Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

George Sand

Dịch giả : Đặng thị Hạnh và Lê Hồng Sâm Dịch nguyên bản tiếng Pháp George Sand   Cuốn sách này xuất bản trong khuôn khổ «  Chương trình hợp tác xuất bản, đưọc sự giúp đỡ của Trung tâm Văn hóa và Hợp tác Đại sứ quán Pháp tại nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam (Cet ouvrage, publié dans le cadre du Progamme de participation à la publication, bénéficie du soutien du Centre Culturel et de Coopération de l’Ambassade de France en République Socialiste du Vietnam) Béatrice Didier là một giáo sư trường Đại học Sư phạm ( Phố Uhm, Paris) ; tác giả của nhiều tiểu luận ( Nhật ký thầm kín, văn viết - phụ nữ… ) về văn học Pháp thế kỷ XVII và thế kỷ XIX, đặc biệt về Stendhal và George Sand. Năm 1998 bà đã xuất bản ở PUF một tác phẩm, đầu đề lấy nguồn cảm hứng từ Flaubert : George Sand. Một giòng sông lớn châu Mỹ. bà là người chủ trì việc xuất bản toàn tập George Sand ở Honoré Champion, một công việc từ trước tới nay chưa bao giờ được thực hiện. George Sand «Với tư cách người sáng tạo ra kiệt tác, bà là người thứ nhất trong giới phụ nữ, bà có thứ hạng độc nhất đó, trên phương diện nghệ thuật, không phải chỉ của thời đại chúng ta mà của mọi thời đại; bà có trí tuệ mạnh mẽ nhất và cũng đáng yêu nhất đã được trao tặng cho giới của bà. Thưa Bà, bà làm vẻ vang cho thế kỷ và cho đất nước chúng ta […] Tôi xin cảm tạ bà vì đã là một tâm hồn lớn lao đến thế”. VICTOR HUGO, Thư gửi George Sand, Paris 19 tháng sáu năm 1875 ° ° ° Beatrice Didier là giáo sư trường Đại học Sư phạm (phố Uhm, Paris); tác giả của nhiều tiểu luận (Nhật ký thầm kín, Văn viết - phụ nữ...) về văn học Pháp thế kỷ XVII và thế kỷ XIX, đặc biệt về Stendhal và George Sand. Năm 1998 bà đã xuất bản ở PUF một tác phẩm, đầu đề lấy nguồn cảm hứng từ Flaubert: George Sand. Một giòng sông lớn châu Mỹ. Bà là người chủ trì việc xuất bản toàn tập George Sand ở Honoré Champion, một công việc từ trước tới nay chưa bao giờ được thực hiện.   Mở đầu Ai sợ George Sand ? Các phản ứng khó thương của một Baudelaire có lẽ là bắng chứng rõ ràng nhất về nỗi lo âu do bà gây nên. Trong một thời gian dài người phụ nữ - tác giả đã khiến người ta sợ, đặc biệt nếu người ấy chẳng chịu thôi làm phụ nữ. Ngay từ đầu vinh quang của bà đã có vầng hào quang tai tiếng bao quanh.  Điều này có vẻ đáng ngạc nhiên, bởi rốt cuộc thì trong thế kỷ XVIII của chúng ta, đông đảo nữ văn sĩ từng có tình nhân ; nhưng giữa thời gian ấy đã diễn ra cuộc Cách mạng, rất ít chú ý đến nữ quyền, cần phải thừa nhận như vậy : sau đó nền Đế chế, thời Trùng Hưng và triều đại Louis –Philippe biểu thị bước thoái bộ rất rõ trong việc giải phóng phụ nữ. Và dư luận công chúng, ở thế kỷ XIX, với sự phát triển của báo chí, các phương tiện trung gian để làm rùm beng vụ tai tiếng, những phương tiện mà thế kỷ trước không có. Trong một thời gian dài nền phê bình văn học, chịu ảnh hưởng của dư luận này, cứ khăng khăng thấy George Sand là người tình của Musset hay của Chopin, thay vì thấy bà là một đại văn hào, như chúng ta hiện nay. Điều đó lý giải tình trạng tương đối thất sủng của sáng tác George Sand. Tuy nhiên, sinh thời bà, một Balzac, một Flaubert và nhiều bậc khác coi bà là đồng đẳng với mình. Tại nước ngoài ảnh hưởng của bà hết sức lớn lao, thí dụ như với Dostoievski và với tiểu thuyết Nga, cả với tiểu thuyết Ý. Bà từng được việndẫn bởi tất cả những phụ nữ nhìn thấy ở bà một ngưòi giải phóng. Trong những năm đầu thế kỷ XX, Alaine và đặc biệt Marcel Proust coi bà là một đại văn hào. Sau đó, nhờ nhiều công trình từng in dấu ở nửa sau thế kỷ, hình ảnh của George Sand và công trình của bà đã định hình rõ rệt. Trước hết chúng ta hãy tỏ bày niềm kính trọng đối với việc xuất bản Thư Tín do Georges Lubin phụ trách, gồm hai mươi sáu tập dày, cho phép chúng ta xem xét cuộc sống của George Sand ngày này qua ngày khác, cuộc sống khác hẳn với những sự đơn giản hóa mà bà là nạn nhân, cho ta thấy khả năng làm việc khó tin nổi và theo dỏi công việc sáng tác của bà trong những nét lớn. Chúng ta cũng lưu ý cả nỗ lực đã được thực hiện trong lĩnh vực xuất bản, tuy vẫn còn chưa đủ. Cho đến nay chưa nhà xuất bản nào ấn hành một bộ tổng tập : Honoré Champion là nhà xuất bản đầu tiên khởi sự công trình này, sẽ phải được tiến hành trong nhiều năm. Các trường đại học đã đi vào nghiên cứu văn hào một cách nghiêm túc : trường Đại học Grenoble, với các công trình của..Cellier và L.Guichard, được học trò của các ông tiếp nối, trường Đại học Vérone, với A. Poli, các trường Đại học Paris VII, Amsterdam, Hanovra, các trường Đại học Mỹ … Tuy vậy vẫn còn rất nhiều việc cần làm.   Tiểu thuyết của George Sand, được viết với sự dung dị mà người ta thường chê trách bà, dễ đọc ; tuy nhiên nắm bắt toàn thể công trình của bà lại khó, trước hết do tầm rộng lớn của nó. Rất hiếm người có thể tự phụ là đã đọc chín mươi cuốn tiểu thuyết, các tác phẩm tự thuật, kịch, các bài báo, thư từ trao đổi của bà : giá như muốm làm, phải bỏ vào đó cả cuộc đời. Cho nên người ta thích tái bản những gì tất cả mọi người đều biết, thí dụ như các tiểu thuyết gọi là « đồng nội », và bỏ qua phần kịch, bị đánh giá nhầm lẫn là khó diễn. Tự giới hạn ở vài hình ảnh về George Sand do các thế hệ trước truyền lại thì dễ hơn: người đàn bà định mệnh, rồi « bà phu nhân hiền hậu của Nohant ». Trong chừng mực bà từng gây ra và còn đang gây ra những cách lý giải say sưa sôi nổi, lại cũng khó có được một cái nhìn tương đối khách quan và đừng phóng chiếu lên bà các sơ đồ của thế kỷ XXI chúng