Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Chiến Disney - James B. Stewart

Đây là câu chuyện mê hoặc về một trong những công ty giải trí và truyền thông quyền lực nhất nước Mỹ, về những người lãnh đạo nó cũng như những người muốn lật đổ chế độ cai trị đó. Một câu chuyện đầy những nút thắt, những nhân vật để đời và đạt tới đỉnh cao ly kỳ, hồi hộp đến mức hoàn toàn có thể là chủ đề cho một bộ phim thần thoại về Disney, chỉ có điều chúng hoàn toàn là sự thật. Các bạn sẽ được chứng kiến quá trình ra đời của những bộ phim huyền thoại như Nàng tiên cá, Người đẹp và Quái thú, Vua Sư tử, Aladdin và cây đèn thần, Câu chuyện đồ chơi, Cướp biển vùng Ca-ri-bê. Các bạn sẽ được gặp lại những cái tên đình đám như Tom Hanks, Steve Jobs, Pixar, Johnny Depp. Cùng với đó là lịch sử hoạt động suốt 20 năm của Disney, từ năm 1984 đến năm 2003, dưới sự dẫn dắt của Michael Eisner, tràn đầy những thăng trầm, những cuộc chiến phe cánh, tranh giành quyền lợi, chức vụ, những chiến lược kinh doanh, v.v. Có thể nói, toàn bộ cuốn sách là một vở kịch bi tráng và sống động về quá trình phát triển của Disney, một trong những đế chế có ảnh hưởng nhất thế giới.         *** Roy E. Disney lái chiếc Ferrari đỏ đời 1999 vào bãi đỗ xe của quán rượu Bodega ở Pasadena. Đó là buổi chiều muộn ngày thứ Năm, 20 tháng Mười một năm 2003, một tuần trước lễ Tạ ơn. Roy thích chiếc Ferrari này. Nó là một trong số bằng chứng ít ỏi cho thấy cháu của Walt Disney huyền thoại, người đàn ông 73 tuổi giản dị và khiêm tốn này là một trong những người giàu có nhất nước Mỹ. Nó luôn là chiếc xe nổi bật nhất trên bãi đỗ của Disney, nơi Roy được dành riêng một chỗ cạnh Michael Eisner, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của công ty. Chính nhờ nó mà mọi người luôn biết khi nào Roy đang có mặt ở trụ sở. Roy căm ghét tòa nhà “Team Disney.” Nó được thiết kế bởi kiến trúc sư nổi danh Michael Graves theo chỉ thị của Eisner để làm trụ sở của công ty Walt Disney. Dù mặt trước đồ sộ đã được làm nhẹ bớt bằng các bức phù điêu đắp nổi hình bảy chú lùn, nhưng đối với Roy, nó vẫn đại diện cho tất cả sự phô trương và kệch cỡm mà Eisner đã tạo ra ở đây. Cũng như với rất nhiều thứ khác, Roy luôn băn khoăn không biết liệu chú Walt của mình sẽ nghĩ sao. Văn phòng của Walt vẫn ở đó, trong tòa nhà cũ, giản dị của xưởng phim hoạt hình. Eisner cũng từng dùng nó làm văn phòng của ông ta trước khi chuyển tới trụ sở mới này. Giờ đây Roy lại chuyển về đó. Nó khiến ông cảm thấy thoải mái hơn tòa nhà đồ sộ và khô khan mà ông vẫn đùa là mỗi khi bước vào ông phải rải vụn bánh mì làm dấu đường thì mới tìm được lối ra. Vài tháng gần đây, Roy đã thực sự tách mình ra khỏi Eisner và các lãnh đạo cấp cao khác của công ty. Mặc dù gần 20 năm trước, chính ông là người đã đưa Eisner tới Disney, nhưng giờ đây ông cảm thấy mình đang bị người đàn ông này lừa dối và phản bội. Eisner đến với Disney sau thành công chói lọi trong ngành sản xuất chương trình truyền hình ở kênh truyền hình ABC và sau đó là sản xuất phim tại hãng phim Paramount Pictures. Nhưng giờ thì Roy cho rằng những thành công rực rỡ mà Eisner có được trước đó chẳng qua là nhờ may mắn gặp được những đối tác ăn ý: Barry Diller ở ABC và Paramount; sau đó là Frank Wells và Jeffrey Katzenberg trong những năm đầu thành công đáng kinh ngạc ở Disney. Kể từ khi Wells qua đời trong một tai nạn máy bay thương tâm vào năm 1994, còn Katzenberg phải ra đi trong cay đắng liền sau đó, trách nhiệm đối với Disney đổ dồn lên một mình Eisner. Theo cách nhìn nhận của Roy thì tình cảnh đó đã dẫn đến những hậu quả vô cùng tồi tệ. Khi cả sức mạnh tài chính lẫn năng lực sáng tạo của công ty đều đi xuống, Eisner lại khư khư giữ lấy quyền lực như một kẻ quẫn trí, cho rằng ông ta và chỉ mình ông ta là sở hữu khả năng sáng tạo thiên bẩm cùng những kỹ năng quản lý cần thiết để dẫn dắt Disney trở thành tập đoàn giải trí và truyền thông của thế kỷ XXI. Eisner còn tự cho mình là người thừa kế ngôi vị của Walt, xuất hiện hàng tuần trên màn hình ti vi trong phòng khách của các gia đình Mỹ với tư cách người dẫn chương trình “The Wonderful World of Disney” (Thế giới kỳ diệu của Disney), hệt như những gì Walt đã từng làm. Về phương diện này, Roy cảm thấy Eisner chỉ là mắt xích tiếp theo trong chuỗi dài những kẻ dám tự vỗ ngực cho rằng mình có thể ngồi vào ngôi vị của Walt. Đôi khi ông băn khoăn tự hỏi, tại sao lại có quá nhiều người muốn là hiện thân của Walt đến vậy? Chẳng ai lượn quanh Hollywood để rao giảng rằng mình là Louis B. Mayer(1) hay Cecil B. DeMille(2) cả. Điều gì khiến bọn họ ảo tưởng rằng mình là người phù hợp để thay thế Walt? Đầu tiên là E. Cardon Walker, rồi đến con rể của Walt, Ron Miller – chủ tịch và giám đốc điều hành của Disney, những kẻ lúc nào cũng lôi những kỷ niệm về Walt ra để làm bệ phóng. Sau đó lại đến Jeffry Katzenberg, kẻ tự cho mình là người thừa kế của Walt trong vai trò người đứng đầu xưởng phim Disney. Tất cả bọn họ đều đã đi quá giới hạn; mỗi lần như vậy Roy lại buộc phải ra tay can thiệp, và họ đã bị thay thế. Giờ thì tới lượt Eisner, ông ta lại đang lần lượt bỏ qua tất cả các giới hạn. Roy không tự cho mình là Walt, nhưng nếu có ai đó được quyền thừa kế di sản mà Walt để lại thì người đó phải là ông. Trước toàn thế giới ông vẫn là hiện thân của công ty Disney và những gì mà nó đại diện, là người lãnh đạo cuối cùng của công ty còn mang họ Disney. Chỉ một tháng trước đây, trong lễ khai trương trò chơi mới tại Walt Disney World mang tên “Misson: SPACE,” Eisner còn công khai thay mặt công ty ca ngợi những đóng góp của Roy và được tán thưởng bằng những tràng pháo tay vang rền. Dường như đám đông luôn hưởng ứng Roy, có lẽ là bởi, ở tuổi 73, ông có vẻ bề ngoài rất giống Walt. Thế nhưng ẩn sau những lời ca tụng công khai của Eisner lại là sự thù nghịch cá nhân ngày một dâng cao. Khi Jane, vợ của Eisner đi ngang qua Roy và vợ ông, Patty, ngay trước khi bài phát biểu của Eisner bắt đầu, họ đã cố tình lờ nhau đi. Từ lâu Roy đã thôi không tham dự các buổi họp giao ban hàng tuần của Eisner với các lãnh đạo cao cấp khác của Disney, hay những bữa trưa mà Eisner dành để thông báo với Roy về các kế hoạch và chiến lược của công ty nữa. Roy đã không còn tin tưởng Eisner sau khi biết rằng ông ta đã cài cắm một gián điệp để theo dõi mọi lời nói và hành động của ông ở xưởng phim hoạt hình. Gần đây họ còn tránh không nói chuyện với nhau tại buổi công chiếu bộ phim Brother Bear (Anh em nhà Gấu) – tác phẩm hoạt hình mới nhất của Disney, mà theo Roy là rất tầm thường. Tệ hơn cả, năm đó Eisner đã không xuất hiện trong buổi lễ trao giải Disney Legends mà Edna, mẹ của Roy, cùng Lillian, góa phụ của Walt được trao giải còn Roy là người thay mặt gia đình lên nhận giải. Đó là lần đầu tiên Eisner không tham dự sự kiện thường niên này. Liền sau đó, những lời đồn thổi lan đi khắp công ty rằng chủ tịch và phó chủ tịch của Disney đã không còn nói chuyện với nhau nữa. Roy chẳng hề trông đợi cuộc gặp gỡ sắp diễn ra tại quán rượu với John Bryson, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của Edison International, công ty mẹ của Southern California Edison. Bryson tham gia hội đồng quản trị của Disney vào năm 2000 và sau đó trở thành chủ tịch ủy ban đề cử và kiểm soát đầy quyền lực của công ty. Tại các cuộc họp của hội đồng quản trị, Roy hiếm khi lên tiếng. Nhưng đồng minh, đối tác, luật sư của Roy, đồng thời cũng là thành viên của hội đồng quản trị, Stanley Gold, đã bù đắp lại sự kiệm lời đó của ông. Suốt nhiều năm, Gold luôn kịch liệt phê phán phong cách điều hành cùng kết quả tài chính của công ty. Nhưng những lời chỉ trích của ông tại hội đồng giống như nước đổ lá khoai. Các thành viên hội đồng dường như luôn mù quáng ủng hộ Eisner. Những người không ủng hộ ông ta, như Andrea Van de Kamp và Reveta Bowers, đều đã bị thanh lọc. Những gì đã xảy ra với họ cũng là sự cảnh báo cho những người còn ở lại về những điều có thể xảy ra với những kẻ bất phục tùng. Roy đặc biệt nghi ngờ Bryson, bề tôi trung thành của Eisner, kẻ đã thay thế Gold làm chủ tịch ủy ban kiểm soát và sau đó đẩy ông ra khỏi ủy ban luôn. Bắt đầu từ tháng Chín năm ngoái, Gold đã gửi hàng loạt thư chỉ trích kết quả làm việc và chế độ lương thưởng của Eisner tới các thành viên hội đồng. Ông và Roy cho rằng những chỉ trích bằng văn bản sẽ khó mà bị tảng lờ, đồng thời cũng muốn làm rõ quan điểm của mình. Gần đây nhất, Gold và Roy đã phản đối khoản tiền