Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Diệt Vong

DIỆT VONG là tiểu thuyết cuối cùng và đen tối nhất của Thomas Bernhard. Xuyên suốt tác phẩm là tự sự của Franz-Josef Murau, con cừu đen trí thức trong một gia đình quý tộc lâu đời ở Áo, bị ám ảnh bởi căn tính của mình, căm ghét gia đình mình, ghê sợ tôn giáo của mình, yêu quí đất nước Áo, nhưng lại căm thù nhà nước Áo, Murau đã phân tích thấu đáo thực trạng vừa giả tạo vừa đê tiện vừa phù phiếm của xã hội, nhưng bên cạnh đó là những nhận thức bản thể tự thân, ông lý giải về sự tồn tại của bản thân trong tâm trí chính chúng ta và sự tồn tại của chúng ta trong mắt tha nhân. Với một phong cách phóng túng cường điệu, lối kể chuyện tinh tế, tri kiến sâu rộng, cùng thủ pháp độc thoại monologue bậc thầy, Thomas Bernhard được coi là người khổng lồ hùng mạnh nhất của văn học Đức ngữ kể từ sau chiến tranh thế giới II. -- “Với sự dữ dội ngạt thở... Qua tiếng nói của Murau, Thomas Bernhard tấn công thế giới hiện đại, được minh họa bởi nơi chôn rau cắt rốn của ông, nước Áo. ” Chicago Tribune "Sự tinh tế khác biệt của Diệt vong nằm ở sự mô tả ý thức trong hành động: Murau, hóa ra, có thể yếu đuối, đáng ngưỡng mộ, khó hiểu hoặc độc địa, nhưng tâm trí của anh ta, như được mô tả trên trang giấy, dường như hoàn toàn đúng với cuộc sống. " - Washington Post Book World “Không phải mọi kẻ điên đều là thiên tài. Nhiều người được gọi thế nhưng số người thực sự như vậy thì rất ít. Đó là một câu lạc bộ riêng biệt, nhưng Bernhard đã bước chân vào đó... Giống như Swift, Bernhard viết như một con quái vật thiêng liêng... Ông là một nghệ sĩ biểu diễn văn học xuất chúng: một người đi đến cực đoan bằng cách truyền sức sống cho ý thức của chúng ta về khả năng của con người, tuy nhiên lại mang tính phá hoại." The Wall Street Journal *** Với "Diệt vong", Thomas Bernhard viết ở một tầm cao khác, vượt xa những gì người ta có thể tưởng tượng, sống động và bất ngờ, điên rồ và tàn bạo, quái dị và phức tạp. Khi Franz-Josef Murau nhận được tin cha mẹ và anh trai vừa chết trong một tai nạn xe hơi, ông biết ngay mình sẽ được thừa kế lâu đài - đất đai - tài sản của dòng họ để lại. Ông khởi sự viết một cuốn sách độc thoại dài gần 500 trang chỉ để trả lời cho câu hỏi: “Làm cách nào để thoát khỏi cái mớ bòng bong thừa kế tự nhiên rơi vào đầu như thế?”. Để trả lời cho câu hỏi đó, ông liệt kê toàn bộ oán hận của mình với gia đình, với anh em họ hàng, và cả với đất nước của mình, và quá khứ phát xít của dân tộc Áo cũng được ông đưa ra để bình xét, không những thế ông tìm mọi chủ đề phê bình từ trí thức nhà thơ nhà văn đến người công nhân lao động bình thường, cả những thợ săn cho đến cô hầu gái, người phục vụ… cũng không thoát khỏi con mắt soi mói đầy phán xét của ông, tất cả chỉ để phục vụ cho mục đích duy nhất: là chối bỏ thừa kế.  Dĩ nhiên những chủ đề ám ảnh như vậy đòi hỏi một hình thức cũng ám ảnh không kém. Trong cuộc đấu tranh để mô tả ý thức hành động, Thomas Bernhard mài giũa một liên minh tinh tế về cấu trúc và ý tưởng. Diệt vong trở thành một cuộc độc thoại liên tu bất tận, cả cuốn sách gần năm trăm trang chỉ chia làm hai đoạn, những dòng chữ chảy tràn, không một ngắt đoạn, không xuống dòng, những câu văn dường như vô tận, kéo dài từ chủ thể này sang chủ thể khác mà không cần tạm dừng để thở, người đọc như bị kéo vào hình thức tàn bạo đặc biệt. Và điều đó làm tổn thương mọi cảm xúc từ sự trầm ngâm đến sự cuồng loạn. Người ta cảm giác người kể chuyện Franz-Josef Murau, con cừu đen trí thức trong một gia đình quý tộc lâu đời ở Áo, đang bị mắc kẹt trong tâm tưởng của mình, mắc kẹt trong những lời chỉ trích của chính mình, ý thức về sự giả dối và xấu xa của bản thân, nhưng ông không muốn và không chịu nhìn nhận một cách khách quan. Thomas Bernhard là bậc thầy trong việc phát triển độc thoại. Ông dựng nên những nghịch cảnh, và đặt người ta vào những biên cảnh ngặt nghèo, để khám phá sự khác biệt của mọi người ở mọi hoàn cảnh, tận hưởng niềm vui khi có tin xấu, tận hưởng hạnh phúc trong hoàn cảnh tồi tệ. Ông theo đuổi chủ nghĩa duy mỹ, phương châm của ông là châm biếm và trả thù, ông thích để con người chống lại con người, đẩy con người đến điểm cực hạn cho tới khi người ta phải bật trở lại. Ông giống như một nghệ sĩ cường điệu, đẩy mọi ý tưởng đến cùng cực, đòi hỏi một dạng chủ nghĩa cực đoan tương tự. Người ta bảo Thomas Bernhard bạo lực ngôn ngữ cũng không có gì sai, câu châm ngôn nổi tiếng của Wittgenstein “giới hạn ngôn ngữ của tôi là giới hạn thế giới của tôi” rất đúng với trường hợp của ông, Bernhard đã cố gắng mở rộng giới hạn bên ngoài của ngôn ngữ của mình đến mức nó có thể bao gồm cả những hình thái cực đoan nhất trong trải nghiệm của con người. Thomas Bernhard viết ở một tầm cao khác, vượt xa những gì người ta có thể tưởng tượng, sống động và bất ngờ, điên rồ và tàn bạo, quái dị và phức tạp, tất cả đã tạo nên một cuốn Diệt vong tối thượng ảm đạm.  