ta. George Sand nhà đấu tranh vì phụ nữ ư ? Một số người sẽ cho rằng bà đấu tranh chưa đủ. Sáp nhập bà với các nhà đấu tranh vì phụ nữ những năm 1970 là một việc làm nguy hiểm : sự giải phóng phụ nữ mà bà yêu cầu xét cho cùng khá hạn chế, khi sẵn sàng chấp nhận là những người phụ nữ thuộc mọi đẳng cấp xã hội không có cùng một phận vị. Nhưng cần đặt cuộc đấu tranh của bà vào thời đại bà, chứ không phải thời đại chúng ta. Georges Sand xã hội chủ nghĩa, bạn của Pierre Leroux, ủng hộ 1848, thậm chí tham gia hoạt động trong đó ? Nhưng người ta sẽ thấy chủ nghĩa xã hội ấy là rụt rè, người ta sẽ chê trách thái độ của bà trong thời kỳ Công xã. Cả ở đây nữa, cũng cần xác lập lại các viễn cảnh : năm 1848 và năm 1871 tuổi bà đã khác đi: bà đã sống ngày này qua ngày khác những biến cố mà chúng ta biết một cách tổng quát và theo phương pháp quy nạp, đối với những biến cố đó chúng ta có thể có một cách nhìn khác với những người đương thời. Một điều cũng gây khó nghĩ, đó là trong cuộc sống thọ của bà, George Sand đã tự đổi mới, đã ứng dụng những thể loại rất khác biệt và thật khó đưa bà vào các phạm trù đã định giới hạn. Bà từng được một công chúng hết sức rộng rãi đọc trong suốt thế kỷ XIX. Bà có là nhà sáng tạo những hình thức mới hay không ? Nhiều hơn người ta nghĩ. Bà có quan tâm đến bút pháp, hay như người ta từng khẳng định, bà viết những gì lướt qua óc mình ? Việc nghiên cứu các bản thảo chứng tỏ rằng, dù không chữa kỹ lưỡng như một Flaubert, song bà dụng công, chỉnh sửa, nâng cao, hơn người ta thường bảo rất nhiều. Các bạn đã đọc George Sand chưa? Cuốn sách nhỏ này muốn xui bạn hãy làm điều đó và đặc biệt là hãy phiêu lưu ngay (nếu việc đọc toàn bộ hầu như bất khả thực hiện) đến với những tác phẩm ít nổi tiếng hơn. Như thế bạn sẽ có được một khái niệm về sự phong phú, về tính đa dạng, về chất quảng đại trong văn chương của người được Flaubert ví với “một dòng sông lớn châu Mỹ”. Chú ý đến tác phẩm hơn là cuộc đời, chúng tôi sẽ theo trật tự thời gian trên những nét lớn, nhưng đồng thời có những tập hợp về thể loại để giúp nắm bắt đồng thời cả tính phức hợp cả sự nhất quán của công trình.   *** George Sand ưa nhấn mạnh sự kiện là do chính nguồn gốc gia đình mà bà thuộc về hai giới hết sức khác biệt. Giới quý tộc về bên nội, giới bình dân về bên ngoại. Vào thời kỳ hậu – cách mạng mà người ta mơ hòa giải xã hội, bà thấy nguồn gốc của mình như một biểu trưng cho sự liên kết các cực, cho phép bà thừa kế mọi tiềm năng của một  dân tộc. Amandine – Aurore – Lucile Dupin sinh ngày 12 tháng Messidor năm XII (1 tháng Bảy năm 1840) ở số nhà 15 (ngày nay là nhà số 46) phố Meslée hay Meslay, tại Paris.  Về bên nội, Aurore là dòng dõi của Maurice de Saxe, vị anh hùng trận Fontenoy và của nhiều chiến thắng khác, sau thành Thống chế nước Pháp. Ông có với Marie Rainteau một con gái ngoài giá thú: đó là bà nội của George Sand; được nuôi dạy tại nữ học hiệu Saint – Cyr, bà kết hôn với Louis Claude Dupin de Francueil, sáu mươi mốt tuổi khi bà hai mười chín, và sống với ông rất hạnh phúc, như sau này bà tâm sự với cháu gái. Xuất thân từ giới đại tài chính, ông qua đời trước Cách Mạng ba năm, để lại cho bà một gia sản khá lớn. năm 1793, bà tậu cơ ngơi Nohant, nhưng có bị giam giữ ít lâu dưới thời Khủng bố. Con trai bà, Maurice Dupin, sinh năm 1778, ước mơ vinh quang trong ngành quân sự và gia nhập đội Cộng Hoà. Anh lập công trong cuộc viễn chinh sang Ý, đặc biệt ở Marengo. Cũng ở bên ý, Maurice gặp Antoinette Sophie – Victoire Delaborde, bấy giờ đang là tình nhân của một chuẩn tướng. Nguồn gốc tầm thường, quá khứ hơi lộn xộn của thiếu phụ khiến Maurice giữ bí mật việc kết hôn tiến hành ngày 5 tháng Sáu năm 1804, một tháng trước khi George Sand tương lai chào đời. Sự nghiệp quân sự của Maurice Dupin tiếp tục cùng Đại quân: các cuộc viễn chinh sang Bavière, sang Phổ, sang Ba Lan và Tây ban Nha (ở đó Maurice là trợ lý cho hoàng thân Murat). Người vợ, lại có mang, sang Tây Ban Nha với chồng cùng cô bé Aurore 4 tuổi. Vậy là George Sand, cũng như Victor Hugo, có tuổi thơ in dấu của bản anh hùng ca Napoléon và của cuộc chiến khủng khiếp tại Tây Ban Nha. Những hình ảnh không thể nào quên đã khắc sâu vào ký ức những đứa trẻ còn rất non nớt về sau sẽ trở thành các đại văn hào lãng mạn chủ nghĩa. Cuối tháng 7 năm 1808, trở về Nohant, tiếp theo là hai biến cố đau thương: tháng 9, em trai George Sand chết, được một tháng tuổi, rồi đến người cha, vì ngã ngựa ở gần La Châtre. (vùng Creusse) Sau này nhà văn sẽ dành một phần lớn trong Truyện đời tôi để kể câu chuyện của cha mẹ, nhất là người cha? Sự hòa hợp các tầng lớp xã hội mà Sand mơ ước, bà đã cảm nhận những khó khăn ngay từ thời thơ ấu, và cảm nhận một cách đau đớn. Bà Daupin de Francueil, muốn đảm trách việc giáo dục cô bé, đã khiến người mẹ từ bỏ quyền giám hộ. George Sand tương lai sống thời thơ ấu ở Nohant, với các cuộc đến thăm ngắn ngủi của mẹ, và những khi bà nội nghỉ đông tại Paris thì cô bé gặp mẹ nhiều hơn. Cô bé thấy mình bị giằng xé giữa hai người thể coi là hai bà mẹ, cô yêu mến cả hai, nhưng cảm nhận được sự thù địch sâu xa giữa họ. Cho nên bộ tự truyện sau này sẽ bị lôi kéo bởi những nẻo đường khác nhau: lý tưởng hóa mối tình của bố mẹ, thiên tình sử bên Ý và sự ra đời của mình (“Ngày hôm ấy mẹ tôi mặc một tấm áo dài đẹp màu hồng, còn cha tôi đang chơi vĩ cầm Crémone của ông”, một truyện thần tiên), nhưng cũng diễn tả cả nỗi đau thực sự sau này của mình và biện hộ cho mẹ về việc hầu như bỏ rơi con, sự bỏ rơi có lẽ do ưu thế kinh tế của bà nội nhiều hơn