Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Namaskar! Xin Chào Ấn Độ

Namaskar! Xin chào Ấn Độ của Hồ Anh Thái được xuất bản lần đầu vào năm 2008, nay được NXB Trẻ tái bản lại cùng lúc với cuốn Salam! Chào Ba Tư - một sáng tác mới của tác giả, làm thành một bộ 2 cuốn về hai nền văn hóa lâu đời của thế giới.Namaska! Xin chào Ấn Độ phác họa đất nước Ấn Độ khái quát từ chiều dài lịch sử đến bề rộng, chiều sâu về văn hóa, tôn giáo,… được trình bày theo lối nghĩ khoa học, sắc bén của một nhà ngoại giao, tiến sĩ văn hóa Phương Đông qua lối viết mềm mại của nhà văn Hồ Anh Thái. Được đánh giá là một cuốn sách độc đáo có ích dành cho những ai lần đầu tiên đến Ấn Độ, hoặc muốn khám phá đất nước - văn hóa - con người Ấn Độ, vì đọc Namaska! Xin chào Ấn Độ có thể tìm thấy ngay những điều cần quan tâm: Lịch sử hay Kinh sách; Tôn giáo hay Văn hóa hay Văn chương… Những khái niệm về Ấn Độ đã được tóm lược một cách súc tích, ngắn gọn nhưng sáng rõ ở mức dễ tiếp nhận nhất, được trình bày theo quan niệm của đạo Hindu: Tư tưởng, sản phẩm văn hóa, biểu tượng ký hiệu, phong tục tập quán... Cuốn sách hấp dẫn hơn một cuốn nhập môn là bởi giọng văn Hồ Anh Thái. Anh sử dụng nhiều thể loại cho từng phần: du ký dành cho các miền văn hóa, tản văn khi viết về tính cách Ấn, khảo cứu, tiểu luận khi đề cập tôn giáo,lịch sử, phong tục tập quán. Sách còn đẹp vì còn có nhiều minh họa - là những bức tranh thần thánh Hindu theo phong cách tranh thờ dân gian hoặc tranh tượng hiện đại, và hình các biểu trưng. *** Vốn có một sự đam mê cuồng nhiệt với Ấn Độ nên chỉ cần có quyển sách nào viết về Ấn là tôi sẽ lôi về đọc thử, có lẽ đó cũng như là một sự thương nhớ Ấn, đọc để soi mình trong đó, để tìm thấy những điểm chung rồi “à, mình biết” hoặc để tìm thấy những điều mình không biết rồi bứt rứt và lên kế hoạch cho những lần đến Ấn Độ sau đó. “Namaskar!” cũng vậy. Hồ Anh Thái là một cái tên lạ lẫm nhưng đọc phần tiểu sử thấy ông đã từng có những năm tháng sống và làm việc ở Ấn Độ nên cũng háo hức mượn Yến về đọc thử. Cảm nhận đầu tiên à, sách dày, giấy nhẹ được bọc rất cẩn thận, khổ cầm vừa tay, các phần tiêu đề khá promising và tràn cảm xúc cũng như suy nghĩ của người Viết. Khởi đầu cũng không tệ. Đọc thử xem sao. Đọc hết quyển rồi đóng sách lại, ấn tượng duy nhất của mình về quyển sách là một mớ kiến thức chen lẫn với những cảm xúc của người viết, một cách lộn xộn. Để rồi đọc xong vẫn không hình dung được Ấn Độ, vẫn thấy những mơ hồ chen lấn, tựa như dòng suy nghĩ của người viết cũng lộn xộn. Theo từ điển định nghĩa “khảo luận” là dạng “nghiên cứu và bàn luận sâu một vấn đề gì, thường là dưới dạng luận, dạng một cuốn sách” Vây mà những kiến thức được trình bài trong này lại không sâu, đọc và có cảm giác như mình đang đọc một mớ kiến thức wiki được tổng hợp lại, những thứ kiến thức bề mặt, chỉ search internet là ra. Những kiến thức không có sự đối chiếu từ nhiều nguồn cũng như sự reflect thông qua những trải nghiệm của bản thân người viết (với dân bản xứ chẳng hạn) để có cái nhìn từ nhiều khía cạnh của vấn đề. Cũng phải thôi, cả một nền văn hóa mà gọi gọn trong mấy trăm trang sách là điều không thể thế nhưng quả thật cách viết một vấn đề theo những thông tin quá bề mặt như vậy thực sự làm mình thấy khó chịu. Là một người đã từng ở Ấn, đã từng đến thăm hàng loạt đền thờ, nhảy múa trong lễ hội với dân địa phương nên những điều tác giả viết về các vị thần ở Ấn thật sự khiến mình thất vọng khi nó cứ đều đều và thậm chí còn chẳng giống những câu chuyện dân gian mà mình từng được nghe các bạn Ấn kể. Thấy đất nước Ấn Độ của Hồ Anh Thái hiện ra xa lạ. Một phần mình thấy không ổn trong cuốn sách đó là sự ưu ái mà tác giả dành cho ngôi chùa Việt Nam cùng sư chủ trì của ngôi chùa ở đất Phật Ấn Độ. Nếu như trong những phần trước, Hồ Anh Thái chỉ đóng vai trò là người gom nhặt, liệt kê các thông tin thì trong những câu chuyện về ngôi chùa, Hồ Anh Thái đã đóng vai trò như một nhân vật của câu chuyện, và cuốn khảo luận trở nên giống một cuốn du ký hơn khi Hồ Anh Thái kể lại những câu chuyện của mình, những mẩu đối thoại, suy nghĩ mang tính cảm xúc hơn là suy luận, phân tích. Nhưng một lần nữa, mình không thấy Ấn Độ của mình trong những câu chuyện này, câu chuyện vậy là cứ trôi tuột. Hơn nữa, mình đọc vì Ấn Độ, để xem con người Ấn Độ, văn hóa Ấn Độ được thể hiện trong từng bữa ăn, nhịp thở, từng cử chỉ hàng ngày. Hoàn toàn không phải để đọc về văn hóa Phât giáo Việt đã được mang vào Ấn như thế nào và phát triển ra sao. Hồ Anh Thái chỉ là không cho người đọc cái quyền lựa chọn ấy. Cứ thê, câu chuyện về ngôi chùa và vị sư chủ trì kéo dài, kéo dài. Cuối cùng là nói về kết cấu cuốn sách. Mỗi phần của cuốn sách được phân ra theo tiêu đề của các chủ đề sẽ được nói đến trong cuốn sách. Chủ đề hay nhưng sắp xếp loạn, không theo một logic nào hết khiến người đọc không tạo được dòng suy nghĩ, không xâu chuỗi được sự việc. Cuốn sách cứ dài thượt mà sau này tìm lai mục phần có thông tin quan trọng chắc là điều bất khả thi lắm. Mình suggest cuốn sách này cho ai nhỉ? Cho những bạn mới biết ít về Ấn Độ hoặc đang thu thập thông tin chuẩn bị cho cuộc dạo chơi ở vùng đất này nhé. Còn với những bạn yêu Ấn, hiểu Ấn, đã từng ở Ấn thì có lẽ cuốn sách là một sự thừa thãi mà bạn chưa chắc đã nhất tiết phải đọc. Cứ giữ Ấn Độ của bạn trong tim thôi/ Review lifeandjourneys.wordpress.com *** Ấn Độ là một bảo tàng sống. Hầu như rất nhiều phong tục tập quán có từ mấy nghìn năm được lưu giữ trọn vẹn cho đến tận bây giờ. Chẳng hạn, hãy nhìn thiếu nữ đi trên đường kia. Tấm sari cô mang trên người cũng chính là tấm