một ám hiệu mà ở đó tính Thiện-Ác được tự bộc lộ những mặt mạnh và điểm yếu của nó. Lối viết của Italo Calvino đưa câu chuyện tới một kết cấu nhân bản: điều hoàn hảo thật sự là những giá trị xác nhập, nơi cái Thiện-Ác là một, tình yêu là một, đời sống là một. Mời các bạn đón đọc Tử Tước Chẻ Đôi của tác giả Italo Calvino.
Nam Tước Trên Cây - Italo Calvino
Thuộc bộ ba tiểu thuyết “Tổ tiên của chúng ta”, Nam tước trên cây lấy bối cảnh một vùng quê nước Ý thế kỷ XVIII.  Sáu, bảy năm trời cho một bộ sách, giờ nhìn thấy nó được tạo hình hoàn chỉnh, thấy vui thì ít hơn là thấy oải. I nostri antenati (Tổ tiên của chúng ta) gồm Nam tước trên cây, Tử tước chẻ đôi và Hiệp sĩ không hiện hữu (thứ tự hơi lệch so với nguyên tác, ở đó Tử tước là tập trước của Nam tước). Quá trình hoàn thành bộ sách này trong tiếng Việt cũng đi cùng với một giai đoạn cực kỳ phức tạp của xuất bản và dịch thuật Việt Nam. *** Tại xứ Bóng Râm, vị nam tước trẻ tuổi Cosimo ở độ tuổi lên mười quyết định chỉ sống trên cây không đặt chân xuống mặt đất, để phản đối gia đình. Quyết định này sẽ kéo dài suốt cả cuộc đời Cosimo. Ở trên cây, Cosimo học được cách sống trong thiên nhiên, trở thành một nhà bác học, vẫn giữ đầy đủ tính chất quý tộc của mình, và vẫn có những mối tình nồng nhiệt. Trải qua vô số biến cố lịch sử, Cosimo vẫn giữ được bản tính của mình, và nhất là không một lần nào rời khỏi các cành cây. *** “Một cậu bé trèo lên một ngọn cây, đu bám trên cành, chuyền từ cây này sang cây kia, quyết định không xuống nữa. Tác giả quyển truyện không làm gì khác hơn là khai triển hình ảnh giản dị này và đẩy nó đến một hệ quả tối cực: nhân vật sống cả đời trên cây, một cuộc đời không hề đơn điệu, thật vậy: sôi nổi phiêu lưu; không hề ẩn dật, song luôn duy trì một khoảng cách giữa mình và đồng loại: tối thiểu mà không thể vi phạm.” (Italo Calvino) “… Nam tước trên cây là tác phẩm của Italo Calvino mà tôi yêu thích hơn cả; với tôi, nó luôn là một văn bản đồng hành cùng mình theo dòng đời như một loại tuyên ngôn đạo đức và chính trị…” (Umberto Eco) “… Italo Calvino – qua những ngụ ngôn triết lý cũng như những chuyện kể tưởng tượng tuyệt vời của mình – đang bảo với chúng ta rằng luôn có một độc giả giả định, kẻ xét cho cùng, không chỉ đọc hôm nay mà còn sẽ đọc ngày mai…” (Carlos Fuentes) “… Tính tưởng tượng, tính ngụ ngôn, tính trò chơi, những tác phẩm của Italo Calvino, với tôi, dường như không bao giờ bỏ sót những gì là chân thực, những gì là giả tạo.” (Salman Rushdie)  Mời các bạn đón đọc Nam Tước Trên Cây của tác giả Italo Calvino.
Vũ Khí Bóng Đêm Tập 5: Linh Hồn Lạc - Cassandra Clare
Lilith bị tiêu diệt và Jace thoát khỏi tầm khống chế. Tuy nhiên khi các Thợ Săn Bóng Tối tới, họ chỉ thấy máu và những mảnh kính vỡ. Người mất tích không chỉ có cậu con trai Clary yêu, mà còn có người cô ghét: ông anh Sebastian, kẻ rắp tâm bắt toàn bộ Thợ Săn Bóng Tối quỳ gối dưới chân mình. Phép thuật của Clave không tìm được vị trí của hai cậu con trai, nhưng Jace không thể rời xa Clary. Khi họ gặp lại, Clary phát hiện ra điều kinh khủng do ma thuật của Lilith đem lại - Jace và Sebastian giờ bị ràng buộc với nhau, và Jace trở thành bầy tôi của quỷ dữ. Clave muốn diệt Sebastian, nhưng không có cách nào để chỉ giết một và chừa lại một… Chỉ vài người tin Jace còn cứu được. Cùng nhau, Alec, Magnus, Simon và Isabelle mặc cả với Nữ Hoàng Seelie xảo quyệt, thử thỏa thuận với quỷ và cuối cùng, nhờ tới hội Nữ Tu Sắt - những người phụ nữ không có lòng thương, chuyên rèn vũ khí cho Nephilim - mong họ có thể tạo ra thứ gì đó cắt đứt liên hệ giữa Sebastian và Jace. Nếu Nữ Tu Sắt không thể giúp, hi vọng cuối cùng của họ là thách thức Thiên Đàng và Địa Ngục - mà điều đó chẳng khác nào lấy mạng sống của họ ra đánh cược. Và họ phải làm tất cả mà không có Clary. Vì Clary đang đơn độc chơi một canh bạc nguy hiểm. Cái giá cô phải trả nếu thua không chỉ là mạng mình, mà còn có linh hồn của Jace. Cô sẵn lòng làm tất cả vì Jace, nhưng cô có thể tin anh không? Hay Jace thật sự đã biến mất? Liệu cái giá đó có quá cao, kể cả để đánh đổi lấy tình yêu? Tình yêu. Máu. Phản bội. Trả thù. Bóng tối đe dọa sẽ bao trùm toàn bộ giới Thợ Săn Bóng Tối trong tập truyện thứ năm đầy những vương vấn đau thương của loạt tiểu thuyết Vũ Khí Bóng Đêm. Mời các bạn đón đọc Vũ Khí Bóng Đêm Tập 5: Linh Hồn Lạc của tác giả Cassandra Clare.