là do điều mà Sand không thể hình dung nổi như thái độ thờ ơ. George Sand, nhìn chung thường ít gạch xóa bản thảo, để lộ niềm bối rối này qua cách viết đầy khăn khoăn dằn vặt ở những đoạn liên tưởng đến mẹ. Nhà văn cũng muốn, một cách hết sức công bằng, bộc bạch món nợ đối với người bà mà tính cách mạnh mẽ đã in dấu lên mình. Nhờ bà nội; George Sand được biết chế độ cũ, về mặt thời gian hãy còn rất gần, nhưng sự đứt đoạn là Cách mạng đã đột ngột đẩy lùi thật xa vào dĩ vãng. Ngoài ra, Nohant là chốn buông neo đích thực của Sand. Bà sẽ du hành, bà sẽ ở Paris, nhưng giống như Antée, bà luôn cảm thấy cần lấy lại sức mạnh từ mảnh đất của thời thơ ấu nơi mà sau này bà muốn sẽ là chốn yên nghỉ cuối cùng cho mình. Chính từ Nohant mà bà cảm thấy niềm say mê đối với miền quê và chính xác hơn là đối với miền Berry, sẽ là khung cảnh cho nhiều tiểu thuyết của bà. Cũng từ nơi đây mà bà có được sức khoẻ cường tráng ít khi suy giảm. Jean Louis François Deschartres, trước kia là gia sư của người cha, trở thành gia sư cho cô con gái, và sự đào tạo về trí tuệ của Aurore, mặc dù lộn xộn đôi chút, về tổng thể vững vàng hơn sự đào tạo mà đa số các cô gái thời đó được hấp thụ. Thư viện của bà nội, người từng quen biết Jean Jacques Rousseau, có nhiều sách, và cô bé thỏa mãn được niềm đam mê đọc sách sẽ bền vững nơi cô. Bà nội chơi phong cầm và hát; chính nhờ bà mà Sand có được cơ sở của một sự giáo dục về âm nhạc nghiêm chỉnh hơn sự giáo dục của rất nhiều nhà văn lãng mạn. Nhưng trong Truyện đời tôi, bà chú ý nhắc nhở rằng mẹ bà thuộc một gia đình bán chim, rằng con chim như một vật tổ của bà: bà nội, đó là âm nhạc bác học, mẹ, đó là âm nhạc của thiên nhiên, cả âm nhạc dân gian nữa; chúng ta sẽ gặp lâi hai phương diền này của lĩnh vực âm nhạc trong sáng tác của bà, và chúng ta sẽ thấy Consuelo hoà giải các phương diện đó ra sao. Mời các bạn đón đọc George Sand của tác giả Beatrice Didier.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Dám Bị Ghét
Ở vùng ngoại ô của cố đô được ngợi ca là thành phố ngàn năm lịch sử, có một Triết gia phát biểu rằng, thế giới vô cùng đơn giản và con người có thể hạnh phúc ngay lúc này. Không thể chấp nhận quan điểm đó, một người trẻ tuổi đã tới gặp để hỏi rõ ông thực sự nghĩ gì. Trong con mắt buồn bã của Chàng thanh niên, thế giới chỉ như một cõi hỗn mang đầy mâu thuẫn, không hề có hạnh phúc. Chàng thanh niên: Tôi xin hỏi lại thầy. Có phải thầy cho rằng thế giới đơn giản đến từng ngóc ngách? Triết gia: Đúng vậy. Thế giới đơn giản đến khó tin. Đời người cũng vậy. Chàng thanh niên: Thầy khẳng định đó không phải lý tưởng mà là hiện thực? Nghĩa là, mọi vấn đề trong cuộc đời của thầy và tôi đều đơn giản? Triết gia: Tất nhiên là vậy. Chàng thanh niên: Được thôi. Trước khi tranh luận, tôi xin được trình bày mục đích chuyến viếng thăm lần này. Trước hết, lý do đầu tiên tôi đến đây là để tranh luận cho ra nhẽ với thầy. Và nếu được, tôi mong thầy rút lại ý kiến của mình. Triết gia: Ha ha ha. Chàng thanh niên: Bởi vì tôi đã nghe lời đồn đại về thầy. Rằng có một Triết gia khác người sống ở vùng này đang truyền bá một lý tưởng khó ai có thể làm ngơ. Đó chính là con người có thể thay đổi, thế giới cực kỳ đơn giản và ai cũng có thể hạnh phúc. Với tôi, đó đều là những luận điệu không thể chấp nhận được. Vì vậy, tôi muốn đích thân đến trao đổi với thầy và nếu có điểm gì bất hợp lý, tôi xin phép được điều chỉnh lại... Liệu thầy có phiền không? Triết gia: Không hề. Tôi rất hoan nghênh. Bản thân tôi cũng mong muốn được lắng nghe tiếng nói của những thanh niên như cậu để học hỏi thêm nhiều điều. Chàng thanh niên: Cám ơn thầy. Tôi cũng không có ý định chưa rõ trắng đen đã phủ định thầy. Hãy giả định rằng luận điểm của thầy là đúng, từ đây, chúng ta bắt đầu suy nghĩ. Thế giới đơn giản, cuộc đời cũng đơn giản. Nếu như mệnh đề này có phần nào chân lý thì có lẽ chỉ là trong thế giới của trẻ thơ. Thế giới của trẻ thơ không có những nghĩa vụ thực tế như lao động, nộp thuế, trẻ thơ sống những ngày tự do, thoải mái trong vòng tay che chở của cha mẹ và xã hội, chúng cho rằng cuộc sống như vậy sẽ kéo dài mãi mãi và mình có thể làm được bất cứ điều gì. Cặp mắt chúng đã được che đi để khỏi chứng kiến hiện thực phũ phàng. Vậy nên, đúng là thế giới phản chiếu trong đôi mắt trẻ mang một hình hài đơn giản. Nhưng càng lớn, thế giới lại càng hiện rõ bản chất, nó nhắc đi nhắc lại với chúng ta cái thực tế "Mày chẳng qua chỉ có thế mà thôi", nó biến mọi khả năng được mong đợi trong cuộc đời trở thành bất khả thi. Những tháng ngày hạnh phúc, lãng mạn kết thúc, nhường chỗ cho thời kỳ chủ nghĩa hiện thực tàn khốc. Triết gia: Ừm, thú vị lắm. Chàng thanh niên: Không chỉ có vậy. Con người ta khi trưởng thành sẽ bị ràng buộc bởi những mối quan hệ xã hội phức tạp, bị đẩy cho nhiều trách nhiệm. Bất kể là trách nhiệm trong công việc, gia đình hay trách nhiệm xã hội. Tất nhiên, các vấn đề xã hội mà khi còn nhỏ con người chưa thể hiểu được như sự kỳ thị, chiến tranh, giai cấp cũng đặt ra trước mặt chúng ta, và ta không thể phớt lờ. Tôi nói không đúng sao? Triết gia: Đúng chứ. Cậu cứ tiếp tục đi. Chàng thanh niên: Trong thời đại tôn giáo còn thịnh hành thì có lẽ chúng ta còn có sự cứu rỗi. Khi đó, ý chỉ của các thần chính là chân lý, là thế giới, là tất cả. Chỉ cần nghe theo ý chỉ đó thì sẽ chẳng còn mấy vấn đề cần lo lắng. Nhưng giờ tôn giáo đã mất đi sức mạnh và tín ngưỡng cũng chỉ mang tính hình thức. Không có chỗ dựa tinh thần, ai cũng run rẩy vì bất an, bị giam cầm trong nỗi hoài nghi. Mọi người sống mà chỉ nghĩ đến