sari của mấy nghìn năm trước. Cái dáng đi khoan thai, có phần hơi chậm rãi, đi mà như ngày rất dài, đời rất dài, cũng chính là dáng đi mấy nghìn năm của người Ấn Độ. Bao nhiêu ý kiến của các tổ chức phụ nữ, các đoàn thể yêu cầu cải tiến trang phục cho hợp với đời sống lao động hiện đại, nhưng hầu như rất ít được hưởng ứng... Nhờ thế và nhờ nhiều điều như thế, Ấn Độ luôn luôn là một bảo tàng sống. Đấy là nhận xét của phần lớn những người nghiên cứu văn hóa phương Đông. Lớp chúng tôi ngày ấy đa số là người Âu - Mỹ, khi hỏi vì sao họ chọn Ấn Độ để nghiên cứu, mà không phải là Trung Quốc, không phải là Ai Cập? Họ đều bảo chính là vì Ấn Độ còn lưu giữ hầu như nguyên vẹn mọi thứ. Không phải lưu giữ hiện vật chết trong bảo tàng, mà lưu bằng cả một đất nước, một xã hội sống động. Những cái nôi văn minh khác đều đã bị tàn phá ít nhiều bởi thiên tai và những cuộc cách mạng, bởi những biến động lịch sử. Riêng ở việc bảo tồn sống động này, liệu ta có phải biết ơn tính bảo thủ của người Ấn? Những ngày đầu ở Ấn Độ, tôi như chìm giữa một biển sương mù. Cái nóng làm cho người ta u mê, ý nghĩ chậm chạp, cử động chậm chạp, phản ứng chậm chạp. Một buổi chiều sau giờ học, tôi ngồi một mình ở bến xe buýt, trong cái nóng chỉ chực làm cho mình mê đi, dẫu có tỉnh cũng chỉ là cái tỉnh của cơn mộng du. Chính vào lúc ấy, hình như có một bóng người đi qua trước mặt. Một cánh tay đột ngột chìa tới như định cào vào mặt tôi. Lập tức gạt phắt cánh tay ra. Cánh tay ấy lại cố gắng chìa vào mặt tôi lần nữa. Tôi lại hất ra. Choàng tỉnh từ cơn u mê, tôi thấy một ông già râu dài tóc búi như hiện về từ cổ đại, trên trán quệt mấy vệt màu đỏ màu trắng, cổ đeo tràng hạt, tay cầm cây đinh ba nhỏ bằng đồng sáng bóng, một bình nước cũng bằng đồng sáng bóng. Chính ông vừa hai lần xỉa tay vào mặt tôi và hai lần bị tôi hất tay ra. Ông từ bỏ hành động lạ lùng ấy, lặng lẽ bước đi. Ông đi một lúc rồi mà trống ngực tôi vẫn đập thình thình. Đấy là một kỷ niệm khiến tôi ngượng mãi. Về sau, nghiên cứu tìm hiểu và trải nghiệm trong đời sống Ấn Độ, tôi mới biết ông già gặp ở bến xe hôm ấy là một du sĩ. Những giáo sĩ lang thang như thế ta có thể gặp ở khắp thủ đô New Delhi, khắp Ấn Độ. Ông có thể từng là một công chức, có thể là một doanh nhân thành đạt, sau khi đã gây dựng gia đình, dựng vợ gả chồng cho con cái, tự thấy đã trọn việc đời, thì quyết định xa lánh đời trần tục, lên đường theo đuổi đời sống tinh thần. Hành động chìa tay vào mặt tôi lúc ấy, đơn giản chỉ là ông muốn quệt lên trán tôi một vệt phẩm màu, để ban phước. Một lần khác, tôi đưa một ông sếp đi thăm mấy ngôi đền Hindu và Phật giáo, nhân ông đi công tác ngang qua Ấn Độ. Chuyến tham quan vui vẻ, người hướng dẫn lẫn người đi chiêm bái đều hài lòng. Chỉ có điều, sau khi ra khỏi một ngôi đền, ông đứng trước bậc thềm, vừa xỏ lại đôi giày vừa ngập ngừng hỏi như không tin vào điều ông mới nhìn thấy: Sao đền chùa ở đây nó lại vẽ cả hình thập ngoặc phát xít? Tất nhiên tôi đã giải thích ngay cho ông về cái chữ vạn (swastika), một chữ thiêng của người Aryan, sau này thành thiêng liêng đối với nhiều tôn giáo như Hindu, đạo Phật, đạo Jain và việc vì sao nó lại bị sử dụng thành chữ thập ngoặc phát xít... Nhưng từ đó những chuyện lúng túng khi bất ngờ va phải văn hóa Ấn Độ và đời sống Ấn Độ khiến tôi nung nấu ý tưởng phải làm gì đó giúp cho những người đến sau. Việt Nam được coi là chịu ảnh hưởng của hai luồng văn hóa Trung và Ấn, ta ở trên bán đảo Trung-Ấn, nhưng thử hỏi đã có bao nhiêu phần văn hóa Ấn Độ được phổ cập? Kiến thức của người Việt về Ấn Độ có lẽ không bao giờ so sánh được với hiểu biết về Trung Hoa. Tôi đã tận dụng thời gian để góp nhặt kiến thức về Ấn Độ trong một thời kỳ dài sau đó. Sáu năm trời dọc ngang khắp các vùng miền trên tiểu lục địa Ấn Độ. Nhiều năm sau đó ở các nước khác, nhưng vẫn tiếp tục đề tài, tận dụng những phương pháp của các nước mà soi chiếu ngược trở về Ấn Độ. Tự nguyện xâm nhập vào văn hóa Ấn Độ giống như tự nguyện nhảy xuống biển, cả một đại dương văn hóa khiến cho ta càng bơi càng không thấy bờ. Tôi đã choáng váng mất mấy năm đầu trước một đất nước quá xa lạ. Khác hẳn cảm giác sau này khi tôi lần đầu đến Trung Quốc, cứ như mình trở về nhà sau một chuyến đi dài hàng trăm năm. Trước Ấn Độ ta thấy mình thật nhỏ bé. Ở đó cái gì cũng to, người to tướng, da ngăm đen và da trắng bóc pha trộn; nhà to, đền đài cung điện thành quách... cho đến cây trái đều to. Hình như người Ấn tư duy cái gì cũng lớn, cũng mang tính toàn cảnh bao quát. Lúc không trầm tư mặc tưởng ù trì thì hành động cũng hoành tráng. Còn bí ẩn thì không cần phải nói nhiều, tư tưởng Ấn Độ, tâm trạng Ấn Độ là thứ mà càng tìm hiểu lại càng không hiểu nổi. Dường như vậy. Người ta có thể đi thăm một đất nước bất kỳ trong ít ngày, trở về viết được một bài báo, bài bút ký dày dặn. Tôi thì phải sau bốn năm ở Ấn Độ mới dám viết truyện ngắn đầu tiên, tìm cách lý giải cho mình và cho độc giả về tính cách Ấn Độ. Và bây giờ, sau hai chục năm, sau khi ở Ấn Độ và qua nhiều nước Âu - Mỹ tiếp tục nghiên cứu về Ấn Độ, tôi mới tập hợp những bài viết thành một cuốn sách mang tính biên khảo. Đây là kết quả của những nghiên cứu, những chuyến đi thực địa, những điều lượm lặt từ sách vở và từ những cuộc đàm đạo với các bậc đạo sư, các vị học giả, những cuộc cùng ăn cùng ở cùng làm với người bình dân Ấn Độ. Có những điều khi nghe dân chúng nói, về đối chiếu lại thấy có sai khác, phải sử dụng đến trực giác, thực nghiệm và lý thuyết để phân định. Tuy vậy, như đã nói ở trên, Ấn Độ là như thế mà không phải như thế. Ta đã chấp nhận bơi giữa đại dương thì cũng phải chấp