Tác giả Thomas Bernhard là nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch người Áo. Ông được coi là tác gia Đức ngữ quan trọng nhất thời hậu chiến. Được đánh giá cao ở nước ngoài nhưng tại Áo, ông lại bị chỉ trích là kẻ “vạch áo cho người xem lưng” khi các tác phẩm của ông thẳng thắn chỉ ra và cay nghiệt phê phán các thói tật của quê hương, bao gồm của quá khứ Quốc xã. ***  trên đồi Pincio nhằm khớp lịch học tháng Năm với anh học trò Gambetti của tôi, một thanh niên mà trí thông minh tuyệt vời vẫn làm tôi phải kinh ngạc ấy - ông Franz-Josef Murau viết - lòng tôi trở nên khoan khoái và vui vui cùng ý nghĩ, mình quả thực đã sống từ lâu ở Rome rồi chứ không còn ở Áo nữa, niềm vui làm tôi phấn chấn đến mức trái thói quen thường ngày, tôi không đi ngay qua phố Condotti để về nơi tôi ở tại Piazza Minerva nữa, mà vòng qua ngả Flaminia và Piazza del Popolo, đi dọc cho hết cả dãy đại lộ Corso mới về tới căn hộ tôi ở, là nơi khoảng hai giờ trưa tôi nhận được bức điện tín báo tin về cái chết của bố mẹ và ông anh trai Johannes. Bố mẹ và anh Johannes bị tai nạn chết. Caecilia, Amalia, cầm bức điện trên tay, đầu óc hoàn toàn tỉnh táo, tôi bình thản bước đến bên cửa sổ phòng làm việc nhìn xuống Piazza Minerva vắng tanh không một bóng người. Tôi đã đưa Gambetti năm quyển sách mà tôi tín chắc là trong mấy tuần tới sẽ có ích và cần thiết cho anh ta, đồng thời yêu cầu anh ta đọc hết sức cẩn thận, cũng có nghĩa là thật thong thả, cả năm quyển sách đó: Luật sư Siebenkäs của Jean Paul, Vụ án của Franz Kafka, Amras của Thomas Bernhard, Người đàn bà Bồ Đào Nha của Musil, Gã Esch hay chủ nghĩa vô chính phủ của Broch, và bây giờ, sau khi mở toang cửa sổ cho dễ thở, tôi nghĩ tôi đã quyết định đúng khi đưa đúng năm quyển ấy, chứ không phải quyển nào khác cho Gambetti, bởi năm quyển ấy sẽ mỗi lúc một quan trọng hơn trong quá trình học, rằng tôi đã rất kín đáo mách khéo, lần tới tôi sẽ cùng anh ta phân tích mổ xẻ cuốn Tình đầu ý hợp chứ không bàn đến cuốn Thế giới như là ý chí và biểu tượng. Chuyện trò với Gambetti đối với tôi cũng lại là một hứng thú lớn, sau bấy nhiêu cuộc trò chuyện nặng nề, khó nhọc, loanh quanh độc những nhu cầu thường nhật, hết sức riêng tư và tầm thường với gia đình tôi ở Wolfsegg. Từ ngữ tiếng Đức như những quả cân bằng chì treo vào ngôn ngữ Đức, tôi đã bảo Gambetti vậy, và chắc chắn sẽ đè tư duy xuống một bình diện vốn rất có hại cho chính tư duy ấy. Cả tư duy Đức lẫn tiếng nói Đức đều bị tê liệt rất nhanh dưới sức nặng phi nhân của ngôn ngữ Đức, một gánh nặng đè bẹp mọi ý nghĩ ngay trước khi chúng được phát ngôn thành lời, như lịch sử hàng trăm năm lao tâm khổ tứ của dân Đức đã cho thấy. Do bị nằm đè dưới ngôn ngữ ấy, nền tư tưởng Đức dường như đã rất khó phát triển và không bao giờ có thể bột phát toàn diện, ngược hẳn nền tư tưởng Roman dưới ngôn ngữ Roman. Mặc dù tôi đánh giá tiếng Tây Ban Nha cao hơn, có lẽ chỉ vì tôi thạo nó hơn chăng, nhưng buổi sáng hôm đó Gambetti đã lại cho tôi một bài học quý giá về tính nhẹ nhàng, thanh thoát lẫn sự linh hoạt vô cùng tận của tiếng Ý. Đem thứ tiếng này so với tiếng Đức cũng giống như đem so một đứa trẻ hoàn toàn tự do lớn lên trong một gia đình khá giả và hạnh phúc với một đứa trẻ xuất thân từ gia đình nghèo khó, bần cùng, bị đè nén, bị đánh đập mà đâm ra lươn lẹo. Bởi thế, càng phải đánh giá cao công sức của các triết gia và văn sĩ của chúng tôi, tôi bảo Gambetti vậy. Mỗi một từ tức khắc sẽ níu suy nghĩ của họ xuống, câu nào cũng đè ý nghĩ của họ xuống đất, bất kể họ dám nghĩ điều gì, và như thế bao giờ cũng có nghĩa là đètất tật xuống đất. Chính vì thế mà triết lý của họ, cũng như những gì họ sáng tác ra, đều như thể bằng chì hết cả. Tự dưng tôi xướng to để Gambetti nghe một câu của Schopenhauer trích từ Thế giới như là ý chí và biểu tượng, bằng tiếng Đức trước, tiếng Ý sau, nhằm thử minh họa cho anh ta, Gambetti, thấy bên tay trái tôi, tượng trưng cho đĩa cân đặt tiếng Đức bị vít thấp xuống đến mức nào, trong khi tay phải tượng trưng cho đĩa cân bên đặt tiếng Ý được hất cao bổng lên ra sao. Trong sự khoái chí của tôi lẫn của Gambetti, tôi nói vài câu của Schopenhauer bằng tiếng Đức trước, rồi bằng tiếng Ý do chính tôi dịch ứng khẩu, đoạn đặt chúng lên hai đĩa cân ở hai bên tay tôi ấy cho toàn thể thiên hạ, nhưng trước hết là cho Gambetti, nhìn rõ điều đó; rồi dần dần nó biến thành mộttrò chơi mà tôi đẩy lên đến tột đỉnh, một trò chơi rốt cuộc kết thúc bằng các câu nói của Hegel và cách ngôn của Kant Thật đáng tiếc, tôi bảo Gambetti, không phải những từ ngữ nặng nề bao giờ cũng thuyết phục nhất đâu, y hệt các câu nặng nề không phải bao giờ cũng thuyết phục nhất. Trò chơi này chẳng mấy chốc làm tôi kiệt sức. Đứng dừng lại trước khách sạn Hassler, tôi kể Gambetti nghe ngắn gọn về chuyến đi Wolfsegg, nhưng càng về cuối, tôi lại càng thấy câu chuyện đâm ra chi li đầy đủ quá, vâng, thậm chí ba hoa quá. Tôi định dọn chỗ, đặt anh ta trước một buổi cân đong, so sánh giữa hai gia đình, đặt yếu tố Đức của gia đình tôi ở bên này, đối diện với yếu tố Ý trong gia đình anh ta ở bên kia; song, rốt cuộc tôi lại để gia đình tôi đối đầu với gia đình anh, khiến câu chuyện tôi kể bị méo mó, và làm Gambetti, thay vì được dạy dỗ, được khai minh chỗ này điều nọ, chắc lại bị quấy rầy khó chịu lắm. Gambetti là người rất biết lắng nghe và có đôi tai thật thính, lại được tôi dạy thêm thủ thuật nghe sàng lọc về nội dung sự thật cũng như về tính nhất quán của bất cứ một cuộc thuyết trình nào. Gambetti là học trò của tôi, nhưng ngược lại, tự tôi cũng là học trò của Gambetti. Ít ra tôi cũng học được ở Gambetti bấy nhiêu bài học, ngang đúng số bài Gambetti học được ở tôi. Quan hệ giữa hai chúng tôi là quan hệ lý tưởng, bởi lần này tôi là thầy của Gambetti và anh ta là trò của tôi, lần sau