Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lao Động Biển Cả

Về Victor Hugo, bạn đọc Việt Nam đã được biết nhiều qua những tác phẩm của ông như Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris), Những người khốn khổ (Les Misérables),Chín mươi ba (Quatre-vingt-treize)… Riêng cuốn ‘Lao động biển cả’ (Les Travailleurs de la mer) đã cuốn hút rất nhiều bạn đọc Việt Nam biết tiếng Pháp qua nhiều thế hệ. Đây không chỉ là một tác phẩm hiện thực phản ánh xã hội tư sản Pháp trong những ngày đầu của chế độ tư bản ở nước này. Qua tác phẩm này tác giả cũng xây dựng thành công một số nhân vật điển hình đại diện cho cái Thiện và cái Ác. Với một ngòi bút vững vàng đầy kinh nghiệm, tác giả đã vạch trần những mánh khóe xảo quyệt táng tận lương tâm của những con người như Rantaine hay Clubin. Đồng thời ông cũng miêu tả rất thực và rất sinh động những con người chân chính, lao động không mệt mỏi như Gilliatt. Qua câu chuyện tình éo le, dang dở của Gilliatt, bạn đọc vừa cảm thương cho số phận hẩm hiu của anh vừa căm giận những bất công trên đời này. Phải chăng đấy là một thứ “định mệnh của vạn vật”? Dẫu sao, sau khi đọc xong dòng chữ cuối cùng, gập sách lại, bạn đọc vẫn còn thấy lắng lại trong tâm tư những gì cao quý, tuy chua chát, của con người. Bởi vì trước sau Victor Hugo vẫn là một nhà văn đại diện cho các nhà văn lớn thế giới với những tư tưởng nhân văn cao quý. Tôn giáo, xã hội, thiên nhiên; đấy là ba cuộc tranh đấu của con người. Ba cuộc tranh đấu ấy đồng thời cũng là ba nhu cầu. Con người cần tin tưởng, vì vậy mà lập nên đền thờ; con người cần sáng tạo, vì vậy mà thành ra đô thị; con người cần phải sống, vì vậy mà có cày cuốc, thuyền bè. Nhưng ba giải pháp ấy lại chứa đựng ba cuộc chiến tranh. Khó khăn bí mật của cuộc sống từ ba chỗ ấy mà ra. Con người gặp phải trở ngại dưới hình thức mê tín, dưới hình thức thành kiến, và dưới hình thức nguyên tố cơ bản. Ba định mệnh đè nặng lên chúng ta, định mệnh của tín điều, định mệnh của luật pháp, định mệnh của vạn vật. Trong Nhà thờ Đức Bà Paris, tác giả đã tố cáo cái thứ nhất; trong Những người khốn khổ, tác giả đã làm nổi bật cái thứ nhì; trong quyển sách này, tác giả nói rõ đến cái thứ ba. Cùng với ba thứ định mệnh bao trùm con người ấy, lại xen thêm định mệnh bên trong, sức mạnh lớn nhất, trái tim con người. Hauteville House, tháng ba 1866. *** Tôn giáo, xã hội, thiên nhiên, đấy là ba cuộc tranh đấu của con người. Ba cuộc tranh đấu ấy đồng thời cũng là ba nhu cầu. Con người cần tin tưởng, vì vậy mà lập nên đền thờ; con người cần sáng tạo, vì vậy mà thành ra đô thị; con người cần phải sống, vì vậy mà có cày cuốc, thuyền bè. Nhưng ba giải pháp ấy lại chứa đựng ba cuộc chiến tranh. Khó khăn bí mật của cuộc sống từ ba chỗ ấy mà ra. Con người gặp phải trở ngại dưới hình thức mê tín, dưới bình thức thành kiến, và dưới hình thức nguyên tố cơ bản. Ba định mệnh[1] đè nặng lên chúng ta, định mệnh của tín điều, định mệnh của