Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi 1876

Trong sự nghiệp trứ tác của Trương Vĩnh Ký, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876)[4] là tác phẩm có ý nghĩa đặc biệt hơn cả. Cuốn sách này được ông xuất bản vào năm 1881, sau chuyến ra Bắc trước đó 5 năm; một chuyến đi gây nhiều hệ lụy cho (thanh danh) họ Trương và làm hao tổn không biết bao nhiêu giấy mực của giới nghiên cứu. Trong khối sách đồ sộ của ông, gồm đủ chủng loại (sáng tác, biên khảo, dịch thuật…) bằng nhiều ngôn ngữ (Việt, Hán, Bồ, Pháp…), quy mô tác phẩm này rất khiêm tốn, chỉ hơn ba chục trang in; những nhân vật, sự việc được nhắc đến trong sách cũng rất rõ ràng; đại để nội dung nói chuyện thăm viếng thường tình… Ấy thế mà nó lại là điểm xuất phát (và cũng là bằng cứ) cho những cuộc tranh cãi bất phân thắng bại kéo dài từ đầu thế kỷ XX cho đến tận ngày nay. Có một thực tế là lâu nay, khi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký, giới nghiên cứu luôn gặp phải tình cảnh trớ trêu mà như có người nói, là bị một thứ “sương mù” bao phủ lên, làm nhòe mờ đi. Ông luôn bị người đời nhìn nhận bằng một thái độ nghi ngại, dè dặt. Thư tịch, tài liệu nghiên cứu về ông không hiếm, thế nhưng sự thật trong đó thường không mấy đảm bảo; khá nhiều thông tin liên quan đến Trương Vĩnh Ký bị khúc xạ theo một hướng nào đó. Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) là một trường hợp như thế. Tác phẩm này, thậm chí còn được trưng dẫn để chứng minh cho hành vi làm “Việt gian” của họ Trương. Vấn đề đặt ra ở đây là, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) cần được hiểu như thế nào? Giá trị đích thực của tác phẩm này là gì? Theo dõi những cuộc tranh luận về Trương Vĩnh Ký lâu nay, dễ dàng nhận ra một điều: ảnh hưởng của các loại thiên kiến (thậm chí là định kiến), đã chi phối rất nhiều đến nhận thức của nhà nghiên cứu về đối tượng. Mà điều này lại liên quan mật thiết đến cái gọi là “điểm nhìn” (point of view) của nhà khoa học. Rút cuộc, điểm mấu chốt trong sự khác biệt giữa các loại ý kiến khi đánh giá về danh nhân Trương Vĩnh Ký nói chung, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) nói riêng, lại xuất phát từ quan điểm tiếp cận. Khi tìm hiểu các công trình, bài viết liên quan đến Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876), chúng tôi rất ngạc nhiên khi nhận thấy hầu như chưa bao giờ người ta coi đó là một tác phẩm văn học đúng nghĩa; trong khi nó lại là một cột mốc thực sự của lịch sử văn học, xét trên phương diện thể tài. Đây chính là đóng góp quan trọng nhất, thể hiện vị thế của một nhà văn lớn trong quá trình hiện đại hóa văn xuôi – báo chí quốc ngữ. *** Trước tiên, hãy nói về thể tài du ký với tư cách thuật ngữ nghiên cứu văn học. Trong lịch sử văn học – báo chí Việt Nam từ đầu thế kỷ XX trở về trước, những tác phẩm được gọi đích danh là du ký vốn rất hiếm hoi. Có vẻ như Nguyễn Bá Trác [2] là người đầu tiên đã dùng nó một cách tự giác, với dụng ý nhấn mạnh đặc điểm của chủ đề, lối văn trong một tác phẩm được gọi là Hạn mạn du ký. Nguyễn Bá Trác, trong vai một nhà báo, đã thuật lại những gì mình trải nghiệm được từ những chuyến du lịch đến nhiều xứ sở. Thiên bút ký trường thiên này được đăng trên Nam phong tạp chí từ tháng 8 năm 1920 đến tháng 1 năm 1921 với 6 kỳ liên tục. Từ du ký (游 記), theo nghĩa từ nguyên, là ghi chép về “sự đi”, sự xê dịch, thưởng ngoạn cảnh quan xứ lạ. Thế nhưng nội hàm của khái niệm du ký  - một thể tài văn học - thì lại khá phức tạp. Chứng cớ là ngoại trừ bài của Nguyễn Bá Trác ra thì lại có nhiều tác phẩm dù không được gọi du ký nhưng xét về bản chất chúng rất gần gũi nhau. Chẳng hạn, những tập văn xuôi chữ Hán như Thượng kinh ký sự  của Lê Hữu Trác[5]; Bắc hành tùng ký của Lê Quýnh[3]; Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức[3]… hoặc những tập văn xuôi quốc ngữ như Sách sổ sang chép các việc của Philipphê Bỉnh[1]; Pháp du hành trình nhật ký, Thuật truyện du lịch Paris, Du lịch xứ Lào của Phạm Quỳnh[2] …Thậm chí, ngay cả đối với Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) thì Trương Vĩnh Ký cũng gọi tác phẩm của mình là “truyện” (trang bìa sách tác giả đề Tự thuật vãng Bắc Kỳ truyện - 自 述 往 北 圻 傳). Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận ra điểm chung rất quan trọng giữa chúng: lối văn ghi chép từ những chuyến đi. Nếu đối chiếu với văn học Phương Tây, thì thấy rằng trên đại thể, chúng cũng chẳng khác mấy so với lối bút ký lữ hành (travelling notes) một thể văn xuôi tự sự rất thông dụng ở nhiều nước. Nhưng nói thế không có nghĩa mọi tác phẩm viết về lữ hành đều giống hệt nhau. Nếu xét kỹ về phương thức thể hiện thì lại thấy trong cái khối chung này, có nhiều nhóm, loại với những nét đặc thù. Chẳng hạn, đều là “hành trình ký sự” song hình thức lại rất khác nhau; có những văn bản ghi chép tỉ mỉ bằng lối văn xuôi nhật dụng về chuyến đi theo một lịch trình cụ thể (được gọi là “nhật ký”, “nhật trình”); lại cũng có khi tác phẩm được thể hiện dưới dạng thơ trường thiên (Như Tây nhật trình của Trương Minh Ký là một “câu chuyện” dài tới 2000 câu thơ); có trường hợp ghi chép chuyến đi qua hồi ức, một dạng “hồi ký” (Bắc hành tùng ký của Lê Quýnh); lại có cuốn được thể hiện dưới dạng “du khảo” -  thiên về giới thiệu “kiến văn” (Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức, Giá Viên biệt lục của Phạm Phú Thứ)[3] … . Nói cách khác, ngay trong bản thân cái gọi là du ký cũng rất đa dạng, không hề thuần nhất chút nào. Như vậy, du ký với tư cách một thể tài văn học, bao hàm trong đó những kiểu dạng tác phẩm có hình thái rất khác nhau. Nét đặc thù của những tác phẩm thuộc thể tài du ký chính là nhận thức của bản thân người viết qua các cuộc viễn du, là sự trải nghiệm lữ hành. Khác với văn học nhiều nước Phương Tây, thể tài du ký ở ta xuất hiện muộn và cũng ít được chú ý. Có nhiều lý do liên quan đến hiện tượng này, nhưng chung quy có lẽ là bởi người Việt vốn e ngại sự di chuyển, chỉ lên đường khi chẳng đặng đừng. Trong quá khứ, không kể hạng người bình dân, ngay đối với các bậc phong lưu cũng thế. Người nông dân phải nhọc nhằn vật lộn mưu sinh, bị ràng níu bởi trăm thứ hữu hình, vô hình, nên không thể có điều kiện để du ngọan đã đành; cả đến văn nhân cũng ít có điều kiện (kể cả nhu cầu) để du ngoạn đúng nghĩa. Cho đến đầu thế kỷ XX mà những người “mê” đi, “có gan” đi như Tản Đà, Nguyễn Tuân… chỉ là hạn hữu. Mà đã ít người đi, ít kẻ dám dấn bước phiêu lãng thì mạch văn chương du ký hạn hẹp, thưa thớt cũng là chuyện dễ hiểu. Trong bối cảnh đó, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) có giá trị vượt hẳn tính chất của một tác phẩm du ký thông thường; nó đánh dấu cho quá trình hiện đại hóa một thể tài, góp phần làm nên bước tiến mạnh mẽ của văn học dân tộc nói chung trên con đường hiện đại hóa chặng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. *** Tính hiện đại của Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) thể hiện qua hai điểm cốt yếu: cảm hứng lữ hành của tác giả và lối văn xuôi rất mới mẻ trong tác phẩm.             