thưởng 5 triệu đô la dành cho Eisner trong một năm mà thu nhập từ hoạt động kinh doanh của công ty giảm tới 25% còn giá cổ phiếu thì chạm mức đáy trong vòng 52 tuần. Vài ngày trước đó Bryson đã gọi cho Roy. “Tôi cần nói chuyện riêng với ông,” Bryson nói và khăng khăng đòi hẹn gặp tại một địa điểm kín đáo để không bị ai nhìn thấy. Roy đã đồng ý, dù cho rằng trong giọng nói của Bryson có âm vực của sự “chết chóc.” Ông lo sợ rằng những kẻ trung thành với Eisner đang cố loại trừ Gold. Không khí của các cuộc họp hội đồng gần đây đã trở nên ngày một căng thẳng. “Mình phải làm sao để bảo vệ ông ấy đây?” Roy băn khoăn về Gold khi bước vào quán rượu. Ông không thể hiểu nổi tại sao hội đồng lại muốn loại bỏ tiếng nói đối lập cuối cùng còn sót lại. Vừa gọi đồ uống xong, Bryson mở đầu ngắn gọn rồi đi thẳng vào vấn đề. “Ông biết đấy, Roy, ông đã quá tuổi nghỉ hưu rồi đó,” Bryson nói. Roy sửng sốt trước sự thẳng thắn của Bryson, ông lẩm bẩm điều gì đó không rõ nghĩa. Phải, về mặt nguyên tắc là như vậy, bởi tuổi về hưu quy định là 72, mà Roy thì đã 73. Nhưng nó không áp dụng với các thành viên hội đồng quản trị kiêm nhiệm các chức vụ điều hành trong công ty, mà ông lại là trưởng bộ phận phim hoạt hình. Disney nổi tiếng một phần cũng vì rất nhiều nhân viên có tuổi đời cao. “Ủy ban đã họp,” Bryson tiếp lời, “Tom Murphy và Ray Watson sẽ rút lui.” Murphy, cựu chủ tịch Capital Cities/ABC, đã tham gia hội đồng quản trị sau khi Disney mua lại ABC vào năm 1995; còn Watson, chủ tịch của Disney trước khi Eisner nhận chức vào năm 1984, là thành viên thâm niên nhất tại hội đồng, chỉ sau Roy. Cả hai đều đã quá tuổi 72. Roy không ngạc nhiên về chuyện đó bởi họ đều đã cho ông biết trước kế hoạch nghỉ hưu của mình. “Chúng tôi đã cùng kết luận là ông không nên tái tranh cử nữa,” Bryson nói. Roy nhìn ông ta mà không tin nổi vào mắt mình. Ông không nói nên lời. Ông cảm thấy như có một mũi dao đang đâm thẳng vào tim. Chưa một giây phút nào ông thoáng có ý nghĩ rằng hội đồng sẽ đi xa tới mức này. Không chỉ bởi ông vẫn là một trong những cổ đông lớn nhất của công ty, mà còn bởi ông đã cống hiến 50 năm cuộc đời mình cho Disney. Ông là mối dây liên hệ trực tiếp duy nhất với Walt trong hội đồng. Chú Walt từng kể truyện cổ tích và đọc “Pinocchio” cho ông nghe khi ông còn nhỏ. Chính cha ông và Walt đã cùng nhau gây dựng Disney. Có một sự im lặng ngượng ngùng. Cuối cùng Bryson nói, “Tôi từng phải nói điều tương tự với Warren Christopher,” ý nói tới cựu ngoại trưởng của tổng thống Bill Clinton khi ông này đến tuổi về hưu trong khi đang là thành viên hội đồng quản trị của Edison. “Anh tốt thật nhỉ?” Roy nói. “Đương nhiên, ông có thể là thành viên danh dự suốt đời,” Bryson nói. “Chúng tôi vẫn muốn ông xuất hiện tại các công viên hay các sự kiện đặc biệt…” Roy cắt lời Bryson bằng tiếng cười lớn. Nghĩa là họ vẫn muốn phô trương ông giống như một nhân vật hoạt hình của Disney. Thật là một sự sỉ nhục! Lại một hồi im lặng kéo dài. Chẳng nghi ngờ gì là họ cho rằng ông sẽ ra đi lặng lẽ, ẩn giật tại lâu đài của mình ở Ai Len hay trên chiếc du thuyền cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng bất chấp tuổi tác, Roy vẫn thấy mình tràn đầy năng lượng cùng lòng quyết tâm. Suốt cuộc đời ông đã luôn bị đánh giá thấp. Chuyện này đã từng xảy ra rồi. Nhưng nó sẽ không thể lặp lại nữa. Ông chỉ còn một điều duy nhất để nói: “Anh đang mắc một sai lầm nghiêm trọng đấy,” ông nói khi nhìn thẳng vào Bryson. “Và anh sẽ phải hối hận vì đã làm thế.” Rồi ông đứng dậy và bước thẳng ra ngoài. Đó là một ngày cuối tháng Năm, trời rất trong xanh, ở trung tâm Florida. Mới 10 giờ sáng mà nhiệt kế đã chỉ đến 32 độ còn độ ẩm thì cũng ở mức tương tự. Chẳng cần vận dụng nhiều trí tưởng tượng thì cũng có thể tin rằng Disney’s Animal Kingdom, một trong bốn công viên giải trí theo chủ đề của Walt Disney World, thực ra đang nằm ở vùng châu Phi nhiệt đới. Goofy đang đứng ngay bên ngoài hàng rào, sẵn sàng tiến vào trong công viên. Giống như du khách tại các khu bảo tồn động vật hoang dã ở châu Phi mong mỏi được nhìn thấy một trong “Bộ Năm(3)” loài động vật nổi tiếng nhất nơi đây, khách tham quan Animal Kingdom cũng mong mỏi được trông thấy “Bộ Năm” ngôi sao của Disney – Mickey, Minnie, Donald, Pluto, và Goofy, các nhân vật hoạt hình nổi tiếng nhất và được xin chữ ký nhiều nhất. Goofy là một chú chó, đương nhiên, chú có lông, cái mõm dài, hai tai mềm mượt, bụng hơi phệ cùng đôi bàn chân lớn. Chú cũng là nhân vật cao lớn nhất trong Bộ Năm, những trên một mét tám. Hôm nay chú được hóa trang để trình diễn tại Animal Kingdom. Chú đội một chiếc mũ mềm vành rộng, giày đi bộ và tất, quần soóc màu vàng chanh in hình khủng long, áo sơ mi kẻ ca rô đỏ, dây đeo quần và khăn quàng cổ bằng vải ka ki. Điều mà nhiều người không nhận ra là tầm nhìn của Goofy rất hạn chế. Đôi tai dài khiến chú khó mà nhìn được sang hai bên, cái mũi quá khổ lại cản trở tầm nhìn phía trước. Thứ chú nhìn thấy nhiều nhất có lẽ là mặt đất ở quanh chân mình. May mắn thay, Goofy có hai người dẫn đường giúp chú bước vào trong công viên. Họ mở cửa và nhẹ nhàng đẩy chú về phía trước. Chú phải cúi thấp người mới bước lọt qua. Goofy không biết chắc mình đang ở đâu, nhưng chú nghe thấy những giọng nói vọng lại từ xa. Chú thấy hồi hộp. Chú có thể cảm thấy tim mình đang đập thình thịch. Chỉ vài giây sau, chú bắt đầu nghe thấy những tiếng reo hò: “Goofy kìa!” Chú nghe thấy nhiều giọng trẻ con hơn và còn thấy một vài đứa đang chạy lại phía mình. Chú vẫy vẫy tay và biểu diễn màn “đi bộ kiểu Goofy,”điệu bộ ngớ ngẩn vừa đi vừa nhảy cẫng lên đó là một trong những đặc điểm nổi bật nhất của chú. Lũ trẻ lập tức bị mê hoặc! Chúng chạy tới đông hơn, các ông bố bà mẹ từ từ bắt kịp chúng ở đằng sau. Đột nhiên Goofy nhìn thấy một cô bé đang tiến dần về phía mình. Trông cô bé chỉ khoảng 5 hay 6 tuổi và có vẻ hơi sợ sệt. Khi tới nơi cô bé ngượng ngùng đưa ra cuốn sổ xin chữ ký và một cái bút. Goofy vụng về quặp lấy bút và ký vào một trang còn trống, cẩn thận kéo dài đuôi chữ f để nó luôn là nét nổi bật nhất làm nên chữ ký của Goofy. Thật là nhẹ nhõm khi chó không thể nói chuyện được. “Ôm Goofy đi con!” Một giọng người lớn cất lên. Cô gái nhỏ trông có vẻ hơi lo lắng, nhưng Goofy mở rộng cánh tay, và cô bé tiến đến sát gần chú. Chú trao cho cô bé một cái ôm dịu dàng. Thế rồi, trong một khoảnh khắc, Goofy nhìn thấy rõ gương mặt cô bé. Sự thẹn thùng tan biến, đôi mắt ánh lên niềm vui sướng và cả gương mặt như bừng sáng. Cô bé tựa vào lòng chú và đặt một nụ hôn lên cái mũi dài của chú. Ánh đèn dần tắt. Goofy ước mình có thể cởi bỏ đôi găng tay để gạt dòng nước mắt vừa chợt trào ra. Hay có lẽ đó chỉ là những giọt mồ hôi. Trong chốc lát, sự thẹn thùng của một đứa trẻ biến mất, thay vào đó là sự ngưỡng mộ và niềm vui sướng. Đó chính là thứ mà hầu hết các nhân viên của Disney đang nói đến khi họ dùng từ phép màu để mô tả công việc của mình. Đó cũng là lý do tại sao rất nhiều người đến đây làm việc từ khi còn là học sinh trung học hay sinh viên đại học, và rồi 20 năm sau vẫn còn ở lại. Đương nhiên, Goofy có thật. Đối với cô bé đó chú có thật, và đối với tôi thì giây phút ấy Goofy có thật. Tôi không còn là nhà văn hay nhà báo trong lớp hóa trang bằng đệm lót và bộ lông giả nữa. Tôi là Goofy. Mặc dù xuất hiện tại công viên giải trí trong vai trò một nhân vật hoạt hình là một phần của lớp học định hướng dành cho các nhà lãnh đạo cao cấp của Disney, nhưng chỉ sau khi chấp nhận vào vai Goofy tôi mới được biết rằng mình sẽ không được viết gì về chuyện đó, ít nhất không được tuyên bố hay ám chỉ rằng Goofy chỉ là một diễn viên được mặc bộ đồ hóa trang. Những người phụ trách các công viên giải trí đã áp đặt điều kiện này với tôi dựa trên nguyên tắc là ảo tưởng về sự tồn tại thực sự của các nhân vật hoạt hình của Disney không bao giờ được phép tiết lộ với bất kỳ ai. Lúc đầu tôi cho rằng chuyện này thật ngớ ngẩn. Bởi nó hiển nhiên như chuyện Ông già Noel không có thật và chắc chắn là tất cả mọi đứa trẻ khi lên 8 hoặc cùng lắm là 10 đều sẽ hiểu rằng bên trong những bộ đồ hóa trang đó là người thật. Nhưng những người làm việc trong các công viên giải trí vẫn cương quyết duy trì quy định đó, và đến khi gặp họ tôi mới hiểu tại sao. Gần như mọi thứ bên trong Disney World đều là ảo tưởng: xinh xắn hơn, sạch sẽ hơn, an toàn hơn, tốt đẹp hơn và vui vẻ hơn thế giới thực. Walt quả là thiên tài khi nhận ra rằng không chỉ có trẻ con