luật pháp, định mệnh của vạn vật. Trong Nhà Thờ Đức Bà Paris, tác giả đã tố cáo cái thứ nhất; trong Những Người Khốn Khổ, tác giả đã làm nổi bật cái thứ nhì; trong quyển sách này, tác giả nói rõ đến cái thứ ba. Cùng với ba thứ định mệnh bao trùm con người ấy, lại xen thêm định mệnh bên trong, sức mạnh lớn nhất, trái tim con người. Hauteville House, tháng ba 1866. *** “Lao động biển cả” - chút luyến lưu với văn chương cổ điển. Đại văn hào Victor Hugo đã để lại một gia tài đồ sộ cho văn học thế giới, những đóng góp của ông có lẽ không cần bàn nhiều. Nhà xuất bản Văn học mới đây đã cho ra mắt bạn đọc cuốn tiểu thuyết đầy không khí sử thi của ông mang tên “Lao động biển cả”. Tác phẩm mô tả cuộc đấu tranh của chàng đánh cá Giliatt với biển cả và sự hy sinh cao quý của chàng cho hạnh phúc của người chàng yêu tha thiết, Deruyset. Trước tiên phải khẳng định, đọc cuốn tiểu thuyết này không dễ, bởi người đọc phải có sự hiểu biết tương đối về không gian sử thi và thần thoại Hy Lạp. Các nhân vật trong tiểu thuyết “Lao động biển cả” cũng như hầu hết những tác phẩm khác của đại văn hào Victor Hugo đều không có nét đặc sắc về tâm lý. Gilliatt- nhân vật chính không có những biến đổi tâm lý mạnh, cuốn sách cũng không có nhiều trường đoạn khắc hoạ suy nghĩ của anh. Như Giáo sư Đặng Thị Hạnh đã nhận xét, những tâm lý nhân vật trong “Lao động biển cả” chỉ là những giản đồ tâm lý so với các tiểu thuyết gia khác như Stendhal, Balzac, Flaubert... Vì vậy so với thời gian tiểu sử-cốt truyện thì có thể coi dòng thời gian tâm lý trong tác phẩm này không có vai trò như trong các tiểu thuyết đương thời của Balzac, Flaubert.... Nhịp điệu trong tác phẩm này chỉ vang lên rõ nhất ở thời gian sự kiện. Nhưng “Lao động biển cả” cũng có một kết cấu sự kiện chặt chẽ chứng tỏ sự già dặn trong nghệ thuật kể chuyện của Hugo sau những kiệt tác “Nhà thờ Đức Bà Paris” (1831), “Những người khốn khổ” (1862). Có thể chứng minh điều này khá rõ qua cách bố trí một cách chặt chẽ kết cấu sự kiện trong lời kể của tác giả và việc sử dụng những thủ pháp “treo tình tiết” theo kiểu tiểu thuyết đen khá phổ biến đương thời. Một độc giả yêu văn học cho biết: “Các đoạn tả cảnh gió, cảnh bão, cảnh Gilliat tự dựng xưởng sửa tàu giữa biển khơi khiến tôi đọc đi đọc lại không thấy chán. Cả các đoạn viết về địa chí của cụm đảo Ghecnơxê cũng vô cùng hấp dẫn. Đoạn tôi thích nhất là đoạn hội thoại giữa tay thuyền trưởng và tay lái súng khi mặc cả khẩu súng 6 nòng của Mỹ - hoặc đoạn mặc cả với bọn buôn lậu cũng vậy”. Như lời đề tặng của tác giả: "Tôi tặng quyển sách này cho hòn núi mến khách và tự do, cho mảnh đất Normandi già cỗi, nơi sinh sống của dân tộc cao quý nhỏ bé miền biển, cho đảo Ghecnơxê nghiêm nghị và hiền hòa, chỗ nương thân hiện thời của tôi và có thể là nơi tôi yên nghỉ", cuốn tiểu thuyết “Lao động biển cả” là một món quà vô cùng ý nghĩa cho những độc giả vẫn còn nặng tình với vẻ đẹp thuần khiết của văn chương cổ điển. *** MỘT CHỮ VIẾT TRÊN TRANG GIẤY TRẮNG Lễ Giáng sinh năm 1820 ở Guernesey đáng được chú ý. Hôm ấy trời tuyết. Trên các đảo vùng biển Manche, mùa đông có băng là điều đáng được ghi nhớ, và nếu có tuyết thì lại thành sự kiện đặc biệt. Sáng hôm lễ Giáng sinh ấy, con đường dọc theo bờ biển từ Saint-Pierre-Port đến Valle trắng xóa một màu. Tuyết rơi suốt từ nửa đêm đến tận bừng sáng. Quãng chín giờ, sau khi mặt trời mọc một tí, vì chưa phải lúc để các người theo giáo phái Anh quốc đi nhà thờ Saint-Sampson và để những người theo phái Wesley đến tiểu giáo đường Eldad, nên đường đi hầu như vắng vẻ. Suốt quãng đường giữa tháp thứ nhất và tháp thứ nhì, chỉ có ba người khách qua đường, một em bé, một người đàn ông và một người đàn bà. Ba khách qua đường này, đi cách nhau, rõ ràng không có quan hệ gì với nhau cả. Em bé, độ lên tám, dừng lại và tò mò nhìn tuyết. Người đàn ông đi cách sau người đàn bà, độ một trăm bước. Cũng như người đàn bà, anh từ Saint-Sampson đến; anh còn trẻ, có vẻ như một công nhân hay một thủy thủ. Anh mặc bộ quần áo tứ mùa, một chiếc áo varơ bằng da nâu xấu và một cái quần dính bết nhựa đường, hình như chứng tỏ là bất chấp ngày lễ anh chẳng đi đến giáo đường nào cả. Những chiếc giày cục mịch bằng da thô của anh, đế chi chít đinh to, để lại trên tuyết một dấu vết nom tương tự khóa nhà lao nhiều hơn là chân người. Còn người đàn bà qua đường thì tất nhiên là đóng bộ cánh đi lễ; cô khoác một chiếc áo choàng rộng lót lụa đen, trong diện áo dài popeline Ireland bó sát, sọc trắng, sọc hồng, và giá cô không mang bít tất đỏ thì ta đã tưởng cô là người Paris. Cô cất bước nhanh nhẹn, thoải mái, nhẹ nhàng và qua dáng đi chưa bợn dấu đời đó người ta đoán được cô còn con gái. Điệu bộ cô mang cái vẻ duyên dáng thoáng qua, đánh dấu thời kỳ chuyển tiếp tế nhị nhất, tuổi dậy thì, hai cảnh hoàng hôn lẫn lộn, bước đầu của một người đàn bà trong phút cuối cùng của một em bé. Điểm ấy người đàn ông kia không nhận thấy. Thình lình, đến cạnh một lùm sồi xanh ở góc một khu vườn con, chỗ gọi là Dãy Nhà Thấp, cô gái bỗng quay lại, động tác ấy khiến người đàn ông phải nhìn cô. Cô gái dừng lại, có vẻ như ngắm nhìn anh chàng một lúc, đoạn cúi xuống; người đàn ông thấy hình như cô lấy ngón tay viết gì đó trên tuyết. Rồi cô ngẩng lên, đi tiếp, bước nhanh, rồi ngoảnh lại, lần này còn cười nữa, và đi khuất sang phía trái con đường, trong cái lối mòn hai bên có hàng rào dẫn đến lâu đài Trường Xuân. Lúc cô ngoảnh lại lần thứ hai, người đàn ông mới nhận ra đây là Déruchette, một cô gái xinh đẹp của địa phương. Anh thấy cũng chẳng cần phải vội và lát sau anh đã đến bên lùm sồi ở góc khu vườn con. Anh không nghĩ gì đến cô gái qua đường đã đi khuất, và nếu giây phút ấy có một con cá heo văng mình ngoài biển hay một con chim đỏ cổ nhảy nhót trên cành, thì có thể người đàn ông ấy đã đi qua, mắt chăm chú vào con chim đỏ cổ hay con cá heo. Tình cờ lúc trông xuống, anh chợt nhìn đúng vào chỗ cô gái đứng lại. Hai bàn chân nhỏ bé vẫn rành rành ở đấy, và bên cạnh, anh đọc được mấy chữ cô viết trên tuyết: Gilliatt. Mấy chữ ấy là tên của anh. Anh là Gilliatt. Anh đứng lặng hồi lâu, nhìn cái tên, nhìn mặt tuyết, nhìn đôi chân nhỏ bé, rồi lại trầm ngâm đi tiếp. Mời các bạn đón đọc Lao Động Biển Cả của tác giả Victor Hugo & Hoàng Lâm (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đoạt Lửa - J. H. Rosny Anh