Gambetti là thầy, tôi là trò, và một tình huống rất hay xảy ra là cả hai chúng tôi đều không biết lúc ấy Gambetti là trò, tôi là thầy, hay ngược lại. Đó chính là lúc tình huống lý tưởng nảy sinh. Nhưng đằng thẳng ra thì bao giờ tôi cũng là thầy học của Gambetti vì tôi được Gambetti, hay nói đúng hơn là được ông bố giàu có của Gambetti trả công dạy học. Hai ngày sau khi trở về từ đám cưới của Caecilia em gái tôi với tay chủ xưởng sản xuất nút chai vang ở Freiburg, tức là chồng nó, bây giờ thành em rể tôi, tôi lại phải xếp lại chỗ quần áo tôi vừa bỏ ra, mới hôm qua chứ đâu, chưa kịp dọn, còn nằm ngổn ngang trên chiếc ghế bành kê cạnh bàn làm việc của tôi vào túi xách du lịch và quay lại Wolfsegg - cái chốn từ mấy năm trở lại đây tất tật mọi thứ thật sự trở nên ít nhiều đáng ghê tởm đối với tôi, tôi nghĩ bụng, lúc vẫn đang đứng bên cánh cửa sổ mở toang nhìn xuống Piazza Minerva không một bóng người - vì một duyên cớ lúc này không còn nực cười và lố bịch nữa, mà là một duyên cớ thật kinh khủng. Thay vì được ngồi chuyện trò với Gambetti về Luật sư Siebenkäs và Người đàn bà Bồ Đào Nha, tôi sẽ phải nộp mình cho hai con em gái đang đợi tôi ở Wolfsegg, tôi tự nhủ, thay vì được trao đổi với Gambetti về Tình đầu ý hợp, tôi sẽ phải bàn chuyện với hai đứa chúng nó về chuyện chôn cất bố mẹ và ông anh, cũng như về tài sản họ để lại. Thay vì được cùng Gambetti đi qua đi lại trên đồi Pindn, tôi sẽ phải lui tới văn phòng Thị trưởng, ra vào nghĩa địa hay nhà thờ rồi cãi nhau với hai con em gái về việc thu xếp đám tang. Trong lúc xếp số quần áo hôm qua tôi vừa lôi ra vào túi, tôi cố hình dung xem các hậu quả sinh ra từ cái chết của bố mẹ tôi cùng cái chết của anh trai tôi sẽ như thế nào, nhưng chẳng hình dung được gì. Song, tất nhiên tôi rất hiểu cái chết của ba người, mà chí ít xét trên giấy tờ, cũng là gần gũi nhất với tôi ấy, sẽ đòi hỏi những gì ở tôi: tức là toàn bộ sức lực, toàn bộ sức mạnh ý chí của tôi. Sự bình thản trong tôi lúc tôi lần lượt nhồi nhét các thứ cần thiết cho chuyến đi vào túi xách, cũng như sự bình thản trong lòng tôi lúc suy tính đến tương lai bị rung chuyển ngay sau tai nạn chắc chắn là kinh khủng đó, mãi một lúc lâu, sau khi đã đóng túi lại, tôi mới thấy là kỳ quái. Cái câu hỏi, liệu tôi có thương yêu bố mẹ và anh trai không, tuy bị ngay cái từ dĩ nhiên gạt đi - không những chỉ là chung chung, mà nói cho đúng - vẫn chưa được trả lời. Đã từ lâu rồi, cả đối với bố mẹ lẫn đối với ông anh trai, tôi không còn có mối liên hệ nào gọi là tốt đẹp nữa cả, mà phải gọi là căng thẳng thì đúng hơn, và dần dần, cho đến những năm gần đây, trở nên hờ hững. Tôi chẳng thiết gì đến Wolfsegg, như thế cũng có nghĩa là không thiết gì đến bố mẹ và ông anh tôi nữa, thì ngược lại, bố mẹ và ông anh cũng chẳng thèm quan tâm gì đến tôi nữa; đó là sự thật. Xuất phát từ một nhận thức như thế, các mối liên hệ của chúng tôi chỉ còn được đặt trên một nền tảng ít nhiều đủ để gọi là có nữa mà thôi. Tôi nghĩ, hai chục năm trước ông bà già mày không những để mày tuột khỏi Wolfsegg, là nơi ông bà định buộc xích vào chân mày suốt đời, mà ông bà mày còn để mày tuột hẳn khỏi lòng dạ ông bà nữa kia. Ông anh tôi ghen tị khôn nguôi với tôi suốt hai chục năm trời ấy, vì tôi đã bỏ đi, vì tính tự lập đầy hoang tưởng của tôi, như gã có lần đã đốp thẳng mặt tôi như thế, vì các đòi hỏi được tự do đến độ tàn nhẫn của tôi; tóm lại, gã căm ghét tôi. Còn hai con em gái tôi chỉ dành cho tôi mối nghi ngờ bao giờ cũng lớn hơn mối nghi ngờ thường có giữa anh chị em, chúng nó dõi theo tôi với những cặp mắt hằn học, ngay từ thời điểm tôi quay lưng lại với Wolfsegg để ra đi, cũng là lúc quay lưng lại với chúng nó. Đó là sự thật. Tôi nhấc cái túi xách lên, như mọi khi, nó nặng trình trịch, quá nặng, tôi nghĩ bụng, mà thật ra thì nó cũng chẳng để làm gì, vì ở Wolfsegg tôi có đủ mọi thứ kia mà. Tha nó theo làm quái gì chứ? Tôi quyết định không mang túi về Wolfsegg nữa và lôi các thứ trong túi ra xếp lại vào ngăn kéo. Chúng ta vẫn thường thương yêu bố mẹ một cách tự nhiên, và vẫn thường thương yêu các anh chị em chúng ta, cũng một cách tự nhiên như thế - tôi tự nhủ, lúc tôi lại đến đứng bên cửa sổ nhìn xuống Piazza Minerva vẫn không một bóng người ở dưới kia - mà không nhận thấy rằng, đến một thời điểm nhất định nào đó, ta bắt đầu căm ghét họ, hoàn toàn trái với ý muốn của chính ta, nhưng cũng hoàn toàn tự nhiên y như lúc trước đó ta yêu thương họ vậy, xuất phát từ tất cả những nguyên do mà phải nhiều năm sau, thường là hàng chục năm sau, ta mới vỡ nhẽ. Ta không thể xác định được chính xác cái thời điểm từ đó trở đi ta không còn yêu thương bố mẹ và anh chị em ta nữa mà xoay ra căm ghét họ là lúc nào, và chúng ta cũng không còn cất công tìm cho ra cái thời điểm ấy nữa làm gì, vì xét cho cùng, ta rất sợ tìm ra nó. Những ai đã trái ý nguyện người thân để từ bỏ họ ra đi, thêm vào đó, lại ra đi theo một cách hết sức ác độc như tôi đã ra đi, thì tất phải tính đến lòng căm ghét của họ, và tình thương yêu trước đó dành cho ta lớn lao bao nhiêu thì bây giờ, khi ta đã hoàn thành những gì ta đã định, sự căm ghét của họ càng sâu sắc bấy nhiêu. Hàng chục năm trời tôi từng đau khổ vì bị người nhà căm ghét, giờ đây tôi tự nhủ, song những năm gần đây, chẳng còn chút đau đớn nào nữa cả, tôi quen bị căm bị ghét rồi và không còn vì thế mà bị tổn thương nữa. Lòng căm ghét mà