mới muốn chạy trốn khỏi thực tại. Cũng giống như bất kỳ ảo thuật gia tài giỏi nào khác, bạn phải tin vào ảo tưởng, nếu không thì nó sẽ tan biến. Đó là niềm tin phổ biến mà rất nhiều người Mỹ vẫn say sưa ôm ấp, cho nên cái tên Disney mới có thể trở thành biểu tượng của văn hóa Mỹ được lý tưởng hóa trong đó những giấc mơ luôn trở thành sự thực. Nhưng cũng giống như rất nhiều thứ khác ở Disney, nguyên tắc này đã thay đổi trong vòng một năm rưỡi huyên náo sau buổi trình diễn đầu tiên của tôi tại Animal Kingdom. Sau khi Comcast Cooperation, một công ty truyền hình cáp khổng lồ có trụ sở ở Philadelphia tiến hành chiến dịch thù nghịch nhằm thâu tóm Disney vào tháng Hai năm 2004, Disney đã phải chịu đựng nhiều đòn tấn công ác ý của giới truyền thông. Một bài báo trên Wall Street Journal đã tiết lộ rằng tất cả các nhà lãnh đạo cấp cao của Disney đều đã xuất hiện tại các công viên giải trí trong trang phục của các nhân vật hoạt hình. Sau khi thông tin đó xuất hiện trên tờ tạp chí được phát hành rộng rãi trên toàn nước Mỹ, Eisner đã đồng ý là việc tôi giả vờ Goofy là có thật chẳng còn chút ý nghĩa nào nữa, và ông đã cho phép tôi mô tả trải nghiệm vào vai nhân vật hoạt hình này của mình. Tôi gặp Michael Eisner lần đầu tiên từ cách đây nhiều năm, trước khi tôi trở thành nhà báo. Năm 1978, tôi là một luật sư trẻ tại hãng luật lớn Cravath, Swaine & Moore có trụ sở ở New York, còn Eisner là chủ tịch hãng phim Paramount Pictures. Công ty của tôi đang đại diện cho kênh truyền hình CBS trong một vụ kiện chống độc quyền do Bộ Tư pháp khởi xướng, trong khi bên bị đơn là các kênh truyền hình cứ khăng khăng cho rằng họ chỉ phối hợp với nhau để giảm chi phí phải trả cho các chương trình mà các hãng phim Hollywood sản xuất. Các hãng phim Hollywood cũng chính là bên đã thúc đẩy vụ kiện và sẽ được hưởng lợi từ bất cứ thỏa thuận dàn xếp nào. Tôi được phân công phụ trách Paramount và giúp lấy lời khai của Eisner. Tôi vẫn nhớ hôm đến gặp ông tại xưởng phim Paramount ở Hollywood. Ông sở hữu một văn phòng rộng rãi trên tầng hai, có ban công phủ bóng mát của giàn dây leo. Dù bị một đám luật sư bao vây vặn hỏi, Eisner lại có vẻ tự tin và hài hước lạ thường, ông còn pha trò bằng những câu chuyện về mối quan hệ đôi khi căng thẳng của mình với chủ tịch của Paramount, Barry Diller. Ông tháo bỏ giày và ngồi thoải mái với đôi chân chỉ mang tất – cảnh tượng tôi chưa bao giờ thấy trong bất kỳ công ty luật nào ở New York. Mặc dù ở hai phía đối lập, Eisner vẫn tặng tôi vé tham dự buổi ghi hình chương trình “Mork & Mindy” tối hôm đó. Đây là một chương trình truyền hình đình đám của Paramount vào thời đó. Lần đầu tiên tôi được xem trực tiếp một buổi ghi hình của ngôi sao hài kịch Robin Williams. Trong thời gian giải lao khi các máy quay tạm nghỉ, Williams vẫn tiếp tục những đoạn độc thoại hài hước khiến khán giả trong trường quay cười ngất cho tới tận tờ mờ sáng. Tất cả những thứ đó hẳn đã gây ấn tượng lên tôi mạnh hơn nhiều so với lên Eisner. Cuối cùng chính phủ đã từ bỏ vụ kiện. Khi tôi hỏi Eisner ông có còn nhớ tôi cũng như buổi lấy lời khai đó hay không, ông đã không thể nhớ nổi chi tiết nào. Nhiều năm đã trôi qua, từ một nhà điều hành trẻ tuổi ở Paramount, ông đã trở thành vị chủ tịch đánh kính, thành công và giàu có của Disney. Khi ông gia nhập Disney vào năm 1984, cả công ty đang rệu rã, xưởng phim hoạt hình huyền thoại gần như hấp hối, còn tài sản của nó đang bị những kẻ thâu tóm dòm ngó hòng xé nhỏ để bán đi. Eisner không chỉ cứu vãn Disney, ông còn biến nó thành công ty giải trí hàng đầu thế giới và bảo vệ thương hiệu được công chúng vô cùng yêu mến. Tôi tiếp cận Eisner để đề nghị viết một cuốn sách về công ty vào năm 2001. Kể từ khi tham gia vào vụ kiện chống độc quyền chống lại các kênh truyền hình, ngành kinh doanh giải trí và Hollywood đã hấp dẫn tôi. Từng viết nhiều cuốn sách về thế giới tài chính phố Wall hay thế giới chính trị Washington, Hollywood dường như là trung tâm quyền lực và ảnh hưởng tiếp theo xứng đáng để tôi khai thác. Và với hình ảnh luôn được ngợi ca, những thành công nghệ thuật, chưa kể đến khá nhiều diễn biến kịch tính trong hoạt động kinh doanh thì dường như Disney là lựa chọn rõ ràng đối với tôi. Có thể đoán ngay là Eisner không hề hào hứng với ý tưởng đó. John Dreyer, khi đó là giám đốc quan hệ công chúng của Disney, thì lịch sự tiếp đón tôi nhưng không hề khuyến khích ý tưởng có một cuốn sách về Disney. Mặc dù vậy, khi tôi tiếp tục thu thập thông tin, Dreyer đã mời tôi tới gặp ông tại trụ sở của Disney ở Burbank. ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Chiến Disney của tác giả James B. Stewart.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lãnh Đạo Bằng Sự Khiêm Nhường
Trong một thời đại mà những người nổi bật, ăn to nói lớn luôn thu hút mọi sự chú ý, lối sống khiêm nhường có thể được xem như là một điểm yếu. Nhưng sức mạnh của Giáo hoàng Francis lại bắt nguồn từ chính đức khiêm nhường của ông. Đi lại chỉ bằng chiếc xe Ford Focus, từ chối sống tại căn hộ giáo hoàng xa hoa, quan tâm chăm sóc đến người nghèo ‒ những hành động này thể hiện một hình mẫu lãnh đạo mà từ lâu chúng ta không còn được trông thấy. Giáo hoàng đã trở thành một trong những người được bàn luận nhiều nhất trên thế giới, một nhân vật tôn giáo được tôn kính nhất, một nhà lãnh đạo giàu phẩm hạnh. Lãnh đạo bằng sự khiêm nhường sẽ chỉ cho bạn cách để có thể trở nên giàu lòng trắc ẩn, đáng tin cậy cũng như tăng tính hiệu quả trong công việc. Tác giả Jeffrey A. Krames đã diễn giải những quan điểm và hành động của Giáo hoàng thành những chiến lược thực tiễn mà bất kỳ ai cũng có thể áp dụng. - Phá bỏ bức tường ngăn cách giữa mọi người. - Chú trọng nâng cao thế mạnh của người khác. - Cân nhắc và tham khảo mọi ý kiến. - Giao tiếp với mọi người, bất kể vị trí của họ trong công ty. Và nhiều nguyên tắc nữa… Đây không chỉ là cẩm nang thiết thực đối với các nhà quản lý, lãnh đạo mà còn là cuốn sách hữu ích dành cho bất kỳ ai mong muốn kết nối với người khác bằng sự lịch thiệp và chân thành. *** Đây không chỉ là một cuốn sách nữa của tôi viết về nghệ thuật lãnh đạo, mà còn là một cuốn sách mang nhiều tính cá nhân. Tôi không phải là một tín đồ Công giáo, cũng không theo đạo Thiên chúa. Tôi là con cháu của những người sống sót qua nạn diệt chủng Holocaust. Cha tôi sinh ra tại Ba Lan và mất tất cả người thân dưới tay Đức Quốc xã. Câu chuyện kinh hoàng của ông đã được Tổ chức Shoah thu âm lại ‒ một tổ chức do đạo diễn lừng danh Steven Spielberg thành lập sau khi ông thực hiện bộ phim Danh sách của Schindler (Schindler’s List). Mẹ tôi sinh ra trong một gia đình Do Thái ở Frankfurt. Bà trở thành trẻ mồ côi khi chuyển tới Anh với hàng ngàn đứa trẻ khác trên chuyến tàu Kindertransport vào cuối năm 1938. Tôi chưa bao giờ đề cập đến những điều này trong các cuốn sách khác của mình vì nó không phù hợp. Nhưng lần này tôi cảm thấy cần nói ra, vì đó chính là động lực lớn thôi thúc tôi viết nên cuốn sách này. Cha mẹ tôi ‒ thành viên của những gia đình Do Thái sùng đạo ‒ đã bị cỗ máy giết người của Hilter gây tổn thương nghiêm trọng. Đối với họ, Thế chiến thứ hai chưa bao giờ kết thúc cả. Họ phải sống với những mất mát quá lớn cũng như từng chứng kiến và hứng chịu những hành động tàn bạo không có nhân tính. Đã có vô số nghiên cứu về hệ quả của Holocaust đến thế hệ sau của những người sống sót. Đối với tôi, đó là nỗi sợ hãi mỗi khi rời khỏi căn hộ nhỏ ở Bronx ‒ cảm giác bất an trước những hiểm họa rình rập xung quanh. Tôi bị nhiễm suy nghĩ đó từ cha mình, Baruch Krames. Ông không tin tưởng bất kỳ ai sau hai năm trốn chạy phát xít. Trong thời gian đó, ông đã phải sống như một con thú trong rừng, lấy trộm đồ ăn của nhà giàu để chia cho những người sắp chết đói tại khu Do Thái. Những gì cha tôi trải qua và chứng kiến đã ám ảnh ông suốt cả cuộc đời. Ông đã tận mắt nhìn thấy người em trai của mình bị bắn khi ông và các anh trai chạy trốn khỏi lũ phát xít. Ông cũng đã nhìn thấy không chỉ một lần hàng trăm xác người Do Thái chồng chất trên những chiếc xe của quân đội Đức như vật liệu xây dựng trên công trường. Tất nhiên, tôi không phải chứng kiến những cảnh tượng đó nhưng chúng cũng hằn sâu trong tâm trí tôi. Holocaust là chủ đề cho một cuốn sách khác nhưng tôi cảm thấy cần nói đến ở đây vì tôi luôn có thể cảm nhận sâu sắc nỗi đau của cha mẹ mình. Như thể tôi sinh ra trong một gia đình ma ‒ hồn ma những người thân đã mất của cha