Đoạt Lửa là tác phẩm nổi tiếng của J.H. Rosny Anh, in lần thứ nhất ở Brussels (Bỉ) năm 1911 với tên là LA GUERRE DU FEU (Cuộc chiến đấu vì Lửa). J. H. Rosny là tên kí chung của hai anh em Honoré và Justin Boex, nhà văn Pháp, J. H. Rosny Anh (1856-1940) viện sĩ Viện Hàn lâm Goncouri (Pháp), chuyên viết tiểu thuyết viễn tưởng về thời xa xưa, như “Đoạt Lửa”, “Con mãnh thú khổng lồ”, v.v... Cuộc du hành này trong thời kì tiền sử rất xa xưa, mà con người con chưa vạch bất cứ một hình thù gì trên đá và trên chất sừng, có thể cách đây một trăm ngàn năm”. Vậy đó, câu chuyện này đã xảy ra khoảng mười vạn năm trước. Ở cái thời kì mông muội xa xưa ấy, con người đương từng bước từ “người vượn” chuyển đi lên, ăn lông ở lỗ, sống thành bầy, những bầy người nguyên thủy chỉ mới săn bắt và hái lượm. Trong thế giới hoang sơ dưới sự ngự trị của các lực lượng tự nhiên và của muông thú đông đảo, con người cũng chỉ là một giống thú - mà chưa phải là mạnh - nhưng lại là giống thú đứng thẳng, tư thế khác mọi giống kia làm bọn chúng phải e dè và cuộc sống của họ đã thực sự là cuộc sống của loài người từ khi có Lửa. Lửa nâng cao đời sống và cũng nâng cao “bản chất người” ở con người. Mất Lửa, con người phải lâm vào cuộc sống con vật và trở lại là con vật như những muông thú khác. Những bầy người thù địch thường tìm cách tiêu diệt Lửa để dìm đối phương vào trong bóng tối hãi hùng. Một tác giả lớn, chuyên viết về tình báo công nghiệp đã nhận xét “Đoạt Lửa” là câu chuyện về chiến công tình báo công nghiệp đầu tiên của loài người. Một giáo sư địa chất nổi tiếng, qua truyện viễn tưởng khoa học của ông đã tâm đắc ca ngợi trí tưởng tượng của tác giả “Đoạt Lửa” đã làm sống lại cảnh vật thời nguyên thủy thật là tuyệt vời. Đọc tác phẩm “Đoạt Lửa”, các bạn hãy chú ý đến những ý kiến đánh giá ấy để có thể cùng tác giả sống với nhân vật bằng tưởng tượng - mà cùng đỡ ngỡ ngàng - trong một dĩ vãng xa xưa, một dĩ vãng không còn dấu vết và không bao giờ trở lại, nhưng là một bước đường đi lên của loài người. Văn hào Maxime Gorki đặt “Đoạt Lửa” vào danh sách - không dài - những tác phẩm cần phải cho trẻ em đọc để nâng cao hiểu biết về sự tiến hóa của nhân loại. Đó là một sự đánh giá sâu sắc, mà cũng là một “mệnh lệnh” đã thôi thúc người dịch và nhà xuất bản cố gắng hết sức mình để có thể giới thiệu “Đoạt Lửa” với các bạn. Nếu còn có gì các bạn chưa được vừa ý thì đó chỉ là do khả năng có hạn của người dịch. Mong được bạn góp ý nhận xét. Mời các bạn đón đọc Đoạt Lửa của tác giả J. H. Rosny Anh.