cả nhà đổ lên đầu tôi ấy, không thể tránh khỏi, đã đương nhiên khơi dậy trong tôi sự căm ghét dành cho cả nhà. Và, từ mấy năm gần đây, cũng chẳng ai còn đau khổ vì bị tôi căm ghét nữa. Cả nhà khinh bỉ cái thằng thành Rome, cũng như tôi coi thường bọn Wolfsegg vậy, và nói cho cùng, chẳng ai nhớ đến tôi, cũng như tôi không mấy khi nhớ đến ai trong nhà. Cả nhà chỉ toàn gọi tôi là thằng bịp bợmhay thằng ba hoa, một kẻ ăn bám cả gia đình lẫn thiên hạ. Còn tôi, tôi chỉ còn mỗi một từ lũ đần độn để gọi mọi người trong nhà. Cái chết của cả ba người, chắc chỉ có thể là do tai nạn xe hơi mà thôi ấy, tôi tự nhủ, chẳng mảy may làm thay đổi sự thật đó. Tôi chẳng hề lo ngại tôi sẽ vì thế mà sinh ra đa sầu đa cảm. Đôi tay tôi thậm chí còn chẳng run rẩy chút nào khi cầm đọc bức điện tín, thân thể tôi chẳng mảy may rung động, dù chỉ một phút giây ngắn ngủi. Tôi sẽ báo tin để Gambetti biết, bố mẹ và anh trai tôi đã chết, nên tôi phải bỏ qua vài buổi dạy, tôi nghĩ thầm, chỉ vài ngày thôi, bởi tôi sẽ chẳng lưu lại Wolfsegg lâu hơn vài ba ngày; cùng lắm chỉ một tuần là đủ, ngay cả khi có bao nhiêu thủ tục rắc rối không lường trước được cũng vậy thôi. Tôi đã thoáng có ý nghĩ, hay là đưa Gambetti đi theo, bởi tôi cảm thấy e ngại trước số đông vượt trội của đám người ở Wolfsegg và muốn có lấy ít nhất một người về phe mình, một người có thể giúp tôi đủ sức chống đỡ cuộc tấn công ồ ạt của đám người Wolfsegg, một con người, một đồng đội tương ứng với tôi trong tình thế có thể sẽ là vô vọng ấy, nhưng tôi lại gạt ngay ý nghĩ đó đi, vì tôi muốn tránh cho Gambetti cuộc đối mặt với Wolfsegg. Bởi có thể anh ta sẽ thấy tất cả những gì suốt mấy năm qua tôi nói với anh ấy về Wolfsegg thật là vô hại so với sự thật và thực tế mà anh ta sẽ được chứng kiến, tôi nghĩ bụng. Lúc nãy tôi vừa định kéo Gambetti đi cùng, lúc sau lại thôi, không đưa anh ta theo nữa. Rốt cuộc tôi nhất quyết không đem anh ta theo. Mang Gambetti theo, tôi tự nhủ, thể nào tôi cũng gây nhiều ồn ào ở Wolfsegg và nhất là gây một vố náo động giật gân mà đối với tôi, nói chung, chắc chắn sẽ rất đáng ghê tởm. Một người như Gambetti, đám Wolfsegg sẽ không bao giờ hiểu nổi. Ngay cả với những người lạ hết sức hiền lành, bọn họ ở Wolfsegg bao giờ cũng đón tiếp một cách ghê tởm và hằn học, tất tật những ai lạ mặt đều bị họ khước từ, họ không bao giờ hành động như tôi, vốn vẫn quen trong chớp mắt đã có thể sà ngay vàotìm hiểu một cái gì đó lạ lẫm hay làm quen với một người lạ mặt nào đấy. Đưa Gambetti về Wolfsegg sẽ có nghĩa là cố tình đối xử bất nhã với anh, và nói cho cùng, là xúc phạm anh ta một cách nặng nề. Đến chính tôi còn chưa đủ sức thanh toán xong mọi sự với Wolfsegg, huống hồ một con người đầy cá tính như Gambetti. Sự đối đầu giữa Gambetti với Wolfsegg biết đâu sẽ dẫn tới một tai họa thật sự, tôi nghĩ bụng, và nạn nhân không chừng sẽ chẳng là ai khác ngoài Gambetti. Lẽ ra tôi đã có thể đưa Gambetti về thăm Wolfsegg một lần rồi đấy, tôi thầm nghĩ, nhưng rồi tôi lại thôi, mặc dù tôi vẫn thường tự bảo, sẽ đưa Gambetti về Wolfsegg chơi, may ra, không những sẽ chỉ có lợi cho tôi, mà còn có lợi cho cả Gambetti nữa. Các câu chuyện tôi thuật về Wolfsegg lẽ ra sẽ nhờ đó, nhờ thông qua con mắt tinh tường của chính Gambetti, mang một tính xác thực không thể đạt tới bằng bất cứ cách nào khác. Tôi quen Gambetti, tính đến giờ đã mười lăm năm, nhưng tôi chưa đưa anh về thăm Wolfsegg lấy một lần, tôi nghĩ bụng. Rất có thể Gambetti suy nghĩ về việc đó khác tôi, giờ đây tôi tự nhủ, bắt nguồn từ sự bất thường cũng rất chi là tự nhiên ấy rằng, tôi, trong suốt mười lăm năm trời ấy, không mời và không đưa theo, dù chỉ một lần, con người mà mười lăm năm ròng rã tôi đã ít nhiều trở nên thân thiết ấy, về một nơi vốn là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi. Tại sao suốt mười lăm năm ấy tôi đã không để Gambetti ngó vào lá bài quê hương của tôi nhỉ? - tôi tự hỏi. Bởi vì tôi đã luôn luôn e sợ, và cho đến tận bây giờ vẫn còn e sợ điều đó. Mời các bạn đón đọc Diệt Vong của tác giả Thomas Bernhard & Hoàng Đăng Lãnh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khu Vườn Ngôn Từ - Shinkai Makoto
Khu vườn ngôn từ kể về một tình yêu còn xa xưa hơn cả tình yêu. Khái niệm tình yêu trong tiếng Nhật hiện đại là luyến hoặc ái, nhưng vào thời xưa nó được viết là cô bi, nghĩa là nỗi buồn một mình. Shinkai Makoto đã cấu tứ Khu vườn ngôn từ theo ý nghĩa cổ điển này, miêu tả tình yêu theo khái niệm ban sơ của nó, tức là cô bi - nỗi buồn khi một mình thương nhớ một người. Những ngày mưa triền miên.... Nơi hàng hiên ngập tràn màu xanh của một khu vườn Nhật Bản... Có một cảm xúc êm dịu đến không thốt nên lời cứ thế manh nha, tựu hình và lửng lơ tồn tại. Trong lúc dòng đời cuồn cuộn chảy trôi, tất cả hối hả tiến về phía trước, thì cậu và cô lại dừng chân, chìm xuống trong tĩnh lặng riêng mình, và ở cái vũng tĩnh lặng đó, họ tìm thấy nhau. Dần dần và mạo hiểm, quên đi cả các chênh lệch về tuổi tác và vị trí, họ thả hồn mình trôi về nhau hòa điệu. Làm nền cho tất cả là mưa rơi không ngừng, là lá mướt mát rung rinh. Nhưng khi mưa tạnh và trời quang trở lại, mọi đường nét của hiện thực trở nên rõ rệt đến khắc nghiệt, thì những êm dịu và lửng lơ kia liệu còn khả năng tồn tại? *** Tôi luôn mang trong mình một mối tình đơn phương với tiểu thuyết. Mà không chỉ tiểu thuyết, tôi luôn có cảm giác mình