Với thiên ký sự này, lần đầu tiên trong mạch văn chương quốc ngữ xuất hiện một tác phẩm thuộc thể tài du ký đúng nghĩa. Nói như vậy là muốn nhấn mạnh đến tính chất của tác phẩm chứ không thuần xét về thời điểm xuất hiện. Bởi nếu so ra thì tác phẩm của Trương Vĩnh Ký không phải sớm nhất; Sách sổ sang chép các việc của Philipphê Bỉnh còn xuất hiện trước đó rất lâu (từ năm 1822). Nhưng dù vậy, dù ra đời sớm hơn nửa thế kỷ, tôi cho rằng cuốn của Philipphe Bỉnh chưa phải là một thiên du ký theo nghĩa hiện đại bởi tính chất du hý, thưởng lãm chưa trở thành ý vị chính yếu của sự đi; nó vẫn thiên về kê biên (sang chép) tư liệu; cái “tôi” lữ khách chưa thực sự nổi bật. Trong khi du ký hiện đại chủ yếu phải là những cái được “sáng tạo” (compose), là câu chuyện của chính du khách (họ là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của cuốn sách). Mặc dù so với truyền thống tự sự trong văn chương Việt, cách mở đầu tác phẩm của Philipphe Bỉnh đáng được ghi nhận là một biệt lệ. Ông viết: “Tôi là thầy cả Philip Bỉnh…” – một lối nhập đề rất mới lạ, có thay đổi so với các tác giả trung đại, song bóng dáng của người du khách vẫn rất mờ nhạt, bị khuất hẳn đi sau tư liệu (các việc). Bởi ở đây, “Tôi” cũng không phải “nhân vật” chính, “chuyến đi” cũng không phải đối tượng chính; cái chính ở đây là “việc”. Trương Vĩnh Ký bắt đầu thiên du ký một cách thật giản dị: “Năm Ất Hợi (1876), bái trưởng tham biện vừa xong, vùng tính đi ra Bắc chơi một chuyến cho biết. Trong bụng muốn cũng đã lâu; nên xin với quan trên, nhơn dịp chiếc tàu Duchaffaud đi mà đi. Về sắm hòm rương áo quần. Rủ thầy Ba Hớn với ông Sáu Thìn, nguyên một người ở tỉnh Bắc Ninh, một người ở Sơn Tây mà vào trong Nam Kỳ đã lâu, đi theo trước là cho có bạn, sau nữa là cho họ về thăm quê quán.”. Cái lý do của chuyến đi đơn giản và rõ ràng hết sức: đi cho biết Bắc Kỳ. Mục đích đi để khám phá, tìm hiểu “xứ lạ” của chủ thể ở đây rất khác so với trạng thái bị động của phần đa kẻ lữ hành trong các thiên hành trình ký sự trước đó. Một lối khởi hành mang tính chất lãng tử, tài tử khác hẳn với những chuyến đăng trình rềnh rang nghi thức, tâm trạng ngổn ngang. Cần nhớ chuyến đi được khởi hành vào mùng mười tám tháng Chạp, là lúc đã “năm cùng tháng tận”, sắp cận kề một cái Tết cổ truyền. Thế mà vẫn háo hức lên đường. Sức hút của chuyến đi lấn át hết những vướng bận thường nhật khác. Cái tâm thế phiêu lưu này được bộc lộ rất rõ vào thời điểm tác giả đã hoàn tất chuyến đi theo dự kiến, xuống Hải Phòng để đáp tàu vào Gia Định. Rủi là bị trễ chuyến: “Lỡ dịp đi, buồn bực quá. Nhưng mà cũng chẳng qua là bởi đâu xây khiến cho được biết đất Bắc rõ hơn. (…) Vì vậy qua mồng 3 tháng 2, mới tính ở mà đợi lóng nhóng đó cũng mất công vô ích; chi bằng hồi ngữ về ngã Hương Cảng đi, để chờ dịp tàu sau về ngay Nam Kỳ. Mà bởi không biết chắc ngày nào tàu ra, mới tính đi rông ít ngày qua Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Hưng Yên cho biết xứ ”. Rõ ràng qua đây, cái gọi là “cảm hứng lữ hành” ở họ Trương rất nổi bật; nó được đưa vào trong tác phẩm một cách nguyên vẹn. Cần đặc biệt lưu ý tới cái tâm thế, cảm hứng lữ hành hiện đại này bởi nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cái gọi là “nhãn quan nghệ thuật” trong tác phẩm. Cái cách nhìn, lối cảm nhận về thế giới thực tại của lữ khách phụ thuộc rất nhiều vào tâm trạng, tâm lý cũng như cái đích nhắm đến của chuyến đi. Bởi vì cảm quan ngoại giới của một du khách sẽ rất khác với cách cảm nhận của một kẻ bộ hành với mục đích mưu sinh, hay một hành nhân tị nạn, hoặc của một kẻ bị lưu đày… Nói khác đi, tâm thế này sẽ ảnh hưởng đến việc lữ khách nhìn thấy cái gì (?), cảm thấy điều gì (?), thu nhận được ý nghĩa gì từ chuyến đi. Đối với Trương Vĩnh Ký, mục đích chuyến du hành này là để thỏa ý thích được đi; và chính đó là tâm thế của “kẻ lữ hành hiện đại”. Thích được trải nghiệm thông qua cảm giác xê dịch là một trong những đặc điểm tâm lý của chủ nghĩa cá nhân (individualism). Bởi đối với con người cá nhân cá thể  hiện đại, đi là để nhận biết và để khẳng định. Câu nói trứ danh của Paul Morand: “Ta muốn sau khi ta chết đi, có người thuộc da ta làm chiếc va li” không chỉ là tuyên ngôn của tín đồ thuộc “giáo phái xê dịch”, mà còn là một nét tâm thức thời đại. Với tâm thế chủ động của kẻ lên đường vì chính “sự đi”, Trương Vĩnh Ký đã thu nhận được nhiều điều lý thú và đưa vào trong thiên du ký. Trong đó, ông đặc biệt chú ý tiếp cận và ký chép kỹ càng về những cuộc tiếp xúc với các nhân vật ở địa phương, các phong tục tập quán và các danh lam thắng tích… đã được tận mắt chứng kiến. Dường như đây cũng chính là những dạng du lịch phổ biến nhất của lữ hành đương đại; được khái quát thành các thuật ngữ có tính chất chuyên ngành như tham quan học tập (study tour), du lịch văn hóa (cultural travel), du lịch sinh thái (ecology travel). Cách tiếp cận đối tượng, cách hành xử trong từng tình huống cụ thể của họ Trương gợi ý cho ta nhiều điều thú vị. *** Trương Vĩnh Ký kể lại trong Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) một cách ngắn gọn song khá đầy đủ về những cuộc tiếp xúc với rất nhiều nhân vật ở Bắc Kỳ. Mật độ các cuộc thù tiếp dày đặc. Đối tượng rất phong phú, thuộc nhiều “tip” người khác nhau, sang hèn đủ kiểu dạng. Trong số này, có 3 nhóm người được ông thuật lại khá tỉ mỉ: giới chức người Pháp, quan lại Nam triều, chức sắc nhà thờ. Điều oái oăm là, chính những cuộc tiếp xúc này đã dẫn đến những rắc rối cho ông; dư luận phán xét về hành vi này của ông khá nặng nề; nhiều nghi vấn về mục đích thực sự của chuyến đi Bắc Kỳ được đặt ra. Những đồn đoán về hành tích họ Trương kéo dài dai dẳng lâu nay một phần cũng từ đây mà ra. Nhiều ý kiến cho rằng chuyến ra Bắc của ông, du lịch chỉ là cái cớ, cái vỏ che đậy một sứ mạng chính trị quan trọng. Sứ mạng đó là gì thì chưa ai chứng minh được; thế nhưng người ta cho rằng với những cuộc tiếp kiến bất kể ngày đêm diễn ra liên tục trong suốt thời gian ông ở Bắc Kỳ, và nhất là với hầu hết những nhân vật quan yếu của chính quyền lẫn nhà thờ thì hẳn nhiên nó phải bất thường. Tất nhiên, bàn luận thị phi là quyền của dư luận. Song có một thực tế là cho đến bây giờ, cái điều bí mật được che đậy từ chuyến ra Bắc của Trương Vĩnh Ký là gì vẫn là một câu hỏi. Phải chăng dư luận đã quá khắt khe với ông? Và con người này có đáng bị trùm cho một cái nghi án mơ hồ như thế không? Thực ra, cái sự khác thường ở đây nếu có chăng, chỉ là chỗ các nhân vật mà họ Trương tiếp xúc đều thuộc diện “kẻ sang”; và quả thực, có gì đó như là một sự hâm mộ, trọng thị (đôi khi hơi quá đáng) mà người xứ Bắc dành cho ông. Nhưng nếu ngẫm kỹ, cũng chả có gì đáng gọi là bất thường ở đây. Trương Vĩnh Ký vốn là người tiếng tăm lừng lẫy, quảng giao, lại từng trải ở những vị thế đặc biệt (giám đốc trường thông ngôn, chủ bút Gia Định báo…); uy danh của ông đâu chỉ vang dội trong xứ Annam(!). Vậy thì việc họ Trương - một danh sĩ đến từ Xứ Nam Kỳ vào dịp tống cựu nghênh tân này rất đáng được coi là sự kiện lớn; rộn ràng thù tạc cũng chả có gì khác thường cả. Vả chăng, nhìn vào lịch trình thăm viếng của ông kể cũng khó chỉ ra chỗ ám muội. Ngoại trừ hai cuộc viếng thăm lãnh sự Pháp ở Hải Phòng, Hà Nội (tác giả dùng chữ “thăm”, không rõ có liên quan gì đến bổn phận của một công dân khác xứ không), còn lại đều là những cuộc tiếp kiến đầy ngẫu hứng, không hẹn trước. Và Trương Vĩnh Ký tỏ ra rất hứng thú với những cuộc hàn huyên, đàm đạo này. Ngay cuộc tiếp kiến các đức thầy, cha cố, chức dịch nhà thờ… cũng là những cuộc gặp ngẫu nhiên của một du khách ưa giao du, muốn học hỏi. *** Phần chủ yếu trong cuốn sách, Trương Vĩnh Ký dành để ghi chép về những điều trải nghiệm được từ thực tế. Danh sách những thắng tích, cảnh quan Bắc Hà ở đây thật phong phú: Chùa Nguyễn Đăng Giai, Hồ Hoàn Gươm, Đền Kính Thiên, Cột cờ, Đền Công, Ông Thánh Đồng Đen, Chùa Một Cột, Hồ Tây, Văn Thánh Miếu… Có điều lý thú là với thói quen cố hữu của một nhà khoa học, ông tiếp cận cảnh vật theo cách riêng của mình; quan sát và ghi chép như một nhà khảo cứu đang tiếp cận tư liệu hơn là một du khách. Những con số, lời bình, chú giải về địa danh, địa bạ, lịch sử… của họ Trương rõ là thao tác của một nhà nghiên cứu chuyên nghiệp. Đây là một đọan ghi chép về Thổ sản đất Hà Nội: “Lúa: lúa dê (duy), lúa thông, lúa dự, lúa lem bông, lúa trĩ, lúa hương, lúa thầy đường, lúa bạch canh. Nếp: nếp bông vàng, nếp răng ngựa, nếp ruồng, nếp cau, nếp trái vải, nếp đuôi chồn, nếp ngọc thục… Tơ, bông cán, hàng đoạn bông (phường Thọ Xương, kiên liên dệt), trừu bông (Từ Liêm), hàng lượt, lãnh bóng, lượt bùng, the rây, lụa bông, lụa trắng, thao, vải trắng, the làn, xuyến, láng gốc… Cây hội (giấy viết sắc), các thứ giấy, quạt trúc, nón nan; ngói gạch, nồi đất (đồ gốm); trà, muối diêm, mật ui, đường hạ; vôi đá, bánh phục linh, trôi nước, xôi bông đường, bánh mì khoai, rượu trắng; khoai lang mộng, khoai sáp, khoai mài, khoai tím, khoai ngọt; củ sắn, củ đậu ,củ nần, củ huỳnh tinh, xoài, mít, nhãn, hồng thơm, hồng đỏ….” Quả là không dễ để có thể kê biên một cách chi li từng giống lúa khoai, loại lụa là, thức dùng… với hàng chục tên gọi khác nhau như thế nếu không có con mắt và cái trí của nhà bác học, ham hiểu biết, rất lịch lãm. Trong cái cách kể lể, liệt kê này, ta dễ nhận thấy trạng thái háo hức, mê đắm, tập trung của Trương Vĩnh Ký. Một cái nhìn hờ hững, một sự phân tâm của chủ thể không bao giờ tạo tác được những trang tư liệu về phong thổ như vậy. Một đoạn ghi chép về phong tục xứ Bắc chứng tỏ cái nhìn hết sức tỉ mỉ, từng trải của tác giả: “Trong tứ dân đều có chuyên nghề cả, mà nông thì hội hơn. Chốn Thiềng Thị thì công thương tụ, có lộn Ngỏ Khách. Đàn ông còn trai hay ngồi quán ngồi lều trà rượu ăn chơi, còn việc cày cấy thì nhờ đàn bà con gái làm. Đàn ông ăn mặc cũng thường, diêu áo vấn tới đầu gối, đầu hay đội nón ngựa, bịt khăn đen. Đàn bà mặc áo có thắt lưng làm bìu (bọc), yếm đỏ, không gài nút nịt, nút vai thả không ra mà thôi, đầu đội nón giàu (ba tầm), lớn gần bàng cái nia, hai bên có hai quai tụi vấn toòng teng, đầu vấn ngang, lấy lượt nhiễu vấn tóc mà khoanh vấn theo đầu. (có một làng Kẻ Lòi có đàn bà bới tóc); Dưới mặc váy, chân đi dép sơn; nước da mịn màng trắng trẻo, má hồng, da ửng, gót son, phốp pháp người; răng nhuộm đen cánh gián. Thói trật áo thắt lưng là nhơn bởi trời đông thiên rét lạnh; đàn bà có con, cho bú một lần phải mở nhiều áo khó lòng, nên để luôn như vầy. Còn thắt lưng thì cũng là vì lạnh; con gái thấy vậy cũng bắt chước làm theo, mùa nào mùa nấy cũng để luôn như vậy mà thành tục.” Điều thú vị trong phần nói về phong tục không chỉ ở những thông tin mà còn ở lời nhận xét, bình luận. Quan sát, ghi nhận và bình phẩm, giải thích về các phong tục tập quán một cách tinh tế nhưng cũng rất hóm hỉnh là một đặc điểm nổi trội trong thiên du ký này. *** Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) được xuất bản vào năm 1881, thời điểm văn xuôi quốc ngữ đang ở chặng thử nghiệm, thế mà lạ thay, nó lại mang một dáng vẻ hiện đại đến khó tin. Chả cần phải đối sánh với những truyện thơ Nôm, văn xuôi chữ Hán cùng thời, hãy cứ so với phần lớn những tác phẩm văn xuôi quốc ngữ ra đời mấy chục năm sau nữa nhưng vẫn chưa thoát khỏi giọng biền ngẫu, đăng đối cổ kính… sẽ thấy văn Trương Vĩnh Ký hiện đại thế nào. Dưới đây là đọan kể chuyến du ngọan Động Từ Thức ở Thanh Hóa, đọan văn có lẽ là hay nhất trong toàn bộ tác phẩm: “Hang Từ Thức ở tại xã Trị Nội, tổng Kiều Vịnh, huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung. Đi đến đó phải đi qua cái đèo, rồi đi vòng lại bên tả mới tới miệng hang. Chỗ ấy kêu là Từ Thức động hay là Bích Đào động. Ở ngoài có cái miễu nhỏ nhỏ, nơi cửa động có chữ đề khắc vô đá. Vào trong phải có đuốc, vô trong nó rung rinh, có chỗ có đường như cột đá; dưới chân, chỗ thì có đá viên tròn vo bằng viên đạn cũng nhiều, nhỏ hơn nữa cũng nhiều, có chỗ thì đầy những đá đen cục hòn mà thành hình như trái mảng cầu khô; còn có chỗ lại có đá ra hình bàn ghế, mòn trơn có vân có hoa như chạm trổ vậy. Trên đầu ngó lên thấy thạch nhũ như là màn treo có thể bỏ xuống, trong đá coi nhấp nháng sáng ngời như kim sa. Hết bùng binh nầy tới bùng binh khác. Sau hết xuống tới cổ kiềng là cái miệng xuống hang dưới nữa, nó như miệng giếng, phải nghiêng mình lận theo thì xuống mới đặng; dưới đáy hết thì có cái như cái ao bèo cám lênh láng. Đi hồi giờ thứ 6 đến giờ thứ 8 rưỡi mới tới nơi.” Đoạn văn trần thuật rất sinh động; lời dẫn rất tự nhiên, nhưng không dễ dãi mà chừng mực; đủ để bao quát hết được các hành vi. Khả năng làm chủ ngôn từ của họ Trương rất đáng nể. Các từ dùng mô tả rất chính xác, gợi liên tưởng. Đây đúng là lối văn “như lời nói thường”, bằng thứ tiếng “Annam ròng” mà họ Trương từng ao ước; một lối văn thoát ra khỏi cái trường ước lệ của thi ca, cái khuôn sáo của văn chức năng, nhật dụng. Có rất nhiều đọan, người đọc bị cuốn hút không chỉ vì được đồng hành, dõi theo quá trình thưởng lãm các cảnh trí, mà còn lây cái hóm hỉnh, vui nhộn trong cách diễn đạt của tác giả. Đây là đọan ở Ninh Bình :  “Đến đó xuống cáng để đi chân mà coi chơi cho biết, cho cáng đi không. Qua khỏi Tam Điệp rồi tới quán Cháo, ra tới quán Gành vừa tối, nên ở lại quán ngủ đó một đêm. Giờ thứ tư sáng ở quán Gành cất ra đi, khỏi quán Sanh, Ba Vuông rồi mới tới tỉnh Ninh Bình. Dọc đường đi ngó thấy tại đất bàng có nhiều cái hòn núi nhỏ riêng nhau ra từng cái, dường như núi cảnh, như non bộ đất vậy. Đi riết giờ thứ 8 rưỡi tới tỉnh vào trọ nhà bà Phó Vàng là người có đạo ở gần tỉnh. Nghỉ ngơi, cơm nước đó một lát, kế lấy trong tỉnh quan tuần phủ tên là Đặng Xuân Toán cho ông lãnh binh ra mời vô thành chơi, (giờ thứ 41). Xách dù đi có đem ông Kỳ đi theo vào thành, thiên hạ nghe tiếng người Gia định rùng rùng kéo nhau đi coi, lớp kia lớp nọ đông nức. Vào thành rồi, nó còn làm hỗn leo trèo mà coi, thì quan lãnh binh phải đóng cửa thành lại. Thăm ông tuần rồi, có quan án đó (Đồng Sĩ Vịnh) lại mời luôn về dinh. Khi từ giã ra về, người có đem tiễn chân 2 bình trà với 20 quan tiền.” Đúng thật là lối ngao du tùy hứng; không câu nệ, chả cần lịch trình; gặp gỡ, nghỉ ngơi theo ý thích. Và ngẫm ra kiểu đi “phượt”, “du lịch bụi” ngày nay của giới trẻ, cũng như cái dòng mạch văn chương du khảo đang