bản thân. Đó chính là xã hội hiện đại. Vậy, thưa thầy, xin hãy trả lời tôi. Trước một hiện thực như vậy, mà thầy vẫn cho rằng thế giới đơn giản sao? Triết gia: Câu trả lời của tôi không hề thay đổi. Thế giới đơn giản, cuộc đời cũng đơn giản. Chàng thanh niên: Tại sao? Chẳng phải ai cũng thấy thế giới là một mớ hỗn độn đầy mâu thuẫn sao? Triết gia: Đó không phải bản thân thế giới phức tạp, mà là cậu đang thấy thế giới phức tạp. Chàng thanh niên: Tôi sao? Triết gia: Con người không sống trong thế giới khách quan mà sống trong thế giới chủ quan do chính mình tạo ra. Thế giới cậu đang thấy khác với thế giới tôi đang thấy, thêm nữa có lẽ là một thế giới khó có thể chia sẻ với bất kỳ ai khác. Chàng thanh niên: Thầy nói vậy nghĩa là sao? Chẳng phải cả thầy và tôi đều đang sống trong cùng một thời đại, cùng một đất nước và cùng thấy những điều giống nhau sao? Triết gia: Xem nào, trông cậu còn trẻ lắm, vậy cậu đã uống nước giếng vừa mới múc lên bao giờ chưa? Chàng thanh niên: Nước giếng à? Thực ra thì đã khá lâu rồi, nhà bà tôi ở quê có một giếng nước. Uống nước giếng mát lạnh ở nhà bà vào những ngày hè nóng bức là một niềm vui lớn. Triết gia: Có lẽ cậu cũng biết là nhiệt độ của nước giếng quanh năm ổn định ở mức 18 độ c. Đây là con số khách quan, ai đo cũng vậy. Nhưng nước giếng uống vào mùa hè, ta cảm thấy mát lạnh, còn uống vào mùa đông lại cảm thấy ấm áp. Nghĩa là dù nhiệt độ trên nhiệt kế luôn giữ ở mức 18 độ c nhưng cảm nhận vào mùa hè và mùa đông lại khác nhau. Chàng thanh niên: Đó là ảo giác gây ra bởi sự thay đổi của môi trường. Triết gia: Không, không phải là ảo giác. Đối với cậu lúc đó, nước giếng mát và ấm đều là sự thật không thể phủ nhận. Sống trong một thế giới chủ quan là như thế. Nhận định chủ quan rằng chúng ta "thấy như thế nào" là tất cả, và chúng ta không thể thoát khỏi nhận thức chủ quan của mình. Bây giờ, thế giới trong mắt cậu là một mớ hỗn độn, phức tạp, kỳ quái. Nhưng, nếu bản thân cậu thay đổi, thế giới sẽ trở lại hình hài đơn giản. Vấn đề không phải thế giới như thế nào mà là cậu như thế nào. Chàng thanh niên: Tôi như thế nào? Triết gia: Đúng vậy. Có khi cậu đang nhìn thế giới qua cặp kính râm. Hiển nhiên thế giới nhìn qua đó phải u ám rồi. Vậy thì đừng rầu rĩ vì thế giới u ám nữa, chỉ cần bỏ kính râm ra là được. Thế giới cậu thấy khi bỏ cặp kính râm ra có khi lại quá chói chang, khiến cậu buộc phải nhắm mắt lại, có khi khiến cậu lại muốn đeo kính vào. Dù vậy, cậu có dám bỏ luôn kính ra không? Cậu có dám nhìn thẳng vào thế giới này không? Cậu có cái can đảm đó không? Chàng thanh niên: Can đảm ư? Triết gia: Đúng vậy, đây là vấn đề can đảm. Chàng thanh niên: ... Thôi được rồi. Tôi có cả núi ý kiến phản bác nhưng có lẽ nên để sau. Tôi xin xác nhận lại là, thầy cho rằng "con người có thể thay đổi"? Và nếu tôi thay đổi, thế giới sẽ trở lại hình hài đơn giản của nó. Triết gia: Tất nhiên, con người có thể thay đổi. Không chỉ thế, con người còn có thể trở nên hạnh phúc. Chàng thanh niên: Bất kỳ ai, không có ngoại lệ? Triết gia: Không có ngoại lệ, vả lại còn có thể vào bất cứ lúc nào. Chàng thanh niên: Ha ha, một tuyên bố mạnh bạo! Thật thú vị, thưa thầy. Giờ tôi xin phép được phản bác! Triết gia: Tôi sẽ không bỏ chạy hay trốn tránh đâu. Chúng ta cứ thong thả trò chuyện. Quan điểm của cậu là "con người không thể thay đổi" đúng không? Chàng thanh niên: Không thể thay đổi. Hiện tại, chính tôi đang khổ sở vì mình không thể thay đổi đây. Triết gia: Nhưng, cậu cũng mong muốn thay đổi? Chàng thanh niên: Tất nhiên rồi. Nếu có thể thay đổi được, nếu có thể làm lại cuộc đời, tôi sẽ vui sướng quỳ gối trước thầy. Nhưng chỉ sợ lại thành ra thầy quỳ gối trước tôi mất thôi. Triết gia: Được thôi. Sẽ thú vị lắm đây. Nhìn cậu, tôi lại nhớ đến mình thời sinh viên. Nhớ đến mình thời còn trẻ tràn đầy nhiệt huyết, đã tới tận nơi gặp Triết gia để mưu cầu chân lý. Chàng thanh niên: Vâng, đúng thế đấy. Tôi đang mưu cầu chân lý. Chân lý của cuộc đời. Triết gia: Trước đây tôi chưa từng nhận đệ tử, cũng không hề thấy cần thiết phải làm điều đó. Nhưng kể từ khi trở thành môn đồ của triết học Hy Lạp và gặp được một quan niệm khác, tôi có cảm giác trong thâm tâm mình đã chờ đợi một Chàng thanh niên như cậu bấy lâu nay. Một quan niệm khác? Đó là gì vậy? Nào, hãy cùng vào thư phòng của tôi. Sẽ là một đêm dài đây. Tôi sẽ pha cà phê nóng. ❄❄❄❄❄❄❄❄❄ Cuốn sách này tóm tắt tư tưỏng của Alfred Adler (tâm lý học Adler), người được mệnh danh là một trong "ba người khổng lồ của tâm lý học" sánh ngang với Freud và Jung, qua hình thức câu chuyện "cuộc đối thoại giữa Chàng thanh niên và Triết gia". Được sự ủng hộ to lớn ở các nước châu Âu và Mỹ, tâm lý học Adler đưa ra câu trả lời rất đơn giản và cụ thể cho câu hỏi mang tính triết học "Làm thế nào để con người sống hạnh phúc?" Hiểu được tư tưỏng có thể coi là một chân lý thế giới này, cuộc đời bạn từ nay sẽ thay đổi ra sao? Hay sẽ không có gì thay đổi...? Nào, hãy cùng Chàng thanh niên bước qua "cánh cửa". *** Các bạn thường than vãn về các mối quan hệ làm các bạn trở nên mệt mỏi. Người ngoài thì thấy các bạn nhạt nhẽo và vô nghĩa. Bản thân các bạn thì thấy bản thân mình kém cỏi so với mọi người. Quá khứ của bạn cũng chẳng mấy tốt đẹp, đầy những điều buồn đau và nhìn về một tương lai không mấy tươi sáng. Bạn lại sống trong một môi trường đòi hỏi những yêu cầu đầy khắc nghiệt và thậm chí những quy chuẩn hết sức phi lý. Bạn trở nên bế tắc bởi các thứ bao quanh và càng tồi tệ khi phải sống theo khuôn mẫu của người khác. Và cách giải thoát cho bạn là bạn dám sống