đang yêu đơn phương truyện tranh, điện ảnh, phim hoạt hình và những cảnh sắc hiện thực. Tình yêu đơn phương tôi đang nói đến là trạng thái bản thân mình rõ ràng rất thích nhưng đối phương lại không có hứng thú tới mức độ đó với mình. Dù đôi lúc tôi thấy mình đã ở tuổi trưởng thành rồi mà còn có những tình cảm như vậy thì cũng khá không hợp, nhưng tôi không tài nào thoát khỏi cảm giác này. Công việc của tôi là đạo diễn phim hoạt hình, coi như tôi cũng có rất nhiều cơ hội để nói với phim hoạt hình rằng, “Tôi rất thích em!” Tuy nhiên đối với tiểu thuyết thì không được như vậy. Thời gian rảnh trong ngày, những khi ngồi trên tàu điện, những lúc chờ kết xuất đồ hoạ, tôi thường lật giở các trang văn và không ngừng thán phục, “Tiểu thuyết đúng là tuyệt vời!” Bởi vậy khi tiểu thuyết Khu vườn ngôn từ được đăng dài kỳ trên nguyệt san Da Vinci thì tôi hạnh phúc không sao tả được. Công việc viết lách quả là nhiều hứng thú. Tôi đã định sẽ viết tất cả những gì phim hoạt hình không thể hoặc khó lòng thể hiện thành công. Giả dụ như khi viết “gương mặt ngơ ngác như đứa bé lạc đường…”, lòng tôi đã reo lên đắc thắng với người đạo diễn phim hoạt hình trong mình, “Sao hả? Thấy thế nào, câu này khó thể hiện ra thành hình ảnh lắm!” Liệu có diễn viên nào tái hiện được đúng hình ảnh đó không? Liệu người làm phim hoạt hình có vẽ được gương mặt trông như đứa bé đi lạc không. Câu trả lời đầu tiên trong tôi là “Không thể!” Có lẽ họ sẽ tạo ra được một khuôn mặt lo lắng, nhưng để thể hiện hình ảnh so sánh trực tiếp và ngắn gọn như “đứa bé lạc đường” là một điều rất khó. Hoặc câu “Tiếng ồn ào tan học phía sau cánh cửa kia giờ chỉ như những âm thanh lạo xạo thoát ra khỏi tai nghe của ai đó” nữa, chắc chắn hình ảnh không thể diễn tả hết, tôi đã cười thầm. Khán giả sẽ không liên tưởng những âm thanh xung quanh lớp học với tiếng nhạc lọt ra ngoài từ tai nghe. Sự kết nối giữa những con chữ chính là bí quyết tạo nên thần thái sảng khoái của tiểu thuyết, tôi đã cảm nhận được điều này trong khi viết. Khi nhìn lại như thế này tôi nghĩ có lẽ cũng chỉ có mình tôi thấy hài lòng với những điều này nên trở nên phấn khích, nhưng quả thật quãng thời gian sáng tác ấy rất vui. Quay lại với cuốn tiểu thuyết, Khu vườn ngôn từ này chính là phiên bản tiểu thuyết của bộ phim hoạt hình cùng tên do tôi làm đạo diễn, công chiếu từ năm 2013. Tức là tôi tự chuyển thể tác phẩm của mình sang tiểu thuyết. Trong nguyên gốc thì bộ phim hoạt hình chỉ dài 46 phút, được kể lại từ góc nhìn của Takao và Yukino, còn trong cuốn tiểu thuyết này, tôi đã tăng số lượng nhân vật tự sự lên, kéo theo đó là sự gia tăng nội dung. Một hàm lượng nội dung thế này mà chuyển thành phim thì rất khó trình bày gọn gàng trong hai tiếng đồng hồ. Tôi mong muốn các bạn đọc đã xem phim cũng như chưa xem đều thấy thú vị khi đọc cuốn sách này.   Tôi đã viết với tâm trạng vui mừng, háo hức đến vậy, nhưng tâm trạng đó không sao duy trì mãi được. Lẽ dĩ nhiên thôi. Tôi nhận ra hình ảnh vẫn là phương tiện truyền tải tuyệt vời, và đôi khi còn có nhiều cách thể hiện thích hợp hơn. Ví dụ như khi thể hiện cảm xúc của con người, tôi chọn vẽ cảnh thành phố lúc về đêm và chèn thêm một đoạn nhạc buồn vào đó nữa. Bất cứ thời điểm nào cũng được, một khung cửa sổ, một ánh đèn vụt sáng hoặc vụt tắt… Chỉ cần như vậy thôi, hình ảnh đã tạo được cảm xúc cho người xem rồi. Cảm xúc nói chung chính là những tình cảm nảy nở từ cuộc sống thường ngày. Bởi thế đối với hình ảnh, chỉ cần ánh sáng từ một khung cửa sổ thôi cũng có thể khơi gợi vô vàn cảm xúc. Còn trong tiểu thuyết, tôi đã phải đau đầu suy nghĩ để tìm ra cách diễn đạt tương ứng. Tôi không kể cụ thể hơn được vì sẽ rất dài, nhưng trong những biện pháp ẩn dụ khác, sử dụng hình ảnh vẫn có tác dụng mạnh hơn. Đôi khi dùng hàng trang bản thảo tiểu thuyết diễn tả một vằn sóng vẫn là không đủ, nhưng đúng một cảnh trong phim hoạt hình thôi lại thể hiện xong. Hơn nữa, điểm mấu chốt hóa ra lại không liên quan gì đến kỹ thuật, điều khiến tôi trăn trở suốt, một điều hết sức đương nhiên, đó chính là việc không biết cần phải viết gì. Khi hoàn thành bản thảo, tôi thất vọng nghĩ, “Tiểu thuyết, tiểu thuyết, tiểu thuyết gia nữa, họ thật tuyệt vời, mình không tài nào đến gần được vị trí của họ.” Sau khi hoàn thành xong cuốn sách, điều cuối cùng đọng lại chính là mối tình đơn phương dành cho tiểu thuyết và phim hoạt hình lại trở nên sâu sắc hơn nữa. Tôi cũng không mong tình cảm đơn phương này biến thành tình cảm hai chiều. Đôi lúc tôi chợt nghĩ nó giống như tình cảm mà Takao dành cho Yukino. Các nhân vật khác trong quyển sách này cũng thế, dù ít dù nhiều họ đều mang theo một mối tình đơn phương. Tôi lại có dịp để nhận ra mình muốn viết về những cảm xúc như vậy của con người. Có lẽ bởi niềm khao khát một ai đó, một điều gì đó trong cô độc chính là cảm hứng để dệt nên thế giới này. Đây là điều tôi muốn diễn tả trong cuốn sách này. “Khu vườn ngôn từ là câu chuyện về một tình yêu (孤悲 cô bi) thậm chí còn xa xưa hơn cả tình yêu (愛 ái).” Đây là câu tiêu đề cho bộ phim hoạt hình gốc. Có lẽ rất nhiều người thời nay khi đọc câu này vẫn thấu hiểu một cách sâu sắc. Bởi chúng ta biết rằng ở thời đại của Vạn diệp tập, cách đây một nghìn ba trăm năm, tình yêu không phải là “ái” mà là “cô bi”, tức “nỗi buồn khi thương nhớ một người trong hiu quạnh”38. Trong thời gian viết tác phẩm, tôi đã học