phát triển rầm rộ trong văn học Việt thời gian gần đây không phải là không thừa hưởng được chút gì từ chuyến đi năm ấy của Trương Vĩnh Ký. *** Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) của Trương Vĩnh Ký là cuốn sách có nhiều giá trị. Nó không chỉ là một tài liệu quý báu trong lĩnh vực nghiên cứu quốc học, tìm hiểu về đất nước, con người, văn hóa Việt mà còn chứa đựng những thông tin đáng tin cậy để nghiên cứu về chính cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng chính trị và học thuật của Trương Vĩnh Ký, một danh nhân văn hóa tầm cỡ thế giới. Xét trên bình diện văn học, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) cũng là một tác phẩm rất đáng chú ý của Trương Vĩnh Ký. Tính chất hiện đại, mới mẻ được bộc lộ rất rõ ràng thông qua cảm quan, giọng điệu, ngôn từ, cấu trúc của tác phẩm. Đây là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của thể tài du ký hiện đại trong văn học Việt Nam. Thiên du ký này là bằng chứng cụ thể về những đóng góp hữu ích của ông cho quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc. ---------------------------- TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Philipphê Bỉnh (1968, Thanh Lãng soạn, giới thiệu), Sách sổ sang chép các việc, Học viện Đà Lạt xuất bản. [2]. Du ký Việt Nam - tạp chí Nam Phong, 1917-1934 (2007, Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, giới thiệu), Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh. [3]. Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội. [4]. Trương Vĩnh Ký (1881), Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi (1876), Bản in Nhà hàng C. GUILLAND ET MARTINON, SAIGON. [5]. Lê Hữu Trác (1971, Phan Võ dịch), Thượng kinh ký sự, NXB Văn học, Hà Nội. ................................... (*)  Nguyễn Phong Nam: PGS-TS. Đại học Đà nẵng - Thành viên Ban điều hành Nhóm Văn học Việt. *** I. CHUYẾN ĐI BẮC-KỲ NĂM ẤT-HỢI Năm ất hợi (1876), bãi trường tham-biện vừa xong, vùng tính đi ra Bắc chơi một chuyến cho biết. Trong bụng muốn cũng đã lâu ; nên xin với quan trên, nhơn diệp chiếc tàu Duchaffaud đi mà đi. Về sấm hòm-rương áo-quần. Rủ thầy ba Hớn với ông sáu Thìn, nguyên một nguời ở tỉnh Bắc-ninh, một người ở Sơn-tây mà vào trong Nam-kỳ đã lâu, đi theo trước là cho có bạn, sau nữa là cho họ về thăm quê-quán. Qua ngày 18 tháng chạp đề-huề xuống tàu. Sớm mai giờ thứ 9 rưỡi nhổ neo. Vợ con đi đưa, ngồi xe đi rảo trên bờ cho đến tàu quày trở rồi riu-ríu chạy xuống đồn Cá-trê, mới về. Xế giờ thứ hai ra cửa Cần-giờ, chỉ mũi chạy ra mũi Né. TỚI CỬA HÀN Ngày 21 vô vũng Hàn vừa giờ thứ 5 chiều. Vô đó mà đưa ông, Nguyễn-hữu-Độ, là quan triều sai vô, lên mà về kinh. Đậu ngủ đó một đêm. Chạy hai ngày rưỡi nữa, vô thân trong Cát-Bà đậu lại đó (ngày 25 hồi giờ thứ 10). Đến giờ thứ nhứt rưởi qua tàu Aspic mà lên Hải-phòng (đồn Ninh-hải). TỚI HẢI-PHÒNG Lên bờ đi thăm quan lãnh-sự (M. Turc), rồi qua bên kia sông tới trọ nhà chú Khách Wan-sing. Sáng bữa sau lại qua ăn cơm nơi quan lãnh-sự, rồi đi thăm các thầy làm việc ở đó cho luôn. LÊN HẢI-DƯƠNG Tối lại, đi theo thuyền ông thương-biện Lương quen khi đi sứ bên Tây năm 1863 mà lên tỉnh Hải dương, 27 tới tỉnh. Vào thành ra mắt quan lớn là ông Phạm phú-Thứ làm Thương-chánh đại-thần kiêm tổng-đốc tỉnh Hải-dương và tỉnh Quảng-yên, có quen thuở đi sứ bên Tây. Người mầng-rở lắm. Nội ngày cũng tới viếng ông tuần-phủ Nguyễn-Doãn, nguyên trước có quen khi người vô giao-hòa lần sau tại Gia-định. ĐI LÊN HÀ-NỘI Các quan cầm ở lại đó chơi, ăn tết rồi hãy lên Hà-nội, khi ấy là mùa đông, trời rét lạnh nên ăn ngon cơm lắm. Mấy bữa ấy, hội các quan lớn nhỏ cả tỉnh đủ mặt ; khi ăn khi uống chuyện-vản cả đêm cả ngày. Quan đại lại bày làm rạp hát cho ba bữa luôn, coi hát bội cho no, rồi lại hát nhà-trò. Vui-vầy với nhau thế ấy cho tới mồng 6 tết, chiều giờ thứ nhứt mời lên võng lên cáng mà đi đường bộ lên thành Hà-nội. Trước hết nghĩ chơn tại cái chùa kia. Qua cung sau, nghỉ Ngạt-kéo, mặt trời chen lặn tới huyện Cẩm-giàng. Ông huyện tên là Dương-Xuân ra rước vô nhà ngủ đó. Sáng, cơm nước rồi giờ thứ 8 từ-giã ra đi. TỚI HÀ-NỘI Từ Cẩm-giàng lên cho tới Hà-nội nghỉ bốn chặng : - Quán Cầu-đất (giờ thứ 10). - Tại Đồng-súng (giờ thứ 12 trưa). - Ngả-tư-Dầu (giờ thứ nhứt rưỡi). - Chợ Bún (giờ thứ 3 rưỡi). Giờ thứ tư rưỡi chiều ra tới bờ đê, đi trên đường quai xuống mé sông Bồ-đề, mướn đò đưa qua cửa Phố-mới. Giờ thứ 8 tối tới nhà Hương-công là khách-thương Gia-định ra mua hoa-chi nha-phiến đó. Mời các bạn đón đọc Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi 1876 của tác giả J. B. Trương Vĩnh Ký.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Từ Rừng Thẳm Amazon Đến Quê Hương Bolero
Cuốn sách này như một bộ phim tài liệu đặc biệt, ghi chép lại hành trình dấn thân khám phá, thâm nhập Nam Mỹ của tác giả. Như trong lời mở sách (Tại sao Nam Mỹ?), tác giả viết đại ý, Nam Mỹ với những cô hoa hậu nóng bỏng, với những cầu thủ bóng đá mạnh mẽ, tài năng như Maradona từng hấp dẫn anh từ ngày thơ ấu. Nhưng giấc mơ chinh phục Nam Mỹ lại bùng lên khi anh xem cuốn phim Motocycle Diaries kể về chuyến du hành xuyên Mỹ Latinh của chàng sinh viên y khoa năm cuối Che Guevara.  Vậy là vác balô lên đường cho những chuyến đi dài ngày: năm 2008, Nguyễn Tập có 2 tháng ăn dầm nằm dề ở xứ sở của người Quechua – hậu duệ dân Inca; 2009, lại có hai chuyến đi Mexico; cuối năm 2011, anh dành 4 tháng thâm nhập vào những bộ lạc thổ dân vùng Amazon, Peru và Bolivia. Và gần đây nhất, anh trở lại đó với những ngày làm cư dân Cuba. Chuyến khám phá Cuba - quê hương xì gà và Bolero kết thúc chỉ trước khi ông Fidel Castro qua đời vài ba hôm. Chất liệu thực tế đi vào cuốn du ký này ngồn ngộn. Những câu chuyện từ bùa chú, ma thuật, bói toán còn sót lại nơi những đô thị song trùng đời sống văn minh – hoang dã, những phong tục lạ lùng của những bộ lạc trong rừng thẳm, những thành phố đá, hòn đảo trôi dạt, đảo búp bê… được viết lại chân xác, vắn gọn cùng với các tranh ký họa cho thấy tác giả có một cách tiếp cận thực tế rất riêng, không hề giống những người viết hồi ký kiểu “tô vẽ” như thường gặp ở những cuốn du ký của các tác giả trẻ mới nổi gần đây. Ở mỗi vùng đất tác giả đi qua, anh cũng dành mối quan tâm đặc biệt đến thân phận những người Việt lang thang, lưu lạc, đôi chỗ dành mối liên tưởng đến sự tương đồng văn hóa với quê hương mình. Chính điều này làm cho cuốn du ký có nhiều cơ tầng liên tưởng. Cuốn du ký này gồm 4 phần: Amazon (Trong rừng thẳm Amazon), Mexico (Xứ sở của những chiếc đầu lâu pha lê, Peru (Bay trên thành phố đá) và Cuba (Lang thang trên quê hương Bolero). Chất du ký bụi bặm, phiêu lãng và mạnh mẽ truyền cảm hứng đủ để những độc giả trẻ sau khi gấp sách lại, có thể thu xếp những hành trình kỳ thú của riêng mình. *** Tại sao Nam Mỹ? T hật ra, giấc mơ Nam Mỹ đã hấp dẫn tôi từ ngày bé, bởi những cô hoa hậu thế giới nóng bỏng người Venezuela, bởi vua bóng đá Maradona lùn tịt (giống tôi)... Nhưng từ Việt Nam đến Nam Mỹ xa diệu vợi, nên giấc mơ đó đành gác lại vô thời hạn. Năm 2006, tôi qua Mỹ học, tình cờ được xem cuốn phim Nhật ký xe máy (Motocycle Diaries) kể về