Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? - Richard David Precht

Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy. Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ. Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học. Sách chia được chia làm ba phần: 1) Tôi có thể biết gì? - tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác. 2) Tôi nên làm gì? - giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, phá thai, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác. 3) Tôi có thể hy vọng gì? - xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người! *** ôi có thể biết được gì? Sils Maria Loài thú tinh khôn trong vũ trụ. Sự Thật là gì? “Ở một xó xỉnh nào đó của vũ trụ bao la với hằng hà hệ thống mặt trời lung linh có một hành tinh, trên đó có những con vật tinh khôn khám phá ra sự hiểu biết. đó là giây phút kiêu hãnh và dễ hiểu lầm nhất của „lịch sử thế giới”: nhưng chỉ kéo dài một giây phút mà thôi. Sau vài nhịp thở của thiên nhiên, hành tinh khô cứng lại, và loài thú khôn ngoan sống trên đó phải chết. đấy có thể là một câu truyện ngụ ngôn tưởng tượng của một ai đó nghĩ ra. Nhưng câu truyện này cũng chưa nói lên được hết sự nghèo nàn, hư ảo, chóng qua, vô tích sự và tuỳ tiện của trí khôn con người trong thiên nhiên; trí khôn con người không phải là chuyện muôn thủa. Một khi trí khôn đó qua đi, thì mọi sự cũng mất hết dấu vết. Là vì trí khôn này chẳng có thêm sứ mạng nào khác ngoài chính cuộc sống con người. Trí khôn này hoàn toàn mang tính người, và chỉ có người sở hữu và tạo ra nó mới say mê nó, coi nó như là chìa khóa đi vào thế giới. Nếu chúng ta hiểu được loài muỗi, thì chúng ta sẽ nhận ra, là chúng cũng có sự đắm say đó và chúng cũng nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ quay cuồng“.  Con người là một loài vật tinh khôn, nhưng loài vật này lại tự đánh giá mình quá cao. Là bởi vì lí trí của con người không hướng về Chân lí lớn lao, mà chỉ quan tâm tới những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống. Trong lịch sử triết học, có lẽ chẳng có đoạn văn nào mô tả con người thơ mộng và triệt để hơn đoạn trên đây. đó là đoạn mở đầu có lẽ đẹp nhất của một tác phẩm triết học năm 1873 với tựa đề: Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (Về sự thật và dối trá bên ngoài í nghĩa đạo đức). Tác giả của nó là Friedrich Nietzsche, một giáo sư Cổ ngữ học 29 tuổi của đại học Basel, Thuỵ-sĩ.  Nhưng Nietzsche đã không cho xuất bản cuốn sách nói về loài vật tinh khôn và kiêu căng này. Trái lại, ông phải mang thương tích nặng nề, vì đã viết một tác phẩm bàn về nền tảng văn hoá hi-lạp. Những người phê bình khám phá ra sách này là một tài liệu thiếu khoa học và chứa đựng những phỏng đoán vu vơ. Mà quả đúng như thế. Ông bị thiên hạ chê là một thiên tài lạc lối, và danh tiếng một nhà cổ ngữ nơi ông xem ra cũng theo đó mà tiêu tan. Khởi đầu, thiên hạ kì vọng rất nhiều nơi ông. Cậu bé Fritz sinh năm 1844 tại làng Röcken vùng Sachsen và lớn lên tại Naumburg bên bờ sông Saale. Cậu nổi tiếng thần đồng. Cha cậu là một mục sư coi xứ, và mẹ cũng rất đạo đức. Khi Fritz được bốn tuổi thì cha mất, không lâu sau đó người em trai cũng mất. Mẹ đưa cậu về Naumburg, và từ đó Fritz lớn lên trong một gia đình toàn là nữ giới. Hết tiểu học, Fritz vào trung học của giáo phận và sau đó vào một nội trú danh tiếng, đâu đâu cậu cũng được tiếng thông minh. Năm 1864, cậu ghi danh học Ngôn ngữ cổ điển và Thần học tại đại học Bonn. Nhưng sau một bán niên, Fritz bỏ Thần học. Fritz muốn làm mục sư để hài lòng mẹ, nhưng „ông mục sư non“ – tiếng con nít vùng Naumberg vẫn trêu chọc cậu – đã sớm mất niềm tin vào Chúa. Fritz cảm thấy quá tù tùng khi sống với mẹ, với niềm tin và với đời mục sư. Anh quyết định thoát ra khỏi mọi thứ đó, nhưng cuộc chuyển hướng này đã gặm nhấm tâm hồn anh suốt cả đời.  Sau một năm, Nietzsche và vị giáo sư của anh chuyển tới Leipzig. Ông thầy rất quý cậu học trò thông minh của mình, nên đã khuyên anh nhận chân giáo sư tại đại học Basel. Năm 1869, lúc 25 tuổi, Nietzsche trở thành giáo sư thỉnh giảng. đại học Basel cấp tốc trao cho anh bằng tiến sĩ và bằng lên ngạch giáo sư (Habilitation). Ở Thuỵ-sĩ, Nietzsche làm quen với giới văn nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Richard Wagner và bà vợ Cosima, mà Nietzsche đã có dịp gặp ở Leipzig. Nietzsche quá mê nhạc Wagner đến độ cảm hứng viết ra cuốn Die Geburt der Tragödie aus dem Geist der Musik (Tinh thần âm nhạc đã khai sinh ra Bi kịch) vào năm 1872. Cuốn sách là một thất bại, và nó cũng bị quên nhanh. Lí do là vì từ đầu thời Lãng mạn, người ta đã nói tới mâu thuẫn giữa cái gọi là tính „sáng tạo xuất thần“ (Dionysischen) của âm nhạc và cái „thể cách chân phương“ (Appolinischen) của nghệ thuật tạo hình rồi, và kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho thấy, hai cái đó chỉ là những phỏng đoán mà thôi. Thành ra, điều Nietzsche bàn tới trong sách chẳng có gì mới. Hơn nữa, thế giới học giả âu châu thời đó đang bận tâm tới sự hình thành của một bi kịch khác, quan trọng hơn. Một năm trước đó, xuất hiện cuốn sách Về Nguồn Gốc Con Người từ thú vật của Charles Darwin, nhà thần học và thực vật học nổi tiếng người Anh. Từ lâu rồi, ít nhất từ mười hai năm trước khi sách Darwin ra đời, đã có quan điểm cho rằng, con người có thể được tiến hoá dần từ những hình thái nguyên sơ trước đó. Nhưng trong Sự Hình Thành Các Chủng Loại, vì chính Darwin đã hé mở cho biết, có thể con người cũng từ loài vật mà thành, nên tác phẩm bán chạy như tôm tươi. Trong những năm 1860, nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng đi tới một kết luận như vậy, và họ nối con người vào liên hệ với loài khỉ đột vừa được khám phá. Mãi cho tới cuộc thế chiến thứ nhất, Giáo hội Kitô giáo, đặc biệt ở đức, chống lại Darwin và những người ủng hộ ông. Nhưng ngay từ đầu ai cũng biết rằng, sẽ chẳng có một sự lùi bước tự nguyện nào nữa để quay trở về cái vũ trụ quan của thời trước đó. Người ta không còn tin vào chuyện Thiên Chúa là đấng trực tiếp tạo dựng và điều khiển con người nữa. Và các khoa học tự nhiên giờ đây ăn mừng chiến thắng của họ với một hình ảnh về con người rất thực tế: Họ bỏ Thiên Chúa để quay sang quan tâm tới khỉ. Và hình ảnh cao cả của con người như một thụ tạo giống Thiên Chúa bị vỡ ra làm hai: một đàng, sự cao cả này không còn khả tín nữa và đàng khác, con người giờ đây không hơn không kém đượi coi như là một loài thú thông minh mà thôi. Nietzsche phấn chấn vô cùng trước cảnh quan vũ trụ mới đó. Về sau, có lần ông viết: „Tất cả cái mà chúng ta cần, đó là một (công thức) hoá học cho các quan niệm đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và cho những cảm nhận cũng như tất cả những cảm xúc mà ta có được trước những tiếp xúc lớn nhỏ với văn hoá và xã hội, với cả nỗi cô đơn.