Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Cát - E.T.A Hoffmann

Người Cát là một câu chuyện quái đản tiêu biểu của nền văn chương quái đản Đức Quốc, một câu chuyện do ngòi bút đặc sắc của E.T.A Hoffmann sáng tạo. Đáng lý nhà văn E.T.A Hoffmann đã là một nhà diễn tấu vĩ cầm nhưng sau ông chuyển qua văn chương. Ông đã đoạt được một thành tích đáng kể về những mẫu chuyện quái đản Đức Quốc. Không thể kể hết ra đây những tác phẩm của ông. Chúng ta ghi lại được một số truyện sau đây: Le magnétiseur; Ingace Denner; Le vase d’or; Les Elixirs du Diable; L’église des Jésuites; Krespel; Le Majorat; La masion hantée; Les Mines de Falun; Maitre Puce v.v... Với Hoffmann, chúng ta vẫn còn hoàn toàn ở trong lĩnh vực tiểu thuyết lãng mạn nhưng đã có một sự cố gắng đi vào thực tại hơn. Chúng ta không biết những nước non, xứ sở trong câu chuyện nằm ở những phương hướng nào trên quả đất nhưng luôn luôn chúng ta vẫn được mục kích những cảnh thần tiên mộng mị. Nhân vật trong câu truyện của Hoffmann thường có được trang phục, dáng điệu, nói năng của những kẻ đương thời với ông; Hoffmann luôn luôn không tránh sự bành trướng một cách dễ dàng những sự việc lạ lùng rùng rợn, Ông ta còn tỏ ra là một đứa bé khôn lanh, biết cười nụ, mỉa mai, thoi thúc người đọc, áp dụng những thể thức khiến người đọc được yên lòng thỏa mãn. Qua tấn bị kịch xảy ra giữa nhân vật của câu truyện và sự xúc động của người đọc, hình ảnh của tác giả luôn luôn hiện ra để xen nhập vào. Tác giả là một con người khéo léo và ít nhiều mang tính chất hài hước. Tính chất quái đản chưa thoát hẳn tính chất thần tiên mộng mị và sự phong phú của câu chuyện làm giảm rất nhiều về chất lượng. “Lúc còn thơ ấu, Nathanael phải đi ngủ trước khi Người Cát đến. Người Cát nầy không phải người bán cát điềm đạm như chúng ta vẫn thường thấy, mà là một nhân vật dữ tợn, một kẻ móc mắt trẻ con để mang về cho bầy cháu hắn, bầy cháu quay quần trong một cái tổ ở cung trăng. Nhiều đêm, mẹ của Nathanael buồn, khi những bước nặng nề vang lên trên bực thang. Đó là những bước chân của Người Cát. Một đêm nọ, đứa bé Nathanael nấp vào căn phòng bào chế của cha để rình xem Người Cát và em đã nhận ra được Người Cát không ai xa lạ, chính là nhà luật sư Coppelius thường ngày vẫn lui tới nhà em và kẻ nầy đã gây nơi đứa bé một sự ghê tởm thật sự. Con người kia muốn móc đôi mắt của Nathanael và may nhờ cha em cầu xin hắn nên hắn mới chịu tha, và đứa bé Nathanael lâm bịnh nặng. Coppelius chỉ trở lại có một lần tại căn phòng bào chế và sau đó, một tiếng nổ dữ dội đã giết chết cha của Nathanael. Sau này, lớn lên trở thành sinh viên, Nathanael tiếp xúc với một người bán phong vũ biểu và kính đeo mắt tên là Coppola. Những kính đeo mắt mà người bán kính kia sắp ra trên bàn và gọi rằng: những “kong mác” (đọc trại con mắt) khiến người thanh niên sợ hãi và rốt cuộc, chàng cũng bỏ tiền ra mua một loại kính viễn vọng nhỏ. Dụng cụ kỳ ảo nầy đã cho phép người thanh niên nhận thấy Olympia, con gái của G.S Spalanzani đẹp một cách kỳ dị. Người thanh niên Nathanael đem ra yêu nàng say đắm. Nhưng đúng ngày mà Nathanael chuẩn bị xong xuôi để hỏi nàng làm vợ, thì chàng phải chứng kiến một cuộc xô xát xảy ra giữa Spalanzani và Coppola, hai kẻ này đang tranh dành xâu xé thân hình của Olympia. Nàng chỉ là một pho tượng được cấu tạo bởi Spalanzani và chính Coppola đã gắn đôi mắt cho pho tượng ấy. Người thanh niên lại ngã xuống lâm một thứ bệnh mới và sau đó gần như được bình phục hẳn. Nhưng một ngày nọ, khi cùng với vị hôn thê Clara đứng trên mái cầu một thành cao, Nathanael đã khờ dại đem ra dùng lại cái kính dòm viễn vọng kia. Chàng nhìn thấy Coppelius. Cơn điên tái phát, người thanh niên vừa ngã vật vừa ré lớn và nát thân trên thảm đất khô” Người Cát vừa là một câu chuyện chỉ giáo y khoa, vừa là một câu chuyện quái đản. Địa hạt của sự “điên cuồng” và sự “lạ lùng” gặp nhau. Những ảo giác, ảo tưởng không phải là những hình thức có thể được chấp nhận trong cách nhìn của con người hay sao? Con người văn minh không thể tin một cách dễ dàng rằng ma quỉ xuất hiện chập chờn dưới mái nhà họ nhưng con người văn minh có thể chấp nhận rằng những kẻ điên có thể bị ám ảnh bởi những ảo giác, ảo tưởng. Đằng nào, con người văn minh cũng được thỏa mãn: qua câu truyện của Hoffmann, họ không tin rằng có ma quỉ thật sự và những ảo giác, ảo tưởng không thể xảy ra trong cuộc sống của họ. Một bên là câu truyện cổ tích và một bên khác là những khảo luận về y học. Sự khôn khéo của tác giả là biết dung hòa hai sự kiện trên, bằng cách quan niệm những ảo giác, ảo tưởng kia như những sự việc xảy ra một cách hiển nhiên do những bóng ma làm “chủ động”. Vì vậy, người đọc không phải mất thì giờ với một cốt