chuyến du hành dọc Nam Mỹ của Che Guevara khi còn là cậu sinh viên y khoa năm cuối. Cuốn phim đã đánh thức giấc mơ xưa. Thế là tìm tài liệu đọc và biết thêm Nam Mỹ còn có nền văn minh Inca quá lẫy lừng. Đọc lai rai, chuẩn bị tư liệu trong một năm, và tôi lên đường. Năm 2008, tôi đến Peru lần đầu tiên và dành gần hai tháng cùng ăn, ở, sinh hoạt với người Quechua - hậu duệ của dân Inca. Lúc đó, tiếng Tây Ban Nha tôi không biết, nhưng đi những vùng núi hẻo lánh, sống với người Quechua thì hầu như không thể tìm ra người biết nói tiếng Anh (vì thế, tôi thường rất mỏi tay khi... trò chuyện). Cũng may, tôi gặp được chị Quỳnh Dao (một trong ba người Việt sống tại Peru lúc bấy giờ). Chị Dao trước học ở Nga, sau theo chồng về Peru. Chị giỏi tiếng Tây Ban Nha, lại nhiệt tình nên tôi đã học được từ chị biết bao nhiêu điều hay, lạ về văn hóa Peru. Chuyến đi đã để lại rất nhiều cảm xúc trong tôi, nên khi vừa quay lại Mỹ, tôi đăng ký học ngay tiếng Tây Ban Nha vì biết chắc chắn mình sẽ trở lại. Năm 2009, tôi đi Mexico hai lần, mỗi lần một tháng. Cuối năm 2011, trước khi về hẳn Việt Nam, tôi dành bốn tháng lang thang ở Nam Mỹ để khám phá đời sống, văn hóa vùng thổ dân Amazon, Peru và Bolivia (Argentina tôi chỉ ở hơn muời ngày, nên không tính). Tính ra tổng thời gian tôi ở Trung và Nam Mỹ là khoảng tám tháng. Cùng với Bắc Triều Tiên, Cuba là nước Xã hội chủ nghĩa còn quá nhiều “bí mật” với thế giới. Ở thế kỷ 21 mà vẫn còn chế độ tem phiếu, phân phối thực phẩm, vẫn còn “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, là một trong những nước nghèo của thế giới, nhưng giáo dục và y tế lại phát triển rất mạnh… Tôi muốn đi Cuba từ mười năm trước. Nhưng, lúc đó quy định du lịch Cuba của Mỹ vẫn còn quá ngặt nghèo, tôi lại đang học ở Mỹ nên sợ việc học bị đứt đoạn. Không đi được nhưng tôi vẫn theo dõi, vẫn tìm đọc về đảo quốc này. Giờ đây, khi đã học xong và trở về Việt Nam, giấc mơ ngày xưa lại bùng lên. Tôi muốn đi để cảm nhận được rõ ràng nhất sự đổi thay của Cuba, trải nghiệm những điều lâu nay tôi chỉ biết qua báo chí, qua “lời đồn”. Trong du lịch, tôi không phải là người “chấm điểm”, không thích đi những điểm du lịch nổi tiếng. Tôi thích đi chậm và sâu, thích tìm hiểu về con người, về những nền văn hóa cổ xưa. Đối với tôi, để tạm gọi là hiểu về một nền văn hóa, thời gian trải nghiệm ít nhất phải tính bằng đơn vị năm. Tôi lại quá yêu văn hóa và con người Nam Mỹ. Vì thế, bây giờ nếu có ai hỏi nơi nào tôi muốn đi nhất thì câu trả lời chắc chắn vẫn là Nam Mỹ. Có lúc, tôi nghĩ mình có thể bỏ cả cuộc đời để tìm hiểu về vùng đất này. Ai đó nói rằng: “Cuộc đời là những chuyến tàu mà không ai biết sẽ dừng tại ga nào...”. Có lẽ thế. NGUYỄN TẬP Mời các bạn đón đọc Từ Rừng Thẳm Amazon Đến Quê Hương Bolero của tác giả Nguyễn Tập.
Tây Ban Nha, Hành Trình Không Ngôn Ngữ
B ạn thường nghĩ gì về tuổi 30 của mình? 30 tuổi, chưa có công việc ổn định là quá muộn! Ba mươi tuổi chưa lập gia đình là quá muộn! 30 tuổi không yêu ai là quá muộn! 30 tuổi chưa có nhà, chưa có xe cũng là quá muộn! Và đương nhiên, xét theo chuẩn ấy, thì số đông các bạn gái đều cho rằng 30 tuổi để bắt đầu một cái gì đó cũng là quá muộn! Tôi biết một cô gái 30 tuổi vượt qua mọi định kiến cố hữu của người đời về sự “Quá muộn!” Tôi biết một cô gái chăm chỉ, nỗ lực, âm thầm nhích từng bước để thực hiện bằng đượcước mơ ấp ủ trong lòng mình, bất chấp thời gian không đợi, bất chấp người đời không đồng tình, bất chấp cả những thách thức hữu hình và vô hình có thể nhìn thấy từ trước. Với cô gái ấy, tuổi 30 mới thực sự là tuổi để bắt đầu và tôi thực sự ngưỡng mộ sự khởi đầu tuyệt vời ấy! Khi cô ấy nói với tôi ý địnhđược đi vòng quanh châu Âu bằng tất cả số tiền tiết kiệm được sau gần chục năm đi làm của mình, tôi có phần kinh ngạc. Tôi động viên cô ấy, nhưng đồng thời, tự cảm thấy tiếc nuối cho tuổi 30 của mình, tuổi 30 cứ cố kìm hãm mãi những giấc mơ tự do của người phụ nữ như tôi. Và từ đó, tôi dõi theo hành trình của cô ấy, từ khi chuẩn bị cho đến lúc lên đường, tôi cũng háo hức chờ đợi cô ấy chia sẻ trải nghiệm của mình. Tôi ghen tị, tôi ngưỡng mộ và tôi tự hào về tuổi 30 sống động của cô ấy! Khi cô ấy nói về ý định viết một cuốn sách cẩm nang cho những người muốn đi du học dựa vào kinh nghiệm của bản thân, cô ấy hỏi tôi về cách viết. Tôi nói rằng, hãy kể về câu chuyện của em, hành trình của em, cảm nhận của em, những người em đã gặp vì bản thân những thứ đó mới là thứ cẩm nang tuyệt vời cho bất kỳ bạn trẻ nào muốn đi và sống một cuộc đời phong phú. Và thế là, “Tây Ban Nha, HÀNH TRÌNH KHÔNG NGÔN NGỮ” đã ra đời 6 tháng sau đó. Tôi chắc chắn rằng, hành trình của cô gái bé nhỏ của tôi sẽ giúp cho nhiều bạn có khao khát mà đầy do dự ngoài kia có thêm động lực để lên đường. Hãy nhét vào chiếc ba lô cuộc đời bạn mọi thứ, trừ sự nuối tiếc! “Tây Ban Nha, HÀNH TRÌNH KHÔNG NGÔN NGỮ” đã giúp tôi hiểu ra điềuđó, và tôi mong rằng, bất kỳ ai đọc xong đều có đủ dũng khí để làm điều mình đam mê, đến những nơi mình thích và khám phá những gì mình chưa biết. Như vậy là ta đã có một cuộc đờiđáng sống rồi! Hà Nội, tháng 8/2017 -HUYỀN LÊ *** T ây Ban Nha, tôi chưa từng ấn tượng với đất nước này cho đến khi đọc được dòng chữ Du học Tây Ban Nha chỉ với hơn 30 triệu đồng, không yêu cầu ngôn ngữ đầu vào. Ngôn ngữ Tây Ban Nha là điều tôi cũng chưa bao giờ nghĩ tới cho đến một ngày nhận ra đây là cánh cửa đến với châu Âu. Vì hai điều này, một phụ nữ ở tuổi 30 như tôi đã quyết tâm bỏ tất cả những gì tốt đẹp và êm đềm đang có để bước vào hành trình: Du học ngôn ngữ. Hành trình sáu tháng ở Tây Ban Nha đã làm tôi thay đổi quan điểm về du lịch và đưa tôi vào một trải nghiệm thú vị khác về đời sống của những du học sinh. Bạn có thể khám phá một đất nước như một lữ khách, đến nhìn ngắm và chụp những bức ảnh, check in được càng nhiều địa điểm càng tốt, thưởng thức những món ăn, hiểu đôi chút về câu chuyện lịch sử của quốc gia đó qua lời kể của hướng dẫn viên, trên sách báo và những tờ áp phích, tờ rơi quảng cáo. Sau đó bạn lâng lâng với cảm xúc tiếc nuối vì thời gian bạn được tận hưởng quá ngắn ngủi. Hay, bạn đến với vùng đất này như một người tham dự qua một trong những phương tiện giao tiếp thiết yếu và quan trọng nhất của loài người: ngôn ngữ. Hành trình du lịch bằng cách học một ngôn ngữ mới sẽ cho bạn thời gian vừa đủ để khám phá văn hóa, có một chút vốn liếng giao tiếp với người bản xứ, tìm hiểu đời sống của chính họ. Nó cũng là bước đệm quan trọng, mở ra cơ hội lớn cho những dự tính học hành xa hơn và cao hơn của bạn ở đất nước này. Một đứa trẻ lớn lên trên quê hương qua từng giai đoạn học nói, gọi tên từng người thân trong đình, từng đồ vật, từng nhành cây, ngọn cỏ quanh nhà để hiểu được quê hương là gì. Hành trình ngôn ngữ cũng cho tôi có thêm một quê hương như thế. Thân tặng bạn những tấm bản đồ nhỏ trong một tấm bản đồ lớn để khám phá Tây Ban Nha, vùng đất không chỉ có tiếng đàn guitar và điệu nhảy Flamenco say đắm lòng người mà còn rất nhiều bất ngờ khác đang chờ bạn dấn thân trải nghiệm. Mời các bạn đón đọc Tây Ban Nha, Hành Trình Không Ngôn Ngữ của tác giả Uyên Nguyên.