Mụ Ghẻ - Lâm Phương Lam
Du mất mẹ khi cô chưa đầy một tuổi. Năm cô lên mười, bố Hà cưới dì Hạnh, và Du có được một người mẹ kế. Mặc dù dì Hạnh hết mực yêu thương và chăm sóc Du, nhưng với bí mật về sự ra đi của mẹ Du, cô đã chối đẩy tình cảm đó và cho rằng, bố Hà đã không còn yêu thương và chờ đợi mẹ Du quay trở về. Trong mắt Du, dì Hạnh là một mụ ghẻ. Năm Du hai mươi sáu tuổi, gạt bỏ nỗi đau từ cậu Tư cũng như mối tình đầu gây ra, Du quyết tâm lập gia đình cùng một doanh nhân thành đạt tên Viễn – nhưng trớ trêu thay – chấp nhận cuộc hôn nhân này, đồng nghĩa với việc, Du trở thành mẹ kế của đứa con gái mười bốn tuổi, tên Giang. Và bi kịch bắt đầu xảy ra bằng các cuộc chiến tranh giữa Du và Giang khi trong mắt của con bé, Du cũng giống hệt như một mụ ghẻ, một người giúp việc, không hơn. Liệu hồi kết của cuộc chiến dì ghẻ - con chồng sẽ về đâu, mời bạn cùng tôi bước vào thế giới của MỤ Mời các bạn đón đọc ​Mụ Ghẻ của tác giả Lâm Phương Lam.
Thiếu Nữ Toàn Phong - Minh Hiểu Khê
AudioBook Thiếu nữ Toàn Phong "Thiếu nữ Toàn Phong" là một cuốn tiểu thuyết càng đọc càng thấy hay, đúng như Hiểu Khê đã nói, nó đẫm máu khiến người xem không ngừng bị kích động và khiến chúng ta hiểu được tại sao tác giả phải nhất định viết câu chuyện này, cái cảm giác đó giống như một gì đó đang thúc giục, thôi thúc trái tim cô phải viết ra. Câu chuyện kể về một cô gái mang tên Bạch Thảo, ngay từ nhỏ đã yêu thích môn võ Teakwondo. Sư phụ của cô vẫn thường nói: biết lễ nghĩa, khiêm tốn, nhẫn nại, biết khắc chế bản thân, chịu đựng gian khổ là những yêu cầu cơ bản nhất khi luyện tập Teakwondo. Tuy môn võ này đạt được hưng thịnh ở Hàn Quốc nhưng lại khởi nguồn từ Trung Quốc, tinh thần của nó đến từ tinh túy của văn hóa Trung Hoa, là một người Trung Quốc khi luyện môn võ này thì càng nghiêm khắc với bản thân hơn... Lúc đầu, tuy cô không phải là môn đệ của Toàn Thắng đạo quán, chỉ là người đến giúp dọn dẹp mỗi ngày, lúc quét dọn thì thuận tiện xem sư phụ dạy các môn đệ khác luyện công. Nhưng vì lòng nhiệt huyết của mình, cô đã đạt được những thành quả như nó phải thế... Ngoài ra, câu chuyện còn xoay quanh khung cảnh, các mối quan hệ, những cuộc thi đấu giữa đạo quán này và đạo quán khác... Đây là ebook trọn bộ Thiếu nữ Toàn Phong gồm có: - Thiếu Nữ Toàn Phong Tập 1: Ánh Sáng Ban Mai - Thiếu Nữ Toàn Phong Tập 2: Trái Tim Rung Động  - Thiếu Nữ Toàn Phong Tập 3: Cầu Vồng Trong Mưa - Thiếu Nữ Toàn Phong Tập 4: Tình yêu Đích Thực Mời các bạn đón đọc Thiếu Nữ Toàn Phong của tác giả Minh Hiểu Khê.