nhận càng bơi càng khó thấy bờ. Những điều tôi ghi lại ở đây, chỉ nhằm giúp cho ai đó muốn có chút kiến thức nhập môn về Ấn Độ. Đại dương Ấn Độ đã được đưa vào trong một cái chai nhỏ. Hay là như một nhà báo Việt Nam đi cùng tôi vào sa mạc Thar ở vùng Jaisalmer, chị đã lấy một ít cát kỷ niệm vào cái lọ nho nhỏ, cả một sa mạc nằm trong lòng tay. Những khái niệm đã được tóm lược và đơn giản hóa ở mức dễ tiếp nhận nhất. Độc giả sẽ gặp những tư tưởng, những sản phẩm văn hóa, những biểu tượng ký hiệu, những phong tục tập quán... được trình bày theo quan niệm của đạo Hindu. Từ đó, người đọc sẽ có điều kiện so sánh ảnh hưởng của chúng đối với các tôn giáo khác như đạo Phật, đạo Jain, đạo Sikh; và ảnh hưởng đối với các nền văn hóa khác, những đất nước khác trong khu vực. Cách trình bày này có thể còn để thiếu nhiều thứ. Cấu trúc của cuốn sách này cũng để mở cho việc bổ sung nhiều vấn đề trong những lần tái bản. Nói tóm lại, tôi mong muốn cuốn sách này có ích cho những ai nhập môn Ấn Độ học hoặc lần đầu tiên đến Ấn Độ. Họ sẽ không lặp lại kỷ niệm vụng về của tôi hai mươi năm trước. Khi một bàn tay thiện chí chìa về phía ta, ta không lo sợ mà gạt phắt nó ra.   Mời các bạn đón đọc Namaskar! Xin Chào Ấn Độ của tác giả Hồ Anh Thái.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Viết Về Bạn
Viết về bè bạn là tập hợp hai cuốn hồi ký Rừng xưa xanh lá và Một thời đã mất của nhà văn Bùi Ngọc Tấn. Mỗi câu chuyện trong Viết về bè bạn là một mảnh ghép tạo nên bức tranh chân thực đến từng millimet của đời sống nghệ thuật một thời đã mất, thời bao cấp, thời goulag đã qua. Đọc Viết về bè bạn, ta biết thêm một Dương Tường bán máu đằng sau một Dương Tường dịch giả, những câu chuyện đằng sau dịch phẩm Tể tướng lưu gù, những bài thơ Cầu xi măng, Chợ Cầu Rào, Nói chuyện với mèo, Kiếp sau, chuyện của “người sống và chết vì nghệ thuật như người tử vì đạo” Lê Đại Thanh, chuyện của “người điên” Nguyên Bình, hay phiêu lưu cùng màu trắng với Nguyễn Thanh Bình, và chuyện của “nhà văn của những người dưới đáy” – Nguyên Hồng. Với hơn 600 trang sách, Bùi Ngọc Tấn đã đạo diễn một bộ phim tư liệu về những mặt ít được nói tới của văn chương nghệ thuật, về cả những con người thành danh lẫn những tiếng nói bị vùi dập. Ông viết về những khó khăn gian khổ, những long đong lận đận; ông viết về, và viết cho những con người viết để sống, sống để mà viết. Văn phong giản dị, chân thực, cách kể cuốn hút, chắt lọc, giàu tính triết luận mà cực kỳ hài hước, Viết về bè bạn là cuốn nghệ thuật sử có giá trị; một cuốn sách giúp ta hiểu hơn về quá khứ và cũng để lạc quan hơn về tương lai, để vui sống, sống chứ không phải tồn tại, để tin tưởng “thế hệ sau sẽ làm được những điều chúng ta ao ước.” *** Trước hết có thể gọi đây là một thiên sử ký về một tình yêu, tình yêu Hải Phòng - Bùi Ngọc Tấn viết trong một cái nhìn hồi cố nhưng thấu suốt đến hiện tại: “Tôi lãng mạn có cánh. Tôi không hiện thực nghiêm khắc. Càng không hiện thực trần truồng. Và tôi càng yêu thành phố Hải Phòng… cho dù đời tôi có nổi chìm thế nào chăng nữa”(tr.286). Ông viết ở đây những chân dung nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà nhiếp ảnh dù có sinh ra ở Hải Phòng hay không nhưng đã gắn một phần đời mình với Thành phố Cảng, với tình bạn của ông và đặc biệt đó “hầu hết là những người chịu nhiều vất vả, kể cả đắng cay, những người lận đận, không thành đạt… những người luôn vượt lên, không đầu hàng số phận” (tr.6) mà ông gọi là “những ngôi sao mờ mịt vần vụ bão giông”, phần nào bởi thế mà hầu hết họ đã có thể chia sẻ với thân phận của “những người mang nghiệp chướng trong mình” mà chính ông trải nghiệm. Tuy nhiên đây không chỉ đơn thuần một tập hồi ký nhớ-và-kể. Bùi Ngọc Tấn với văn chương của ông là một tài năng hiếm hoi có thể dùng sức mạnh của hư cấu để kể những chuyện trung thực, tức dựng lại được cái cốt truyện ẩn sâu bên trong mỗi cuộc đời nhìn bề ngoài có vẻ như toàn những ngẫu nhiên sống động khôn lường… Những chân dung văn nghệ sĩ trong tập sách này đều khiến nghĩ đến các ký họa chân dung tài hoa mạnh mẽ lột tả thần thái những nhân cách văn học một thời. Bùi Ngọc Tấn không đặt ngọn đèn của tình cảm vào chỗ khuất bóng. Hai tiếng “bạn bè” trong ngôn ngữ của ông thấm thía tình cảm trong sáng, trìu mến, lấp lánh một ánh mắt mẫn tiệp và ân cần, khiến dòng tự sự của ông luôn dồi dào cảm xúc. Nhưng nhãn quan hiện thực chủ nghĩa - theo đúng hàm nghĩa cổ điển của thuật ngữ này - dẫn dắt văn chương của ông một cách nhất quán. Và điều đó là căn cốt trong phong cách truyện kể của ông: sự lựa chọn những chi tiết, những giai thoại để kể và mô tả, việc đặt những tình tiết và giai thoại như thế vào đúng chỗ cần thiết trong tổng thể ký ức chính mình một cách hài hòa sống động, cách kể khách quan hóa vai trò chứng nhân của mình trong toàn bộ bối cảnh được tái tạo như là chấm phá nhưng luôn luôn gây được ấn tượng thời-gian-thực và tình-thế-sống. Tính chất khiêm nhường không thể nhầm lẫn trong giọng điệu ấy chẳng bao giờ làm phương hại đến khát khao kể những gì cần phải kể. Tất cả những điều ấy khiến cho rất nhiều khúc truyện ở đây gây ấn tượng như những đoạn phim tài liệu xã hội-kinh tế đầy sức biểu hiện. Và đọc những chân dung này có thể thấy sâu bên trong chúng cái cốt cách những thiên “Bản kỷ”, “Thế gia” kinh điển phương đông. Mà phẩm chất văn chương vượt trội của chúng - cái vẻ đẹp giản dị tuyệt vời của thứ ngôn ngữ vừa chính xác vừa thấm nhuần tình cảm, vừa thâm viễn vừa hàm súc - khiến nghĩ đến một thiên sử ký của thời đại. Nguyễn Chí Hoan Review Mời các bạn đón đọc Viết Về Bạn của tác giả Bùi Ngọc Tấn.