mẹ tôi dưới thời Hitler. Thế nên, tôi luôn trân trọng lòng tự tôn của người khác. Đó cũng là lý do tôi cực kỳ nhạy cảm khi ai đó xâm phạm những gì tôi coi là giá trị cốt lõi trong cá tính tạo nên con người mình. Vậy tất cả những điều này có liên quan gì đến một cuốn sách nói về nghệ thuật lãnh đạo của Giáo hoàng Francis? Một thời gian ngắn sau khi đảm nhận cương vị Giáo hoàng vào tháng 3 năm 2013, Francis nổi bật với hình tượng một người chống Hilter ‒ một người tôn trọng phẩm hạnh và đề cao con người bất kể màu da, tầng lớp, xuất thân. Ông là lời đáp trả của thế kỷ XXI đối với tội ác diệt chủng từ thế kỷ XX. Đoạn trích sau đây từ bài thuyết giảng nổi tiếng nhất của Giáo hoàng Francis đã nhấn mạnh điều này: “Điều răn ‘Chớ giết người’ đã khẳng định quan điểm bảo vệ giá trị cuộc sống con người. Ngày nay, chúng ta cũng phải ‘nói không’ với nền kinh tế đặc quyền đặc lợi và bất bình đẳng.” Con số có thể cho thấy sự trái ngược giữa hai nhà lãnh đạo thế giới này. Hầu hết mọi người đều biết rằng Hitler đã giết hại hơn sáu triệu người Do Thái. Điều ít người biết là trong năm 2013, năm đầu tiên của Giáo hoàng Francis tại Rome, các sự kiện và các buổi lễ mi-xa của ông thu hút hơn sáu triệu người đến dự, rất nhiều trong số họ là người mới gia nhập hoặc vừa trở lại Giáo hội. Có vô vàn bằng chứng về sự khiêm nhường và nhân văn của Giáo hoàng Francis. Trước khi trở thành Giáo hoàng, Tổng giám mục Jorge Mario Bergoglio(1) thường ra ngoài vào ban đêm ở Buenos Aires để giúp đỡ người nghèo. Giờ đây, ở vị trí Giáo hoàng, ông giao phó cho một Tổng giám mục khác làm việc đó. Trước thời điểm diễn ra Mật nghị Hồng y và được lựa chọn làm Giáo hoàng, Bergoglio đã ở tại một nhà tập thể đơn sơ trong vùng. Trong bài thuyết trình với tư cách là Giáo hoàng mới, Francis quyết định không đứng trên bục phát biểu như những người tiền nhiệm. Thay vào đó, theo như Hồng y Timothy Dolan, ông đã nói, “Tôi đứng ở dưới này”. Trong buổi tiệc sinh nhật 77 tuổi vào tháng 12 năm 2013, Giáo hoàng Francis đã mời bốn người vô gia cư đến dự sinh nhật. Đó không phải là cách để quảng bá hình ảnh như các chính trị gia thường làm mà bởi ông cảm thấy thoải mái nhất khi ở bên cạnh những người này. Trong năm đầu tiên làm Giáo hoàng cũng như thời gian tại Argentina, Francis luôn thể hiện là một người khiêm nhường. Tuy nhiên, khiêm nhường không có nghĩa ông là một nhà lãnh đạo hời hợt. Giống như tất cả những nhà lãnh đạo nổi bật, ông có vô số công việc cần giải quyết. Trên thực tế, theo những phóng viên đã theo dõi Bergoglio nhiều năm, ông là một người luôn quan tâm đến các vấn đề xã hội và chính trị. Ông cũng là một người có trí tuệ lớn nhưng ít được chú ý bởi lối sống khiêm nhường của mình. “Ông không phải là một thiếu nữ ngây thơ bước vào thế giới”, Elisabetta Pique, một nhà báo Argentina quen biết Bergoglio từ những năm 1990 và là tác giả cuốnsách Francisco: Vida y Revolucion (Francis: Cuộc đời và cách mạng) đã miêu tả vấn đề ông phải đối mặt tại Rome, “Ông gần như đã phải chiến đấu với một bộ phận của Giáo triều Rome.(2)” Một nhà báo khác đã sử dụng từ “không thương xót” để miêu tả cách điều hành của Francis. Nhà báo Mark Binelli của tạp chí Rolling Stone viết rằng, “Bergoglio đã thể hiện mình là một người thi hành pháp luật có khả năng ra lệnh đầy uy lực để phục vụ mục đích cao cả hơn.” Giáo hoàng Francis rõ ràng là một nhà điều hành sắc sảo. Ông đã loại bỏ một loạt lãnh đạo bảo thủ ra khỏi Giáo triều, những người có thể ảnh hưởng đến kế hoạch hành động của Giáo hoàng trong quá trình biến Giáo hội trở nên cởi mở và tập trung hơn vào việc đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người. Không phải ngẫu nhiên mà một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất của Giáo hoàng Francis, Về thiên đường và trái đất, lại được chấp bút cùng Abraham Skorka, một giáo sĩ Do Thái nổi tiếng người Argentina và cũng là một người bạn của ông. Cũng chẳng ngẫu nhiên mà cuốn sách đó miêu tả việc Bergoglio và Skorka đã dành nhiều năm để “xây dựng cầu nối giữa Thiên chúa giáo, Do Thái giáo và thế giới nói chung.” Với tư cách là Giáo hoàng, Francis thách thức những người bảo thủ cực đoan trong Giáo hội bằng cách mở lòng với những người mà các Giáo hoàng khác không bao giờ lưu tâm: Ông rửa chân cho tù nhân (bao gồm hai nữ tù nhân, việc này đã gây tranh cãi không nhỏ với những bậc trưởng lão trong Giáo hội; chưa từng có Giáo hoàng nào rửa chân cho phụ nữ); ông cũng đã ôm một người nhiễm trùng da, điều mà nhiều người không dám làm. Việc Giáo hoàng ghét thói lãng phí và khoe khoang tài sản không có gì đáng ngạc nhiên, đặc biệt là đối với các giám mục, và ông thể hiện quan điểm của mình bằng hành động. Cuối năm 2013, Giáo hoàng Francis (tạm thời) “trục xuất” một giám mục người Đức bởi ông này đã trơ tráo sử dụng số tiền khổng lồ 31 triệu euro để xây dựng một ngôi nhà riêng bề thế. Một cuộc điều tra đã được thực hiện để quyết định tương lai của “vị giám mục treo” này. Cuối tháng 3 năm 2014, “vị giám mục treo” người Đức đã bị trục xuất khỏi giáo phận của mình vĩnh viễn. Giáo hoàng Francis nhận thấy trong Giáo hội không có chỗ cho kẻ tiêu xài lãng phí, nhất là khi trên thế giới còn quá nhiều người nghèo đói. Giáo hoàng đã thể hiện cái nhìn của ông đối với vấn đề này: Tại sao một người vô gia cư già cả chết đi thì chẳng ai bận tâm, nhưng thị trường chứng khoán mất hai điểm lại là tin tức thời sự cơ chứ? Hình ảnh con người ông được gói gọn trong một câu nói. Giáo hoàng Francis cho chúng ta thấy thế giới đang đi chệch hướng và các giá trị bị đảo lộn. Kể cả cách lựa chọn tông hiệu ‒ lấy cảm hứng từ Thánh Francis thành Assisi ‒ cũng thể hiện với thế giới rằng ông sẽ tập trung vào tầng lớp người nghèo, cũng như những người bệnh tật và yếu đuối nhất trong xã hội chúng ta. Thánh Francis thành Assisi sống vào đầu thế kỷ XIII và trở thành vị thánh bảo trợ của động vật và hệ sinh thái. Dù sinh ra trong gia đình giàu có, Thánh Francis đã từ bỏ tất cả những gì mình sở hữu kể cả quần áo để làm theo lời dạy của Chúa Jesus, “Không sở hữu vàng bạc hoặc đồng xu nào trong ví, không túi hành lý, không giày dép, không người tùy tùng.” Thánh Francis thành Assisi hẳn sẽ bằng lòng với Giáo hoàng Francis đương thời. Tuy nhiên, lời nhận xét của Giáo hoàng về người vô gia cư và chỉ số chứng khoán Dow Jones là một thanh kiếm hai lưỡi: Ngoài việc tiết lộ đáng kể về Francis, nó cũng bộc lộ thách thức lớn nhất trong việc viết một cuốn sách về nghệ thuật lãnh đạo xoay quanh nhân vật đặc biệt này. Francis thường bị chỉ trích do khuynh hướng chống chủ nghĩa tư bản của mình. Tuy nhiên, ông không phải là người chống công nghiệp hoá. Ông chỉ có cái nhìn phê phán đối với các tập đoàn lớn khi hàng nghìn người lao động bị sa thải, ông viết rằng: “Nền kinh tế không còn là một biện pháp cứu trợ mà là một loại chất độc mới. Điều này thể hiện qua mưu toan tăng lợi nhuận bằng cách cắt giảm nhân công và gia tăng số lượng người thất nghiệp.” Tại sao không nên coi đây là lời phản đối giới kinh doanh? Trong cùng một bài tông huấn mà ông có viết về “những người thất nghiệp”, ông cũng đã viết về tính cao quý của thương nghiệp và đặc biệt là các hoạt động kinh doanh tạo điều kiện cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn: “Kinh doanh cũng là một nghề, và là một nghề cao quý nếu những người dấn thân vào nghề này hiểu rằng họ có cơ hội để làm những điều ý nghĩa lớn lao hơn trong cuộc sống. Từ đó, họ có thể phục vụ lợi ích chung bằng cách nỗ lực gia tăng của cải trên thế giới và đưa tất cả mọi người thoát khỏi đói nghèo... Tôi tin chắc một điều rằng: những thay đổi vĩ đại của lịch sử xảy ra khi hiện thực được nhìn nhận từ những người được coi là ngoài rìa xã hội hơn là những người ở trung tâm.” Vì vậy, mặc dù các chuyên gia vẫn luôn chỉ trích khuynh hướng bài trừ doanh nghiệp của Giáo hoàng Francis, nhưng những lời chỉ trích đó hoặc quá đơn giản hoặc chưa đầy đủ, và một số trường hợp là hoàn toàn sai lầm. Tuy nhiên, không còn nghi ngờ gì nữa, Francis là người bài trừ thói tham lam, cụ thể là bất bình đẳng thu nhập. Giáo hoàng Francis đã hùng hồn nói về nguyên nhân cơ bản của sự bất bình đẳng thu nhập đang không ngừng gia tăng. “Từ đó, sinh ra một chế độ chuyên chế mới, vô hình nhưng đơn phương và không ngừng nghỉ áp đặt những quy tắc và luật lệ của riêng nó. Cơn khát quyền lực và vật chất là không có giới hạn. Ở hệ thống này, có một nguyên tắc duy nhất là nó có xu