truyện cũ kỹ lỗi thời, với sự tường thuật một trường hợp chỉ giáo y khoa mà thôi. Độc giả còn tham gia vào bên trong sự tan vỡ của mổ tâm hồn, độc giả sẽ hòa mình với nhân vật chính bị tai nạn, độc giả sẽ cảm thấy sự lo lắng, niềm băn khoăn. Sinh viên Nathanael vừa bị cám dỗ, vừa bị đe dọa bởi một “sức mạnh âm u”. Chàng thanh niên loạng choạng giữa hai thái cực chống đối, mâu thuẫn của sức suy tưởng. Nhưng câu truyện của Nathanael đưa đến hai lối nhận định: Theo Clara, vị hôn thê của chàng, Nathanael bị ám ảnh bởi những con ma bên ngoài mà chàng có thể tự ý xua đuổi được nếu biết luyện tập ý chí của mình. Nhưng đối với lối nhận định tương đối lạc quan này, một lối nhận định kêu gọi đến can đảm và lý trí. Nathanael muốn chống lại bằng một quan niệm bi quan và chính cái quan niệm nầy đã lôi cuốn chàng đến một niềm tuyệt vọng thụ động: “Sức mạnh âm u” kia từ ngoài mà vào, sức mạnh kia làm chủ tình hình, quyết định số mệnh của những kẻ do nó điều khiển. Điểm mà Clara chỉ thấy toàn là bệnh hoạn gây nên bởi những ngẫu nhiên tai biến, Nathanael lại tưởng nhìn thấy được ở đấy bàn tay của Định mệnh. Theo Clara Người Cát là ai. Một nhân vật huyền hoặc, hoang đường. Sự trùng nhau giữa Người Cát – Coppelius? Sản phẩm của sự liên tưởng hợp lý tưởng trong tâm trí một đứa bé. Sự buồn bã của bà mẹ? Bà ta tiếc tiền phải phung phí trong những cuộc tìm tòi, nghiên cứu chưa có kết quả. Cái chết của ông cha? Một rủi ro do sự bất cẩn trong công việc phân hóa kim khí. Sự giống nhau giữa Coppelius và Coppla? Sự gần giống nhau về cái tên? Hoàn toàn là những ngẫu nhiên, ngẫu hợp mà thôi. Nhưng Nathanael muốn nhận định qua một ý nghĩa tổng quát những điều mà Clara chỉ thấy toàn xảy ra là do những nguyên nhân bất ngờ bất thình lình mà thôi. Sự liên hợp tư tưởng trở thành những tương hợp huyền bí. Coppelius và Coppola làm thành nhân vật suy nhất với cái tên của hai nhân vật này cùng thoát từ nguyên âm “Coppa”, cái ổ của con mắt người. Chúng nó là Người Cát trong sự nhận định mơ hồ của Nathanael: khi thì móc mắt trẻ nhỏ, khi thì làm vật bất động, làm kính đeo mắt, đóng vai những con mắt bằng thịt, bằng máu. Chúng ta đi trên cái ranh giới đáng sợ của sự sinh hoạt và sự bất động: Olympia, sinh vật kinh khủng kia, có phải là cái máy không? Có phải là một thiếu nữ đáng mến, có quả tim vàng, có tâm hồn sâu sắc không? Sự đảo ngược lạ lùng của “sâu xa” và “nông cạn” ở nơi mà lý luận sáng suốt nhận ra những ngẫu nhiên, ngẫu hợp, tư tưởng huyền bí và mê hoặc, vì tưởng lĩnh hội được một chân lý duy nhất nấp dưới cát bụi của sự phức tạp, lại nhận thấy hiện ra những gì còn sâu sắc bí hiểm hơn. Clara, người thiếu nữ đã dấu ở tận đáy tâm hồn những kho tàng về tình yêu trong sáng, bị xem là “con người máy hạ cấp” trong khi con “người máy Olympia” chỉ biết lặp đi lặp lại hai tiếng A!A! lại được Nathanael xem như là một tâm hồn bí hiểm, thanh cao. Nội dung của câu truyện thật quả là quá sức lý sự, điều nầy tưởng không ai phải phản đối. Nhưng cái mà người ta để ý tới, chính là điểm mà vì quá lý sự nên câu truyện trở thành ghê gớm. Những trường hợp oái oăm của hồn thơ, những hoàn cảnh oái oăm của sự thần bí thật là hết sức khủng khiếp bởi vì những trường hợp, hoàn cảnh kia bị đánh đổ, đè bẹp. Đó là cuộc đấu tranh của ký trí chống lại với những giây phút điên loạn ấy, và do sự tranh đấu nầy đã phát sinh ra nguồn suy tưởng, thuận lợi cho một niềm thống khổ đắng cay. Gạt bỏ đi sự tranh chấp và chỉ lại những sự kiện đã xảy ra trong câu chuyện, hoặc giả bạn đọc sẽ tìm thấy sự trong sáng tầm thường mà Clara đã quen thuộc trong đoạn kết: “Cuối cùng nàng đã tìm được hạnh phúc êm đềm dưới mái gia đình, nàng đã sống cuộc sống hợp với bản chất vô tư và quan niệm của nàng” hoặc giả bạn đọc sẽ khám phá sự trong sáng huyền hoặc đã tạo cho Anselme, nhân vật chính trong “Le vase d’or” – sự đắm say thanh khiết của hồn thơ. Tâm hồn của Hoffmann nhất định đã chan hòa trong Kater-murr, sự trong sáng trưởng giả và sự kích thích mãng mạn của những Aufklarer thay phiên nhau diễn tiến một cách khôi hài. Trong câu truyện La vase d’or hồn thơ độc nhất đã nổi bật còn trong Người Cát thì lối hành văn suông vậy. Xin mời các bạn bắt đầu đi vào câu truyện. *** Câu chuyện tình này đen tối như những con đường hẽm của một bến tầu ở cửa thành phố Luân Đôn. Trong những con đường đìu hiu kia, bước chân người không vang lên được một tiếng động nhỏ. Những cánh cửa sổ khép nép không đón được một chút gió lành, và chiều xuống, cảnh trí trở nên lạnh lùng hoang vắng làm sao! Ở những xóm quạnh quẽ thê lương này, những cảm xúc êm dịu sáng tươi có thể mất hẳn nhưng tình yêu và lòng hy sinh vẫn tồn tại và còn mãnh liệt biết chừng nào! Những cảnh huy hoàng lộng lẫy bất công của Đô Thị hình như muốn thiêu hủy những gì cao đẹp, những gì gọi là Nghị lực, là Can đảm của xóm bùn nhơ ướt át. Không, ở những nơi nầy, cái Đẹp vẫn đương đầu, đương đầu với bao nhiêu sự lấn át trên. Tình yêu bén rễ trong cảnh bùn lầy tăm tối và vẫn tạo nên được khúc nhạc êm đềm, tạo nên được những cảnh vườn chang nắng đượm hương hoa, tạo nên được những đêm trăng sáng như pha lê, và những bài ca xuân thanh thót dịu dàng như suối chảy. Trong một của những con đường vắng vẻ này, cách xóm bến tầu một khoảng, có một tiệm giặt ủi do một người Trung Hoa làm chủ tên là Ng. Vong. Trong nhiều năm qua, một người đàn bà, gương mặt nửa Âu nửa Á, ngồi sau tấm cửa sổ của tiệm giặt. Nàng ngồi đấy, hết ngày nầy đến ngày khác, hết tháng này lại đến tháng khác. Những kẻ bần cùng của xóm nghèo mà sự khốn cùng không làm mất tình trắc ẩn, đã để ý và thương hại nàng. Nhưng người ta chỉ biết được một phần nhỏ của câu chuyện. Người đàn bà ấy là vợ của Ng. Yong chủ tiệm giặt và nàng câm. Suốt ngày, nàng ngồi ở cửa sổ và sự cô đơn hình như đã làm mất hẳn những nét buồn vui, gương mặt trở nên lạnh lùng một cách kỳ lạ. Nàng không nhìn ai và có lẽ cũng chẳng nghe ngóng gì. Nàng ngồi không nhúc nhích và im lặng như một pho tượng Tàu. Riêng đôi mắt nàng có vẻ mơ màng nhưng dữ tợn, đôi khi còn chiếu ra một sự hải hùng ghê rợn. Những lúc đó nhìn nàng, những người lạ chưa biết nàng rão bước đi mau để thoát khỏi cái nhìn của người đàn bà ấy, thoát khỏi cái đường hẽm tối tăm, mong gặp được con đường lớn sảng sủa, rộng rãi thênh thang hơn. Người ta sẽ không bao giờ biết được những tư tưởng hắc ám nào qua gương mặt thản nhiên đến ghê sợ kia. Người ta chỉ có thể tưởng tượng chút ít thôi. Một sự căm hờn, một niềm sợ hải, một mối thù, một sự trốn tránh, hoặc một kỷ niệm hắc ám của cuộc đời đã diễn lại trong cái tâm hồn ấy? Tất cả những việc đó, chúng ta đều không thể nói lên được. Thỉnh thoảng, không báo trước, vùng một cái, nàng đứng thẳng dậy, chạy ra cửa lớn của tiệm giặt. Trong phút đó, gương mặt nàng trở nên hoạt động và mất vẻ bình thản lạnh lùng thường ngày. Hình như nàng phải vận dụng tất cả sức lực để nói lên một điều gì. Trong khi nàng làm những cử chỉ tuyệt vọng về hướng bến tàu Antilles, ở miệng nàng chỉ thốt ra những loạt âm thanh ấm ớ líu lo không ai hiểu nổi. Lúc đó, người chồng chạy lại bên nàng, cầm tay nàng, dịu dàng mà cứng cỏi, để đưa nàng về chỗ ngồi cũ. Những người hàng xóm láng giềng tỏ ỷ thương hại cho người chồng, và có ý thầm phục bản chất của người đàn ông như Ng. Yong trong việc đối xử với một người vợ tàn tật. Ng. Yong đã giải thích cái họa đã xảy đến cho gia đình y. Khi nghe câu chuyện, hàng xóm khuyên y nên chăm sóc đến vợ kẻo tội nghiệp. Ng.Yong rất chăm sóc vợ. Ng.Yong luôn luôn ở bên cạnh vợ, mỗi khi nàng đi dạo chơi trong xóm. Trong những lúc đi dạo, nhiều khi nàng dừng bước, nhìn quanh quất tứ phía như muốn chạy tìm một nơi mà chỉ mình nàng biết. Nhận thấy gương mặt cầu xin, van lơn, đau xót của nàng, nhất là nhìn đôi môi run rẩy không thốt ra lời, tất cả những kẻ qua đường đều dừng chân như muốn dò hỏi căn nguyên. Trong phút đó, chồng nàng cầm tay dắt nàng đi. Trong số người chứng kiến sự việc trên, những kẻ không quen biết gia đình Ng.Yong thì đành bỏ đi, còn những người quen biết thì bước lại gần để an ủi cặp vợ chồng đáng thương đó. ... Mời các bạn đón đọc Người Cát của tác giả E.T.A Hoffmann.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nàng Công Chúa Gỗ Đàn Hương - Loretta Chase
Nỗi buồn phải rời khỏi đất nước Ấn Độ thân yêu sau năm năm tuyệt vời đã dịu đi đáng kể khi Amanda Cavencourt nhận một món quá có ý nghĩa từ người bạn thân yêu nhất của cô: bức tượng nàng công chúa tạc từ gỗ đàn hương. Tuy nhiên ngay đêm đó, bức tượng đã bị đánh cắp bởi một tên đạo chích khét tiếng tên là Chim ưng. Amanda tự hỏi tại sao một gã đàn ông được chính phủ giao cho những nhiệm vụ nguy hiểm và tinh vi nhất lại có thể thực hiện một vụ trộm nhỏ nhặt thế này. Bị tò mò bởi sự bí ẩn và lời đồn đại về sự quyến rũ và đẹp trai chết người của Chim ưng, Amanda lên kế hoạch lần theo dấu tên trộm táo tợn. Tên trộm đẹp trai cũng phát hiện ra một nàng Amanda mưu mẹo không kém. Quả là một sự tương xứng hoàn hảo! *** Loretta Chase tên thật là Loretta Lynda Chekani, sinh năm 1949 tại Hoa Kỳ. Bà là một trong những nhà văn nổi bật nhất của dòng tiểu thuyết lãng mạn ở Mỹ. Loretta Chase có bằng Cử nhân Văn chương của trường đại học Clark University, nơi bà theo học khoa Tiếng Anh và tham gia thêm lớp nghệ thuật thị giác. Sau khi rời trường đại học Clark, Loretta Chase viết kịch bản cho chương trình tự giới thiệu của các công ty. Nhờ công việc này mà bà gặp gỡ và yêu một nhà sản xuất