“ Hơn ba chục năm cuối của thế kỉ 19 nhiều nhà khoa học và triết gia đã đổ công tìm kiếm chính cái hoá học đó: Họ đi tìm một giải thích sinh học cho sự sống mà chẳng cần gì tới Thiên Chúa nữa. Nhưng chính Nietzsche thì lại chẳng quan tâm một tí gì tới cuộc tìm kiếm đó. Ông quan tâm tới chuyện hoàn toàn khác: đâu là í nghĩa của cái nhìn thực tế kia của khoa học đối với thân phận con người? Nó giúp con người lớn lên hay làm nó bé lại? Khi nhìn được rõ hơn về chính mình, con người giờ đây được thêm gì hay lại mất cả chì lẫn chài? Trong tình hình đó, ông viết luận văn Wahrheit und Lüge (Sự thật và dối trá), có lẽ đây là tác phẩm tuyệt nhất của ông. Câu hỏi, con người bé đi hay lớn lên, được Nietzsche trả lời là tuỳ theo tâm trạng. Khi con người bất hạnh – và đây là tâm trạng thường thấy nơi con người – lúc đó họ cảm thấy bị đè nén, hối tiếc và nói ra toàn chuyện dở hơi. Ngược lại, lúc vui vẻ, họ có những cảm xúc tự hào và mơ thành siêu nhân. Có một mâu thuẫn ghê gớm giữa những tưởng tượng ngạo mạn và giọng điệu tự tin sấm sét trong các tác phẩm của Nietzsche và diện mạo thật của ông: một dáng người nhỏ con, hơi phì, nhút nhát. Bộ ria mép lì lợm với một cây lược vừa vặn làm cho khuôn mặt ông mang nét cứng rắn và nam nhi hơn, nhưng nhiều căn bệnh thủa thiếu thời đã ăn mòn thể lực và tinh thần của ông. Ông bị cận nặng, luôn bị dằn vặt bởi những cơn đau bao tử và đau đầu. Năm 35 tuổi, ông cảm thấy kiệt sức hoàn toàn và phải thôi dạy học ở Basel. Có lẽ chứng bệnh lậu, thường được thiên hạ xa gần nói tới, đã góp thêm phần dứt điểm đời ông. Mùa hè năm 1881, hai năm sau khi từ giã đại học, tình cờ Nietzsche khám phá ra một thiên đường hạ giới cho chính mình, đó là địa điểm Sils Maria trong vùng Oberengadin thuộc Thụy-sĩ. Một cảnh trí tuyệt vời, giúp ông có được những phấn chấn và động lực sáng tạo. Từ đó đều đặn hàng năm, ông tới đây để một mình đi dạo và đắm mình trong suy nghĩ. Nhiều tư tưởng hình thành ở đây đã được ông viết ra trong mùa đông ở Rapallo, ở bờ biển địa Trung, ở Genua và ở Nizza. đa số những tư tưởng đó cho thấy Nietzsche là một nhà phê bình bén nhạy, triệt để và có nhiều đòi hỏi về mặt văn chương. Ông đã đánh đúng vào những vết thương của triết học phương tây. Nhưng những đề nghị của riêng ông về một thuyết nhận thức mới và một nền đạo đức mới thì, ngược lại, lại dựa hoàn toàn trên thuyết tiến hoá xã hội chưa chín mùi của Darwin và thường chạy trốn vào trong những thị hiếu thời trang quay cuồng. Thành ra, điều ông viết càng mạnh mẽ bao nhiêu thì lại càng như những quả đấm vào không khí bấy nhiêu. „Thiên Chúa đã chết“ – câu ông viết đi viết lại nhiều lần – thật ra những người đồng thời với ông, cả Darwin và những tác giả khác trước đó, cũng đều đã biết rồi. Năm 1887, khi ngắm nhìn những ngọn núi phủ đầy tuyết của Sils Maria lần cuối, Nietzsche tái khám phá ra sự giới hạn nhận thức của các con vật tinh khôn, mà ông đã có lần đề cập tới trong một luận văn trước đây của mình. Trong tác phẩm bút chiến Zur Genealogie der Moral (Về hệ tộc của đạo đức), ông mở đầu với câu: „Chúng ta, những kẻ có khả năng nhận biết, lại chẳng biết mình là ai, chúng ta chẳng biết chính mình: điều này không lạ gì cả. Chúng ta đã chẳng bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó chúng ta nhận ra ta?