hướng hủy hoại tất cả những gì cản trở sự gia tăng lợi nhuận, kể cả những thứ mỏng manh như môi trường chẳng hạn, cũng không được bảo vệ trước lợi ích thị trường.” Nhằm ngăn chặn thói tham quyền và ham vật chất, Giáo hoàng Francis đã khiển trách những thành viên Giáo hội mua xe đắt tiền, yêu cầu họ mua ô tô đã qua sử dụng, và ủng hộ số tiền chênh lệch cho trẻ em nghèo đói, vô gia cư. Đầu năm 2014, Oxfam, một tổ chức chống đói nghèo tại hơn chín chục quốc gia công bố: 85 người giàu nhất thế giới sở hữu nhiều tiền hơn 3,5 tỷ người nghèo nhất trên thế giới cộng lại. Điều này có nghĩa là 1% người giàu nhất thế giới kiểm soát 46% (gần một nửa) tài sản của cả thế giới. Với con số này, ai có thể chỉ trích Giáo hoàng khi ông yêu cầu những người giàu nhất phải cho đi nhiều hơn? Tuy nhiên, điều này không thể giảm bớt khó khăn trong việc viết một cuốn sách xoay quanh một nhân vật với mục tiêu lớn nhất là tạo ra sân chơi bình đẳng về kinh tế. Nhưng đây không chỉ là một cuốn sách về nghệ thuật kinh doanh, mà còn là một cuốn sách về nghệ thuật lãnh đạo. Để tránh nhầm lẫn sau này, đây là định nghĩa về lãnh đạo sẽ được sử dụng xuyên suốt trong cuốn sách này: Lãnh đạo là khả năng chia sẻ một tầm nhìn và kêu gọi người khác cùng thực hiện. Có một sự mỉa mai là khái niệm này được đưa ra bởi vị lãnh đạo của một trong những tập đoàn lớn mạnh và lâu đời nhất, người đã sa thải hơn 125.000 người lao động: Jack Welch, nguyên CEO của General Electric (được Tạp chí Fortune bình chọn là Nhà lãnh đạo của thế kỷ và là đối tượng của một vài cuốn sách tôi từng viết). Jack Welch và Giáo hoàng Francis tuy có thể bất đồng trong nhiều vấn đề nhưng họ có chung một số quan điểm chính về lãnh đạo. Ví dụ, Welch hay so sánh công ty 100 tỷ đôla với một cửa hàng tiện ích tại góc đường. Điều đó có nghĩa là ông yêu cầu tất cả nhân viên nắm rõ từng sản phẩm trên kệ hàng cũng như các khách hàng thân thiết. Welch và Giáo hoàng Francis cũng đồng tình với nguyên tắc kinh doanh sau: Điểm nổi bật của bất kỳ lãnh đạo nào là cách họ dẫn đầu làm gương. Đây là điểm nổi trội của Giáo hoàng Francis. Ông có lối sống giản dị hơn tất cả những người tiền nhiệm. Trước khi trở thành Giáo hoàng, Francis từng được biết tới với hình ảnh ông sử dụng phương tiện công cộng và sống tại căn hộ nhỏ ở Buenos Aires. Sau khi trở thành Giáo hoàng, ông đã rời bỏ tòa nhà của Giáo hoàng tại Vatican để sống tại một lưu xá với hai phòng ngủ đơn giản. Francis sống với nguyên tắc đặt người khác lên trước mình và coi bản thân là người đầy tớ: “Đừng quên quyền lực đích thực là phụng sự”, Giáo hoàng Francis đã tuyên bố trong lễ nhậm chức như vậy. Phụng sự là chủ để xuyên suốt trong cuốn sách này. *** Trước khi tiếp tục, tôi muốn khẳng định bản thân không phải là tác giả đầu tiên so sánh nghệ thuật lãnh đạo trong Giáo hội với các tổ chức như doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ, và các loại hình khác. Một trong những người đầu tiên làm điều này là Peter Drucker, “cha đẻ của mô hình quản lý hiện đại”. Tôi coi cuốn sách năm 1946 của ông, Khái niệm về công ty (Concept of the Corporation), dựa trên nghiên cứu quy mô đầu tiên về một doanh nghiệp lớn (General Motors), là cuốn sách nền tảng của các sách kinh doanh hiện đại, và rất nhiều ý tưởng trong cuốn sách này vẫn phù hợp cho đến tận bây giờ. Drucker viết rằng: “Mọi xã hội đều cần những tổ chức mà bản chất không liên quan đến mục tiêu xã hội. Ví dụ, bản chất của gia đình là tồn tại sinh học nhưng đây không phải là mục tiêu tồn tại của xã hội. Điều này tương tự với một nhà thờ mà vương quốc của nó không nằm trong thế giới này mà thuộc về một nơi vượt khỏi xã hội.” Drucker sau đó đã bổ sung: “Khi tổ chức xã hội gặp khó khăn hoặc không thể thực hiện được giá trị đạo đức cơ bản, khi đó chúng ta sẽ có một cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng… Điều thường bị bỏ qua là sự bình đẳng về cơ hội và địa vị của mỗi cá nhân trong mối quan hệ tương quan với nhau.” Điều này được Giáo hoàng Francis lặp lại: “Các lãnh đạo chính phủ và tổ chức tài chính cần lưu ý mở rộng tầm nhìn, đảm bảo tất cả các thành viên đều có công ăn việc làm, được giáo dục và chăm sóc sức khoẻ đàng hoàng.” Giáo hoàng Francis cũng bình luận về sự chuyển dịch của cấu trúc xã hội: “Cấu trúc xã hội thay đổi mà không tạo ra niềm tin và thái độ mới thì sớm muộn gì cũng sẽ trở nên mục ruỗng, ngột ngạt và vô tác dụng”. Trong cuốn sách Quản lý trong thời điểm chuyển đổi lớn (Managing in a Time of great Change), Drucker cũng đã viết về cấu trúc mới: “Việc đấu tranh với xu hướng chuyển đổi cấu trúc là khó khăn trong thời gian ngắn và vô vọng về lâu về dài. Xu hướng này sẽ tự giảm dần hoặc tự đổi chiều… một số sẽ không đổi và có thể hoàn toàn biến mất.” Ông tiếp tục, “Thay đổi lớn trong năng lực kiến tạo tài sản đã được sử dụng cho việc giải trí, chăm sóc sức khỏe và giáo dục.” Giáo hoàng Francis cũng từng nói: “Sự thay đổi về mặt cấu trúc yêu cầu từng linh mục cũng phải thay đổi theo chiều hướng sao cho công tác của Giáo hội cởi mở và tiếp cận đến từng người.” Đầu năm 2014, Francis kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới họp bàn tại Davos, Thụy Sĩ để xem xét vai trò to lớn của họ đối với trật tự thế giới: “Tôi yêu cầu các bạn hãy đảm bảo rằng tài sản phục vụ con người, chứ không chi phối con người.” Điều đáng chú ý là nhiều bài viết của Drucker có cùng quan điểm và suy nghĩ như Giáo hoàng Francis. Họ chia sẻ nhiều điểm tương đồng khác, trong đó có đức tính khiêm nhường, cả hai đều sống khiêm tốn so với năng lực của bản thân. Họ đều là người có tư tưởng sáng suốt. Kể cả cách diễn đạt của họ cũng tương đồng. Thực tế, sau khi nghiên cứu hầu hết các CEO vĩ đại cuối thế kỷ XX, tôi không nghĩ có một lãnh đạo doanh nghiệp nào có thể viết đầy đủ về bản chất toàn cầu của doanh nghiệp và tài sản như Giáo hoàng Francis. Đó là lý do vì sao lời nói và hành động của ông lại có trọng lượng đến vậy. Ví dụ, khi nói về cuộc khủng hoàng năm 2008 – 2009, trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu và bất bình đẳng thu nhập, thật khó để tranh cãi với tuyên bố này của Giáo hoàng: “Vậy mà một số người vẫn tiếp tục bảo vệ cho lý thuyết ‘thẩm thấu’(3), cho rằng kinh tế phát triển hỗ trợ thị trường tự do, mang lại bình đẳng, và cơ hội được tiếp cận thế giới.” Francis có thể tự mô tả mình là một “tội nhân” ‒ ông từng nói: “Một người theo đạo tự coi mình yếu đuối và có tội không phải để giảm ánh mắt soi xét anh ta màlà để phát triển bản thân. Điều này đem lại lợi ích cho tất cả mọi người.” ‒ nhưng không thể phủ nhận Francis là một lựa chọn phù hợp, với công việc phù hợp, vào thời điểm phù hợp. Tôi xin lưu ý về cách giả định và tiếp cận của mình trước khi viết cuốn sách: Cho dù Giáo hoàng Francis đặt ra mục tiêu phá bỏ hiện trạng bất bình đẳng thu nhập, bài giảng và hành động của ông là ví dụ phù hợp cho lãnh đạo của bất kỳ tổ chức nào. Một vấn đề quan trọng khác đó là cách tiếp cận cuốn sách. Đây là cuốn sách viết về Giáo hoàng Francis, không phải là cuốn sách của Giáo hoàng. Vì vậy, tôi chịu trách nhiệm về nội dung của cuốn sách này. Đây là cách nhìn của tôi về lời nói và hành động của Giáo hoàng. Hơn nữa, tôi không phải là một nhà thần học cũng chẳng là một chuyên gia trong lĩnh vực Công giáo. Chuyên môn của tôi là về quản trị lãnh đạo. Tôi đã từng phỏng vấn và nghiên cứu rất nhiều nhà lãnh đạo doanh nghiệp xuất sắc nhất thế kỷ XX và một vài người thế kỷ XXI. Quan điểm của tôi về Giáo hoàng Francis sẽ khác so với quan điểm của Giáo hội Công giáo hoặc một nhà thần học. Tôi nhìn ông qua một lăng kích thế tục hơn, từ đó phân tích các nguyên tắc lãnh đạo mà ông đã thực hiện và giảng dạy. Tôi ngạc nhiên bởi con đường khác biệt mà Giáo hoàng lựa chọn để biến Giáo hội trở nêncởi mở và thu hút quần chúng hơn. Cuối tháng 5 năm 2014, Giáo hoàng Francis đã nói với các phóng viên trên chuyến bay trở lại Rome (sau chuyến công du Trung Đông) về vấn đề cho phép linh mục kết hôn: “Cánh cửa luôn mở”. Trong suốt cuốn sách này, bạn sẽ thấy Giáo hoàng đã “mở cửa” rất nhiều vấn đề, chẳng hạn như vấn đề ly hôn và hôn nhân đồng tính. Những tuyên bố gây choáng váng này đã giáng mạnh vào các thành viên cánh hữu cực đoan của Giáo hội nhưng cũng đồng thời biến Giám mục Bergoglio thành Giáo hoàng Francis, một hành trình đầy khiêm nhường, phẩm hạnh và can trường. Mời các bạn đón đọc Lãnh Đạo Bằng Sự Khiêm Nhường của tác giả Jeffrey A. Krames.