Lược Sử Đời Tôi
Stephen Hawking đã khiến độc giả trên khắp thế giới phải sửng sốt bởi loạt sách rất được yêu thích về chủ đề khám phá những bí ẩn của vũ trụ. Giờ đây, có lẽ là lần đầu tiên nhà vũ trụ học thông thái nhất trong thời đại của chúng ta đang nhìn lại cuộc đời mình cũng như quá trình tiến bộ về tư duy khoa học của bản thân. Tác phẩm Lược Sử Đời Tôi thuật lại chặng đường gần như không tưởng của Stephen Hawking, từ thời niên thiếu ở London sau chiến tranh cho đến giai đoạn ông trở nên nổi tiếng trên khắp thế giới và được ca ngợi. Với một lượng lớn hình ảnh chưa được công bố cùng lời chú thích ngắn gọn, hóm hỉnh và chân thật, Lược Sử Đời Tôi đã đưa độc giả đến với một Stephen Hawking được nói đến rất ít trong những cuốn sách trước đây: một cậu học sinh luôn tọc mạch được các bạn cùng lớp đặt cho biệt danh Einstein; một tay cá cược khi đã từng đánh cược với một đồng nghiệp về sự tồn tại của một lỗ đen đặc biệt, và một người cha, người chồng trẻ đang đấu tranh để có được một vị trí trong giới vật lý và vũ trụ học. Với sự khiêm tốn và hóm hỉnh chỉ có ở riêng Hawking, ông đã cho độc giả thấy được những thách thức mà ông phải đối mặt sau khi bị chẩn đoán đoán nhiễm chứng bệnh ALS ở tuổi hai mươi mốt. Miêu tả về sự tiến bộ của bản thân như một nhà tư tưởng, ông giải thích làm thế nào mà cuộc sống rất có thể phải sớm kết thúc của ông lại thôi thúc ông tiến lên để đạt được những bước đột phá về trí tuệ, đồng thời cũng nói về nguồn gốc kiệt tác Lược sử thời gian - một trong những cuốn sách tiêu biểu của thế kỷ 20. Tinh tường, sâu sắc và khéo léo, Lược Sử Đời Tôi  mở ra cánh cửa cho chúng ta tiến vào vũ trụ của chính Hawking. *** Nếu tôi không có quyết tâm đủ, bây giờ tôi sẽ không ở đây. Stephen Hawking Stephen Hawking đã trở thành biểu tượng bất tử của một thiên tài khuyết tật, như mọi người đều biết, tên tuổi vang danh từ Đông sang Tây, chỉ sau Albert Einstein. Cuộc đời ông đầy trắc trở và bi kịch. Ông lấy nguồn cảm hứng từ trên trời, định mệnh lại luôn luôn muốn kéo ông xuống đất, nhưng ông không chịu đầu hàng. Ông ngước nhìn trăng sao, thiên hà, vũ trụ, “lỗ đen” , “lỗ sâu đục” , “du hành thời gian” , những định luật nền tảng của vũ trụ, nhưng vất vả, vấp ngã rồi lại đứng lên trong thân phận của một kẻ bị định mệnh “xử” bất lực cơ thể mình do chứng bệnh ALS nghiệt ngã gây ra. Chưa đủ, ông lại mất đi vĩnh viễn tiếng nói sau một ca phẫu thuật cứu cấp khi đi dự Hội nghị tại CERN năm 1985. Từ đó ông chỉ còn giao tiếp được qua chiếc máy tính điện tử với những chương trình phần mềm đặc biệt dành cho ông. Với tình trạng vô cùng chật vật ấy, vậy mà ông đã viết bảy cuốn sách nổi tiếng cho thế giới. Nhưng ông cũng có những “thiên thần” hộ mạng. Jane Wilde là người vợ đầu tiên của ông, Elaine Mason là người vợ thứ hai. Mỗi người đã cứu giúp ông một cách. Jane Wilde, yêu và cưới Stephen Hawking dù biết chồng tương lai mình bị căn bệnh hiểm nghèo ALS, đã giúp đẩy lùi nỗi tuyệt vọng ở tuổi xuân 21. Cô đã đem lại ý nghĩa sống cho ông, làm sống lên khát vọng khám phá khoa học như ý nghĩa của cuộc đời. Cô cũng quyết định không chịu rút ống thở ra cho Hawking, ngược lại lời khuyên từ sự tuyệt vọng của các bác sĩ, cô tìm cách cứu ông, “còn nước còn tát”. Cô cho ông ba đứa con kháu khỉnh và thành đạt. Còn Elaine Mason cũng đã cứu ông ba lần với tư cách một y tá điều dưỡng. Mỗi người như muốn kê vai gánh bớt gánh nặng của ông. Năm nay ông đã 72 tuổi, nửa thế kỷ vượt qua chẩn đoán hai năm sống sót của bác sĩ dành cho ông. Một điều kỳ diệu. Và lại nổi tiếng khắp thế giới. Lại kỳ diệu hơn. Tình yêu của ông mạnh mẽ đối với vũ trụ, nhưng cũng không thiếu phần sôi nổi với người yêu. Tinh thần ông dường như đã kéo lê cơ thể ông, buộc phải sống tiếp trong mọi tình huống để phụng sự cho khoa học. Đó là mệnh lệnh. Ông phải sống cho khoa học. Giống như nhà thơ Friedrich Schiller, đáng lẽ đã chết mười năm trước, như bác sĩ chẩn đoán, nhưng vẫn còn sống tiếp vì những ý tưởng văn chương của ông chưa viết hết. Stephen càng bị tước mất khả năng vật lý, thì các ý tưởng của ông lại càng phát triển thêm, tên tuổi ông càng nổi bật, quyết không chịu thua định mệnh. Hawking thường tự hào là người sinh đúng 300 năm sau ngày mất của Galilei (8 tháng 1,1642 của Galilei, và 8 tháng 1, 1942 của Hawking). Một sự tình cờ đặc biệt? Cũng như sự tình cờ Newton sinh đúng vào năm Galilei mất? Hawking cảm nhận có điểm chung giữa hai người đã phải chịu những nghịch cảnh nhưng luôn sôi sục sức sống, muốn cống hiến cho khoa học, và cho nhân loại. Nếu Galileo Galilei là nhà khoa học lớn nhất và đầu tiên của đại chúng trong lịch sử vào thế kỷ 17 - không phải Isaac Newton - thì Stephen Hawking là nhà khoa học lớn nhất của đại chúng thế kỷ 20, chỉ sau Albert Einstein. Tác phẩm Lược sử thời gian của ông bán trên 10 triệu bản, được dịch ra trên 40 thứ tiếng trong đó có tiếng Việt, một kỷ lục chưa từng có trong lịch sử khoa học. Hawking là người có vinh dự lớn thừa kế vị trí của Newton và Dirac trên chiếc ghế giáo sư toán Lucas được thành lập năm 1663-64. Ông cũng là thành viên của Hàn lâm viện Anh, Royal Society, một trong những tổ chức học thuật lâu đời nhất (1660) , và thành viên của Hàn lâm viện khoa học Hoa Kỳ, một tổ chức rất danh giá và uy tín. “Chúng ta hằng lo cuộc sống hàng ngày nhưng không hiểu hầu như chuyện gì của vũ trụ. [... ] Trong xã hội chúng ta, các bậc cha mẹ và thầy cô vẫn thường có thói quen trả lời những câu hỏi [về vũ trụ] với sự nhún vai, hay với sự viện dẫn các giáo huấn tôn giáo được nhắc lại mơ hồ. [... ] Đây là một quyển sách về Chúa... hay có lẽ về cả sự vắng mặt của Chúa. [... ] Hawking lao vào cuộc tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi nổi tiếng của Einstein rằng Chúa có sự chọn lựa nào hay không khi tạo ra vũ trụ.” Đó là những lời của nhà thiên văn học Mỹ Carl Sagan viết trong lời tựa cho quyển Lược sử thời gian. Tuy ông đi tìm ý Chúa, muốn hiểu bản đồ vũ trụ của Ngài, nhưng một trong những kết luận nổi tiếng của ông cuối cùng là, với kỹ thuật thời gian ảo, vũ trụ không có điểm khởi đầu cũng như kết thúc, và không có gì để cho Đấng Sáng thế làm cả. Trong một chương trình truyền hình, ông nói: “Chúng ta là những sinh linh tầm thường trên một hành tinh thứ yếu của một vì sao trung bình trong các vùng ngoại ô của một trong ngàn triệu thiên hà. Cho nên rất khó để tin vào một Chúa chăm lo chúng ta, hay ghi nhận sự tồn tại của chúng ta.” Cũng giống như Einstein, Hawking có sự thôi thúc phải đi tìm những định luật vĩnh cửu của thế giới trên trời. “Tôi có thể thấy các vì sao đã thu hút nó thế nào” , mẹ ông thuật lại. Ông nhớ lại những ấn tượng đẹp, đó là vào những lúc ông đi về nhà khuya từ London, đèn đường đã tắt vào nửa đêm để tiết kiệm điện, “Tôi nhìn bầu trời đêm chưa bao giờ như trước đó, với dải Ngân Hà nằm vắt ngang.” Đi tìm một lý thuyết cắt nghĩa được mọi thứ sẽ giúp chúng ta “hiểu thêm ý Chúa”. Cái nghiệt ngã của bệnh tình và quyết tâm chống trả số phận để vươn lên từ vực thẳm của tuyệt vọng với những khuyết tật kinh khủng như vậy, cùng việc kết hợp thuyết tương đối rộng và cơ học lượng tử để sáng tạo ra công thức bức xạ cho lỗ đen, cho biết độ bức xạ thoát ra lỗ đen, nghĩa là lỗ đen không còn là đen tuyền như người ta nghĩ nữa, một trong những công trình tuyệt vời, cùng với tài diễn tả và trình bày độc đáo trong sách đại chúng như trong Lược sử thời gian và những cuốn sách khoa học khác khiến cho Hawking xứng đáng là thần tượng của mọi người. Ở Pháp và nhiều nơi trên thế giới vừa chiếu cuốn phim về ông, The Theory of Everything (Lý thuyết của mọi thứ) , tên một quyển sách của ông, nhưng câu chuyện dựa trên quyển tự truyện của người vợ đầu Jane Hawking có tên Travelling to infinity: My life with Stephen, (Du hành về miền vô cực: Đời tôi với Stephen) rất cảm động làm bao người mủi lòng Mời các bạn đón đọc Lược Sử Đời Tôi của tác giả Stephen Hawking.
Hoang Dã - Hành Trình Tìm Lại Mình Trên Đường Mòn Pacific Crest
Hoang dã là cuốn hồi ký của Cheryl Strayed về chuyến hành trình đi bộ 1.770km dọc theo đường mòn Pacific Crest Trail khi cô 26 tuổi. Sau khi trải qua những năm tháng tàn tạ, mất phương hướng, phải chịu đựng cái chết của người mẹ thân yêu và cuộc ly dị đầy đau khổ, cô đã quyết tâm “xách balo lên và đi”. Và trong suốt cuộc hành trình dài hơn 1000 dặm, cô đã gặp được rất nhiều người, vượt qua nhiều thử thách tưởng chừng như không thể, để rồi chiêm nghiệm lại cuộc đời, tìm lại được chính mình. Sau khi được xuất bản vào tháng 3 năm 2013,Wild đã nhanh chóng leo lên vị trí dẫn đầu trong danh sách best-seller ở Mỹ và chiếm giữ vị trí đó trong vòng 7 tuần liên tiếp. Tính đến nay,Wild đã được dịch ra 28 thứ tiếng và được chuyển thể thành phim năm 2014. *** Những cái cây sừng sững cao vút, nhưng tôi còn cao hơn chúng. Tôi đang đứng trên một sườn núi dốc đứng phía bắc California. Tôi vừa tháo đôi giày leo núi ra và để rơi một chiếc xuống tán cây, đầu tiên, nó bật nhào vào không khí khi bị chiếc ba lô khổng lồ của tôi đổ ụp xuống, rồi lăn theo con đường mòn sỏi đá và bay khỏi đỉnh dốc. Chiếc giày rớt xuống một tảng đá trồi phía dưới cách tôi vài mét và nảy lên trước khi biến mất giữa vòm rừng, chẳng thể nào lấy lại được nữa. Tôi há hốc miệng, điếng người. Dù đã ở giữa nơi hoang dã này 38 ngày và thấm thía rằng điều gì cũng có thể xảy ra và sẽ xảy ra; nhưng tôi khi ấy vẫn không khỏi bàng hoàng. Giày của tôi đã mất. Mất thật rồi. Tôi giữ chặt chiếc kia trước ngực như đứa trẻ, dù tất nhiên là chẳng nghĩa lý gì. Một chiếc giày làm được gì khi không có chiếc còn lại chứ? Chẳng gì cả. Nó vô dụng, cô độc mãi mãi, và tôi chẳng hề mảy may thương cảm. Đó là đôi bốt Raichle vừa to vừa nặng bằng da nâu với dây đỏ cùng lỗ xỏ dây kim loại màu bạc. Tôi giơ chiếc giày lên cao, cố sức ném thật xa, nhìn nó rơi xuống những tán cây xum xuê và biến mất khỏi cuộc đời tôi. Tôi cô độc. Chân trần. Tôi 26 tuổi và mồ côi nữa. Một kẻ lạc đường đúng nghĩa, như một người lạ đã nhận xét vào hai tuần trước, khi nghe tên tôi và cái cách tôi đánh mất mọi thứ trong đời. Cha bỏ đi khi tôi lên sáu. Mẹ mất khi tôi 22 tuổi. Sau cái chết của mẹ, cha dượng – người tôi từng coi như cha đẻ – dần trở thành người mà tôi chẳng nhận ra nổi. Chị gái và em trai tôi mỗi người một phương, đắm chìm trong nỗi buồn khổ riêng của họ. Dù tôi đã gắng sức gắn kết cả gia đình lại với nhau, nhưng rốt cuộc vẫn là ly tán. Vài năm trước khi ném đi chiếc giày ấy, tôi cũng đã vứt bỏ chính mình. Tôi vất vưởng, lang thang, bắt tàu – từ Minnesota tới New York, tới Oregon và xuyên qua miền Tây nước Mỹ – để cuối cùng, vào mùa hè năm 1995, tôi thấy mình chân không giày, không tha thiết cũng chẳng thờ ơ với thế giới. Đó là một thế giới tôi chưa từng đặt chân tới, thậm chí chưa từng biết đến sự tồn tại của nó; nơi tôi lê bước trong muộn phiền và bối rối, sợ hãi và hy vọng. Một thế giới mà tôi tin sẽ biến tôi thành người phụ nữ tôi có thể trở thành, đồng thời đưa tôi về với cô gái Cheryl trước kia. Một thế giới rộng chừng 60 cm và dài 4.285 km. Thế giới ấy mang tên đường mòn Pacific Crest. Lần đầu tiên tôi nghe đến nó chỉ chừng bảy tháng trước đó, khi đang sống ở Minneapolis, buồn bã, tuyệt vọng, chuẩn bị ly hôn người đàn ông tôi vẫn yêu say đắm. Tôi với lấy cuốn The Pacific Crest Trail, Volume 1: California (Đường mòn Pacific Crest, tập 1: California) từ giá sách liền kề khi đang đứng xếp hàng, đợi thanh toán một chiếc