với cá tính, với nhu cầu của mình. Và Dám bị ghét của hai tác giả Nhật Bản Kishimi Ichiro và Koga Fumitake sẽ là cánh cửa giúp bạn giải quyết những vấn đề trên. Bạn bất hạnh không phải do quá khứ và hoàn cảnh, càng không phải do thiếu năng lực. Bạn chỉ thiếu “can đảm” mà thôi. Nói một cách khác, bạn không đủ “can đảm” để dám hạnh phúc.” [...] Bởi can đảm để dám hạnh phúc bao gồm cả “can đảm để dám bị ghét” nữa. [...] Chỉ khi dám bị người khác ghét bỏ, chúng ta mới có được tự do, có được hạnh phúc. Cuốn self- help mang hình bóng của một tác phẩm văn học kinh điển Khi nhìn tên sách và trang bìa của cuốn sách thì đích thực đây là một cuốn self – help. Nhưng điểm bất ngờ là khi mở những trang đầu tiên, đọc những câu mở đầu chúng ta lại nghĩ rằng đây là một tác phẩm văn học kinh điển. Đó là một cuộc đối thoại giữa Chàng thanh niên và người Triết gia. Tất cả đều có cốt truyện, có nhân vật và sự việc, nó không hề giống những cuốn self – help khác mà các bạn đã từng đọc. Cuốn sách được trình bày một cách sinh động, cuốn hút và văn phong cũng vô cùng mới mẻ, hấp dẫn, đem lại sự cuốn hút, không hề nhàm chán đối với người đọc.     Chàng thanh niên: Tôi xin hỏi lại thầy. Có phải thầy cho rằng thế giới đơn giản đến từng ngóc ngách? Triết gia: Đúng vậy. Thế giới đơn giản đến khó tin. Đời người cũng vậy. Một cuốn sách self – help quá đặc biệt, khi những thông điệp, những bài học được truyền tải qua góc nhìn của chàng thanh niên và nhà Triết gia. Điều này tạo nên một dấu ấn đặc biệt của Dám bị ghét so với những cuốn self - help khác! Cậu bất hạnh bởi cậu tự chọn lấy bất hạnh                    Nhiều người luôn than rằng tại sao tôi lại bất hạnh như thế này? Nhưng cuộc sống này là của bạn, là do bạn điều khiển. Chỉ là bạn có biết tận dụng và tận hưởng nó hay không mà thôi. Chả ai đem đến bất hạnh cho bạn cả vì làm gì có ai sống cuộc sống của bạn, làm gì có ai lựa chọn cách sống thay bạn. Bạn bất hạnh là do chính bản thân bạn tự lựa chọn lấy. Ở một giai đoạn nào đó trong cuộc đời, cậu đã chọn “bất hạnh”. Đó không phải là cậu sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh hay rơi vào tình cảnh bất hạnh, mà vì cậu đã cho rằng đối với bản thân mình “bất hạnh” là một dạng “thiện”. Những câu nói của nhà Triết gia giải đáp những câu hỏi của chàng thanh niên khiến chúng ta có những cái nhìn khách quan hơn về cuộc sống, nhìn bao dung hơn về cuộc đời, đơn giản cách nhìn nhận và cảm nhận. Cuộc đời cậu được quyết định “ngay tại đây, vào lúc này” Nhà triết gia đã giảng giải cho chàng thanh niên rất nhiều điều triết lý liên quan đến tâm lý học Adler. Đặc biệt là vấn đề thay đổi lối sống. Nhà triết gia nói rằng cậu không thể thay đổi bản thân vì cậu quyết tâm không thay đổi. Và cách để thay đổi lối sống chính là quyết tâm từ bỏ lối sống hiện nay. Hơn thế nữa, nhà Triết gia còn nói về các cái cớ để không từ bỏ lối sống hiện tại, những triết lý không hề sáo rỗng như đem lại những nhận thức mới mẻ hơn cho chính chàng thanh niên. Dự thi trượt thì cũng phải làm. Như có thể sẽ trưởng thành hơn hoặc có thể sẽ hiểu ra rằng mình cần phải đi theo con đường khác. Dù thế nào cũng có thể tiến lên phía trước. Thay đổi lối sống hiện tại chính là như vậy đó. Nếu cứ mãi không gửi bản thảo dự thi, sẽ chẳng tiến lên được... Cậu không cho rằng cứ đưa đủ các “lý do không thể làm được” để đáp lại một vấn đề đơn giản – một việc cần phải làm là một cách sống khổ sở sao?... Nhà triết gia còn cho rằng, cuộc đời của chàng thanh niên được quyết định ở chính thời điểm này, chứ không phải là những gì diễn ra ở trong quá khứ, không phải những gì đã xảy ra trước kia. Dù quá khứ có tối tăm đến mức nào chả ảnh hưởng gì đến tương lai cả. Mọi phiền muộn đều bắt nguồn từ quan hệ giữa người với người Chàng thanh niên hỏi nhà Triết gia rằng “Để xóa tan phiền muộn thì chỉ có cách sống một mình trong vũ trụ” nghĩa là sao, chẳng phải nếu chỉ sống một mình sẽ lại bị cảm giác cô độc làm cho phiền muộn hay sao? Và nhà triết gia đáp lại rằng cậu cô độc không phải vì cậu có một mình. Và theo nhà triết gia nói về Adler cho rằng mọi phiền muộn đều bắt nguồn từ mối quan hệ giữa người với người. Vì những phiền muộn nội tâm không hề tồn tại mà trong bất cứ muộn phiền nào đều mang bóng dáng của người khác. Những muộn phiền này được Adler cho rằng, nếu như thế giới chỉ có chính mình, không có xuất hiện người khác, thì sự phiền muộn cũng sẽ tan biến. Cô độc không phải vì chỉ có một mình. Cậu cảm thấy mình bị tách biệt, xa lánh khỏi những người xung quanh, khỏi xã hội, cộng đồng, đó mới gọi là cô độc. Chúng ta cần người khác để cảm thấy cô độc. Nghĩa là con người chỉ trở thành “cá nhân” khi đặt vào các mối quan hệ xã hội mà thôi. Đời không phải là cuộc cạnh tranh với người khác Trong mỗi chúng ta, chắc chắn ai cũng có tâm lý, cuộc đời là một sự rượt đuổi, một sự cạnh tranh khốc liệt để chúng ta vươn lên vị trí số một. Nhưng theo Adler, tâm lý không ngừng phấn đấu để bản thân tiến lên thêm một bước, chứ không phải là tâm lý cạnh tranh để vượt lên trên người khác. Nhà triết gia có những câu nói rất ấn tượng và sâu sắc dành cho chàng thanh niên trẻ tuổi Chàng thanh niên  Ý thầy nói rằng đời không phải là cuộc cạnh tranh? Triết gia                Đúng vậy. Không cần cạnh tranh với ai cả. Chỉ cần không  ngừng tiến lên là được. Tất nhiên cũng không cần so sánh mình với người khác. Chúng ta ai cũng khác nhau. Chẳng có người nào giống hệt người nào về mặt giới tính, tuổi tác, kiến thức, kinh nghiệm , ngoại hình cả. Hãy có cái nhìn tích cực về những điểm khác biệt