hỏi được từ rất nhiều người. Đầu tiên phải nhắc đến cô Kurazumi Kaoru, người đã giúp tôi chọn dùng những bài phù hợp trong Vạn diệp tập. Thứ đến là những nghệ nhân làm giày, thầy cô và học sinh sinh viên trong các trường cấp ba và đại học, nhân viên kinh doanh trong các doanh nghiệp chế tạo… Câu chuyện của mọi người đã đem đến sức nặng cho cuốn sách này. Tôi chân thành cảm ơn tất cả. Ngoài ra tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến biên tập của tôi. Ochiai Chiharu, người đã luôn ủng hộ cho tác phẩm của tôi từ phim đến truyện bằng tất cả tình yêu và sự quan tâm sâu sắc. Tôi viết tác phẩm này trong lúc bộ phim Khu vườn ngôn từ được công chiếu, thành ra hầu hết bản thảo đều thực hiện trên đường công tác. Dù không có nhiều liên hệ với nội dung truyện nhưng tôi đã đi viết ở rất nhiều nơi, ghi lại cũng hay, nào Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Sri Lanka, Đài Loan, Nga, Scotland, Pháp, rồi Việt Nam. Tôi đến đó chủ yếu để tham dự các liên hoan phim và sự kiện về phim hoạt hình, cũng có những điểm đến là để tìm bối cảnh cho phim, nhưng khoảng thời gian ở khách sạn cũng như di chuyển trên máy bay tôi đều dành cho viết. Và đoạn kết truyện tôi đã viết khi ngồi trên chuyến tàu điện vượt qua biển Yosan. Có lẽ rằng những khung cảnh lướt qua những khung cửa sổ đó cũng đã thấm vào từng trang văn của tôi. Cuối cùng, bạn đọc thân mến, những người đang cầm trên tay cuốn sách và lần lượt lật giở, tôi chân thành cảm ơn các bạn. Tháng Hai năm 2014 Shinkai Makoto    Ầm ì sấm dội cuồn cuộn mây trôi Mưa rơi chăng tá? để ta lưu người…   Mời các bạn đón đọc Khu Vườn Ngôn Từ của tác giả Shinkai Makoto.
Giữ Trọn Lời Thề - Catherine Bybee
Vì sự an nguy của mình, Lizzy McAllister – một bà mẹ đơn thân ở thế kỷ XXI buộc phải sống chung nhà với một gia đình trung cổ khi cô bị đẩy ngược về thế kỷ XVI.  Lúc Lizzy nhận thấy mình mắc kẹt tại thời đại này với Fin, người đàn ông khiến cô vừa ghét lại vừa bị cuốn hút, cô đã đồng ý hợp lực với anh để giải thoát Scotland khỏi bàn tay độc ác của mụ phù thủy Grainna. Bản thân Finlay MacCoinnich cũng dành cho Lizzy nhiều tình cảm không kém. Phá vỡ những bức tường kiên cố cô đã dày công dựng lên quanh mình là một việc không hề dễ dàng, nhưng anh sẵn sàng làm bất kỳ chuyện gì để giữ cô bên mình. Rồi kẻ thù ghê gớm nhất của họ ếm bùa chú khiến họ bị ném trở lại thế kỷ XXI. Liệu họ có tìm được cách trở về đúng lúc để cứu gia đình khỏi cơn nguy khốn? Và Lizzy có sẵn lòng ở lại thời trung cổ cùng Fin, hay vĩnh viễn lìa xa anh? *** Catherine Bybee là tác giả ăn khách nhất của các tờ: - New York Times  - USA Today  - Wall Street Journal - Amazon  - Indie Reader Năm 2001, bà đã giành được giải thưởng More Than Magic – giải thưởng văn học cao quý dành cho các tác giả văn học lãng mạn pha viễn tưởng.  Tìm hiểu thêm thông tin về tác giả tại: www.catherinebybee.com Lớn lên ở tiểu bang Washington, nhưng sau khi tốt nghiệp trung học, Catherine Bybee đã chuyển đến sống ở miền Nam California với hy vọng trở thành một ngôi sao điện ảnh. Phát chán với thời gian chờ đợi sự nổi tiếng đến với mình, Catherine đã quay trở lại trường và trở thành một y tá. Nhưng cuối cùng, sau mười năm làm y tá ở bệnh viện thành phố, giờ đây Catherine cống hiến phần còn lại của cuộc đời mình cho sự nghiệp viết lách. Với nhiều series ăn khách như MacCoinnich Time Travel (đang được BachvietBooks xuất bản ở Việt Nam), Weekday Brides, Not Quite. Catherine Bybee bị “nghiện” tiểu thuyết lãng mạn từ thuở học sinh, bà luôn sống với niềm say mê đó và có khả năng ghi nhớ rất tuyệt vời những gì đã đọc. Chính tình yêu mãnh liệt dành cho thể loại văn học này đã thôi thúc và tạo động lực để bà viết nên các tác phẩm của chính mình. Sự sáng tạo nên thế giới của những xúc cảm mạnh mẽ, những âm mưu và tình tiết gay cấn, nơi người sói cũng bị rơi vào lưới tình đem đến cho Catherine sự cân bằng hoàn hảo. Sau mười năm làm y tá tại một bệnh viện thành phố, giờ đây Catherine cống hiến thời gian còn lại của cuộc đời mình vào sự nghiệp viết lách để mang lại niềm vui cho mọi người. Catherine hiện đang sống cùng chồng và hai con trai tại miền Nam California. Binding Vows là cuốn đầu tiên trong series MacCoinnich Time Travel: - Binding vows (Phía sau một lời thề) - tải eBook - Silent vows (Thề ước thầm lặng) - tải eBook - Redeeming vows *** Fin rút thanh kiếm ra khỏi người gã chiến binh vừa đánh nhau với anh. Như những người khác, máu chảy thấm vào đất và vương lên những bụi cây. Những người đàn ông này không chết vì lãnh chúa hay thị tộc của họ. Họ chết một cách vô nghĩa. Cian theo sau Duncan đến bên cạnh anh. Đa số binh lính đã ngã xuống, một vài vẫn còn chiến đấu, nhưng sức mạnh của kẻ thù đã suy yếu. Fin đưa mắt về phía nơi họ đã để cánh phụ nữ lại. Một vài vẫn còn đứng đó, lửa bắn ra từ tay họ và những người khác trông có vẻ đang sử dụng một vài những quyền năng khác. Cố nhìn kỹ hơn, Fin nhận ra không có ai giống Liz cả. Anh cố nhìn kỹ hơn nữa. Cả mẹ cũng không thấy đâu. “Phụ nữ nhà mình đâu cả rồi? Duncan chỉ vào một đám phụ nữ. “Nhìn lại đi, anh trai.” Mặt Duncan thất thần, anh vội lia mắt về phía pháo đài. Fin không đợi lời giải thích. Anh biết anh trai mình đang nói chuyện với vợ bằng ý nghĩ. Fin thúc ngựa phi về phía những bức tường của pháo đài. ... Mời các bạn đón đọc Giữ Trọn Lời Thề của tác giả Catherine Bybee.