xẻng. Bìa sách nói: Pacific Crest Trail (PCT) là con đường mòn hoang vu chạy dài từ biên giới Mexico ở California đến sát biên giới Canada, qua chín ngọn núi: Laguna, San Jacinto, San Bernardino, San Gabriel, Liebre, Tehachapi, Sierra Nevada, Klamath và Cascades. Khoảng cách là 1.600 km đường chim bay, nhưng độ dài đường mòn thì gần gấp đôi số ấy. PCT trải dài qua các bang California, Oregon và Washington. Nó đi qua các vườn quốc gia, những vùng hoang dã cũng như nhiều vùng đất thuộc liên bang, bộ lạc và tư nhân; qua hoang mạc, núi đồi và rừng nhiệt đới; qua sông suối và cả những con đường cao tốc. Tôi lật lại, nhìn chăm chăm vào bìa trước – một hồ nước trong đầy sỏi cuội bao quanh bởi những vách đá cheo leo, in bóng bầu trời xanh lồng lộng – rồi đặt lại nó lên giá, trả tiền chiếc xẻng và rời đi. Nhưng sau đó, tôi đã quay trở lại và mua cuốn sách. Khi ấy, đường mòn Pacific Crest chưa phải là một phần cuộc đời tôi. Đó chỉ là một ý tưởng, mơ hồ và lạ lùng, đầy hứa hẹn và bí ẩn. Khi đưa tay miết theo con đường nhấp nhô vẽ trên tấm bản đồ, có điều gì đó như rộn ràng bung nở trong trái tim tôi. Tôi quyết định sẽ chinh phục con đường ấy, hay chí ít là đi xa nhất có thể trong chừng 100 ngày. Tôi sống một mình trong căn hộ studio [1] ở Minneapolis, ly thân chồng, làm phục vụ bàn, và sống những ngày tháng rối bời tệ hại. Mỗi ngày, tôi lại cảm thấy như mình đang ngước lên từ một đáy giếng thẳm sâu. Nhưng từ chính nơi đó, tôi chuẩn bị trở thành một khách bộ hành đơn độc phiêu lãng giữa miền hoang dã. Và tại sao lại không chứ? Đã từng có rất nhiều “tôi” khác. Một người vợ đáng yêu và một phụ nữ ngoại tình. Một cô con gái được yêu thương và kẻ giờ đây phải cô đơn trong những kỳ nghỉ lễ. Một kẻ đầy tham vọng hoài bão và một cây bút tiềm năng liên tiếp nhảy giữa những công việc vô nghĩa trong khi học đòi nghiện ngập và ngủ với vô số đàn ông. Tôi là cháu gái một người thợ mỏ ở Pennsylvania, con gái một nhân viên kinh doanh từng là công nhân ngành thép. Sau khi bố mẹ chia tay, tôi sống cùng mẹ, chị gái và em trai trong một khu chung cư dành cho những bà mẹ đơn thân và con của họ. Thời niên thiếu, tôi từng sống theo kiểu về với tự nhiên trong khu rừng phía Bắc Minnesota, ở một ngôi nhà không có vệ sinh khép kín, không điện, không hệ thống nước. Dù vậy, tôi vẫn trở thành đội trưởng đội cổ vũ trường trung học và hoa khôi học đường. Rồi tôi vào đại học, đứng trong hàng ngũ những người cánh tả cấp tiến về bình đẳng giới. Nhưng trở thành người phụ nữ một mình bước qua gần 1.800 km đường hoang dã ư? Tôi chưa từng có suy nghĩ ấy. Dẫu thế, thử một lần cũng chẳng mất gì. Và giờ đây, đứng chân trần trên ngọn núi ở California này, tôi tưởng như đã vài năm trôi qua, vài năm sống một cuộc đời hoàn toàn khác, kể từ giây phút tôi đưa ra quyết định không tưởng đó: một mình đi bộ đường trường trên PCT để cứu lấy đời mình. Khi đó, tôi tin rằng, mọi điều tôi từng trải qua trước đó sẽ là hành trang tốt cho chuyến đi này. Nhưng không. Mỗi ngày trên con đường mòn chính là chuẩn bị duy nhất cho ngày tiếp theo. Và thậm chí đôi khi còn chẳng có cách nào để chuẩn bị cả. Như việc chiếc giày của tôi đã rớt bên sườn núi và chẳng thể lấy lại. Thực sự thì, tôi không hoàn toàn tiếc nuối khi đánh mất nó. Trong sáu tuần đi đôi giày ấy, tôi đã băng qua những hoang mạc và vùng tuyết phủ, thấy cỏ cây, bụi rậm, lá hoa đủ mọi hình thù, kích cỡ và màu sắc; tôi leo lên rồi lại đi xuống núi đồi, qua những cánh đồng, rừng thưa và những dải đất tôi thậm chí còn chẳng biết tên. Tôi chỉ có thể nói rằng mình đã từng ở đó, vượt qua và bỏ lại chúng sau lưng. Trong suốt quãng thời gian ấy, đôi giày khiến chân tôi phồng rộp, trầy da chảy máu; móng chân tôi đen lại và bốn móng đã tự bong ra, đau đớn vô cùng. Khi để mất đôi giày, cả tôi và chúng đều đã hoàn thành nghĩa vụ với nhau, dẫu từ tận đáy lòng tôi vẫn vô cùng yêu quý chúng. Đôi giày ấy chẳng còn là vật vô tri vô giác như với “tôi” ngày trước nữa; cũng giống chiếc ba lô, lều trại, túi ngủ, bình lọc nước, bếp lò siêu nhẹ và chiếc còi nhỏ màu cam tôi mang theo thay cho khẩu súng trong suốt mùa hè ấy. Chúng đều là những thứ tôi hiểu rõ và tin tưởng; những thứ giúp tôi tiến bước. Phía dưới kia, những ngọn cây cao ngất đang khẽ đu đưa trong làn gió nóng bức. Tôi chăm chú nhìn xuyên qua khoảng mênh mông xanh ngắt ấy, thầm nghĩ hẳn đôi giày của mình nằm dưới đó. Vì khung cảnh tuyệt vời trước mắt, tôi quyết định dừng chân tạm nghỉ. Tôi ở đây, trong một chiều muộn giữa tháng bảy, cách xa thế giới văn minh về mọi mặt, và còn nhiều ngày nữa mới tới được trạm bưu điện hiu quạnh để lấy chiếc hộp tiếp tế tiếp theo. Có thể ai đó đang đi xuống theo con đường mòn này; nhưng khả năng ấy rất mong manh. Thường thường, tôi đi rất nhiều ngày mà không thấy một ai khác. Dù sao thì, có người đi cùng hay không cũng vậy cả. Tôi là kẻ độc hành. Tôi lặng nhìn đôi chân trần dập nát với vài móng chân còn sót lại. Khi tháo đôi tất len tôi vẫn thường mang, từ trên mắt cá trở xuống, chân tôi nhợt nhạt khủng khiếp. Bắp chân gân guốc, sạm nắng và rậm lông; lem luốc bẩn thỉu với đầy vết xước và phồng rộp. Tôi bắt đầu đi bộ từ hoang mạc Mojave và không định dừng lại cho tới khi chạm tay tới cây cầu bắc qua con sông Columbia ở ranh giới giữa Oregon và Washington. Một cây cầu có cái tên hoa mỹ: Cầu của Chúa. Tôi nhìn về phương bắc, chăm chăm hướng tới cây cầu “hoa tiêu” ấy. Tôi ngoảnh lại phương nam, vùng đất hoang dã đã “dạy dỗ” và thiêu đốt tôi; cân nhắc những lựa chọn của mình. Và chỉ có duy nhất một đáp án thôi. Luôn luôn là như vậy. Tiếp tục tiến bước. Mời các bạn đón đọc Hoang Dã - Hành Trình Tìm Lại Mình Trên Đường Mòn Pacific Crest của tác giả Cheryl Strayed.