giữa mình và người khác. Chúng ta không giống nhau nhưng lại bình đẳng với nhau. Tự do thực sự là gì ? Chúng ta nói chúng ta muốn một cuộc sống tự do nhưng bản chất của tự do là gì, thực sự tự do là gì thì lại rất ít người biết. Theo như nhà triết gia tự do thực sự là đẩy bản thân lăn ngược lên dốc. Hay cụ thể hơn là tự do là bị người khác ghét. Chắc hẳn chúng chả muốn ai ghét mình cả. Chúng ta đều muốn ai cũng sẽ hòa hợp với mình. Nhưng để  sống mà không một ai ghét là một cách rất mất tự do. Chúng ta phải xoay sở bản thân chúng ta theo người nọ, theo người kia. Nhiều khi chúng ta cảm thấy thật mệt mỏi khi phải xoay sở như vậy. Nếu muốn được tự do tức là ta không phải xoay sở theo ai cả nghĩa là bị người khác ghét. Cái giá này là cái giá khá đắt chúng ta phải trả để tìm được sự tự do. Không sợ bị ghét mà cứ tiến lên phía trước. Không sống như hòn đá lăn xuống dốc mà cố gắng leo lên con dốc trước mặt. Đó chính là tự do đối với con người. Nếu trước mặt tôi có hai lựa chọn “cuộc đời được tất cả mọi người yêu mến” và “cuộc đời có những người ghét mình”, tôi sẽ không hề băn khoăn mà chọn cuộc đời sau. Tôi quan tâm tới việc mình như thế nào hơn là mình được mọi người đánh giá ra sao. Cũng có nghĩa là tôi muốn sống tự do. Sống hết mình “ngay tại đây, vào lúc này”  
Oscar Và Bà Áo Hồng
Oscar và bà áo hồng được viết bởi nhà văn Eric-Emmanuel Schmitt. Ngay khi ra mắt, cuốn sách nhanh chóng gặt hái nhiều thành công, với vô số giải thưởng như giải Chronos, giải Jean Bernard của viện hàn lâm Y học… Bên cạnh đó, tác phẩm còn được chuyển thể thành phim, kịch và luôn được đánh giá cao trong lòng công chúng. Ở Việt Nam, tác phẩm được giáo sư Ngô Bảo Châu và Nguyễn Khiếu Anh đồng dịch, xuất bản năm 2015. Oscar và bà áo hồng là những bức thư gửi đến Chúa của cậu bé Oscar 10 tuổi, biệt danh Sọ Trứng bởi cậu có cái đầu trọc lốc - hệ quả của những đợt điều trị hóa chất. Cậu kể cho Chúa nghe về căn bệnh ung thư của mình, về bà Hoa Hồng - người tình nguyện viên già luôn ở bên Oscar trong bệnh viện. Có thể nói, chính bà Hoa Hồng đã trao cho cậu bé hy vọng sống trong những ngày còn lại của cuộc đời, chi tiết bà kể với cậu bé về truyền thuyết: “Ở quê bà, Oscar ạ, có một truyền thuyết kể rằng trong 12 ngày cuối cùng của một năm, người ta có thể dự đoán được 12 tháng của năm tiếp theo sẽ như thế nào. Chỉ cần quan sát từng ngày một để có được bức tranh thu nhỏ của từng tháng… Đấy là truyền thuyết. Ta muốn bà cháu mình thử chơi trò đó, cháu và ta. Đặc biệt là cháu. Từ ngày hôm nay cháu sẽ quan sát mỗi ngày và tự nhủ là mỗi ngày tương ứng với 10 năm”. Chính truyền thuyết hư cấu này đã mang đến hy vọng sống cho cậu bé. Từ giây phút ấy, mỗi ngày trôi qua đối với cậu bé Oscar đều là một ngày tuyệt diệu. Cậu được sống trọn vẹn với ý muốn và tình cảm của mình, trải qua những năm tháng “dậy thì” đầy rắc rối với vài người bạn trong bệnh viện và biết rung động trước cô bạn gái. Hay những năm tháng “tuổi trẻ” đáng nhớ khi Oscar dũng cảm đứng ra bảo vệ người yêu, kết hôn và ở bên cạnh “vợ” của mình trong cuộc phẫu thuật quan trọng, giải quyết bất hòa với bố mẹ trong đêm Giáng Sinh… Rồi đến độ tuổi “xế chiều”, cậu trầm tư suy nghĩ về tất cả những gì đã trải qua trong đời mà không hề hối hận… Oscar sống hết mình, học cách yêu thương và nghĩ về người xung quanh, về cuộc sống nhiều hơn là cái chết. Từng là một cậu bé luôn trách bố mẹ, gọi họ là “nhát cáy” vì không dám cười nói, gần gũi với cậu như khi khỏe mạnh. Nhưng nhờ bà Hoa Hồng, Oscar đã hiểu ra nỗi đau, việc né tránh của họ khi phải chứng kiến con mình ngày càng yếu và có thể ra đi bất cứ lúc nào. Thấu được nỗi lòng cha mẹ, cậu không còn trách họ, ngược lại Oscar đã can đảm nói “Con yêu bố mẹ, hãy luôn ở bên con”. Và chính câu nói ấy đã khiến bố mẹ Oscar thức tỉnh, can đảm để dẹp nỗi sợ mất con, thay vào đó là sự yêu thương con trọn vẹn từng ngày. Đối với vị bác sĩ tận tụy Dusseldorf, Oscar đã suy nghĩ trưởng thành hơn, cậu nói: “Bác sĩ hãy sống thoải mái lên vì bác sĩ đã cố gắng chữa trị cho cháu hết sức có thể rồi, đừng coi đó là tội lỗi để mà ôm rơm nặng bụng…”. Chính câu nói ấy của Oscar đã khiến Dusseldorf mỉm cười nhẹ nhõm, suy nghĩ lạc quan, tích cực hơn để tiếp tục công việc cứu người cao cả. Chỉ vỏn vẹn hơn 100 trang sách, nhưng Schmitt đã kể cho chúng ta thấy những nỗi buồn, nỗi đau, niềm hy vọng và cả tình yêu giữa con người với con người qua cái nhìn của một cậu bé và cả cảm xúc trước khi lìa xa thế giới của rất nhiều người. Qua hình ảnh Oscar, tác giả muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng trong cuộc sống hiện tại, hàng ngàn “Oscar” đang sống những ngày tháng ngắn ngủi xung quanh chúng ta. Bạn hãy trân trọng, yêu cuộc sống này bởi không phải ai cũng có cơ hội để thực hiện điều đó. Nếu ta có tình cảm với ai đó đừng ngại bày tỏ, buồn hãy tìm người chia sẻ, muốn gì nhất định phải thực hiện ngay... Nguyên Phương - Zing.vn *** Chúa thân mến, Cháu tên là Oscar, cháu mười tuổi, cháu từng châm lửa đốt mèo, đốt chó, đốt nhà (hình như cháu đã từng rán cả mấy con cá vàng nữa) và đây là bức thư đầu tiên cháu gửi cho ông bởi vì trước đây cháu bận học nên không có thời gian. Báo trước với ông luôn, cháu ghét viết lắm. Phải bị ép thì cháu mới viết. Bởi vì viết là cái trò buộc nơ, kết hoa, tủm tỉm cười duyên, vân vân… Viết chỉ là nói dối để làm cho đẹp hơn. Đấy là trò của người lớn. Bằng chứng à? Đây nhé, đầu thư cháu viết thế này: “Cháu tên là Oscar, cháu mười tuổi. Cháu từng châm lửa đốt mèo, đốt chó, đốt nhà (hình như cháu đã từng rán cả mấy