Gió Mùa Hè - Catherine Anderson
Sau khi chứng kiến cuộc thảm sát đẫm máu cướp đi sinh mạng của cả gia đình, Rachel Hollister đã phải sống trong nỗi ám ảnh và tách biệt khỏi thế giới suốt năm năm. Cô luôn cảm thấy khiếp sợ với ý nghĩ để ai đó bước vào nhà mình, đặc biệt là bước vào cánh cửa trái tim cô. Vậy nhưng rắc rối vẫn gõ cửa, quá đột ngột, và Rachel chẳng còn cách nào khác ngoài chấp nhận sự có mặt của một gã cao bồi xa lạ nhưng điển trai ngay trong “pháo đài” an toàn của riêng mình… Còn gã cao bồi độc thân Joseph Paxton phải miễn cưỡng chấp nhận lời đề nghị đến tạm trú tại trang trại Hollister với lý do là người bảo hộ cho Rachel, dù cô gái trẻ có chịu chấp nhận điều đó hay không. Tuy vậy, khi nhận ra tình cảm của mình cũng như vẻ đẹp tâm hồn của Rachel, hắn sẽ làm mọi thứ để có thể xua đi bóng tối bao trùm lấy cuộc sống của người con gái ấy. Liệu phép màu có xảy ra và Rachel có thể tìm lại hạnh phúc cũng như cuộc sống bình dị trước kia hay không? Tất cả sẽ được giải đáp qua câu chuyện đời mà hai người họ đã chép lại trong cuốn nhật ký - kỷ vật được lưu lại đời sau như một minh chứng thật nhất, cảm động nhất về thứ mà nhiều người tin rằng đã không còn tồn tại, đó chính là tình yêu chân chính. *** Catherine Anderson sinh năm 1948 và hiện đang sống cùng chồng là Sidney D. Anderson tại Oregon, Mỹ. Là con gái của một nhà văn nên những mảnh ghép ký ức sớm nhất Catherine Anderson có được trong cuộc đời là tiếng gõ trên chiếc máy đánh chữ cũ kỹ cùng những tác phẩm của mẹ, vì thế từ rất lâu trước khi biết đọc bảng chữ cái, một thế giới kỳ diệu và bí ẩn của những câu chuyện hư cấu đã mở ra trước mắt bà. Cùng với đam mê và nguồn cảm hứng ấy, bà đã viết rất nhiều những câu chuyện của riêng mình trong suốt thời niên thiếu. Tuy nhiên, nhận thức được rằng việc bắt đầu sự nghiệp như một nhà văn chính thống là một điều rất khó khăn, bà đã quyết định theo học chuyên ngành kế toán ở trường đại học để có thể phụ giúp công việc sổ sách ở công ty của chồng. Sau khi nhận ra rằng những con số không khiến mình cảm thấy hạnh phúc, cùng với sự động viên của chồng, Catherine đã nghỉ học ở trường để có thể toàn tâm theo đuổi sự nghiệp viết lách. Catherine Anderson bắt đầu sự nghiệp văn học với dòng lãng mạn, sau đó bà chuyển nguồn cảm hứng sang các tác phẩm có tiêu đề một chữ (Single-title) thuộc dòng lãng mạn lịch sử và lãng mạn đương đại. Không ít các tác phẩm của bà tập trung vào các nhân vật mang trên mình những khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần và cách họ vượt qua những khiếm khuyết đó. Theo nhận định của tạp chí Romantic Times, tiểu thuyết của bà rất “cảm động, ấm lòng và tạo lập thứ tình yêu hoàn hảo lý tưởng trong một thế giới thiếu hoàn hảo”. Với độc giả, những cuốn sách của bà đều rất “vui nhộn, thú vị, cảm động, đẹp đẽ, cao cả với những ước lệ cổ điển”. Năm 1988, bà cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Reasonable Doubt, do Harlequin Intrigue xuất bản. Hai cuốn tiểu thuyết sau đó của bà là Sun Kissed và Morning Light đã lọt vào top 5 trong danh sách 10 cuốn sách bán chạy nhất của New York Times. Ngoài ra, Catherine Anderson đã chín lần được đề cử giải Bình chọn của các nhà phê bình Romantic Times, trong đó có một lần chiến thắng với tác phẩm Cherish. Bà cũng từng được trao giải Thành tựu trọn đời của Romantic Times. Tháng 5 năm 2008, tác phẩm Comanche Moon đã được tái xuất bản và lọt vào danh sách các tác phẩm ăn khách nhất của New York Times. Cuốn sách Gió mùa hè (Summer breeze) của Catherine Anderson được Penguin Group xuất bản tháng 1 năm 2006. Một số các tác phẩm của bà như, Điệu Waltz dưới ánh trăng (Phantom Waltz) và Giai điệu của Annie (Annie’s song), đã được Bách Việt phát hành năm 2013 và 2015. *** Tucker nhìn chăm chăm thật lâu vào trang cuối trong cuốn nhật ký của Rachel Hollister, cảm giác có chút gì đó hụt hẫng. Giống như những trang hồi ký cuối cùng của bà vẫn không ngừng rỉ nước, từng giọt từng giọt thoát ra khỏi cơ thể hắn, rồi cuối cùng chẳng để lại chút gì. Một câu chuyện đời thật đáng kinh ngạc, với một kết cục viên mãn đến thế, đó là thứ hạnh phúc mà hắn chưa từng và cũng không chắc sẽ được nếm trải trong đời. Hắn quay sang nhìn mẹ. Lúc này đây, vào buổi chiều thứ Tư và hai mẹ con đang cùng nhau theo dõi cuốn nhật ký. Bà nhìn đăm đăm vào tấm rèm cửa trên ô cửa sổ nhà bếp và mỉm cười một cách mơ màng như đang hồi tưởng lại chuyện gì. “Mẹ đang nghĩ gì vậy?”, hắn hỏi. Mary Coulter nhún vai và toét miệng cười. “Nghĩ về cha của con. Về lần đầu tiên mẹ gặp ông ấy. Về thời gian cha mẹ hẹn hò nhau.” Bà khẽ thở dài. “Tình yêu chân chính mới thật huy hoàng. Thời gian chỉ càng thêm khẳng định nó. Hạnh phúc, giống như Ace đã cố gắng giải thích với Joseph, thậm chí còn quý giá hơn sau khi tất cả những háo hức, nồng nhiệt qua đi. Mẹ hay cằn nhằn cha con vì ông không bao giờ chịu đổi cái áo khác, mẹ cũng không bao giờ tiếc lời rầy la ông ấy mỗi lần ông bày bừa ra nhà. Nhưng điều đó cũng chẳng ảnh hưởng, bây giờ mẹ vẫn yêu cha con, thậm chí còn yêu nhiều hơn lúc cha mẹ còn trẻ còn mơ mộng và mới chỉ bắt đầu hẹn hò.” Bà vỗ nhẹ vào cuốn nhật ký của Rachel rồi nói, “Đã lâu rồi mẹ không được đọc thứ gì ý nghĩa như vậy. Bọn họ sống và yêu nhau vào thời điểm cách đây rất lâu, nhưng cuối cùng vẫn có được một kết cục hạnh phúc viên mãn. Không phải rất tuyệt sao?”. “Làm sao mẹ biết được họ có hạnh phúc dài lâu được hay không?”, Tucker hỏi. “Rất có thể một ngày nào đó Joseph tỉnh dậy và phát hiện cảm xúc của mình đã thay đổi. Cũng có thể sự phấn khích, nồng nhiệt ban đầu ngày nào đó sẽ biến mất.” Tucker đã trải nghiệm điều này rất nhiều lần, toàn là sáo rỗng cả, vô số lần hắn nghĩ đã tìm được người con gái trong mơ của mình, rồi sau đó lại thất vọng. “Hai người họ lấy nhau quá nhanh. Để xem nào, sau khi gặp nhau một tháng, phải không nhỉ? Họ còn chưa kịp tìm hiểu rõ con người đối phương như thế nào ấy chứ.” ... Mời các bạn đón đọc Gió Mùa Hè của tác giả Catherine Anderson.