chương trình, người sau này trở thành chồng bà. Sự kết hợp này là động lực và nguồn cảm hứng để Loretta Chase viết nên rất nhiều tác phẩm lãng mạn thuộc hàng best-seller của tạp chí New York Times. Bà đã giành được nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải RITA Award cho Tác giả Lãng mạn Xuất sắc nhất nước Mỹ. *** Hai người đàn bà quấn sari đứng trong lối đi đầy cỏ vetiver. Dưới anh trăng khu vườn trở thành một xứ sở thần tiên nhuộm màu bạc và bóng tối. Mùi hương hoa khêu gợi theo làn gió nhẹ, ấm áp tìm đến bên họ. "Đêm của Anumati," Rani nói. "Đã đến lúc kết thúc câu chuyện chưa kể của ta." "Bà bắt con đợi đủ lâu rồi," Amanda nói. "Con đã ở đây được gần một tháng." "Gần một tháng ở đây, năm tháng trên tàu, và con vẫn khóc." Rani quay bước khỏi lối đi. "Chúng ta phải tìm một người yêu để lau khô nước mắt cho con." "Con có khá đủ tình yêu rồi, cám ơn người." Amanda theo công chúa trở lại trong phòng. "Cần một chút mê li quý giá để đền bù cho sự điên rồ kia." "Đó là vì con chưa đưa anh ta vào giường," Rani lạnh nhạt đáp lại. "Nhưng thật vô ích để nói với con về những chuyện này. Con đã lẫn lộn các khái niệm về tội lỗi." Khi họ ngồi lên những tấm nệm, công chúa ra hiệu cho một người hầu mang hookah vào. Thêm một ra hiệu nữa, mọi người hầu đều biến mất. Hai người họ hàng lặng lẽ hút một lúc, âm thanh duy nhất trong căn phòng là tiếng sùng sục của tẩu. "Ta đã dối con," cuối cùng Rani nói. "Ta là một kẻ nói dối siêu hạng. Kỹ năng này đã cứu sống ta nhiều lần. Những lần khác thì nó đem lại cho ta những gì ta muốn. Tuy nhiên đêm nay ta sẽ không cố gắng nói dối nhiều quá." Amanda bật cười. "Tại sao thế, xin cảm ơn, thưa Mẹ?" ... Mời các bạn đón đọc Nàng Công Chúa Gỗ Đàn Hương của tác giả Loretta Chase.
Con Bạc - Fyodor Mikhailovich Dostoevsky
Tiểu thuyết "Con Bạc" nằm trong khuôn khổ seri "cuộc đổ bộ của chàng Dostoievski" trong hình dạng ba cuốn sách bìa giống hệt nhau, chỉ khác nhau tên sách, bao gồm: Con Bạc, Người Chồng Vĩnh Cửu, Chàng Ngốc Hữu Ích". Ba đầu sách này thuộc tủ sách được “Quỹ Hỗ Trợ Quảng Bá Văn học Nga-Văn học Việt Nam” tài trợ xuất bản hồi 2015 nhưng hai năm qua chỉ lưu hành nội bộ, nay NXB Văn học mới in đại trà cho quần chúng nhân dân được đọc. Với nguyên mẫu trực tiếp của một con người đã phát triển đa dạng, nhưng nhiều mặt lại chưa hoàn chỉnh, không tin gì, nhưng lại không dám không tin, chống lại quyền lực nhưng lại sợ quyền lực. Anh ta tự huyễn hoặc mình rằng ở nước Nga anh ta chẳng có việc gì làm và vì thế anh ta chỉ trích gay gắt những người từ trong nước Nga kêu gọi ngoại kiều Nga về nước. ...Vấn đề chính là ở chỗ tất cả những tinh túy cuộc sống của anh ta: sức mạnh, niềm hăng say, lòng dũng cảm lại đổ vào trò chơi rulet. Anh ta là con bạc, nhưng không phải con bạc tầm thường, cũng như tên hiệp sĩ keo bẩn của Pushkin không phải là tên keo bẩn tầm thường. Anh là nhà thơ có đẳng cấp riêng biệt, nhưng vấn đề là ở chỗ chính anh lại xấu hổ với thơ anh, bởi vì anh cảm thấy sâu sắc cái thấp hèn của loại thơ ấy, mặc dù nhu cầu phiêu lưu đã làm tăng phẩm giá cho anh trong con mắt của chính anh. Toàn bộ câu chuyện là chuyện anh chơi rulet ở các sòng bạc đến năm thứ ba. *** Fyodor Mikhailovich Dostoevsky (1821- 1881), sinh ngày 11.11.1821, là nhà văn nổi tiếng người Nga. Cùng với Gogol, L. Toystol, ông được xem là một trong ba văn hào vĩ đại của Nga thế kỉ 19. Dostoevsky sinh tại thành phố Moscow, là con trai thứ hai trong 7 người con của ông Mikhail, một bác sĩ quân y được biệt phái qua phục vụ tại Bệnh Viện Maryinski chuyên chữa trị các người nghèo. Ông Mikhail là một con người cứng rắn, thẳng thắn trong khi bà mẹ lại có bản tính trái ngược, bà ta rất thụ động, tử tế và rộng lượng. Các sự kiện của gia đình quý tộc xa xưa này với cha mẹ có một vùng đất và hơn một trăm nông nô, đã là hình ảnh của các nhân vật với các bản tính thái cực trong các cuốn tiểu thuyết của Dostoevsky sau này. Trong thời gian Fyodor đi học xa nhà, ông Mikhail đã bị giết chết do các nông nô trong vùng nổi loạn và hình ảnh giết người bất ngờ và tàn bạo này luôn luôn ám ảnh Fyodor Dostoevsky khiến cho các tác phẩm của ông thường dùng đề tài là các tội ác. Và vào cuối cuộc đời, cái chết của người cha đã là căn bản cho tác phẩm danh tiếng Anh Em Nhà Karamazov. Fyodor Dostoevsky rất yêu thích văn chương. Vào tuổi 25, Fyodor đã cầm bút, sáng tác ra cuốn tiểu thuyết đầu tiên với tên là Những kẻ bần hàn xuất bản vào năm 1846. Đây là một câu chuyện tình cảm mô tả một cách bóng bẩy các cảnh tàn phá của kiếp nghèo. Cuốn truyện này đã được các nhà phê bình khen ngợi, đặc biệt là Vissarion Belinsky, và nhà văn trẻ tuổi Dostoevsky được gọi là một "Gogol mới", tác phẩm của ông trở nên