con cá vàng nữa) và đây là bức thư đầu tiên cháu gửi cho ông bởi vì cháu bận học, không có thời gian” đáng ra cháu cũng có thể viết là: “Mọi người gọi cháu là Sọ Trứng, trông cháu có vẻ mới bảy tuổi, cháu sống ở bệnh viện vì bệnh ung thư, cháu chưa bao giờ nói chuyện với ông vì cháu chẳng tin là ông có thật.” Chỉ tội cháu viết thế thì hỏng bét, ông sẽ khó để ý đến cháu hơn. Mà cháu lại cần ông để ý đến cháu. Thậm chí còn tiện cho cháu nếu ông dành thời gian giúp cháu đôi ba việc. Thế này nhé. Bệnh viện là một nơi cực-kỳ-dễ-thương, với hàng đống người lớn vui vẻ và nói to, với đầy đồ chơi và các bà áo hồng* thích chơi với trẻ con, với bọn bạn lúc nào cũng rảnh rang như Thịt Rán, Einstein hay Bỏng Ngô, tóm lại, bệnh viện thật là đỉnh nếu ông là một bệnh nhân làm người khác vui. Thế mà cháu không làm cho người khác vui nữa. Sau khi ghép tủy, cháu cảm thấy mình không làm cho người ta vui nữa. Sáng nay, ông bác sĩ Düsseldorf khám cho cháu mà chẳng vui vẻ gì, cháu làm ông ấy thất vọng. Ông ấy nhìn cháu mà chẳng nói gì, cứ y như là cháu đã làm gì sai. Mà cháu cũng cố gắng lúc phẫu thuật đấy chứ; cháu ngoan, cháu để người ta gây mê, cháu đau mà không kêu, cháu uống đủ thứ thuốc. Có những hôm cháu muốn thét lên với ông ấy, để nói với ông ấy rằng có thể chính ông ấy, bác sĩ Düsseldorf, với cặp lông mày đen sì, đã đánh hỏng vụ phẫu thuật ấy. Nhưng trông ông ấy đau khổ quá cho nên những lời xỉ vả của cháu bị nghẹn lại ở cổ họng. Bác sĩ Düsseldorf càng im lặng, ánh mắt buồn bã, cháu lại càng có mặc cảm tội lỗi. Cháu hiểu ra mình đã thành một bệnh nhân tồi, một bệnh nhân ngăn người ta tin rằng y học thật là tuyệt diệu. Ý nghĩ của bác sĩ là một thứ truyền nhiễm. Bây giờ cả tầng, tất cả các y tá, các bác sĩ nội trú và các bà lao công đều nhìn cháu như thế. Họ có vẻ buồn rầu khi cháu vui vẻ; họ cố rặn cười khi cháu pha trò. Đúng là bây giờ người ta cười không còn như trước nữa. Chỉ có bà Hoa Hồng là không thay đổi. Theo cháu thì bà ấy đằng nào cũng già quá rồi, không thay đổi được nữa. Với lại bà ấy Hoa Hồng quá. Cháu chẳng cần giới thiệu bà Hoa Hồng với ông đâu, Chúa nhỉ, bà ấy là một bà bạn tốt của ông mà, vì bà ấy chính là người bảo cháu viết thư cho ông. Vấn đề là ở chỗ chỉ có một mình cháu gọi bà ấy là bà Hoa Hồng. Thế nên ông phải cố gắng một tí để biết xem cháu đang nói về ai nhé: trong số các bà mặc áo bờ lu hồng đến chơi với bệnh nhân trẻ con, bà ấy là bà già nhất. – Bà Hoa Hồng ơi, bà bao nhiêu tuổi? – Cháu có nhớ được số có mười ba chữ số không, nhóc Oscar? – Ôi! Bà bốc phét! – Không. Không được để ai ở đây biết tuổi của bà đâu đấy, nếu không bà sẽ bị đuổi và bà cháu mình không được gặp nhau nữa. – Sao lại thế? – Vì bà ở đây trái phép. Có giới hạn tuổi cho các bà áo hồng. Mà bà đã vượt xa cái giới hạn ấy rồi. – Bà bị quá đát à? – Đúng rồi. – Giống như sữa chua? – Im nào! – OK! Cháu sẽ không nói gì đâu. Bà ấy thật là dũng cảm khi tiết lộ bí mật với cháu. Nhưng bà ấy gặp đúng người tốt đấy. Cháu sẽ câm như hến, mặc dù cháu cũng lấy làm lạ là với chừng ấy nếp nhăn trông như các tia nắng xung quanh mắt mà bà ấy lại không bị ai nghi ngờ gì. Một lần khác, cháu biết thêm một bí mật của bà ấy, mà nghe đến nó thì chắc chắn là ông, Chúa thân mến, sẽ nhận ra bà ấy là ai. Bà Hoa Hồng và cháu đi dạo trong hoa viên bệnh viện, và bà ấy giẫm phải một cục phân. – Tổ sư! – Bà Hoa Hồng ơi, bà nói bậy đấy. – Ranh con, để cho ta yên, ta muốn nói gì thì ta nói. – Ơ kìa, bà Hoa Hồng! – Nhấc cái mông lên. Đi dạo chứ có phải là đua ốc sên đâu. Khi đã ngồi xuống một cái ghế băng để mút kẹo, cháu mới hỏi: – Sao bà nói năng dữ tợn thế? – Bệnh nghề nghiệp đó, nhóc Oscar à. Trong nghề của bà, nói năng ỏn ẻn thì bà toi rồi. – Thế bà làm nghề gì? – Bà nói cháu cũng không tin đâu… – Cháu thề là cháu sẽ tin. – Đô vật. – Cháu không tin bà đâu! – Đô vật. Người ta đặt cho bà biệt danh là Bà bóp cổ vùng Languedoc*. Từ đó, mỗi khi cháu buồn chán, và khi bà Hoa Hồng tin chắc không có ai nghe thấy, bà lại kể cho cháu nghe về những giải đấu vật lớn mình từng tham gia: Bà bóp cổ vùng Languedoc đấu với Mụ bán thịt vùng Limousin*, cuộc đấu suốt hai mươi năm với Diabolica Sinclair, một bà người Hà Lan có vú là quả đạn cối, và nhất là trận đấu ở Cúp thế giới với Ulla-Ulla, còn gọi là Con chó ở Büchenwald*, người chưa từng thua cuộc, ngay cả khi phải đối mặt với Cặp đùi thép, hình mẫu của bà Hoa Hồng hồi còn là đô vật. Các trận đấu của bà Hoa Hồng làm cháu mơ mộng mãi, vì cháu cứ tưởng tượng cái cảnh bà bạn của mình như lúc này đang ở trên võ đài, một bà già nhỏ bé mặc áo bờ lu màu hồng, hơi lập cập, đang ra tay xay ra cám mấy con quỷ cái mặc may ô. Cháu có cảm giác như đấy chính là mình. Cháu trở thành kẻ mạnh nhất. Cháu đi trả thù. Đấy, với chừng ấy chỉ dẫn, bà Hoa Hồng hay Bà bóp cổ vùng Languedoc, mà ông không phát hiện ra bà Hoa Hồng là ai thì Chúa ạ, ông phải thôi làm Chúa và nên về hưu là vừa. Cháu nghĩ là mình đã nói rõ rồi đấy nhỉ? Quay về chuyện của cháu nhé. Tóm lại là vụ ghép tủy của cháu làm mọi người ở đây thất vọng. Vụ hóa trị cũng đã gây thất vọng rồi nhưng không nghiêm trọng bằng, vì người ta còn hy vọng vào việc ghép tủy. Bây giờ cháu có cảm giác là mấy ông lang kia chẳng biết đề xuất gì nữa, đến là đáng thương. Bác sĩ Düsseldorf, người mà mẹ cháu cứ bảo là đẹp trai, dù cháu thì thấy lông mày hơi rậm, ông ấy tỏ vẻ chán nản hệt như một ông già Noel hết sạch quà trong túi. Không khí tồi tệ dần. Cháu nói chuyện với thằng bạn Thịt Rán. Thực ra nó không phải tên là Thịt Rán, mà là Yves, nhưng chúng cháu gọi nó là Thịt