Thuật Quản Lý Bán Hàng
Nếu xem nguồn nhân lực của một công ty là đội quân chiến đấu trên thương trường thì lực lượng bán hàng có thể nói chính là đạo quân tiên phong. Họ là những người trực tiếp tìm kiếm khách hàng và tạo ra doanh số. Vì lẽ đó, vai trò của người quản lý bán hàng là cực kỳ quan trọng. Dưới trướng họ là những con người năng động nhất, nhiệt tình nhất trong công ty – những nhân viên thừa sức tạo cho bản thân mức doanh số cao tuyệt đối, nhưng vẫn cần một người lãnh đạo phối hợp những nỗ lực của họ và đem lại thành quả chung lớn nhất. Tiếp nối thành công của cuốn Thuật bán hàng, tác giả Brian Tracy đã mở rộng thêm những nguyên lý và kỹ năng cần thiết trong lĩnh vực này. Trong Thuật quản lý bán hàng, độc giả không chỉ được hướng dẫn các phương pháp làm nên thành công của người bán hàng, mà còn học được cách quản lý và duy trì một đội ngũ bán hàng ổn định, luôn đạt thành tích cao. Là người quản lý, bạn phải quan tâm đến doanh số của cả một đội ngũ, vốn là thành quả đóng góp của từng cá nhân. Bạn còn phải lập kế hoạch bán hàng, xây dựng tiêu chí, duy trì tiến độ, kiểm soát chi phí nhân lực, thưởng phạt tương xứng và chịu trách nhiệm trước công ty về hiệu quả của đội ngũ bán hàng dưới trướng. Và do mỗi nhân viên đều là một cá thể riêng biệt, nên sẽ không có nguyên lý chung nào để bạn áp dụng cho trăm người như một. “Quản lý bán hàng là một trong những vị trí điều hành giá trị nhất, nhưng cũng là một trong những vị trí ít được trân trọng nhất trong công ty”. Quả đúng như thế. Nhân viên bán hàng là đối tượng dễ tạo ấn tượng nhất với cả công ty nếu họ thành công vượt bậc, đến nỗi át đi hào quang của người quản lý trực tiếp. Nhưng “lính giỏi không có tướng tồi”, đến khi mọi người nhìn lại thành quả chung, họ sẽ cảm thấy may mắn vì doanh nghiệp có một người quản lý như bạn. Chúc bạn thành công! Tháng 3/2016 Alpha Books trân trọng giới thiệu *** Khi hãng IBM sa vào rắc rối tài chính trong thập niên 1990, công ty này đã chọn ra một tổng giám đốc mới, Lou Gerstner. Ông đã lập tức kêu gọi sự giúp đỡ từ bạn bè của mình ở hãng McKinsey & Company, một trong những công ty tư vấn quản trị lớn nhất và uy tín nhất thế giới. Ông yêu cầu họ sử dụng kỹ năng điều tra của mình để xác định lý do tại sao doanh số bán hàng, thị phần và lợi nhuận của IBM lại suy giảm. Họ lập tức bắt tay vào việc. Chưa đầy sáu tháng sau, các chuyên gia tư vấn trở lại. Họ tập hợp các giám đốc điều hành cấp cao và nói: “Chúng tôi đã tìm ra vấn đề của các bạn”. Các giám đốc liền hỏi: “Là gì vậy?” Các chuyên gia tư vấn của McKinsey trả lời: “Doanh số bán hàng thấp”. Các giám đốc đều đồng ý rằng đây chính là vấn đề và hỏi: “Vậy giải pháp là gì?” Các chuyên gia tư vấn McKinsey nói đơn giản: “Nâng cao doanh số bán hàng”. Một lần nữa, hai câu trả lời này quá hiển nhiên đối với dàn giám đốc điều hành cấp cao của IBM. Nhưng làm thế nào để họ đạt được doanh số bán hàng cao? Quy tắc 75% Câu trả lời được gọi là “quy tắc 75%”. Trong quá trình nghiên cứu , họ nhận thấy do một số chính sách nhất định của công ty, nên nhân viên và quản lý bán hàng tốn quá nhiều thời gian ngồi trong văn phòng để điền các biểu mẫu và dành quá ít thời gian tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Họ yêu cầu tình trạng này phải được đảo ngược ngay lập tức. Quy tắc 75% đã chỉ ra rằng: từ nay về sau, nhân viên bán hàng nên dành 75% thời gian của họ để tiếp xúc với khách hàng và giới thiệu về sản phẩm, dịch vụ của IBM. Ngoài ra, quản lý bán hàng, những người mắc kẹt trong văn phòng gần như cả ngày để xử lý đống giấy tờ do các nhân viên bán hàng tạo ra, nên dành 75% thời gian của họ ngoài thực địa cùng với nhân viên bán hàng để chăm sóc những khách hàng then chốt. Trong vòng một năm, doanh số bán hàng của IBM đã đảo ngược hoàn toàn. Tổn thất lớn trở thành lợi nhuận khổng lồ. Công ty này đã khởi sắc và một lần nữa trở thành gã khổng lồ trong ngành công nghiệp Mỹ. Các kỹ năng then chốt Vào cuối nghiên cứu này, các chuyên gia McKinsey giải thích về phát hiện quan trọng nhất của họ: Trong một tổ chức hướng đến doanh số bán hàng, việc sử dụng vai trò của người quản lý bán hàng là kỹ năng then chốt. Không gì có thể mang lại mức tăng trưởng doanh thu nhanh chóng hơn và dễ dự đoán hơn trong hoạt động và kết quả bán hàng ngoài việc đào tạo các quản lý bán hàng để họ đạt hiệu quả cao hơn trong công việc. Là người quản lý bán hàng, bạn chính là nhân tố quan trọng nhất của các tổ chức hướng đến doanh số bán hàng. Bạn có tầm ảnh hưởng đến mức doanh số và cuối cùng là mức lợi nhuận của công ty lớn hơn bất kỳ cá nhân nào khác. Bạn là nhân tố sống còn đối với thành công của công ty. Quản lý bán hàng là một trong những vị trí điều hành giá trị nhất, nhưng cũng là một trong những vị trí ít được trân trọng nhất trong công ty. Quản lý bán hàng là người đặt ra tiêu chuẩn và chỉ tiêu cho các nhân viên bán hàng và đảm bảo họ đạt yêu cầu đề ra. Sự tiến bộ của các quản lý bán hàng xuất sắc là một yêu cầu thiết yếu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh thành công. Bắt đầu hành trình Chào mừng bạn đến với Thuật quản lý bán hàng. Cuốn sách này được viết dựa trên nhiều năm kinh nghiệm và các nghiên cứu về thái độ, hành vi của những nhà quản lý bán hàng thành công. Trong những trang sắp tới, bạn sẽ được tìm hiểu về một loạt các ý tưởng, phương pháp, nguyên tắc và kỹ thuật cốt lõi mà bạn có thể sử dụng ngay lập tức để giúp đội ngũ bán hàng của bạn đạt hiệu quả cao hơn, tăng doanh thu, làm việc chan hòa với nhau hơn và để thúc đẩy sự nghiệp cá nhân và uy tín của bạn càng nhanh càng tốt. Quản lý bán hàng là một môn khoa học không chính xác vì nhân viên bán hàng rất khác so với hầu hết các nhân viên khác. Một người quản lý bán hàng phải trở thành một người bạn, một cố vấn, một người tâm tình, một đốc công nghiêm khắc và một giám đốc kinh doanh hiệu quả – cùng một lúc. Nhân viên bán hàng cũng có lúc vui lúc buồn, lúc doanh thu bùng nổ hay sụt giảm cùng một loạt những tình huống khác thường, đòi hỏi sự kiên nhẫn cực lớn cũng như các kỹ năng quan hệ con người siêu hạng từ người quản lý và kiểm soát họ. Nhà quản lý bán hàng siêu hạng là người có thể hợp nhất những cá tính khác nhau thành một đội ngũ bán hàng hiệu quả, có khả năng đạt được kết quả bán hàng như dự đoán và ổn định từ tháng này sang tháng khác. Việc áp dụng liên tục các nguyên tắc trong cuốn sách này sẽ giúp một nhà quản lý bán hàng như bạn đạt kết quả bán hàng tốt hơn ngay lập tức. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng không có giải pháp chung cuộc nào trong cách ứng xử với nhân viên bán hàng. Bất cứ quy tắc nào cũng có ngoại lệ. Do sự phức tạp trong tính cách con người, nên một người quản lý bán hàng tốt phải luôn ý thức rằng người đối diện với mình có thể là một ngoại lệ, dù theo nghĩa tích cực hay tiêu cực. Với những ý tưởng bao hàm trong cuốn sách này, các nhà quản lý bán hàng tham vọng sẽ nhận ra họ đang có nhiều nhân viên có thái độ tích cực hơn và đạt năng suất cao hơn làm việc cho mình, cũng như bớt đi những nhân viên tiêu cực, kém năng suất. Hãy bắt đầu nào!   *** Brian Tracy là một nhà hùng biện, diễn thuyết, tư vấn chuyên nghiệp và là Chủ tịch Tập đoàn quản lý nguồn nhân lực Brian Tracy International, có trụ sở tại Solana Beach, San Diego. Ông đại diện cho hình ảnh những con người biết vượt qua những khắc nghiệt của cuộc sống để đạt đến thành công đỉnh cao. Để có thể đúc kết được những bài học kinh nghiệm cho mình và cho người khác, Brian đã phải trải qua vô vàn khó khăn. Vì mưu sinh, ông phải rời trường trung học khi chưa tốt nghiệp và bắt đầu bươn chải với những công việc lao động phổ thông trong nhiều năm liền. Ông rửa chén bát, bốc xếp gỗ, đào giếng khoan, làm công nhân trong nhà máy và phụ khuân vác cỏ khô đến các nông trường và trang trại chăn nuôi gia súc. Vài năm sau, ông bước chân vào nghề bán hàng và dần thành danh trong giới kinh doanh. Ba mươi tuổi, ông mới bắt kịp nền học vấn đã phải bỏ dở trước kia khi theo học chương trình MBA tại một trường đại học lớn. Với kinh nghiệm nhiều năm trong nghề, cộng với kiến thức từ quá trình học tập và ý thức nỗ lực phấn đấu không ngừng, ông đã thăng tiến qua nhiều vị trí khác nhau ở 22 công ty thuộc nhiều lĩnh vực. Năm 1981, ông bắt đầu nói chuyện và truyền đạt những nguyên tắc thành công của mình tại các cuộc hội thảo chuyên đề trên khắp nước Mỹ. Đến nay, các chương trình này đã được đưa vào giáo trình giảng dạy cho các doanh nghiệp toàn Hoa Kỳ và trên thế giới, với 20 ngôn ngữ và tại 38 quốc gia. Ông còn là nhà tư vấn và giảng viên cho hơn 500 tập đoàn trên thế giới. Ông cũng là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy nhất như The 100 Absolutely Unbreakable Laws of Business Success (100 quy luật bất biến để thành công), Eat That Frog! (Để hiệu quả trong công việc), Hire and Keep The Best People (Tuyển dụng và đãi ngộ người tài), Getting Rich Your Own Way, Create Your Own Future, Be a Sales Superstar, Advanced Selling Strategies, The 21 Success Secrets of Self-Made Millionaires,... Brian cho rằng bất cứ cá nhân nào cũng có những năng lực tiềm ẩn to lớn chưa được khám phá. Do đó, ông tin tưởng mọi người đều có thể tiến xa hơn nữa và nhanh chóng tiếp cận mục tiêu của mình, chỉ cần họ biết học hỏi và rèn luyện những phương pháp, kỹ năng và chiến lược mà những người thành đạt đi trước đã từng áp dụng. Qua những buổi diễn thuyết, thảo luận, ông luôn tập trung vào việc xóa bỏ trạng thái thất vọng, bi quan và cảm giác kém tự tin ẩn sâu trong mọi người để hướng đến một tương lai tươi sáng với nhiều thành công rực rỡ. Brian Tracy thường xem mình là một "độc giả chiết trung", nghĩa là không bị bó hẹp vào một tín ngưỡng, một dòng tư tưởng đặc biệt nào cả. Ông không nghĩ bản thân mình là một nhà nghiên cứu khoa học, mà chỉ là một người đi thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau sau đó tổng hợp đúc kết chúng lại thành những bí quyết, kinh nghiệm hữu ích dành cho thế hệ theo sau ông. Brian hiện đang sống hạnh phúc cùng với vợ và 4 người con tại thành phố San Diego, California. Mỗi năm, ông tổ chức thuyết trình khoảng hơn 100 lần cho hơn 300 ngàn thính giả đồng thời tham gia hoạt động kinh doanh tại 17 nước. Tác phẩm: 100 Quy Luật Bất Biến Để Thành Công Trong Kinh Doanh 21 Nguyên Tắc Tự Do Tài Chính Tự Tạo Tương Lai Của Chính Mình Thuật Tuyển Dụng Và Sa Thải Để được trọng dụng & đãi ngộ Thuật hùng biện Thuật tổ chức hội họp Tư Duy Tích Cực Đánh Thức Tiềm Năng Làm Giàu Theo Cách Của Bạn Chinh Phục Mục Tiêu Bí Quyết Tuyển Dụng và Đãi Ngộ Người Tài 12 Tuyệt Kỹ Bán Hàng Điểm Khủng Hoảng Thuật Quản Lý Bán Hàng Thuật Đàm Phán Thuật Quản Trị Thuật Marketing Thuật Lãnh Đạo Thành Công Tột Đỉnh Thuật Ủy Quyền và Giám Sát Thuật Thúc Đẩy Nhân Viên Thuật Quản Lý Thời Gian Thuật Bán Hàng Kết Thúc Bán Hàng: Đòn Quyết Định Kinh doanh bằng Tâm lý ... Mời các bạn đón đọc Thuật Quản Lý Bán Hàng của tác giả Brian Tracy.
The Story Engine - Nghệ Thuật Kể Chuyện Thương Hiệu
Lời tựa bởi Tom Morkes Tiếp thị nội dung là công cụ bị đánh giá thấp nhất và chưa được tận dụng hiệu quả nhất trong bộ công cụ của các nhà tiếp thị trực tuyến truyền thống. Thật đáng tiếc thay, bởi tiếp thị nội dung ẩn chứa tiềm năng trở thành loại hình tiếp thị lôi cuốn và linh hoạt nhất mà một doanh nghiệp có thể áp dụng. Tôi sẽ giải thích lí do ngay đây, nhưng trước nhất, tôi nghĩ chúng ta nên tìm hiểu tại sao người ta cứ lũ lượt lảng tránh tiếp thị nội dung. TÔI ĐÃ PHÁT HIỆN RA HAI NGUYÊN NHÂN KHIẾN HẦU HẾT MỌI NGƯỜI KHÔNG MUỐN ĐẦU TƯ VÀO TIẾP THỊ NỘI DUNG: #1. Việc tạo ra nội dung đủ lôi cuốn và thuyết phục để biến lưu lượng truy cập trở thành khách hàng không hề dễ dàng. Bạn chẳng thể sản xuất ra nội dung xuất sắc để tô vẽ cho doanh nghiệp của mình cứ mỗi năm phút một ngày (và bất kỳ ai hứa hẹn khả năng này với bạn đều đang bốc phét). Từ chiến lược đến khâu thực hiện, bạn phải sản xuất nội dung đứng đầu trong các công cụ tìm kiếm lớn, thôi thúc người đọc chia sẻ và đăng ký vào danh sách của bạn, và rồi dần dà họ sẽ chi tiền cho sản phẩm hay dịch vụ của bạn. Cả quá trình này tiêu tốn không chỉ thời gian, mà còn tiền bạc và năng lượng. #2. Thông thường, bạn sẽ không nhận thấy lợi tức đầu tư có lợi nào trong suốt tháng đầu tiên triển khai nội dung. Trong hầu hết các trường hợp, một bài báo cuốn hút hay một bài đăng hay trên blog mất từ 6 đến 12 tháng để thu thập đủ lưu lượng truy cập nhằm bù lại chi phí tạo ra nó. Đây quả là một bài toán khó, đặc biệt khi phần đông các nhà tiếp thị sẽ bám vào lợi tức đầu tư ngay tức thì, mà theo giả thiết, bạn có thể hưởng từ quảng cáo trả phí trên các nền tảng như Facebook hay Google. Nói cách khác: tiếp thị nội dung chỉ dành cho những chiến binh chịu đi đường dài. Hầu hết mọi người đơn giản chỉ không muốn đầu tư hằng tháng hoặc hàng năm trời vào một thứ mà có lẽ sẽ chẳng sinh lời trong nhiều tháng hoặc nhiều năm ở đoạn đường phía trước. Và cũng chính ở đoạn đường này, nếu tôi và bạn năng nhặt, ắt có ngày chặt bị. Theo kinh nghiệm xương máu của tôi, tiếp thị nội dung chính là lý do tôi có thể đi từ 0 đô la/năm tới 6 con số một năm trong chưa đầy 3 năm. Và sự phát triển này dường như vẫn chưa dừng lại. Tại sao ư? Bởi nội dung hay sẽ gia tăng giá trị theo thời gian. Đương nhiên, tới đây chúng ta phải đặt ra câu hỏi: Làm cách nào để tạo ra nội dung hay? THE STORY ENGINE: NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN THƯƠNG HIỆU BỞI KYLE GRAY Tôi gặp Kyle Gray tại một hòn đảo biệt lập thuộc Thái Lan khi Kyle bắt đầu làm việc cho Dan Norris. Khi đó, chúng tôi đều cùng làm công việc của một “dân du mục công nghệ”, và may mắn thế nào, chúng tôi đều bắt đầu làm việc cho Dan trong khoảng thời gian tương đương nhau. Phần việc của tôi chú trọng vào khâu định vị và tiếp thị cho cuốn sách đầu tiên của Dan, The 7 day startup (tạm dịch: Startup 7 ngày). Như lời Kyle nhấn mạnh trong The story engine: Nghệ thuật kể chuyện thương hiệu, cuốn sách đó, vốn bắt nguồn từ một chuỗi bài đăng trên blog WP Curve, đã gặt hái thành công to lớn và trở thành tác phẩm bán chạy nhất. WP Curve thu hút thêm được nhiều sự quan tâm, còn Dan cũng từ đó phát triển doanh nghiệp mang thương hiệu cá nhân của mình. Đây chỉ là một trong nhiều câu chuyện được Kyle chia sẻ trong The story engine: Nghệ thuật kể chuyện thương hiệu. Chúng không chỉ chứng minh sức mạnh của tiếp thị nội dung, thậm chí vượt lên cả việc đánh bóng doanh nghiệp; mà còn thể hiện sự tồn tại của một hệ thống có thể lặp lại – một khoa học – đằng sau quá trình tạo ra nội dung hấp dẫn. Cuốn sách này sẽ cho bạn thấy nó là gì, hoạt động ra sao, và làm thế nào để áp dụng nó vào chính doanh nghiệp của bạn (hoặc những tham vọng cá nhân của bạn). QUÁ DÀI, KHÔNG THỂ ĐỌC HẾT: Điều tôi đang cố biểu đạt là: 1. Tất cả những ai muốn kinh doanh dài hạn đều nên thường xuyên tạo ra nội dung. 2. Những người có kế hoạch thường xuyên tạo ra nội dung nên đọc và làm theo cuốn sách này. The story engine: Nghệ thuật kể chuyện thương hiệu sẽ cung cấp cho bạn chiến lược, khung sườn, và quá trình chuyển đổi tiếp thị nội dung từ công việc mơ hồ, khó khăn nào đó thành một quá trình trong tầm với, giúp bạn phát triển doanh nghiệp. Tôi cực kỳ khuyến khích bạn mua một ấn phẩm cho bản thân mình và cho mọi người trong đội nhóm của bạn, bất cứ ai có tham gia vào công cuộc tạo ra nội dung. Bạn sẽ không thất vọng đâu. *** Xin