Vị Hạt Táo
Bí ẩn, nên thơ và lôi cuốn - ba từ mới hình dung về văn học Đức qua Vị Hạt Táo. Triết lý, khô khan và ảm đạm - đó là những từ thường được dùng để miêu tả nền văn học Đức. Song với Vị Hạt Táo, cuốn tiểu thuyết đầy sức hút của Katharina Hagena, người đọc có thể quên đi ấn tượng ấy. Như tựa sách, hương táo và vị táo vấn vít lấy câu chuyện về ba thế hệ nữ nhân trong một gia đình: không nồng gắt nhưng ám ảnh. Mỗi cá nhân là một thế giới nội tại mờ biệt, khó lí giải, chính vì vậy khiến ngôi nhà cũng mang vẻ u ẩn. Sau khi Bertha - bà ngoại qua đời, nhân vật xưng Tôi về lại ngôi nhà của gia đình mà nay cô được thừa kế. Từng bước khám phá điền sản này là từng bước bóc tách quá khứ lèn xếp những bí mật và nỗi đau gắn với những thế hệ trước, hoặc người đã khuất. Tôi muốn gọi lại dòng kí ức đang trườn ra khỏi vùng nhớ, để chí ít không bị đẩy xa thêm khỏi gia đình; ngược lại, kí ức cũng vẫy Tôi bằng đôi cánh miên màng của nó. Bà ngoại Bertha hiện lên trong mối quan hệ với chị gái bà - bà Anna, với ông ngoại hay ông giáo già Lexow; mẹ Tôi cùng các dì được khắc họa thông qua những suy nghĩ, xúc cảm dành cho nhau; tới lượt Tôi, một cách vô tình, tự bộc lộ mình trên nền mối liên kết với những người phụ nữ trong gia đình và bè bạn thuở ấu thơ. Tựu lại, mỗi số phận không được kể riêng mà chăng cài tạo nên lớp lang cho câu chuyện, độc giả dõi theo một nhân vật cũng là dõi theo nhiều nhân vật khác. Dĩ nhiên, bên cạnh ba thế hệ phụ nữ, cây táo xứng được coi là một “nhân vật” - nó cũng quan sát, lắng nghe, lên tiếng, nếu ta lưu tâm đến thứ hương vị đan mắc khắp tiểu thuyết. Cây táo biểu hiện căng nét nữ-tính trong lối viết của Katharina, sự nữ tính ngay cả khi tác giả mô tả cái u ám lịch sử như dòng chữ về Đức quốc xã do ai đó lén khắc lên chuồng gà nhà Tôi. Thật khó chỉ ra cho hết chất nữ tính ấy (việc lựa chọn các nhân vật nữ chỉ là điểm ban đầu), liệu có thể nói Vị Hạt Táo mang một sức nặng rất tinh nhẹ và mềm mại, sự quyết liệt lại ẩn sau vẻ lãng đãng, thậm chí nỗi đau cũng tới thật từ tốn. Katharina viết về nỗi đau nên thơ vô ngần, đồng thời có những đoạn điểm xuyết nét hóm hỉnh “đắt giá”. Nắm bắt tròn vẹn tinh thần Vị Hạt Táo ấy, thể hiện hầu như nguyên chất tính-nữ ấy (công việc vốn dĩ được chờ đợi nhiều hơn ở một nữ dịch giả), dịch giả Lê Quang, dù là một dịch giả hàng đầu của văn học Đức, vẫn gây bất ngờ với bản chuyển ngữ của ông. Và cuối cùng, sự đọc là dành cho độc giả. Không thể đoán trước những cảm xúc mà Vị Hạt Táo mang đến, song có thể dám chắc họ sẽ muốn nhớ câu chuyện mở đầu bằng lãng quên này. *** Tiểu thuyết "Vị hạt táo" của nữ nhà văn người Đức Katharina Hagena do dịch giả Lê Quang chuyển ngữ, được NXB Phụ nữ ấn hành vào quý II-2016, là bức tranh hồi tưởng về quá khứ của một gia đình ẩn giấu nhiều bí mật. Ở đó, bạn đọc cảm nhận được hương vị của tình yêu, tình cảm gia đình và cả nỗi ám ảnh. Cái chết của bà ngoại ngẫu nhiên là nguyên cớ cho quá trình tìm hiểu, làm hồi sinh miền ký ức trong người cháu gái được thừa kế căn nhà. Với tài sản thừa kế cũ kỹ, có giá trị không lớn ấy, cô gái đã nghĩ rằng mình sẽ không ở lại nơi này. Nhưng rồi, có điều gì đó đã khơi gợi, níu kéo cô trong những buổi sáng đầu tiên ở trong ngôi nhà ấy