Rán vì tên ấy hợp với nó hơn, vì nó bị bỏng nặng. – Thịt Rán này, tớ có cảm giác là các bác sĩ không thích tớ nữa, tớ làm họ thấy tuyệt vọng. – Cậu đùa à, Sọ Trứng! Các bác sĩ ấy, họ không biết mệt mỏi đâu. Lúc nào họ cũng có đầy ý tưởng phẫu thuật cho cậu. Tớ đếm rồi, họ đã hứa thế với tớ ít nhất là sáu lần. – Có lẽ là câu tạo cảm hứng cho họ. – Chắc thế. *** Éric-Emmanuel Schmitt thu hút người đọc trước hết bởi giọng văn mượt mà, ấm áp và các cốt truyện mang tính giáo dục, nhân văn cao cả. Ông từng chia sẻ: "Tôi không viết để thuyết giáo. Ngược lại, tôi thích làm người đọc suy nghĩ bằng cách kể một câu chuyện hay". Có lẽ chính vì suy nghĩ này của tác giả mà truyện và kịch của ông đã được đưa vào giảng dạy tại các trường trung học tại Pháp và Đức như những tác giả đương đại kinh điển. Người ta đã viết về các tác phẩm của ông: Đề cập đến những vấn đề phức tạp bằng ngôn từ đơn giản, bằng tiếng nói từ trái tim và làm người ta suy nghĩ đến ý nghĩa thực sự của sự việc đó. Các tác phẩm của Schmitt đặt ra những câu hỏi lớn như : Nếu không có chiến tranh và xung đột các tôn giáo sẽ nói gì với nhau, sẽ tồn tại như thế nào? Nên nhìn sự sống và cái chết như thế nào ? Yêu thương, sự tôn trọng, thù hận, cô đơn, chủng tộc, màu da, đức tin, trẻ em, người già, xã hội, tệ nạn... người ta đã đang và sẽ nhìn nhận những cảm xúc và thực tại đó như thế nào ? 6 tác phẩm của Éric-Emmanuel Schmitt đã được dịch sang tiếng Việt: 1.     Nửa kia của Hitler (giải thưởng văn học dịch của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2008). 2.     Con của Noé. 3.     Một mối tình ở điện Élysée. 4.     Một ngày mưa đẹp trời. 5.     Chàng Sumo không thể béo. 6.     Oscar và bà áo hồng. Mời các bạn đón đọc Oscar Và Bà Áo Hồng của tác giả Éric-Emmanuel Schmitt.
Con Của Noé
Nguyễn Đình Thành (dịch) Bruxelles năm 1942, Joseph, cậu bé Do Thái lên bảy. Joseph được cha Pons, vị cha xứ chân chất và mẫu mực, nhận nuôi cùng hàng chục đứa trẻ Do Thái khác tại Villa Jaune ở ngoại ô. Nơi đây, Joseph đã khám phá ra tình bạn, khám phá ra một thế giới hoàn toàn khác với thế giới cậu từng sống, và trên tất cả, những giá trị văn hoá quý giá của nhân loại hiện diện trong những cổ vật mà cha Pons đang cố gắng lưu giữ. Hai con người, một già một trẻ thuộc hai tôn giáo khác nhau đi bên nhau để bổ trợ nhau, liệu có thể cùng nhau vượt qua cơn đại hồng thuỷ bạo lực tàn khốc nhất trong lịch sử loài người? Một cuốn tiểu thuyết ngắn đầy xáo động trong cùng mạch truyện với Oscar và bà áo hồng, đã đưa Eric-Emmanuel Schmitt trở thành một trong những tác gia Pháp được đọc nhiều nhất trên thế giới. *** “Chúng ta sẽ thoả thuận như thế này nhé, con đồng ý không? Con, Joseph, con sẽ giả vờ là người Công Giáo còn ta, ta sẽ giả vờ là người Do Thái. Đây là bí mật của chúng ta, bí mật lớn nhất trong các bí mật. Ta và con có thể chết nếu phản bội bí mật này nhé. Thề không nào?” “Con xin thề.” Bruxelles năm 1942, Joseph, cậu bé Do Thái lên bảy. Joseph được cha Pons, vị cha xứ chân chất và mẫu mực, nhận nuôi cùng hàng chục đứa trẻ Do Thái khác tại Villa Jaune ở ngoại ô. Nơi đây, Joseph đã khám phá ra tình bạn, khám phá ra một thế giới hoàn toàn khác với thế giới cậu từng sống, và trên tất cả, những giá trị văn hoá quý giá của nhân loại hiện diện trong những cổ vật mà cha Pons đang cố gắng lưu giữ. Hai con người, một già một trẻ thuộc hai tôn giáo khác nhau đi bên nhau để bổ trợ nhau, liệu có thể cùng nhau vượt qua cơn đại hồng thuỷ bạo lực tàn khốc nhất trong lịch sử loài người? Một cuốn tiểu thuyết ngắn đầy xáo động trong cùng mạch truyện với Oscar và bà áo hồng, đã đưa Eric-Emmanuel Schmitt trở thành một trong những tác gia Pháp được đọc nhiều nhất trên thế giới. *** Eric rõ ràng đã thành công khi “buộc” độc giả phải cười nghiêng ngả ở một số đoạn xong rồi lại rơm rớm nước mắt được ngay… – LE TÉLÉGRAMME Một cuốn tiểu thuyết ngắn nhưng thuần khiết và đượm chất triết học… – LA DERNIÈRE HEURE Eric-Emmanuel Schmitt đã tặng chúng ta một câu chuyện không thể rời mắt… – LE SOIR MAGAZINE Một truyện kể trong đêm khuya – LE SOIR Tự vấn về tôn giáo trong không gian và thời gian… – LIRE *** Éric-Emmanuel Schmitt thu hút người đọc trước hết bởi giọng văn mượt mà, ấm áp và các cốt truyện mang tính giáo dục, nhân văn cao cả. Ông từng chia sẻ: "Tôi không viết để thuyết giáo. Ngược lại, tôi thích làm người đọc suy nghĩ bằng cách kể một câu chuyện hay". Có lẽ chính vì suy nghĩ này của tác giả mà truyện và kịch của ông đã được đưa vào giảng dạy tại các trường trung học tại Pháp và Đức như những tác giả đương đại kinh điển. Người ta đã viết về các tác phẩm của ông: Đề cập đến những vấn đề phức tạp bằng ngôn từ đơn giản, bằng tiếng nói từ trái tim và làm người ta suy nghĩ đến ý nghĩa thực sự của sự việc đó. Các tác phẩm của Schmitt đặt ra những câu hỏi lớn như : Nếu không có chiến tranh và xung đột các tôn giáo sẽ nói gì với nhau, sẽ tồn tại như thế nào? Nên nhìn sự sống và cái chết như thế nào ? Yêu thương, sự tôn trọng, thù hận, cô đơn, chủng tộc, màu da, đức tin, trẻ em, người già, xã hội, tệ nạn... người ta đã đang và sẽ nhìn nhận những cảm xúc và thực tại đó như thế nào ? 6 tác phẩm của Éric-Emmanuel Schmitt đã được dịch sang tiếng Việt: 1.     Nửa kia của Hitler (giải thưởng văn học dịch của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2008). 2.     Con của Noé. 3.     Một mối tình ở điện Élysée. 4.     Một ngày mưa đẹp trời. 5.     Chàng Sumo không thể béo. 6.     Oscar và bà áo hồng. Mời các bạn đón đọc Con Của Noé của tác giả Éric-Emmanuel Schmitt.