Giai Điệu Cho Trái Tim Tan Vỡ - Cathy Hopkins
Bắt đầu cuộc sống mới ở một thành phố mới, trong lúc đang tan nát cõi lòng, hoá ra không quá khó khăn như Paige nghĩ, nhất là khi cô bé đã tìm được người bạn tinh thần là một chiếc đĩa nhạc trong cửa hàng từ thiện. Nhưng cũng vì nó mà Paige đã phải đứng ngồi không yên với quá nhiều câu hỏi: Ai là người đã làm ra cái đĩa? Liệu có phải chính là chàng trai trên bìa sau? Liệu con người thật của anh có khác biệt với những gì thể hiện qua những câu hát mà cô vẫn nghe đi nghe lại hằng ngày? Liệu có thể cảm mến anh như đã cảm mến cái đĩa nhạc đó? … Quá nhiều thắc mắc mà chỉ có duy nhất một giải pháp: đi tìm người con trai ấy thông qua những manh mối anh đã gửi gắm trong chiếc đĩa… Với Giai điệu cho trái tim tan vỡ, một câu chuyện đầy dịu ngọt và đáng yêu, Cathy Hopkins đã lại một lần nữa chứng tỏ mình là nữ hoàng của dòng sách lãng mạn dành cho tuổi trẻ. *** Cathy Hopkins sinh ngày 23 tháng Giêng năm 1953 tại thành phố Manchester, Anh. Bà sống tại Kenya cùng gia đình từ năm 5 tuổi, đến năm 11 tuổi bà mới trở lại Anh. Hiện nay, bà đang sống tại Luân Đôn cùng gia đình. Mãi đến năm 35 tuổi, Cathy Hopkins mới xác định được việc mà mình thực sự muốn làm: viết văn. Trước đó, bà đã từng làm rất nhiều nghề khác nhau. Cathy được đào tạo để trở thành giáo viên cấp 2 nhưng bà không đi dạy mà tham gia một ban nhạc rock and roll, nhóm Driving Rock and the Rockettes. Ngoài ra, bà còn trải qua các nghề khác như chuyên viên trị liệu tâm lí, biên kịch, phê bình báo chí... Cathy Hopkins bắt đầu viết sách từ năm 1987; bộ sách đầu tiên của bà là một bộ sách hài hước có minh họa bằng truyện tranh. Đến nay, bà đã xuất bản 55 đầu sách tại 33 quốc gia trên toàn thế giới. Trong đó, tác phẩm nổi tiếng nhất của bà là loạt truyện "Cặp bè, cặp bạn"viết về các cô gái trong độ tuổi "teen". Cặp bè, cặp bạn đã bán được hơn một triệu bản chỉ riêng tại Anh và Mỹ, ngooài ra loạt truyện còn được phát hành tại 14 quốc gia khác trên toàn thế giới. Đối với Cathy Hopkins, viết sách cho các bạn trẻ tuổi teen là thú vị nhất vì nhờ đó bà có thể quay trở lại với lứa tuổi mười bốn ngây thơ của mình thêm một lần nữa. Tác phẩm tiêu biểu: Cặp bè, cặp bạn (2001 - 2009), Thách, hứa, hôn, thật (2002 - 2006), Zodiac Girls (2007 - 2009), Cinnamon Girl (2007 - 2009), Million Dollar Mates(2010 - 2012)... ***   Anh Chàng Bí Ẩn “Liệu đây có phải những tạo vật của tình yêu? Máu nóng bừng bừng, những suy nghĩ tăm tối và những hành động nông nổi? Nhưng tại sao chứ, chẳng phải đó là những thứ hiểm ác sao. Phải chăng tình yêu là tạo vật của sự hiểm ác?” Shakespeare: Troilus và Cressida - Hồi 3, Cảnh 1. Cuộc so tài giữa các ban nhạc. Tất cả mọi người đều ở đó. Tôi đi tìm Sarah trong đám đông và thấy em đứng ở cuối hàng đầu tiên. Từ từ đã, tôi tự nhủ, Từ từ đã. Hãy để em tiến tới chỗ mình trước. Cybermentor     là nhóm chơi đầu tiên. Tôi rướn người lên để có thể nhìn qua những cái đầu phía trước và xem thái độ của em. Khi họ bắt đầu chơi, em quay sang một người bạn nói gì đó. Em đã nhận ra bài hát chưa nhỉ? Tôi nghĩ chắc là em nhận ra rồi. Đó là bài số 8 trong CD. Overheated chuẩn bị biểu diễn. Họ là tác giả của bài số 6. Rồi đến Lady B hát bài “Make your life”. Bài hát ưa thích của tôi và là bài số 4 trên đĩa. Mọi thứ diễn ra như một giấc mơ. Tôi không thể sắp đặt được hay hơn thế này. Tôi len lên phía trước. Em quay lại và nhìn thấy tôi, vẫy tay chào tôi. Tôi tiến lại gần và hỏi xem em thấy các tiết mục hôm nay như thế nào. ... Mời các bạn đón đọc Giai Điệu Cho Trái Tim Tan Vỡ của tác giả Cathy Hopkins.