Italy, Đi Rồi Sẽ Đến
C ầm trên tay cuốn sách đầu tay của Lê Thủy Anh là một cảm giác rất đặc biệt với tôi. Cơ duyên của tôi và em bắt đầu từ vài năm trước đây khi tôi nhận được e-mail của một cô bé tự giới thiệu là sinh viên ĐH Ngoại thương nhưng không học tôi mà chỉ biết tôi qua bạn bè. Em gặp một vài khó khăn trong cuộc sống và mong được tôi cho ý kiến. Cuộc gặp ấy đã khởi đầu cho một mối duyên lâu dài giữa tôi và em, một cô gái giàu nghị lực, rất đáng khâm phục. Lần đầu gặp nhau, em chia sẻ rất nhiều về sự bất lực trước gánh nặng gia đình và công việc cùng đổ dồn lên đôi vai bé nhỏ của em. Tôi còn nhớ mình đã rất xót xa khi nhìn một cô gái trẻ, làm việc rất chăm chỉ, kiếm ra tiền nhưng hoàn toàn không có thì giờ chăm sóc bản thân mà chỉ biết nghĩ cho người khác. Sau này tôi mới biết, lúc ấy em còn đang rất đau khổ vì mối tình không lối thoát của mình. Gia đình em ở xa, không thể an ủi, chăm sóc em nhưng gánh nặng kinh tế và nghĩa vụ của người chị với 3 đứa em, trong đó có một em bị Down luôn đè nặng lên vai em. Dù cố sức an ủi cô gái bé nhỏ nhưng tôi vẫn lo ngại em khó có thể thoát ra khỏi cái vòng kim cô của nghĩa vụ ấy để được sống cho mình, được thực hiện ước mơ du học, bước ra ngoài thế giới của em. Khỏi phải nói tôi đã vui mừng thế nào khi 2 năm sau được em cho biết đã xin được học bổng để đi học Thạc sĩ ngành em mơ ước ở Italy và cũng đã tìm được một chàng trai tâm đầu ý hợp ở nơi ấy. Tôi hồi hộp theo dõi từng bước chân em trong quá trình học tập rồi lập gia đình vì tôi biết em học thạc sĩ khá muộn và việc hội nhập với đời sống ở châu Âu không đơn giản, nhất là em vốn quen với văn hóa Nhật Bản, Á Đông. Nhưng rồi tin vui cứ dồn dập đổ về, em đã hoàn thành chương trình học thạc sĩ rất khó khăn đó và cũng đã tìm được một mái ấm ngọt ngào trên đất nước Italy xinh đẹp. Những tưởng em đang an hưởng những ngày hạnh phúc sau thời gian dài vất vả nhưng hóa ra cô gái bất khuất này vẫn không thể ngồi yên. Dù bản thân đã tìm được bến đỗ nhưng cô vẫn khát khao chia sẻ con đường của mình với những người đi sau, mong mỏi giúp được các bạn bớt khó khăn trong quá trình tìm kiếm cơ hội trên đất Italy. Cuốn sách này là câu chuyện rất chân thực của một cô gái từ kinh nghiệm học tập khi mới bắt đầu vào đại học ở xa nhà, đến kinh nghiệm học tốt ngoại ngữ, kinh nghiệm kiếm được việc làm thêm để trang trải cuộc sống và đỡ đần gia đình… Những chia sẻ về những ngày đầu đi làm, kinh nghiệm làm hồ sơ, va chạm/hòa nhập với nơi làm việc mới sẽ rất đáng quý với những bạn trẻ đang chuẩn bị bước vào đời. Đặc biệt, câu chuyện của em về quá trình xin học bổng, làm visa đi Italy, rồi việc học tập, định cư ở nơi xa xôi ấy chắc chắn sẽ rất hấp dẫn người đọc. Trên hết, cuốn sách này là một bài ca về nghị lực sống, về tinh thần vượt khó vươn lên của một cô gái Việt, một người đã biết vượt lên không chỉ những khó khăn, cản trở đặc trưng với một phụ nữ Á Đông mà còn biết dung hòa giữa nghĩa vụ gia đình và khát vọng sống của bản thân. Những gì Thủy Anh đã làm được sẽ tạo động lực cho rất nhiều bạn gái trẻ đang chuẩn bị vào đời, giúp các em thêm tin tưởng vào quyền được hạnh phúc, vào giá trị bản thân của người phụ nữ, giúp củng cố niềm tin là chỉ cần nỗ lực bền bỉ, AI CŨNG CÓ QUYỀN VÀ CÓ THỂ ĐƯỢC HẠNH PHÚC! Tháng 9 năm 2017 PGS. TS. NGUYỄN HOÀNG ÁNH - Giảng viên Đại học Ngoại thương Hà Nội *** Quá trình chuẩn bị cho chuyến du lịch Ý năm 2014 Vấn đề đầu tiên là “TIỀN ĐÂU” T ừ lúc tôi có ý định đi du lịch Ý cho đến khi tôi thực hiện được kế hoạch của mình là 1 năm. Tôi dự định phải có ít nhất 50 triệu đồng cho chuyến đi đó. Điều này thì tùy kế hoạch, khả năng thu nhập và cách chi tiêu của mỗi người. Tôi quyết định hạn chế tối đa những chuyến đi nhỏ và ngắn ngày để dành ngày nghỉ phép ở công ty và mỗi tháng cố gắng tiết kiệm ít nhất 5 triệu. Dĩ nhiên là tôi phá vỡ kế hoạch liên tục vì tôi có rất nhiều khoản phát sinh. Nếu muốn ta sẽ tìm cách, khi không muốn ta sẽ tìm lý do. Lên danh sách chi phí hành trình: ba khoản cơ bản tốn kém nhất là: di chuyển (vé máy bay, vé tàu, vé buýt…); ở (hostel, homestay…) và ăn. Ngoài ra còn tiền vé cho một số điểm tham quan và các chi phí phát sinh. Học tiếng Ý: Tôi bắt đầu học tiếng Ý 1 tuần 3 buổi tại trung tâm Dante, 16 Lê Phụng Hiểu. Sau 1 năm thì tôi học được bốn khóa, đi học rất vui vì biết nhiều hơn về văn hóa, ẩm thực, con người, lịch sử… nước Ý. Học tiếng Ý là quyết định rất sáng suốt vì người dân Ý không dùng tiếng Anh nhiều. Chưa kể việc làm quen và bắt chuyện với người dân địa phương giúp tôi biết thêm rất nhiều điều thú vị. Biết thêm một ngôn ngữ thấy mình bước thêm được một bước ra thế giới rộng lớn và bao la. Xin VISA Tôi tự tìm hiểu trên các diễn đàn để tìm hiểu thông tin xin visa Schengen. Hồ sơ của tôi là phụ nữ độc thân đi du lịch tự túc nên khả năng cao là sẽ bị từ chối thẳng. Với kinh nghiệm sau vài năm đi làm và thường xuyên đến các đại sứ quán Đức, Nhật… để xin visa cho sếp và cho các chuyến đi công tác của mình thì tôi thấy không gì là không thể. Cứ chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ như theo yêu cầu của đại sứ quán. Trang web và hướng dẫn thủ tục của Đại sứ quán Ý: www.ambhanoi.esteri.it/ambasciata_hanoi/vi/informazioni_e_servizi/visti Thủ tục yêu cầu như sau: Thị thực du lịch (Thời gian lưu trú tối đa: 90 ngày) 1. Đơn xin cấp visa. 2. 2 ảnh cỡ 4x6 (nền trắng, yêu cầu chụp ảnh để xin visa châu Âu). 3. Hộ chiếu còn giá trị sử dụng ít nhất 3 tháng tính từ ngày hết hạn visa được cấp. 4. Đặt vé máy bay hoặc vé máy bay khứ hồi. (Cái này chỉ yêu cầu đặt vé thôi. Mọi người có thể nhờ phòng vé đặt hộ cho phần này. Bao giờ có visa mà yêu cầu phải xuất vé bay thì mới mua. Tôi đặt online trên trang của Cathay. Đến phần thanh toán tôi chọn thanh toán sau, nó sẽ tự động gửi về mail xác nhận đặt phòng cho hành trình mình chọn. Tôi in cái này ra và nộp cho đại sứ quán. Trường hợp của tôi có visa, không yêu cầu phải xuất vé vì vậy sau này tôi mới mua vé.) 5. Bằng chứng về nơi ở tại Ý: biên lai đặt tour du lịch, đặt khách sạn hoặc thư mời nếu có người mời từ Ý (trong trường hợp có người mời từ Ý, yêu cầu thư mời làm theo mẫu của Sứ quán quy định). Thư mời này yêu cầu 2 bản: một bản fax hoặc e-mail trực tiếp từ Ý đến Phòng Visa Đại sứ quán Ý tại Hà nội (Fax: +84 439351179, e-mail: [email protected]) và một bản do người nộp hồ sơ trình tại thời điểm nộp hồ sơ cùng những giấy tờ khác. Trước khi làm thị thực du lịch tôi làm thêm một cái gọi là lịch trình cơ bản cho 20 ngày: đi đâu, bằng phương tiện gì, tham quan những đâu… Càng chi tiết càng tốt vì sẽ thể hiện rõ mong muốn du lịch của mình và tìm hiểu kỹ những nơi đi. Vì tôi muốn xin visa Schengen nên tôi cho thêm vào lịch trình là 3 ngày ở Paris (nếu chỉ du lịch ở Ý, thông thường đại sứ quán sẽ chỉ cấp visa National ở Ý thôi). Vì lịch trình có Paris nên tôi phải có vé bay hoặc bằng chứng đi lại, ăn ở tại Paris. Tôi xuất vé của Ryan Air vé rẻ khứ hồi tầm 60 Euro (Roma – Paris, Paris – Milan) nên trường hợp có bị từ chối hoặc thay đổi lịch trình cũng đỡ tiếc. Tôi thường đặt khách sạn trên www.booking.com theo lịch trình của mình. Tôi chỉ chọn những khách sạn