bán chạy nhất, bởi vì từ xưa tới nay chưa có một nhà văn người Nga nào cứu xét một cách kỹ càng sự phức tạp tâm lý của các cảm xúc bên trong tâm hồn con người. Fyodor Dostoevsky đã dùng tới phương pháp phân tích tâm lý để tìm hiểu các hoạt động rất tinh tế của tâm lý mọi người. Sau tác phẩm Những kẻ bần hàn , Fyodor Dostoevsky sáng tác ra cuốn Con người kép đề cập tới sự phân đôi cá tính và đây là căn bản dùng cho nhân vật Raskolnikov của đại tác phẩm Tội Ác và Trừng Phạt. Qua tác phẩm này, Fyodor Dostoevsky được toàn thế giới công nhận là một trong các Đại Văn Hào của nước Nga, được xem là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20. Tác phẩm tiêu biểu: Những kẻ bần hàn (1846) Con người kép (1846) Đêm trắng (1848) Ghi chép từ Ngôi nhà chết (1862) Những kẻ tủi nhục (1861) Con bạc (1867) Hồi Ký Viết Dưới Hầm (1864) Tội ác và trừng phạt (1866) Gã Khờ (1868) Lũ người quỷ ám (1872) Anh em nhà Karamazov (1880) Là Bóng Hay Là Hình ***   Ý tưởng viết truyện Con bạc xuất hiện từ mùa thu năm 1863. Ngày 18 tháng Chín năm 1863 từ Roma, Dostoievski viết cho N.N. Strakhov “Tình tiết câu chuyện là thế này: có một người Nga ở nước ngoài. Ông hãy hình dung rằng vấn đề ngoại kiều Nga được bàn nhiều trên báo chí. Tất cả sẽ được phản ánh trong truyện của tôi. Nói chung là tôi sẽ mô tả thời điểm hiện tại (với khả năng có thể) của đời sống của đất nước chúng ta. Tuy nhiên, tôi lấy nguyên mẫu trực tiếp của một con người đã phát triển đa dạng, nhưng nhiều mặt lại chưa hoàn chỉnh, không tin gì, nhưng lại không dám không tin, chống lại quyền lực nhưng lại sợ quyền lực. Anh ta tự huyễn hoặc mình rằng ở nước Nga anh ta chẳng có việc gì làm và vì thế anh ta chỉ trích gay gắt những người từ trong nước Nga kêu gọi ngoại kiều Nga về nước. ‹…› Vấn đề chính là ở chỗ tất cả những tinh túy cuộc sống của anh ta: sức mạnh, niềm hăng say, lòng dũng cảm lại đổ vào trò chơi rulet. Anh ta là con bạc, nhưng không phải con bạc tầm thường, cũng như tên hiệp sĩ keo bẩn của Pushkin không phải là tên keo bẩn tầm thường. (Nói chung đó không phải là việc so sánh tôi với Pushkin. Tôi nói chỉ để làm rõ thôi). Anh là nhà thơ có đẳng cấp riêng biệt, nhưng vấn đề là ở chỗ chính anh lại xấu hổ với thơ anh, bởi vì anh cảm thấy sâu sắc cái thấp hèn của loại thơ ấy, mặc dù nhu cầu phiêu lưu đã làm tăng phẩm giá cho anh trong con mắt của chính anh. Toàn bộ câu chuyện là chuyện anh chơi rulet ở các sòng bạc đến năm thứ ba”. Mùa hè năm 1865, bị xiết nợ dữ dội, Dostoievski buộc phải bán cho “chủ nợ” và cũng là “con người khá tồi tệ” F.T. Stellovski quyền xuất bản toàn tập sáng tác của mình. Thế nhưng trong hợp đồng có một khoản mục đặc biệt, Dostoievski kể trong bức thư gửi A.V. Korvin Krukovskaia ngày 17 tháng Sáu năm 1866, trong đó tôi hứa với ông ta rằng muốn in toàn tập thì tôi phải chuẩn bị xong một cuốn tiểu thuyết không dưới mười hai tay sách, và nếu tôi không kịp nộp vào ngày 1 tháng Mười một năm 1866, hạn chót, thì ông ta, Stellovski, có quyền được tiếp tục in trong chín năm liền không phải trả tiền, và tôi còn nghĩ ra rằng ông ta được in cả những gì tôi sẽ viết ra mà không phải trả một đồng nhuận bút nào nữa”. Đang say sưa viết Tội ác và hình phạt, Dostoievski chưa bắt tay vào viết tiểu thuyết mới cho đến đầu tháng Mười năm 1866. Khi thời hạn hoàn thành cam kết chỉ còn chưa đầy một tháng, ông bắt buộc phải mời người phụ nữ viết tốc ký Anna Grigorievna Snitkina (sau này là vợ ông) để đọc cho cô chép cuốn tiểu thuyết trong vòng 26 ngày, từ ngày 4 đến hết ngày 29 tháng Mười. Có thể cho rằng đến trước thời điểm này Dostoievski đã chuẩn bị được những bản nháp hoặc những phương án tỉ mỉ cho tác phẩm, cho nên mới có thể xây dựng được Con bạc trong thời gian ngắn đến thế. Trong hồi ký của mình bà A.G. Dostoievski kể về quá trình viết cuốn Con bạc. Trước ngày bà đến làm việc, Dostoievski đã có các phác thảo, sau đó từ 12 giờ đến 4 giờ chiều mỗi ngày, nghỉ ngơi rất ít, ông đọc cho bà ghi tốc ký, rồi khi về nhà, bà giải mã và viết lại cho sạch đẹp. Những phần bản thảo Con bạc mà bà viết tay và sau trở thành bản thảo cho thấy rằng trước khi đem nộp cuốn tiểu thuyết cho nhà xuất bản Dostoievski lại một lần nữa sửa chữa bản thảo. Ngày 1 tháng Mười một năm 1866 bản thảo được nộp cho Stellovski với tựa đề Ruletenburg (có nghĩa là Thành phố rulet). Nhưng nhà xuất bản yêu cầu ông phải đổi tên sách thành “một cái tên gì đó, nghe có vẻ Nga hơn” (xem thư của Dostoievski gửi V.I. Gubin ngày 8 tháng Năm 1871). Dostoievski đồng ý và rồi tác phẩm được in trong Toàn tập Dostoievski do F. Stellovski ấn hành tại Saint Petersburg (1866) với nhan đề Con bạc. Trong hổi ký của mình bà Dostoievskaia A.G. (Moskva, 1871) có viết: “… Trung tâm