với tư cách là một người chủ mới, nó khiến cô nghĩ đến việc mở dần những cánh cửa quá khứ... Rồi, câu chuyện xưa được chắp nối, có khi thông qua những đồ vật còn lại trong nhà và ngày hôm qua của những người thân bỗng hiện lên, sống động lạ thường. Theo mạch tình cảm ấy, kỷ niệm về những năm tháng ấu thơ ùa về. Quá đỗi xúc động, cô gái đã quyết định ở lại căn nhà cũ và tìm thấy hạnh phúc trong không gian đầy ắp kỷ niệm. Không gợi liên tưởng về những chuyển rung lớn của thời cuộc, không có khủng hoảng, biến cố, mưu toan, câu chuyện của các nhân vật diễn ra chủ yếu trên những con đường nhỏ, bên hồ nước ven rừng, trong khu vườn bao quanh ngôi nhà đã là nơi dung thân của vài thế hệ. Những người, vật, việc được nhắc đến, quá đỗi đời thường. Nhưng sự thu hẹp không gian và cái cách bình thường hóa mọi thứ ấy hóa ra lại là tấm màn ngụy trang, là xuất phát điểm cho những trang viết giàu tính bất ngờ, cuốn hút người đọc với cách truyền tải tinh tế về xúc cảm và đời sống nội tâm phức tạp của các nhân vật.  Cô cháu gái ở trong ngôi nhà thừa kế, ngày nọ bỗng được biết người dì của mình có thể không phải là con của ông, bà ngoại như cô thường nghĩ. Đó có thể là kết quả của một cuộc tình "chớp nhoáng" chưa hẳn đã xuất phát bởi tình yêu. Xúc cảm đưa cô chủ mới trở lại những ngày tháng xa xôi, dõi theo mối tình mà bà ngoại và người chị gái yểu mệnh cùng dành cho một thầy giáo trẻ mới được nhận về dạy ở địa phương. Tình yêu thoắt hiện thoắt ẩn, như dấu nhấn vào ba thế hệ phụ nữ của một dòng họ. Những rung động ở tuổi vị thành niên, những thấp thỏm, lo lắng, sợ hãi nhưng đầy háo hức và nỗi niềm dâng hiến...  Tác giả truyền tải nội dung câu chuyện bằng khả năng miêu tả tỉ mỉ, tinh tế. Đồng thời, với cách dẫn giải tưởng như chuyên chú vào hiện thực, nữ nhà văn đã tạo dấu nối hiện thực và dĩ vãng một cách tự nhiên, như thể một ý nghĩ vụt đến. Cuộc trở lại với quá vãng càng cho cô gái thấy rõ hơn chân dung của những người thân yêu. Hóa ra, không phải điều gì cũng như ta tưởng, mà mỗi hồ sơ của một con người có thể ẩn chứa nhiều điều phức tạp. Ta hiểu điều đó để thấy yêu thương họ hơn, cho đời sống hôm nay thêm hương vị tình yêu, thêm xúc cảm.  Một câu chuyện đầy yêu thương, vỗ về ký ức. Có cả nỗi hoang mang, hoảng sợ và sự cằn cỗi khi ký ức bị đánh mất. Câu chuyện gia đình nhỏ, nhưng dường như phản chiếu cả ý thức hệ thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Có nhiều điều để soi chiếu và cũng có thể liên tưởng để nghĩ về chính quá khứ của mình, gia đình mình qua cuốn tiểu thuyết này.   Katharina Hagena sinh năm 1967, là nữ nhà văn người Đức. Tiểu thuyết "Vị hạt táo" được đánh giá là cuốn sách tạo sự đột phá trong văn nghiệp của bà. Tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Một số bài báo quốc tế dành cho tác phẩm sự đánh giá cao: "Hagena viết theo lối văn xuôi giàu chất thơ, mang tới một màu sắc cổ tích cho câu chuyện Gothic về những dối gạt và bí mật gia đình", "Mọi từ ngữ đều tải nặng ký ức", "Không lạ khi cuốn tiểu thuyết saga (tiểu thuyết về dòng họ) đầy mê hoặc này nằm trong danh sách bestseller của Đức suốt 2 năm liền"... Lưu Nguyễn - hanoimoi.com.vn Mời các bạn đón đọc Vị Hạt Táo của tác giả Katharina Hagena & Lê Quang (dịch).