Tuyết - Maxence Fermine
Ở nước Nhật thanh nhã thế kỷ XIX. Chàng trai trẻ Vuko đã lựa chọn con đường của riêng mình: anh sẽ thành nhà thơ. Đi ngược lại mong muốn của người cha. Người họa sĩ già mù lòa Soseki, từng là samurat chiến đấu vì Thiên hoàng, dạy anh nghệ thuật thơ haiku. Bao trùm lên hai người đàn ông là hình ảnh đầy ám ảnh của người phụ nữ mất tích trong màn tuyết. Một ngôn ngữ trong sáng, súc tích và không giả tạo miêu tả tình yêu cuộc sống và cuộc kiếm tìm sự tuyệt đối. "Câu Chuyện tựa như ánh sáng và thanh tao như một bài haiku. Một câu chuyện tình yêu bất diệt" - Nhật báo La Repubbka   Maxence Fermine sinh ngày 17 tháng Ba năm 1968 tại Albertville và trải qua một phần những năm tháng tuổi thơ ở Grenoble. Tiếp đó anh đến sống ở Paris trong vòng mười ba năm. Sau khi học xong chuyên ngành văn học, anh lên đường đến châu Phi và làm việc trong một phòng nghiên cứu ở Tunisia. Nghề đầu tiên của anh là kỹ thuật viên kiến trúc đã cho phép anh có nhiều cơ hội chu du khắp nơi, nhất là đến châu Phi và giúp anh phát triển thiên hướng của mình về nghệ thuật và mỹ học. Hiện anh đang sống ở Haute-Savoie, miền Đông Bắc nước Pháp cùng vợ và cô con gái Léa tám tuổi. Anh bắt đầu sự nghiệp viết lách đã lâu nhưng đến năm 1999 mới cho xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay: Tuyết. Cuốn tiểu thuyết ngay lập tức thu hút được sự chú ý của công chúng và được coi là “một điều ngạc nhiên thú vị”. Được thành công đầu tay khuyến khích, Fermine đã chuyển hẳn sang nghiệp văn. Cũng trong năm 1999, anh ra mắt bạn đọc cuốn Cây vĩ cầm đen. Năm 2000, anh viết Người nuôi ong, cuốn sách mang lại cho anh cùng lúc hai giải thưởng Del Duca và Murat. Với sức làm việc phi thường và niềm đam mê văn học cháy bỏng, năm 2002, anh hoàn thành cuốn Thuốc phiện và năm 2003 là các cuốn Billard Blues, Khúc jazz trống, Người chơi bài poker. Năm 2004, anh nhận giải thưởng châu Âu với tác phẩm Amazone. Cuốn sách gần đây nhất của Fermine mang tựa đề Nấm mồ sao. Các tác phẩm của Maxence Fermine được dịch ra rất nhiều thứ tiếng, đặc biệt được ưa chuộng tại Ý và Tây Ban Nha. Qua mỗi tác phẩm của anh, độc giả như thấy anh đã từng trải qua nhiều thời kỳ, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa. Nước Nhật cuối thế kỷ XIX trong Tuyết, Châu lục Đen trong Người nuôi ong và Điệu tăng-gô của người Massa, Trung Quốc trong Thuốc phiện, Ý trong Cây vĩ cầm đen, Chicago những năm 1930 trong Billard Blues và thời kỳ Đức chiếm đóng Pháp đầy rối ren trong Nấm mồ sao. Mời các bạn đón đọc Tuyết của tác giả Maxence Fermine​.