“ Nietzsche thường dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nói về chính mình; ông thường nói về một loài vật rất đặc biệt, mà ông là người đầu tiên mô tả: „Gia tài của chúng ta ở nơi các tổ ong nhận thức của chúng ta. Chúng ta được sinh ra như những con vật có cánh và những kẻ góp mật của tinh thần, luôn trên đường tìm tới các tổ ong kia, chúng ta chỉ thích quan tâm tới một điều mà thôi, đó là „mang về nhà“ cho mình một cái gì đó”. Nietzsche chẳng còn nhiều thời gian để sáng tác. Hai năm sau, ông bị suy sụp thần kinh khi còn ở Turin. Bà mẹ mang đứa con 44 tuổi từ Íđại-lợi về một bệnh viện ở Jena. Sau đó, ông sống với mẹ, nhưng chẳng còn viết được gì nữa. Tám năm sau, mẹ mất, ông phải sống với cô em gái khó ưa của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1900 ông mất ở Weimar, thọ 55 tuổi. Lòng tự tin của Nietzsche, điều mà ông luôn biện hộ bằng giấy bút, thật lớn: „Tôi biết số phận của tôi, nó sẽ gắn liền với tên tuổi của tôi và làm cho người ta nhớ tới một điều gì khủng khiếp“. Quả thật, cái khủng khiếp đó đã biến ông trở thành một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ hai mươi đang đến. Vậy đâu là nội dung của cái lớn lao đó? đóng góp lớn nhất của Nietzsche là sự phê bình hăng say và triệt để của ông. Hơn tất cả các triết gia trước đó, ông say mê vạch ra cho thấy cái hống hách và ngớ ngẩn của con người, khi họ dùng tiêu chuẩn lô-gích và sự thật của „chủng vật người“ để đánh giá thế giới mà họ đang sống trên đó. „Loài thú tinh khôn“ nghĩ rằng, chúng có một vị trí đặc biệt chẳng loài nào khác có được. Nietzsche trái lại quả quyết rằng, con người không hơn không kém chỉ là một con vật và suy nghĩ của nó cũng không khác chi một con vật, nghĩa là suy nghĩ của nó cũng bị điều chế bởi bản năng và dục vọng, bởi í muốn thô thiển cũng như bởi khả năng nhận thức giới hạn của nó. Như vậy, đa số triết gia tây phương đã lầm, khi họ coi con người là một cái gì đó hoàn toàn đặc biệt, như một thứ máy điện tử có công suất lớn về khả năng tự nhận thức. Có thật con người có thể tự nhận biết mình và nhận biết được thực tại khách quan không? Con người có thật có khả năng đó không? Hầu hết triết gia trước nay đều trả lời có. Cũng có một vài triết gia chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi đó. Họ đương nhiên cho rằng, trí khôn của con người cũng đồng thời là một thứ tinh anh của hoàn vũ. Họ không coi con người là một loài thú khôn ngoan, mà xác định chúng là một thực thể thuộc vào một cấp hoàn toàn khác. Họ chối bỏ thẳng thừng mọi gia sản phát sinh từ gốc rễ thú vật nơi con người. Hết triết gia này đến triết gia khác ra công đào sâu thêm hố cách ngăn giữa người và thú vật. Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá thiên nhiên sống động là lí trí và trí hiểu của con người, là khả năng suy nghĩ và luận định của nó. Và họ đều cho rằng, cái phần cơ thể thuần tuý vật chất bên ngoài là điều không quan trọng. Và để bảo đảm cho khả năng nhận định đúng đắn của con người, các triết gia đã phải chấp nhận rằng, Thượng đế đã ban cho con người một bộ máy nhận thức đặc biệt. Và với sự trợ giúp của ngài, con người có thể đọc được sự thật về thế giới từ „Cuốn sách thiên nhiên“. Nhưng nếu quả thật Thượng đế đã chết, thì bộ máy nhận thức được ban tặng kia hẳn chỉ có khả năng giới hạn. Và như thế, bộ máy này cũng chỉ là một sản phẩm của thiên nhiên, và cũng như mọi sản phẩm thiên nhiên khác, nó chẳng toàn hảo. Chính quan điểm này Nietzsche đã đọc được của Arthur Schopenhauer: „Chúng ta chung quy chỉ là một thực thể giai đoạn, hữu hạn, chóng qua, như một giấc mơ, như chiếc bóng bay qua“. Và như vậy con người làm sao có được một „trí khôn có thể nắm bắt được những cái đời đời, vô tận, tuyệt đối?