cho hủy miễn phí (free cancellation) để đặt. Sau khi đặt xong sẽ có xác nhận gửi về e-mail. Tôi in ra và nộp cho Đại sứ quán. Có visa rồi thì tôi hủy hết các đặt phòng trước và đặt các hostel theo lịch trình thực tế của mình. Trường hợp bạn nào có thư mời ở homestay thì có thể dùng thư mời theo mẫu trên website của Đại sứ quán Ý, điền các thông tin và ghi rõ mình ở đó trong khoảng thời gian nào. Lưu ý là phần chi phí bạn phải ghi rõ là bạn chịu hết nếu không Đại sứ quán sẽ yêu cầu mục 6 (bảo lãnh ngân hàng). Tôi dùng booking toàn bộ ở khách sạn để tránh việc Đại sứ quán hỏi về mối quan hệ hay đòi thêm các giấy tờ từ người mời. 6. Bảo lãnh ngân hàng (atto di fideiussione bancaria) mở tại ngân hàng của Ý. Chỉ dùng trong trường hợp người mời đài thọ hết các chi phí để chứng minh là người mời có đủ khả năng tài chính chi trả cho chuyến đi của bạn. Việc bảo lãnh ngân hàng ở Ý khá phức tạp nên sẽ gây phiền cho người mời. Nếu thực sự thân quen và bạn không có đủ năng lực chứng minh tài chính thì mới nên dùng cách này. 7. Chứng minh khả năng tài chính (bản sao kê tài khoản ngân hàng 6 tháng cuối, sổ tiết kiệm, giấy báo tài khoản ngân hàng và giấy tờ nhà đất, xe cộ, thẻ tín dụng, thẻ visa, v.v..). Tôi nộp bản sao kê tài khoản lương 6 tháng (chứng minh mình có thu nhập đều đặn), hạn mức tín dụng, xác nhận số dư (thể hiện toàn bộ các khoản thu nhập mình có), sổ tiết kiệm trị giá 100 triệu đồng (theo như tôi biết yêu cầu tối thiểu khoảng 5.000 đô-la, mức đó không có thông báo chính thức nhưng tôi vẫn chuẩn bị sẵn). 8. Giấy tờ chứng minh công việc: Trường hợp đi làm phải có giấy đồng ý nghỉ phép của công ty + hợp đồng lao động. Tôi nộp hợp đồng lao động và giấy đồng ý nghỉ phép của công ty có chữ ký của sếp và đóng dấu công ty. Tất cả giấy tờ đều bằng tiếng Anh. 9. Bảo hiểm du lịch, bảo hiểm y tế với mức tối thiểu là 30.000 Euro cho việc cấp cứu, viện phí khẩn cấp và các chi phí hồi hương. Tôi mua của Gras Savoye Willis Vietnam phí bảo hiểm là 27 đô-la cho 22 ngày. Trường hợp không được cấp visa có thể hủy và lấy lại tiền (tham khảo tại website: www.grassavoyewillis-vn.com). Tôi chuẩn bị đầy đủ giấy tờ và viết thêm một lá thư gửi Đại sứ quán ghi rõ công việc hiện tại của mình, lý do tôi muốn đi châu Âu để du lịch chứ không định ở lại sau chuyến đi. Thời gian nộp hồ sơ ở Đại sứ quán Ý khi đó là: Thứ Hai, thứ Ba, thứ Năm từ 9:00-11:00: Nhận và trả hồ sơ xin thị thực. 11:00-12:30: Lấy dấu vân tay. Thứ Tư: 14:00-15:00: Nhận và trả hồ sơ xin thị thực. 15:00 - 16:00: Lấy dấu vân tay. Thứ Sáu: đóng cửa. Lúc nộp hồ sơ sẽ phải lấy luôn dấu vân tay ở cả hai bàn tay. Sáng thứ Hai tôi nộp hồ sơ thì đến thứ Ba tôi nhận được điện thoại hẹn phỏng vấn vào tuần sau và yêu cầu bổ sung thêm lịch trình đi Paris. Đúng ngày hẹn, tôi lên nộp nốt giấy tờ và phỏng vấn. Đại sứ quán chỉ xác nhận lại có đúng tôi đang làm ở công ty này không và có phải là lần đầu đi Ý không. Tôi trả lời là đúng và mong muốn nguyện vọng của mình thành hiện thực và bên Đại sứ quán đã chấp nhận. Chào mừng đến với nước Ý. Cảm giác cầm visa Schengen trên tay mà tôi rưng rưng xúc động. Không có gì là không thể nếu mình không thử và cố gắng hết sức vì nó. Mời các bạn đón đọc Italy, Đi Rồi Sẽ Đến của tác giả Fanara Lê.
Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới
Định nghĩa về “công dân toàn cầu” T hành công của dự án “Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới” là một ví dụ minh họa cho sự toàn cầu hóa của thế giới ngày nay. Trang web và trang Facebook của nhóm Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới được thành lập vào giữa tháng Tám năm 2015, khi ba người bạn trong độ tuổi đôi mươi lại một lần nữa bước vào các cuộc hành trình mới ở những mảnh đất xa lạ. Phạm Anh Đức từ Cộng Hòa Séc chuyển sang London, Anh để bắt tay vào xây dựng một dự án khởi nghiệp. Hồ Thu Hương sắp di cư từ Vancouver, Canada tới Boston, Hoa Kỳ để sinh sống với chồng cô là người Mexico. Còn Nguyễn Phan Linh vừa được công ty truyền thông xã hội của Cộng Hòa Séc cử sang Singapore làm việc cho chi nhánh mới mở của họ. Ba con người, ba châu lục với một niềm quyết tâm: mong muốn giúp đỡ thế hệ trẻ Việt Nam trở thành những công dân toàn cầu. Không có một định nghĩa cụ thể về công dân toàn cầu. Nếu hỏi một trăm người, thì cả trăm sẽ giải thích cho bạn về cụm từ này bằng những cách khác nhau. Đối với những người theo dõi Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới, thì công dân toàn cầu là: “... tự tin đi muôn nơi.” Bùi Mỹ Huyền, Hà Nội “... người không ngừng trải nghiệm, kết nối, học hỏi và hoàn thiện bản thân.” Nguyễn Hoàng Linh Chi, Thành phố Hồ Chí Minh “... người có tư duy toàn cầu. Chia sẻ những vấn đề lớn chung của toàn cầu và họ phải hiểu được toàn cầu hóa không loại bỏ bản sắc riêng.” Đinh Thị Mỹ Linh, Quảng Ninh “... một con người của mọi quốc gia, sẵn sàng học hỏi, sẵn sàng giúp đỡ, sẵn sàng hòa nhập và hài hòa với thế giới.” Lâm Bảo Nhi, Cần Thơ “... trưởng thành hơn trong suy nghĩ, có mục tiêu trong cuộc sống, tự tin hơn trong giao tiếp, làm quen được nhiều bạn bè mang nhiều quốc tịch và đặc biệt là sống có ích hơn.” Trần Thị Thu Lợi, Hàn Quốc Theo Ronald Israel, người sáng lập ra tổ chức The Global Citizens’ Initiative, “công dân toàn cầu là người coi bản thân là một phần của cộng đồng thế giới đang lớn dần và hành động của người đó đóng góp vào việc xây dựng các giá trị và thông lệ của cộng đồng này.”1 Theo các tác giả của cuốn sách này, bạn đã có những phẩm chất của một công dân toàn cầu khi: ✓ Bạn đã từng sinh sống tại các quốc gia khác nhau trên thế giới; ✓ Bạn biết và sử dụng được từ hai ngoại ngữ trở lên; ✓ Bạn coi trọng những ý kiến và cách suy nghĩ đa chiều (nhưng không nhất thiết là bạn phải đồng ý với chúng); ✓ Bạn không có những định kiến đối với những người bạn không quen biết; ✓ Bạn quan tâm đến các vấn đề và tin tức toàn cầu; ✓ Bạn không ngại thay đổi và trải nghiệm những điều mới mẻ; ✓ Bạn thích nghi dễ dàng trong một môi trường mới; ✓ Bạn không ngại đối phó với bất cứ trở ngại nào trên con đường dẫn đến mục tiêu và không chịu bỏ cuộc; ✓ Bạn biết tự tìm kiếm các thông tin cần thiết và biết sử dụng các thông tin đó một cách hiệu quả; ✓ Bạn không gặp vấn đề khi tiếp xúc với những con người khác nhau vì bạn biết cách cư xử trong môi trường đa văn hóa. Có khá nhiều nhân vật cả trong lịch sử lẫn hiện đại ủng hộ quan niệm “công dân toàn cầu”. Diogenes2 thành Sinope từ thế kỷ thứ V trước Công nguyên đã từng tuyên bố là: “Tôi là công dân của thế giới.”3 Albert Einstein cũng đã coi mình là công dân của thế giới và đã tuyên bố trước Hội Triết học Pháp tại trường Đại học Sorbonne vào năm 1922: “Nếu như những lý thuyết của tôi đề ra là đúng thì người Đức sẽ nói tôi chính gốc là người Đức. Người Pháp sẽ nói tôi là công dân quốc tế. Nếu sau này có những chứng minh cho rằng lý thuyết của tôi đề ra còn có những thiếu sót, thì người Pháp sẽ nói tôi đã từng là người Đức và người Đức sẽ nói tôi là một tên Do Thái.”4 Tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống của chúng ta đang ngày càng trở nên toàn cầu hóa: chúng ta có thể giao tiếp với toàn thế giới qua