Hà Nội Lầm Than
"Tác giả Trọng Lang cũng là cây bút viết phóng sự sớm và chuyên nhất với thể văn này trong một thời gian dài. Các tác phẩm chính của Trọng Lang có Trong làng chạy, Đời bí mật của sư, vãi, Gà chọi (1935), Đồng bóng (1935-1936), Hà Nội lầm than (1937), Làm dân (1938), Làm tiền (1939); và sau này còn có thêm Thầy “lang”, Vợ lẽ nàng hầu, Những đứa trẻ (1941-1944)... Các phóng sự, ghi chép của Trọng Lang in khá rõ phong cách điều tra, kể chuyện, khai thác tư liệu thực tế. Nhà văn đã mở rộng diện đề tài, bao quát cả những khía cạnh đời sống tinh thần, phong tục tập quán và thực trạng những lối sống mới đang nảy sinh. Ở đây có cả thế giới muôn màu vẻ của bọn trộm cắp (Trong làng chạy), đời sống nhếch nhác cùng cực nơi thị thành (Hà Nội lầm than, Làm tiền) và muôn mặt những tệ nạn sau luỹ tre làng (Làm dân, Xôi thịt)... Nhiều trang viết thực sự sinh động, phô bày được những góc khuất tối của bọn người trộm cắp, đồng cốt, gái làm tiền, tệ nạn thuốc phiện... Không chỉ phản ánh và bộc lộ thái độ trước các vấn đề xã hội mà Trọng Lang còn tỏ bày khuynh hướng tư tưởng, chỉ ra những nỗi cơ cực, đau xót của lớp người “làm dân” dưới đáy xã hội. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan từng khái quát ý nghĩa sáng tác của Trọng Lang: “Trong số các nhà văn viết phóng sự gần đây, Trọng Lang có óc phê bình hơn cả. Văn ông đanh thép và sắc cạnh, chuyên về tả cảnh nhiều hơn tả tình... Muốn hiểu tâm hồn những hạng dân quê đã bị “lây” ít nhiều thói tỉnh thành, phải đọc những phóng sự của Trọng Lang; nhưng muốn hiểu tâm hồn những người dân quê còn đặc quê mùa, cần phải đọc những tập phóng sự và tiểu thuyết phóng sự của Ngô Tất Tố”. (Nguyễn Hữu Sơn) "Người ta có khi khoe rằng đã đi hát cô đầu, và biết nhảy đầm. Nhưng, tôi quyết rằng không ai dám nhận đã có đi vào..."nhà thổ", dù chỉ có một lần nhỏ thôi, trong đời mình... Tôi đã đàng hoàng bước vào nhà thổ...." Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt. Một góc nhìn riêng Hà Nội lầm than (1938)1 có thể coi là thiên phóng sự đặc sắc và được nhắc đến nhiều nhất của Trọng Lang và cho đến hôm nay, sẽ vẫn nằm trong số những diễn ngôn đáng chú ý nhất về mảnh đất này ở giai đoạn nó bị/được bao trùm không khí Âu hóa đa sắc thái. Hà Nội lầm than là Hà Nội của giai tầng dưới đáy, của những hạng người và hạng nghề nghiệp từng bị đặt trong sự dè bỉu, coi thường của đám đông xã hội. Trong vai một tay chơi có máu điều tra, Trọng Lang đã lần lượt chứng kiến và tái dựng nguyên trạng tình cảnh của những phụ nữ “nô lệ tạm thời” tại các quán bar, tiệm nhảy, nhà thổ…, nơi lui tới thường xuyên của tầng lớp giàu có và ưa thích thú vui xác thịt. Những nhân vật cụ thể được tiếp cận; các mánh khóe buôn da bán thịt được phơi bày; thói thực dụng tiền bạc được liệt kê; những ngóc ngách thân phận được chi tiết tường tận; những tàn tạ, nhếch nhác nhân hình được đặc tả…, tất cả, như vết chàm vô phương cứu chữa, đã là bằng cứ thuyết phục cho đời sống đô thị ở khía cạnh thị trường hóa, hàng hóa hóa len vào mọi nơi chốn, mọi mối quan hệ. Cố gắng giữ điềm tĩnh nhưng không ít lần, Trọng Lang đã phải thừa nhận sự bất lực trong việc miêu tả “những nỗi thống khổ ê chề của một hạng nô lệ cho xác thịt”, phải gay gắt mỉa mai thay vì cảm thương những nhà thổ “ô uế cực kì, một chỗ để chứng rằng tâm hồn, xác thịt của một đám đàn bà trụy lạc đã thối nát đến bực nào”, hay đám “nhà thổ đực” – “một cái nhục rất đau đớn cho người ‘có râu’”… Trong khi đẩy cao cảm giác bi phẫn, Trọng Lang đã dừng lại rất lâu ở sự phi lí, ngang trái của những biến đổi văn hóa (chẳng hạn, cô đầu khi xưa là “một cái thú nên thơ” nhưng giờ chỉ là trò mua vui giả dối), những tai ương, bệnh tật, khổ ải đổ xuống bất kì ai trong chốn ăn chơi và sau cùng, những thực tế khó lường của nếp sinh hoạt tiểu nông đang bị tha hóa khi xuất hiện “hạng ăn mày không đói, không rách, có khi sang trọng hơn người viết bài này, có tên là ‘tụi secours’, đi ăn xin nói bằng tiếng Pháp để lấy tiền bao gái và hút thuốc phiện”. Không chịu im tiếng, người quan sát-tác giả đã tham gia vào các màn đối thoại sinh động, đã khéo léo huy động các tiếng lóng, “từ chuyên môn” và sắc sảo nhất là những so sánh tạt ngang để khóa chặt đối tượng trong không gian tương ứng (“Như chim sơn ca, buồn bã, với tiếng gọi của rừng núi rộng, các cô sống theo tiếng gọi của đàn tâm có trăm ngàn điệu”; “Nếu tất cả những nhà thổ có thể ví được là những miếng thịt trâu ngâm nước, thì ả này là một miếng bạc nhạc, bụng nhụng mà người đồ tể thường cắt vất đi cho chó ăn, và đã rữa ra rồi…”; “Ông khách đó là một mẩu người tủn hoẳn, vừa gầy vừa xanh, quần áo xốc xếch, ngực bó cao, ống quần hẹp”…). Đằng sau các thủ pháp viết lách linh hoạt, Hà Nội lầm than có nhiều câu chuyện “có thể làm cho mặt trăng u ám đi được” vì mức độ tê tái, trắng phớ của nó. Hà Nội lầm than đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường (1943) của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt, bắt đầu từ tiểu sử trở đi. Nhưng cần thiết nhớ rằng, Vũ Ngọc Phan, trong Nhà văn hiện đại, bằng khả năng chọn lọc nhanh nhạy của mình, đã giới thiệu Trọng Lang thật nồng