“ Khả năng nhận thức của con người, như qua linh cảm của Schopenhauer và Nietzsche, trực tiếp lệ thuộc vào những đòi hỏi của tiến trình thích ứng tiến hoá. Con người chỉ có thể nhận biết được điều mà bộ máy nhận thức của nó, vốn được hình thành qua cuộc đấu tranh sinh tồn, cho phép nó hiểu mà thôi. Như bất cứ mọi loài thú khác, con người đổ khuôn thế giới theo các giác quan và nhận thức của mình. điều này hẳn rõ: Mọi nhận thức của chúng ta tuỳ thuộc trước hết vào các giác quan của chúng ta. Những gì không thể thấy, nghe, cảm, nếm và sờ, ta không nhận biết được chúng và chúng cũng không có mặt trong thế giới của chúng ta. Ngay cả những gì trừu tượng nhất, chúng ta cũng phải tìm cách đọc hay có thể nhìn chúng như là những dấu chỉ, thì mới hình dung ra được chúng. Như vậy, để có thể có được một vũ trụ quan hoàn toàn khách quan, con người hẳn phải cần có một bộ máy nhận thức siêu nhân có thể nắm bắt được hết mọi góc cạnh của giác quan: cặp mắt siêu đẳng của đại bàng, khứu giác ngửi xa nhiều cây số của loài gấu, hệ thống đường hông của cá, khả năng biết được động đất của rắn v.v. Nhưng con người không thể có được những thứ đó, và vì thế nó không thể có được cái nhìn khách quan toàn bộ của các sự kiện. Thế giới của chúng ta chẳng bao giờ là cái thế giới như „vốn có của nó“, nó cũng chỉ là cái thế giới của con chó con mèo, của con chim con bọ, không hơn không kém. „Con ơi, thế giới của ta là một cái thùng lớn đầy nước!“, đó là câu giải thích của cá bố cho cá con trong chậu. Cái nhìn không nhân nhượng của Nietzsche về triết học và tôn giáo cho thấy sự ôm đồm bao biện của con người qua những tự định nghĩa của họ (Còn việc chính Nietzsche đặt ra cho thế giới những ôm đồm bao biện mới, thì đây lại là chuyện khác). Í thức con người không nhắm ưu tiên tới câu hỏi: „đâu là sự thật?“. đối với họ, câu hỏi sau đây quan trọng hơn: đâu là điều tốt nhất cho sự sống còn và thành đạt của tôi? Những gì không liên quan trực tiếp tới vấn nạn này xem ra ít có cơ hội có được một vai trò quan trọng trong cuộc tiến hoá loài người. Nietzsche mơ hồ hi vọng rằng, có lẽ sự tự nhận thức của con người ngày càng trở nên sáng suốt hơn, nó có thể tạo cho họ trở thành một „siêu nhân“ và „siêu nhân“ này hẳn sẽ có được khả năng nhận thức lớn hơn. Nhưng điểm này cũng nên cẩn thận. Là vì cho dù những tiến bộ nhân loại đã đạt được cho tới nay trong việc tìm hiểu về nhận thức và về „hoá học“ của con người, kể cả việc có được những máy móc tinh vi nhất và những quan sát bén nhạy nhất trong địa hạt này, chúng ta vẫn phải thú nhận rằng, con người không có khả năng đạt tới được một nhận thức khách quan. Nhưng điều đó chẳng có hại gì lắm. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nhiều, nếu như con người thông suốt được mọi sự về chính mình. Chúng ta có nhất thiết cần đến một chân lí độc lập bay lơ lửng trên đầu chúng ta không? Nhiều khi chính con đường đi cũng là một mục tiêu đẹp rồi, nhất là khi con đường đó lại là lối dẫn vào trong chính ta, lối đi chằng chịt nhưng cũng đầy hấp dẫn. „Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó ta nhận ra ta?“, đó là câu hỏi Nietzsche đã nêu lên trong Genealogie der Moral. Vì thế, giờ đây chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu mình, được chừng nào càng tốt. Nhưng ta sẽ dùng con đường nào, sẽ chọn cách thức nào để thực hiện? Và rồi ra kết quả sẽ ra sao? Nếu mọi nhận thức của chúng ta đều diễn ra trong não bộ và bị lệ thuộ c vào não bộ của loài vật có xương sống, thì tốt nhất ta hãy bắt đầu bằng tìm hiểu ngay não bộ. Và câu hỏi đầu tiên sẽ là: Não bộ đến từ đâu? Và tại sao nó có được cấu trúc như nó hiện có? •Lucy ở trên trời. Chúng ta đến từ đâu? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Richard David Precht.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ký Giả Chuyên Nghiệp: Lý thuyết và Thực hành trong các ngành Truyền Thông Đại Chúng