Internet, chúng ta quan tâm tới những vấn đề của toàn cầu, chúng ta yêu, nghe nhạc, xem phim, ăn đồ ăn và đi du lịch xuyên quốc gia. Có thể nói là mỗi người trong chúng ta đều có một phần là công dân toàn cầu. Trở thành công dân toàn cầu cũng đồng nghĩa với việc bạn trở thành một con người tốt hơn: bạn đồng cảm với người khác, bạn biết cách lắng nghe và giúp đỡ người khác, bạn biết nhiều ngôn ngữ, bạn có thể sống mọi nơi, mọi người quý mến bạn vì bạn là một người hòa đồng và cởi mở, bạn thông minh vì ham học hỏi, bạn rất năng động và có ý chí lớn. Trong những năm trở lại đây, nhất là sau khi bản Tuyên ngôn Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc được ký kết, có khá nhiều những tổ chức phi chính phủ được mở ra để ủng hộ và phát triển định nghĩa “công dân toàn cầu”. Chẳng hạn như tổ chức “Global Citizen” có trụ sở tại Đan Mạch hằng năm tổ chức các lễ hội âm nhạc với những ca sĩ và ban nhạc nổi tiếng thế giới, như Stevie Wonder, Alicia Keys, Beyoncé, Coldplay hay Ed Sheeran. Mục đích của sự kiện là kêu gọi người dân trên toàn thế giới quan tâm và giúp đỡ chấm dứt sự nghèo đói từ nay đến năm 2030 (đây cũng là mục đích chính trong Những mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc). Các tổ chức phi chính phủ khác như The Global Citizens’ Initiative (theglobalcitizensinitiative.org) có trụ sở ở tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ, Citizens For Global Solutions (globalsolutions.org) với trụ sở ở Thủ đô Washington D.C, Hoa Kỳ hay The Global Citizen Forum (gcfnetwork.org) có trụ sở ở Singapore đều quyết tâm đấu tranh với những vấn đề nan giải của thế giới. Biết đa ngôn ngữ hay sống tại đa quốc gia chỉ là bước đầu trên con đường của những công dân toàn cầu. Bước tiếp theo mới là bước chủ chốt: bắt tay vào giúp đỡ và góp phần cho sự phát triển của thế giới. Các tổ chức quốc tế lớn cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của việc hợp tác toàn cầu và đã hình thành những bộ phận chú trọng đến những vấn đề đó. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã phát động một chương trình mang tên “Giáo dục công dân toàn cầu” nhằm giúp đỡ người dân trở thành những con người đóng góp tích cực cho các hoạt động để giải quyết và đối mặt với các thách thức toàn cầu, hướng tới một thế giới hòa bình hơn, an toàn hơn và khoan dung hơn. Những tổ chức thanh niên và sinh viên như AIESEC (aiesec.org) hay Global Shapers (www.globalshapers.org) và những tổ chức cho học sinh và thanh thiếu niên như Global Kids (www.globalkids.org) hay Global Kids Connect (www.globalkidsconnect.org) đều tạo ra nhiều cơ hội cho giới trẻ trở thành những công dân toàn cầu tương lai. Ngày nay, khi ra nước ngoài du lịch, học tập hay làm việc không còn là một đặc quyền của những người giàu có, mỗi người trong chúng ta đều có thể trở thành công dân toàn cầu nếu chúng ta mong muốn. Chúng ta không có quyền chọn nơi mình sinh ra, nhưng chúng ta có quyền chọn nơi chúng ta muốn sinh sống và phát triển. Nhưng khởi đầu con đường vươn tới thế giới như thế nào không phải là một chuyện giản đơn, mà cần có sự chuẩn bị kỹ càng và ý chí rất lớn để có thể vượt qua khó khăn trên các chặng đường. Khái niệm về công dân toàn cầu cũng bắt đầu phát triển tại Việt Nam. Đất nước của chúng ta không hề ít những con người đa quốc gia và đa ngôn ngữ, với những người trẻ tuổi và tài ba như hoa hậu Ngô Phương Lan (xuất thân từ gia đình ngoại giao, cô đã từng sinh sống và học tập tại Thụy Sĩ, Pháp và Hoa Kỳ), nhà thiết kế Anna Võ (tên thật là Võ Ngọc Thúy Anh, cô đã từng hoàn tất các khóa học tại Anh, Hoa Kỳ và Ý), ca sĩ Bảo Hân của Paris By Night (cô đã lớn lên tại Áo, từng sống tại Canada và hiện đang định cư tại Hoa Kỳ) hay chủ chuỗi cửa hàng The KAfe Đào Chi Anh (sinh ở Nga, sống một thời gian dài ở Đức và Đài Loan, sau đó làm việc ở Singapore trước khi trở về Việt Nam lập nghiệp). Ba tác giả trẻ tuổi của cuốn sách bạn đang cầm trên tay cũng là những công dân toàn cầu điển hình khi cả ba đều đã từng sống, học tập và làm việc tại nhiều quốc gia trên thế giới, mặc dù họ vừa mới rời ghế nhà trường. Đức sinh ra ở Hà Nội và lớn lên tại Praha (Cộng Hòa Séc). Bên cạnh đó, anh đã sống tại Brasília (Brazil), Lyon (Pháp) và London (Anh). Hiện anh đang làm việc tại Thượng Hải (Trung Quốc). Anh sử dụng thành thạo các thứ tiếng: Việt, Séc, Anh và Pháp và đang học tiếng Trung Quốc. Hương sinh ra ở Hà Nội và lớn lên tại Havířov và Praha (Cộng Hòa Séc). Bên cạnh đó, cô đã từng sống tại Buenos Aires (Argentina), thành phố Mexico (Mexico) và Vancouver (Canada). Hiện cô đang định cư ở Boston (Hoa Kỳ). Cô sử dụng được các thứ tiếng: Việt, Séc, Anh, Pháp và Tây Ban Nha. Linh sinh ra và lớn lên tại Nghệ An. Anh từng sống tại Palmerston North (New Zealand) và Praha (Cộng Hòa Séc). Hiện nay, anh đang làm việc tại Singapore. Linh nói được tiếng Việt, tiếng Anh và đang học tiếng Séc và Đức. Họ gặp nhau ở trường Đại học Kinh tế Praha tại Cộng Hòa Séc, và như những con người toàn cầu thực sự, sau khi tốt nghiệp họ đã chọn cho mình những hướng đi khác nhau. Nhưng cả ba có một điểm chung: họ đều là những người đã tận dụng những cơ hội quý báu để trở thành công dân toàn cầu. Khi còn ngồi trên giảng đường đại học, cả ba đều là những người có nhiều hoài bão. Họ mơ ước được mang quyển hộ chiếu Việt Nam đi khắp thế giới, để chứng tỏ với mọi người là họ vẫn có thể đến bất cứ quốc gia nào họ muốn với tấm hộ chiếu từ một “đất nước thứ ba”. Trong cuốn sách Hộ chiếu xanh đi quanh thế giới: Những bước để trở thành công dân toàn cầu, ba tác giả sẽ giới thiệu những bí quyết để trở thành công dân toàn cầu, chia sẻ những kinh nghiệm của họ cũng như giúp bạn vạch hướng đi ra thế giới. Từ khi bắt đầu dự án Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới, các tác giả đã tổ chức những buổi giao lưu và nói chuyện thường xuyên với những bạn trẻ ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài, vì họ tin rằng học hỏi kinh nghiệm và tri thức từ những người đi trước là cách tốt nhất và hiệu quả nhất để mọi người có thể thực hiện được ước mơ của mình. Những chi tiết và câu chuyện trong cuốn sách này đã được thu thập lại từ những buổi giao lưu như vậy. Cuốn sách không chỉ mang lại cho độc giả những câu chuyện và kinh nghiệm của các tác giả, mà nó còn được viết với mục đích truyền động lực và cung cấp các công cụ để độc giả tìm được những giá trị và niềm đam mê của bản thân, và tìm được hướng đi thích hợp cho mình. Mục đích chính của cuốn sách không chỉ là để đọc, suy ngẫm và rút ra những bài học, mà đây còn là một cuốn sách kêu gọi hành động. Đây chính là một cẩm nang dành cho bất cứ ai có nguyện vọng hoàn thiện bản thân và sánh vai cùng các công dân toàn cầu. Sự di chuyển dễ dàng tạo ra nhiều cơ hội mới, nhưng cũng dẫn tới nhiều sự cạnh tranh. Càng chuẩn bị sớm và kỹ càng cho thế giới toàn cầu hóa ngày nay, bạn sẽ càng sớm được thưởng thức những hương vị của toàn cầu. Vậy hãy cầm cuốn hộ chiếu xanh của bạn đi quanh thế giới cùng Đức, Hương và Linh nhé! Mời các bạn đón đọc Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới của tác giả Hồ Thu Hương & Nguyễn Phan Linh & Phạm Anh Đức.