chúc mừng! Bạn đã cán đích rồi. Giờ đây, bạn đã có trong tay công cụ và kiến thức cần thiết để xây dựng “động cơ nội dung” của chính mình. Hãy nhớ rằng tiếp thị nội dung là chiến lược dài hơi. Bạn sẽ phải đối mặt với một số áp lực, đừng nên kỳ vọng mọi thứ sẽ hoàn hảo ngay lần đầu tiên. Hãy cho bản thân thật nhiều cơ hội để thử nghiệm những chiến lược này, hãy tìm thứ phù hợp với bạn và điều chỉnh nếu cần thiết. Bạn vẫn còn nhiều giá trị nữa để cung cấp cho người đọc và khách hàng, vượt ngoài phạm vi sản phẩm và dịch vụ đơn thuần. Câu chuyện của bạn có thể tác động đến người khác theo cách bạn chẳng thể tiên liệu nổi. Tôi mong cuốn sách này sẽ giúp bạn chia sẻ câu chuyện của mình với những người có nhu cầu. Tôi cũng mong rằng những món quà từ câu chuyện của bạn không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân bạn, mà còn cho hàng triệu cá nhân đồng cảm với nội dung đó. Tôi hoan nghênh bạn và nỗ lực của bạn nhằm chia sẻ bản thân cùng thế giới thông qua tiếp thị nội dung. Hãy giữ liên lạc nhé! Tôi rất mong được theo sát quá trình phát triển của bạn. Tôi luôn sẵn lòng đưa ra gợi ý – Hãy cho tôi biết nếu có bất cứ chia sẻ nào cần được cải thiện. Bạn có thể liên hệ với tôi thông qua thestoryengine.co. Thân ái, Kyle *** Bạn có quen nhà khởi nghiệp tương lai trẻ tuổi nào vẫn đang phân vân về giáo dục đại học không? 18 Sau khi tốt nghiệp, rất nhiều sinh viên phải vật lộn để tìm công việc thú vị và xứng đáng. Bạn không thể cứ đi theo lối mòn “đạt điểm tốt và lấy tấm bằng”, rồi kỳ vọng những kết quả khác. Trên thực tế, hầu hết giá trị và cơ hội mà trường đại học trao cho bạn lại nằm ngoài phạm vi lớp học. Cuốn College Entrepreneur (tạm dịch: Ngôi trường Khởi nghiệp) tập trung phát hiện đam mê của bạn, kết hợp với những người hướng dẫn và tận dụng triệt để tài nguyên từ trường đại học để xây dựng một doanh nghiệp thịnh vượng hoặc thương hiệu cá nhân trước khi tốt nghiệp. Bằng việc khởi động một doanh nghiệp ngay khi còn trên ghế nhà trường, bạn sẽ học được các kĩ năng mấu chốt và phát triển mối quan hệ giúp dẫn tới cơ hội làm công việc bạn yêu thích. Cuốn sách này cung cấp các chiến lược đơn giản mà bạn có thể áp dụng để tiếp cận những tài nguyên bị bỏ quên ở trường đại học, giúp bạn phá bỏ rào cản và kiểm soát quá trình giáo dục của bản thân để đạt được kết quả mong muốn. Hiện đang có sẵn trên Amazon! “Sau khi hoàn thành cuốn sách này, tôi phải công nhận bản thân đã đánh giá quá thấp tầm ảnh hưởng lớn lao của trường đại học lên sự phát triển của các bộ kĩ năng, sự hình thành các liên hệ, và khả năng thu thập lượng kinh nghiệm phong phú để sẵn sàng cho thế giới thực bên ngoài; bất kể bạn sắp trở thành một nhà khởi nghiệp và vận hành doanh nghiệp của riêng mình, hay chuẩn bị dấn thân vào sự nghiệp bản thân hằng hướng tới”. - Một độc giả và sinh viên đại học.   Mời các bạn đón đọc The Story Engine - Nghệ Thuật Kể Chuyện Thương Hiệu của tác giả Kyle Gray.
Soup - Công Thức Giúp Nuôi Dưỡng Và Xây Dựng Văn Hóa Cho Đội Ngũ Của Bạn
Mỗi lần nghĩ đến món súp, tôi nghĩ ngay tới bà mình. Bà yêu công việc nấu ăn; đối với bà, thức ăn và tình yêu là một. Mỗi khi bà nấu ăn, đó không chỉ đơn giản là một bữa cơm. Bà dồn vào đó tất cả tình yêu và sẻ chia nó với gia đình. Khi thưởng thức những món ăn bà nấu, chúng tôi cảm thấy yêu bà hơn. Dù là ai nấu đi chăng nữa, cũng không có loại súp nào có thể ngon sánh bằng món súp bà nấu. Tôi phát hiện ra rằng người nấu đóng một vai trò cực kì quan trọng với một món ăn. Ví dụ, bạn có biết rằng một số chuyên gia rượu có thể đánh giá tính cách của người làm rượu chỉ bằng cách nếm vài ngụm rượu? Trong giới đầu bếp, có một thách thức rất phổ biến mà tôi thường gọi là “hiện tượng đầu bếp”. Cho dù những đầu bếp tuân thủ cùng một công thức một cách nghiêm ngặt, sản phẩm cuối cùng của mỗi người lại luôn có đôi chút khác nhau bởi chúng ta thường không thể phân biệt rạch ròi vai trò của người làm nên món ăn cũng như thành phần món ăn. Điều này cũng đúng trong công việc kinh doanh và trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Hàng ngày bạn khuấy chiếc nồi cuộc sống, và nguyên liệu quan trọng nhất trong món ăn đó chính là bạn. Tình yêu, sự lạc quan, niềm tin, tầm nhìn, phong cách giao tiếp, lòng trung thực, những đánh giá cùng đam mê chính là những nguyên liệu làm cuộc đời bạn trở nên đậm đà; còn những mối quan hệ bạn tạo ra tại nơi làm việc và ở nhà lại quyết định thành phần và chất lượng món súp của bạn. Khi làm việc và có cơ hội tiếp xúc với vô số doanh nghiệp, các đội chơi thể thao nhà nghề cùng bệnh viện và trường học, tôi đã chứng kiến tận mắt những thay đổi mà một cá nhân có thể tạo ra khi họ lấy chiếc muôi và quyết tâm nấu lên một món súp ngon lành. Khi ai đó chọn cách chia sẻ những ưu thế của mình nhằm khai phá những ưu thế ở người khác, người ấy sẽ tạo nên đổi thay trong đội ngũ và tổ chức của họ. Món súp chỉ ngon khi chúng ta chia sẻ cùng nhau. Vì vậy chúng ta hãy đọc cùng nhau, học hỏi cùng nhau, thưởng thức cùng nhau, lãnh đạo cùng nhau và cùng nhau tạo ra thành công. Chúc bạn có những giây phút vui vẻ cùng “Soup”! *** Những lời khen ngợi dành tặng “Soup” Chúng ta vẫn thường nói “Gieo gì gặt nấy”. Chân lí này vẫn đúng khi chúng ta chỉ huy một nhóm người (dù là khi làm việc, ở nhà hay tại trường học). Trong cuốn “Soup”, Jon Gordon đã minh họa rất thành công tính tất yếu của điều này cho bất cứ ai mong muốn tăng sức ảnh hưởng bản thân, xây dựng đội ngũ vững mạnh hơn, hoặc tăng cường tính hiệu quả trong công việc lãnh đạo của mình. Nếu khi nấu súp, người nấu là nhân tố gây ảnh hưởng lớn nhất tới hương vị của món súp thì trong một tập thể, người lãnh đạo chính là người đặt nền tảng cho văn hóa của tập thể ấy. Cuốn sách này sẽ nêm thêm gia vị vào cuộc sống của bạn, vào cuộc sống của nhiều người khác và đội ngũ của bạn.” - Carl Liebert CEO, 24 Hour Fitness “Một lần nữa, Jon đã tạo ra một công thức đạt đẳng cấp thế giới dùng cho kinh doanh. Công thức ấy nhấn mạnh rằng chìa khóa dẫn tới thành công trong lãnh đạo chính là tạo cơ hội cho nhân viên của bạn thể hiện sở trường của họ.” - Ryan Magnon Phó Chủ tịch Kiểm định Chất lượng Tập đoàn Khách sạn West Paces “Nếu bạn đã sẵn sàng nấu súp, sẵn sàng lãnh đạo đội ngũ của bạn với tinh thần lạc quan, đam mê cùng niềm tin, chắc chắn bạn sẽ yêu cuốn sách này.” - Deborah Gilmore Chủ tịch Hội đồng Phụ nữ REALTORS® Dành tặng ông bà tôi, Martin và Janice Gordon. Tình yêu của ông bà đã tạo nên sự khác biệt. Jon thuở bé bên ông bà của mình và nồi SÚP lớn. *** Tôi muốn gửi lời cảm ơn tới tất cả những người đã giúp đỡ tôi chuẩn bị và nấu món “Súp” này. Cảm ơn Kathryn, vợ tôi, vì những lời động viên, tình yêu, sự hỗ trợ không ngừng nghỉ của em. Cảm ơn em vì đã tạo ra một văn hóa gia đình tuyệt vời. Cảm ơn Matt Holt, nhà xuất bản của tôi, biên tập viên Shannon Vargo, và Beth Zipko, Kim Day- man, Larry Olson, cùng những nhân viên còn lại tại Wiley; đối với tôi, các bạn còn hơn cả một nhà xuất bản bình thường. Các bạn là gia đình của tôi. Cảm ơn người đại diện kiêm thiên tài marketing, Daniel Decker, vì nỗ lực, tài năng và sự hỗ trợ của anh. Chúng ta đã làm nên một đội tuyệt vời. Cảm ơn tất cả những người nấu súp ngoài kia, những người luôn khuấy nồi súp với tất cả tình yêu thương. Tôi hy vọng các bạn thích cuốn sách này. Trên hết, xin tạ ơn Chúa đã ban tặng cho con mối liên hệ quan trọng nhất cuộc đời này. Tạ ơn Ngài ban cho con miếng ăn hàng ngày. Ngài đã nuôi dưỡng và truyền sức mạnh cho con. Con luôn ở đây để nhớ đến sự hiện diện của ngài, yêu kính và phục vụ Ngài.   Mời các bạn đón đọc Soup - Công Thức Giúp Nuôi Dưỡng Và Xây Dựng Văn Hóa Cho Đội Ngũ Của Bạn của tác giả Jon Gordon.