LỜI DỊCH GIẢ KÝ GIẢ CHUYÊN NGHIỆP là bản dịch cuốn THE PROFESSIONAL JOURNALIST của John Hohenherg, một cuốn sách đang được sinh viên báo chí học và các giới trong các ngành truyền thông đại chúng tìm đọc. Tác giả là giáo sư Báo Chí Học tại Trường Cao Học Báo Chí, Viện Đại Học Columbia, New York từ 1950, và từ 1954 đến nay, Ông là Thư Ký Ủy Ban Cố Vấn các giải thưởng Pulitzer do Viện Đại Học này quản trị. Trước khi đảm nhiệm những chức vụ kể trên, John Hohenherg đã từng là ký giả, trong 25 năm, hoạt động ở Hoa Kỳ cũng như ở ngoại quốc. Năm 1963, ông đã thực hiện một cuộc hành trình qua nhiều thành phố ở Viễn Đông và Nam Á với tư cách một chuyên viên của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Nhờ cuộc hành trình này, ông đã viết được cuốn Between Two Worlds (Giữa Hai Thế Giới) trong đó ông trình bày những liên lạc giữa Á Châu và Hoa Kỳ qua các chính sách, báo chí và dư luận quần chúng. Ngoài ra, ông còn là chuyên viên nghiên cứu báo chí của Trung Tâm Đông Tây (East-West Center) ở Honolulu, Hawaii. Ông viết nhiều cuốn sách chuyên về báo chí học trong số đó có những cuốn: Foreign Correspondence: The Great Reporters and Their Times; The News Media: A Journalist Looks at His Profession; The Pulitzer Prize Story, vân vân. Nhờ những công trình đặc biệt đóng góp cho bộ môn báo chí học, John Hohenherg đã được hai lần giải thưởng Sigma Delta Chi trong những năm 1965 và 1968. Cuốn sách mà chúng tôi phiên dịch đây là nhuận bản lần thứ ba của cuốn THE PROEESSIONAL JOURNALIST do nhà xuất bản Holt, Rinehart và Winston ở Hoa Kỳ phát hành trong năm 1973. Ấn bản thứ nhất đã được ra mắt từ 1960 và được coi như là một tài liêu giáo khoa căn bản cho những ai muốn theo học ngành báo chí. Nhuận bản năm 1969 với nhiều sửa chữa và nhiều tài liệu mới cũng rất được hoan nghênh. So với những bản trước, bản này phong phú hơn nhiều vì trong lời tựa tác giả cho biết có đưa thêm vào rất nhiều tài liệu được cập nhật hóa và thí dụ mới, đề cập nhiều hơn đến các bộ môn truyền thanh, truyền hình, quảng cáo, giao tế quần chúng cũng như các vấn đề mới trong xã hội (tiêu thụ, sinh thái học, vân vân), nghiên cứu sâu rộng hơn các vấn đề xâm phạm đời tư, tự do thông tin và nhất là công việc thâu thập và soạn thảo tin tức, công việc chính yếu của người làm báo. Chúng tôi nhận thấy trong tác phẩm của John Hohenherg, của một người từng lăn lóc nhiều năm trong nghề và hiện đang giữ một địa vị quan trọng trong ngành giáo dục báo chí Mỹ, có nhiều điều hữu ích cho những người muốn tìm hiểu nghề làm báo và làm tin tức trong các bộ môn truyền thông đại chúng nên cố gắng phiên dịch ra Việt ngữ. Tuy nhiên, trong cuốn THE PROFESSIONAL JOURNALIST, vì được soạn thảo cho những người làm báo Anh ngữ nên có một số chi tiết không thích hợp với giới làm báo Việt ngữ ở đây, nhất là những đoạn nói về việc sử dụng Anh ngữ. Bởi vậy, chúng tôi đã bỏ hẳn một số đoạn văn không dịch hoặc chỉ lược dịch một số đoạn văn khác. Dĩ nhiên, đó là công việc giản lược duy nhất và tối thiểu đối với tác phẩm giá trị này. Chúng tôi ước mong cuốn sách dịch này sẽ giúp ích được phần nào cho những ai muốn tìm hiểu kỹ thuật làm báo của nước người đề đem ứng dụng vào nghề này của nước ta ngõ hầu mang lại vài cải tiến nghề nghiệp trong làng báo Việt Nam.   L.T.B. và L.Đ.