câu chuyện là “con bạc”, một trong những mẫu người Nga hải ngoại. Bên cạnh đó là gia đình một tướng quân người Nga, cũng là hải ngoại. Đó là một gia đình ngẫu nhiên đã tách khỏi nếp sống truyền thống sau cuộc cải cách nông dân, vấn đề này ở những tác phẩm về sau Dostoievski có những phần nghiên cứu đáng kể. Trong chuyến đi đầu tiên sang châu Âu năm 1862 ông đã quan sát nhiều gia đình Nga kiều và đã viết trong bài Ghi chép mùa đông về những ấn tượng mùa hè. Theo thống kê của tờ Người đưa tin Nga số tháng Mười năm 1862, thì chỉ riêng năm 1860 đã có hơn hai trăm ngàn người Nga đi ra nước ngoài…” Có một điều thú vị là chủ đề “người Nga ở nước ngoài” cũng đã được I.S. Turgenev khai thác, mặc dù ở khía cạnh khác, trong tác phẩm Khói (1867), được viết và được xuất bản gần như đồng thời với Con bạc của Dostoievski. Những diễn biến của câu chuyện tình của nhân vật lúc làm việc trong gia đình tướng quân với tư cách gia sư và cô con gái nuôi của tướng quân là Polina có nhiều điều được lấy ra từ những quan hệ phức tạp giữa Dostoievski với Apollinariya Prokohevna Suslova. Trong một bức thư Dostoievski đã viết về cô: “Cô ấy đòi hỏi mọi người đủ thứ, cái gì cũng phải hoàn hảo, không tha thứ bất kỳ một thiếu sót nào…” (thư gửi N.P. Suslova ngày 19 tháng Tư năm 1865). Những lời này có thể hoàn toàn phù hợp với Polina. Một số tình tiết liên quan đến Polina, như việc cô bị anh chàng người Pháp De-Grie quyến rũ, việc cô muốn trả anh ta một khoản tiền, đều có nguồn gốc từ cuộc đời của A.P. Suslova và được Dostoievski hư cấu thêm (xem Suslova A.P. Những năm tháng gần Dostoievski. Moskova, 1928). Tác giả Con bạc còn có một niềm đam mê giống như nhân vật của mình, Aleksei Ivanovich, đó là thói đánh bạc. Về thú chơi rulet, trong những chuyến đi của mình Dostoievski thường vẫn kể lại cho những người thân. Trong một bức thư gửi từ Paris cho V.D. Konstant đề ngày 20 tháng Tám năm 1863, kể về lúc thắng bạc ở Viesbaden, Dostoievski viết: “… trong suốt bốn ngày này tôi chỉ chú mục vào các con bạc. Số người đặt tiền có tới mấy trăm. Thật tình mà nói, biết chơi thì chỉ có vài người thôi. Tất cả đều thua cháy túi vì không biết chơi. Hai người thắng là một bà người Pháp và một huân tước người Anh, họ chơi giỏi, không hề thua, ngược lại, nhà cái suýt vỡ trận. Tôi nói điều này, xin đừng bảo rằng vì vui sướng mà tôi quá lời, tôi không bị thua vì tôi biết mánh lới để không thua, mà lại thắng cuộc. Mánh lới ấy tôi biết, thật là dễ hiểu và đơn giản, đó là biết tự kiềm chế một phút, dù ở bất kỳ thời điểm nào của cuộc chơi, không được nóng vội. Vấn đề chỉ có thế…” “Lý thuyết” chơi rulet của tác giả trong bức thư trích dẫn trên đây trùng hợp với lý thuyết của nhân vật Aleksei Ivanovich, đặc biệt là trong chương cuối. Bà A.G. Dostoievskaia nhớ lại rằng trong quá trình viết tác phẩm, khi bàn đến số phận của các nhân vật, thì “Fiodor Mikhailovich hoàn toàn đứng về phía “con bạc” và nói rằng có nhiều tình cảm và ấn tượng của anh ta là chính ông đã trải nghiệm. Ông khẳng định rằng ông có thể có được cá tính mạnh, chứng minh được cá tính bằng chính cuộc đời mình, nhưng ông lại không có sức mạnh để chiến thắng đam mê chơi trò rulet”. Hình tượng “con bạc” của Dostoievski có lịch sử văn học lâu đời. Trong văn học thế giới, danh sách những tác phẩm khai thác chủ đề này có thể kể ra không bao giờ hết. Chính Dostoievski đã nói đến mối quan hệ giữa tác phẩm của ông với các tác phẩm của Pushkin. Ngoài Những bi kịch nhỏ phải kể đến Con đầm Pích. Giữa Con đầm Pích với Con bạc có những chi tiết gần nhau. Tuy nhiên Germann của Pushkin chỉ có một say mê duy nhất là làm giàu để có quyền lực đối với mọi người. Còn Aleksei Ivanovich thì vừa thắng được hai trăm ngàn đã lập tức tiêu hết. Dostoievski coi đó là biểu hiện của nét tính cách Nga thuần túy. Khi xây dựng hình tượng Aleksei Ivanovich, Dostoievski cho thấy đã có những mối liên hệ với hình tượng “Dubrovski” của Pushkin. Troekurov gọi Dubrovski là “gia sư” với hàm ý miệt thị. Aleksei Ivanovich cũng tự gọi mình là “gia sư”, một cách tự ti trong những trường hợp muốn nhân mạnh vị thế phụ thuộc của mình. Trong truyện của Pushkin (chương XI) và trong Con bạc từ “gia sư” đều được viết theo kiểu phiên âm sang tiếng Pháp là “outchitel”. Cũng như nhiều tác phẩm khác của giai đoạn này, Con bạc có liên quan đến các bài báo chính luận của Dostoievski những năm 1861-1864, đặc biệt là bài Ghi chép mùa đông về ấn tượng mùa hè. Vấn đề chủ đạo là ở chỗ trong tác phẩm, Dostoievski muốn đối lập nước Nga hiện đại với châu Âu. Nhiều hình tượng trong tiểu thuyết dường như là bản minh họa cho những kết luận của Dostoievski trên mặt báo và trong tổng kết chuyến đi đầu tiền của ông ra nước ngoài. Aleksei