nhiệt: “Trong số các nhà văn viết phóng sự gần đây, Trọng Lang có óc phê bình hơn cả. Văn ông đanh thép và sắc cạnh, chuyên về tả cảnh nhiều hơn tả tình”. Tiếng kêu thương Hà Nội lầm than, vào năm 1938, quả thật, đã khía rất sâu vào một trong những thực tế đang trương phình ở các đô thị thuộc địa: nạn mua bán dâm, sự phát triển thiếu kiểm soát của hệ thống nhà thổ, các địa điểm kinh doanh tình dục trá hình. Báo chí thời ấy đã không bỏ qua thực tế này, và theo nhiều cách khác nhau, lần lượt lên tiếng như một nỗ lực khảo tả kĩ càng hơn về vị thế người phụ nữ. Không phải ngẫu nhiên mà Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm, Phụ nữ tân tiến, Đàn bà mới,… là những tờ báo xông xáo theo đuổi vấn đề mại dâm và hầu hết đều coi đây là một vấn nạn xã hội cần bài trừ. Tờ Trung Bắc chủ nhật ra ngày 27/9/1942 cho biết năm 1938 có tới 216 nhà hát, gần 2.000 cô đầu ở vùng ngoại ô Hà Nội và nạn hoa liễu do các cô đầu gây ra lan nhanh đến mức không thể ngăn chặn. Cô đầu hay rộng hơn, gái mại dâm, là hình ảnh trung tâm của sự khó khăn, bế tắc, mâu thuẫn mà phụ nữ ở các đô thị rất dễ mắc phải bởi những cạm bẫy sinh kế liên tục bủa vây, trong khi khoảng cách giàu nghèo và địa vị hoặc sự nới lỏng đạo đức ngày một nhiều hơn. Trong thiên phóng sự của mình, Trọng Lang không hoàn toàn đứng về phía bênh vực những cô đầu, gái nhảy, tầng lớp xét cho cùng là bị bóc lột, bị gạt ra rìa dù ông “đàng hoàng bước vào nhà thổ, với ngòi bút và lòng thương”. Về cơ bản, ông phê phán và liên tục chỉ ra thảm trạng bi đát mà họ đang chịu đựng. Với ông, nạn nhân cũng đồng thời là kẻ chủ ý chuốc lấy đau khổ vì đã tự mình lựa chọn một đời sống như vậy. Vì thế, nữ giới trong Hà Nội lầm than không đem lại thiện cảm nhan sắc, tính cách hay những nỗi niềm trắc ẩn số phận. Thái độ này không có nghĩa ông vô can với tha nhân mà trái lại, muốn tỉnh táo ghi chép, phân tích những tiếp nhận thiếu phản kháng từ lối sống chú mục hưởng lạc tai hại trong một đô thị trên đà hiện đại hóa như Hà Nội. Tính chất lưỡng phân của sợi dây đạo đức, vừa căm giận, khinh bỉ vừa xót xa, cảm thông đối với nghề mại dâm, trong trường hợp này, đã không thắt chặt được các ngả rẽ văn hóa của thị dân, nơi nhu cầu thuận mua vừa bán là hiển nhiên công khai. Trọng Lang kết thúc thiên phóng sự của mình trong sự vỡ lẽ rằng, chẳng có một giọt nước cam lồ nào đủ tưới hàng vạn người lầm than, còn bản thân thì lại thêm đau đớn. Khả năng dấn thân của một nhà văn, dù quyết liệt đến đâu, rút cuộc, cũng vẫn chỉ là “tiếng kêu thương”, hi vọng xã hội và chính thể thời điểm đó lắng nghe và thấu tỏ hơn mà thôi. Đọc Hà Nội lầm than để, bên cạnh những mĩ từ thanh lịch, hào hoa, hào hùng, văn hiến, cần thiết hiểu và cập nhật thêm một Hà Nội, xưa lẫn nay, không thiếu cơ cực, cam chịu và khuất lấp ngoài rìa muôn mặt nhân sinh. Trọng Lang tên thật là Trần Tán Cửu, sinh năm 1906 tại Hà Nội trong một gia đình Nho học. Sau khi học xong bậc trung học, ông bắt đầu viết văn, viết báo, trở thành cây bút phóng sự thường xuyên trên các tờ Phong Hóa, Ngày Nay, Hà Nội tân văn… Sự nở rộ của phóng sự giai đoạn này, như ta thấy, đã được nuôi dưỡng bởi sự phát triển đa dạng của báo chí và nhất là một môi trường xã hội mà những vấn đề cấp bách, thời sự trong đó chưa bao giờ lắng xuống, “những điều trông thấy” chưa bao giờ tạm ngưng thúc giục, khiêu khích người cầm bút phải đối mặt trực tiếp, mô tả và lí giải nó. Đời sống nhân sinh từ đô thị đến nông thôn, với tất cả những biến đổi khốc liệt, dữ dội, trái khoáy và thậm chí, đầy bẽ bàng, cay đắng của nó, trong giai đoạn các lực xung va chạm giữa hai thế giới (cũ-mới, truyền thống-hiện đại, phong kiến-thực dân, Việt Nam - Pháp…) đạt đến cao trào, đã trở thành mảnh vỡ nguyên liệu để các ngòi bút phóng sự, vốn nhiệt huyết và sắc bén, giải phẫu một cách chi tiết. Khả năng xét nghiệm chân xác văn hóa đô thị của Vũ Trọng Phụng, mức độ lật tẩy kịp thời hủ tục làng xã của Ngô Tất Tố ởViệc làng, hay tài miêu tả chân thực của Tam Lang trong Tôi kéo xe…, về cơ bản, không chỉ làm đầy thêm các tri nhận về diện mạo, bản chất xã hội Việt Nam thuộc địa mà rõ ràng, còn thúc đẩy sự trưởng thành vượt bậc của thể phóng sự, của văn xuôi quốc ngữ. Giữa những tiếng nói nổi bật đó, Trọng Lang không hề bị mờ đi. Vì trước nhất, ông đã kiên trì theo đuổi nhiều đề tài gai góc như một cây bút ý thức rất cao trách nhiệm can dự xã hội của mình và thứ nữa, ông lựa chọn kênh phát ngôn chính yếu ở phóng sự, một loại hình lao động chữ nghĩa cần đến cả bản lĩnh và sự trung thực tận đáy. Phẩm chất đó, cùng với việc kịp đứng trong chiến tuyến của tinh thần duy tân sẵn sàng phê phán mọi đối tượng, đã giúp Trọng Lang hoàn thành văn nghiệp đáng kể của mình ngay trước 1945 với những Trong làng chạy; Đời bí mật của sư, vãi; Đồng bóng; Làm tiền; Với các ông lang; Làm dân; Thi vị đồng ruộng… Năm 1954, Trọng Lang di cư vào Nam, tiếp tục hoạt động văn chương báo chí. Ông mất tại Sài Gòn ngày 29-4-1986. ---------------------------- 1 Ấn bản đầu do Đời Nay thực hiện năm 1938. Ấn bản 2015 do NXB Hội nhà văn và Nhã Nam thực hiện. Mời các bạn đón đọc Hà Nội Lầm Than của tác giả Trọng Lang