Đ. *** Trong những năm gần đây, ngành báo chí đã phát triển với quá nhiều chủ đề, vấn đề, thái độ và phương pháp mới khiến cho tôi phải hiệu đính phần lớn cuốn sách THE PROFESSIONAL JOURNALIST trong lần nhuận bản thứ ba này. Cuộc tranh đấu về “quyền được biết” (right to know) của nhân dân đã trở nên gay cấn. Tư thế của nền báo chí tự do và của nhà báo độc lập đã trở thành khó khăn hơn. Kỹ thuật tiến triển mạnh làm cho các phương pháp sản xuất báo chí thay đổi nhanh chóng, nhất là với phong trào bành trướng mạnh ra ngoài trung tâm thành phố và vài ba “tá” băng tần trên đài truyền hình không còn là một ước mơ nữa. Tất nhiên, tinh thần thay đổi trong kỷ nguyên hỗn loạn này đã có ảnh hưởng đến công cuộc giáo dục báo chí ở Hoa Kỳ. Nó sẽ được phản ánh qua những trang sau đây. Trong nhuận bản kỳ này, tôi đã thực hiện hàng trăm sự thay đổi, kèm nhiều thí dụ mới và nhiều trường hợp lịch sử. Những phần về phóng sự điều tra (investigative reporting) và dịch vụ công cộng của báo chí đã được mở rộng thêm cũng như phần nói về luật lệ báo chí bởi vì có sự thay đổi thái độ của tòa án và những phán quyết mới được để lại. Thêm vào đó, có những tài liệu mới về những phần chuyên biệt như giới tiêu thụ hàng hóa, sinh thái học, hội đồng báo chí (press councils) và việc sử dụng những văn kiện “mật”, cùng với những cuộc thảo luận về công việc của các “ký giả mới” (new journalists) và những vấn đề của báo chí truyền thanh và truyền hình. Cuộc phóng người lên cung trăng, những cuộc bang giao mới giữa Hoa Kỳ, Trung Hoa (lục địa) và Nga Sô cùng việc chú tâm đến một lối sống khả quan hơn cho tất cả mọi người Mỹ đã đem đến những kích thước mới cho công việc của ký giả như đã thấy qua vài thành tích mới đây trong công việc của cả báo in lẫn báo phát thanh. Sau hết, trong lần nhuận bản này, tôi dựa nhiều hơn vào những tài liệu của các giải thưởng Pulitzer, đặc biệt là những tài liệu mới với cố gắng là nâng cao những tiêu chuẩn nghề nghiệp của ký giả. Hiệu đính cuốn sách này là công việc thích thú, trước hết bởi vì ấn bản đầu tiên đã được nhiều trường cũng như nhiều tổ chức nghề nghiệp chấp nhận trong chương trình giảng huấn. Về thực chất và các kỹ thuật của nghề báo, trọng điểm vẫn được đặt vào những tiêu chuẩn nghề nghiệp được đem ứng dụng cho các báo ngoại ô và báo tỉnh nhỏ (suburban and small city newspapers) và báo chí phát thanh (broadcast journalism) trong tất cả các giai đoạn. Từ khi đề tài phê bình xã hội (social crititism) đã được trình bày trong cuốn Các Phương Tiện Truyền Thông (The Mass Media), một cuốn sách dùng kèm với cuốn này, đề tài đó thật ra ít được đề cập đến ở đây nhưng không phải là gạt bỏ hẳn. Trong nhuận bản lần này, trách nhiệm báo chí phục vụ quần chúng, tường thuật dư luận, làm tin ở thủ đô Washington và làm thông tín viên hải ngoại, cùng sự quan tâm liên tục về tự do báo chí và xử án công bằng. Nhuận bản mới cũng đề cập nhiều hơn đến sự thực hành và nội dung công việc của báo chí và hãng thông tấn rất ích lợi cho báo đô thị lẫn báo tỉnh và báo ngoại ô. Làm tin về những cuộc xáo trộn trong dân chúng là một trường hợp thích đáng trong lúc này. Cuộc tranh đấu cho bình đẳng là một trường hợp thích đáng khác. Còn nhiều trường hợp nữa mà phần lớn là những vấn đề xã hội to tát của thời đại chúng ta. Cuốn sách được chia làm bốn phần. Phần I trình bày một khái niệm về công việc của ký giả và những phương tiện chính của anh như ngôn ngữ, phương pháp và những thủ tục căn bản. Phần II nói về cách thức sử dụng những phương pháp đó trong ngành báo in cũng như trong ngành bá âm. Phần III chuyên chú vào phóng viên, phần tử nòng cốt của