Ivanovich là hình ảnh độc đáo của những thanh niên mà Dostoievski nói đến trong Ghi chép mùa đông…, những người này, cũng như Chatski, không tìm được con đường sự nghiệp ở Nga, đã đi sang châu Âu để “tìm một cái gì đó”. Nhân vật này được đối lập với nam tước Vurmergelm và De-Grie. Con bạc không muốn cúi đầu trước thần tượng Đức và không muốn dấn thân vào việc kiếm tiền… Theo Dostoievski, tính cách của những người Pháp, Đức, Anh trong quá trình phát triển lịch sử của đất nước họ đã được “định hình” rõ rệt, còn tính cách dân tộc của Nga thì lại đang trong quá trình phát triển, từ đó mà có “tính không định hình” của Aleksei Ivanovich và Polina, cũng từ đó mà người Nga có hoài bão sâu sắc muốn khắc phục tính thiến giao trong các hình thái xã hội phương Tây, và ông nhìn thấy tính ưu việt lịch sử của nước Nga, tiền đề để trong một thời gian ngắn nữa nước Nga sẽ tìm được những con đường tiến tới những lý tưởng cao cả của toàn nhân loại. Về mặt này, đóng vai trò quan trọng là hình tượng tiêu biểu: “bà già” Antonida Vasilevna. De-Grie và mademoiselle Blanche là những nhân vật mà Dostoievski châm biếm. Khi đặt tên cho tên hầu tước tự phong chuyên lèo lá và cho vay cắt cổ De-Grie, bằng cái tên của nhân vật hào hiệp trong tiểu thuyết thế kỷ mười tám Manon Lescaut[1], Dostoievski đã châm biếm mức độ xuống cấp đạo đức của giai cấp tư sản Pháp. Hình ảnh ngài Astley người Anh, là người chiếm được cảm tình của cả Aleksei Ivanovich, cả “bà già” và cả Polina, làm ta nhớ đến các nhân vật hào hiệp và tốt bụng trong các tiểu thuyết mà Dostoievski rất yêu thích của Dickenst[2] và Thackeray.[3] Hình tượng ngài Astley được tác giả xây dựng không cần nhiều chi tiết là phù hợp với quan niệm trong giới dân chủ Nga về người Anh. Saltykov Schedrin trong bài Đời sống xã hội của chúng ta (tháng Năm 1863) đã viết rằng một người Anh đi du lịch “thì ở đâu cũng tự hào, tự tin, ở đâu cũng mang đến một kiểu mẫu riêng với tất cả các mặt mạnh yếu của nó”. Con bạc đã nhiều lần được đưa lên sân khấu. Năm 1916, S.S. Prokofiev dựa vào tiểu thuyết này đã viết một vở opera và đã được trình diễn trong nhà hát hoàng cung Saint-Petersburg. Còn về bút pháp của Dostoievski thì đã có biết bao nhiêu người bàn đến, tựu trung lại, ai cũng cúi đầu bái phục và tôn ông là bậc thầy về phân tích tâm lý nhân vật. Sách của ông hay về tình tiết thì ít, mà hay về nội tâm thì nhiều. Tác phẩm này không phải ngoại lệ. Người dịch  (Theo tư liệu của E.I. Kiko) Mời các bạn đón đọc Con Bạc của tác giả Fyodor Mikhailovich Dostoevsky.
Ảo Vọng - Pearl S. Buck
Pearl Buck, nữ nhà văn Mỹ, được tặng giải thưởng Nobel Văn học vì các tác phẩm mô tả cuộc sống đa diện mang tính sử thi của người dân Trung Quốc trong những biến động dữ dội đầu thế kỉ XX và vì những kiệt tác tự truyện. Bà là nhà hoạt động xã hội tích cực, được coi là một chiếc cầu nối văn hóa Đông-Tây. Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại Trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng. Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gió Đông, Gió Tây (do chạy loạn Quốc dân đảng, năm 1930 mới xuất bản được). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như Đất Lành, Những Người Con Trai, Một Nhà Chia Rẽ, Người Mẹ, Những Đứa Trẻ Chậm Lớn… trong đó tiểu thuyết Đất Lành được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Trong Thế chiến II, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Những năm 50, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tục huyền với giám đốc một hãng quảng cáo. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** Ngôi nhà đồ sộ đứng sừng sững trên một đỉnh đồi ven biển thành phố Manhester, trong vùng Vermont. Đó là một trang viên cũ kỹ xây cất từ một thế kỷ nay, trước khi người đàn bà cuối cùng của dòng họ Winsten qua đời, và trước ngày người con gái của bà, cô Elinor kết hôn với ông William Asher. Dù ngôi nhà từ đó đã qua tay chủ khác, vẫn được người trong vùng gọi bằng tên cũ ngày xưa. Ông William đâu bận tâm về điều đó. Đánh mất danh hiệu của mình trong một ngôi nhà đã mang tên người khác, đó là điều ông không nghĩ đến. Ông thích ngôi nhà vì nó là như vậy. Nhờ có tâm hồn quảng đại mà ông giữ được bản lĩnh thoát mọi ảnh hưởng khách quan, và vui vẻ hòa mình vào sự nghiệp của bà Elinor. Tại Long Island còn có một ngôi nhà của dòng họ Asher, ông William có thể giữ nó lại với tư cách là con trai duy nhất trong gia đình, song ông đã bán đi sau ngày cha mẹ ông qua đời mà không hối tiếc. Ông đã trải qua những mùa hè dịu dàng và xanh mượt, thời thơ ấu tại xứ Vermont, nên ông đã làm quen và ưa thích thành phố Manchester với những ngọn đồi yên tĩnh bao quanh. Ngôi nhà của dòng họ Winsten rất kiên cố và rộng mênh mông, các thế hệ đã nối tiếp nhau sinh sống ở đó, không phải sửa sang gì thêm. Người sáng lập, ông Adam Winsten, từ đầu thế kỷ 19, trước khi qua đời đã tự cho mình có trách nhiệm phải có đủ chỗ cho con cái ông: tất cả 12 đứa, trong đó có 9 đứa đã đến tuổi trưởng thành. Mặc dù ông có ý mở rộng thêm ra mãi, các cháu ông vẫn cảm thấy thiếu chỗ ở, và thiên cư gần hết về hướng Tây. Nhờ mỏ vàng và thiếc lộ, các cháu ông đã làm giàu nhanh chóng, đến độ về sau họa hoằn mới nhớ đến nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Trong thế kỷ trước, dòng họ Winsten, người này kế tiếp người kia, cho đến đời ông Adam Winsten, là người cuối cùng có vóc dáng của cây du khô héo trong mùa đông, và là thân sinh của cô Elinor. Không đứa nào trong các con ông muốn giữ một gia cư quá rộng như thế, đến nỗi kẻ đến xin giúp việc trong nhà, chỉ nhìn thấy những mái nhà vô tận, cũng tự động rút lui. Các con trai và con dâu của ông từ chối giữ lại bà già nấu ăn, tên là Bertha, vì bà đã ở quá lâu năm trong nhà. Dần dần tất cả đều bỏ đi, trừ cô Elinor, người con út, mẹ cô và bà Emma, người chị em bạn dì già yếu, là ba người sống luôn luôn ở đó. Trong thời gian ấy, hết mùa hè nọ đến mùa hè kia, ông William ngày một say mê cô Elinor tha thiết. Họ đã kết hôn cách rất đơn giản ít lâu sau khi bà Winsten qua đời: Bà này đã bị sốc mạnh trong một buổi chiều xuân, khi bà cố sửa những bụi hoa hồng rậm rạp của bà. Sau đám cưới của họ, bà Emma tuyên bố ý định về sống ở New York. Bà luôn ước mơ điều ấy, và với số tiền bà Winsten quá cố đã để lại cho bà, đủ để bà thực hiện ước vọng đó. Cô Elinor và cậu William thừa hưởng ngôi nhà. William rất ưa thích ngôi nhà này, vì ông yêu mến xứ sở này. Trước kia ông thường tiếc rẻ vì trong mùa hè chỉ đến đó chốc lát với gia đình thôi. Ông mở một văn phòng nhỏ ở Manhester, cạnh cổng trường luật Harvard, và ông tiếp tục giữ nó vì lý do tình cảm, mặc dù hiện tại và nhiều năm về sau, là một luật sư nổi tiếng, văn phòng chính của ông đặt tại New York. Ông đã do dự khi chọn giữa Boston và New York, nhưng dòng họ Asher đến từ New York và tiếp tục đời sống luật sư ở đó, tạo nên một liên hệ mật thiết giữa xưa và nay. ... Mời các bạn đón đọc Ảo Vọng của tác giả Pearl S. Buck.
Emily ở trang trại Trăng Non - Lucy Maud Montgomery
“Mọi người không bao giờ đúng khi nói tôi là Anne. Nhưng trên một số phương diện, họ sẽ đúng nếu cho rằng tôi là Emily.” - Lucy Maud Montgomery Khi biết tin cha chỉ còn sống được vài tuần nữa, Emily quyết tâm dành toàn bộ khoảng thời gian ít ỏi hai cha con còn được bên nhau để yêu thương cha bằng tất cả trái tim, khiến hai tuần cuối đời của ông Douglas Starr trở thành những ký ức đẹp và quý báu nhất. Nhưng, Emily ngây thơ, mơ mộng và dạt dào tình cảm sẽ sống thế nào khi hai tuần ấy đã qua đi, khi cô đã mồ côi cả cha lẫn mẹ lúc mới mười một tuổi, khi phải rời mái nhà nhỏ bé ấm cúng giữa thung lũng lòng chảo để đến với trang trại Trăng Non rộng mênh mông và quá xa lạ, với những người họ hàng đã căm ghét cha cô và chối bỏ mẹ cô, với những tâm hồn khô khan quá giàu lòng kiêu hãnh và những trái tim đã quá quen khép cửa? Đẹp, xúc động, giàu tính nhân văn và phảng phất màu sắc bí ẩn, Emily ở trang trại Trăng Non là tiểu thuyết thiếu nhi dành cho mọi lứa tuổi, một tác phẩm kinh điển của nền văn học Canada đủ sức chinh phục trái tim độc giả trên khắp thế giới - một cuốn sách vẫn vẹn nguyên sức hút bất chấp sự tàn phá khốc liệt của thời gian. *** Lucy Maud Montgomery (30/1/1874 – 24/4/1942), được biết đến rộng rãi dưới tên L.M. Montgomery. Bà là nhà văn người Canada nổi tiếng với sê-ri truyện viết về cô bé Anne tóc đỏ (hai trong số đó đã được dịch ra tiếng Việt). Bà tiếp tục viết 20 cuốn tiểu thuyết cùng với khoảng 500 truyện ngắn và thơ. Lucy Maud Montgomery sinh ngày 30/1/1874 tại Cliffon (nay là New England), thuộc đảo Hoàng Tử Edward, Canada. Mẹ của bà là Clara Woolner Macneill Montgomery mất vì bênh lao khi bà mới 21 tháng tuổi. Bố của bà, Hugh Montgomery, gửi bà cho ông bà ngoại chăm sóc. Mặc dù sống với ông bà nhưng tuổi thơ của bà khá đơn độc, vì vậy bà thường tạo ra một thế giới tưởng tượng xung quanh để vơi đi nỗi cô đơn, và từ đó trí tưởng tượng phong phú của bà được phát triển. Tháng 11 năm 1890, Lucy Maud Montgomery viết bài đầu tiên cho một tờ báo địa phương ở Charlottetown là Daily Patriot. Năm 1883, bà được nhận vào trường đại học Prince of Wales ở Charlottetown. Năm 1895 và 1896, bà theo học khoa văn tại trường đại học Dalhousie ở Halifax, Nova Scotia. Bộ Emily gồm có: Emily ở trang trại Trăng Non Emily Trên Dải Cầu Vồng Emily Và Ngôi Nhà Không Còn Tuyệt Vọng Mời các bạn đón đọc Emily ở trang trại Trăng Non của tác giả Lucy Maud Montgomery.