mọi bộ môn báo chí, và bàn về những trách nhiệm, lề lối hành nghề, luân lý chức nghiệp của anh cũng như các luật lệ chi phối báo chí. Phần IV nói đến những khía cạnh mới của báo chí Mỹ, tư trào phục vụ công ích trong các ngành truyền thông, các cách dùng tin đào sâu (depth reporting), diễn giải (interpretation) và phân tích (analysis) trong các cột báo dành cho tin tức (news columns), làm tin về các vấn đề của giới tiêu thụ hàng hóa, về sinh thái học (ecology) cũng như các lãnh vực chuyên biệt khác cùng những thái độ luôn luôn biến chuyển và những đòi hỏi của nghề nghiệp. Tóm lại, hơn 75 trang tài liệu mới và thí dụ mới đã được đem vào nhuận bản lần này. Tôi đặc biệt tri ân Tiến Sĩ Theodore Peterson, Khoa Trưởng Trường Báo Chí và Truyền Thông, Viện Đại Học Illinois, các giáo sư John B. Bremner, thuộc Viện Đại Học Kansas, và Henry F. Schulte, thuộc Viện Đại Học Syracuse, về những lời chỉ dẫn quí báu trong khi làm công việc hiệu đính. Tôi cũng tri ân những vị đã được đề tặng trên cuốn sách này. Tôi chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ tài liệu của những vị sau đây: William Attwood, chủ nhiệm tờ Newsday ở Garden City, New York; Floyd Barger, chủ bút tờ New York Daily News; Barry Bingham Jr., chủ nhiệm và Geoffrey Vincent, chủ bút chủ nhật tờ Louisville Courier Journal và Times; Malcolm A. Borg, phó chủ tịch chấp hành tờ The Record ở New Jersey; Benjamin C. Bradlee, chủ bút tờ Washington Post; Wallace Carroll, Chủ bút tờ Winston-Salem Journal and Sentinel ở Bắc Carolina; Otis Chandler, chủ bút tờ Los Angeles Times; Norman A. Cherniss, chủ bút tờ Riverside Press-Enterprise ở California; Edward R. Cony, chủ bút tờ Wall Street Journal; Reuyen Frank, chủ tịch phân bộ tin tức của hãng NBC; Wes Gallagher, chủ tịch hãng thông tấn The Associated Press, và John O. Koehler, tổng quản trị hãng này; Evarts A. Graham Jr., tổng thư ký tòa soạn tờ Saint Louis Post Dispatch, và David Lipman, phó tổng thư ký tòa soạn báo này; Martin s. Havden, chủ bút tờ Detroit News; James F. Hoge Jr. chủ bút từ Chicago Sun Times; John Hughes, chủ bút tờ Christian Science Monitor; Clayton Kirkpatrick, chủ bút tờ Chicago Tribune; Arthur E. Mayhew, chủ bút tờ Delaware County Times ở Pennsylvania; Bruce H. Mclntyre, chủ bút tờ Pontiac Press ở Michigan; John E. McMullan, chủ bút tờ Philadelphia Inquirer; George Merlis, trong hãng American Broadcasting Company; A.M. Rosenthal, tổng thư ký tòa soạn tờ The New York Times; Richard S. Salant, chủ tịch phân bộ tin tức hãng truyền hình CBS; H.L. Stevenson, chủ bút hãng thông tấn United Press International; Gordon Pates, tổng thư ký tòa soạn tờ San Francisco Chronicle, và Thomas Winship, chủ bút tờ The Boston Globe. Dĩ nhiên, quí vị không phải chịu trách nhiệm về những điều viết trong sách này và tác quyền về những tài liệu được in lại ở đây đã được các tổ chức liên hệ chấp thuận. Lòng tri ân sâu xa nhất, một lân nữa được gửi đến tiện nội Dorothy Lannuier Hohenherg. Đối với thế hệ ký giả mới, tôi xin chúc các bạn may mắn, mạnh khỏe và đạt nhiều thành tích. Viện Đại Học Columbia John Hohenherg Tháng Tám 1972 Mời các bạn đón đọc Ký Giả Chuyên Nghiệp: Lý thuyết và Thực hành trong các ngành Truyền Thông Đại Chúng của tác giả John Hohenberg.
Bạn Chỉ Tưởng Là Mình Đang Rất Cố Gắng
"Trông bề ngoài ngày nào cũng thức khuya, nhưng lại chỉ cầm điện thoại like dạo; trông bề ngoài đi học thật sớm, nhưng trong giảng đường lại chỉ ngủ bù giấc đêm qua, trông bề ngoài ngồi cả ngày trong thư viện, nhưng thực ra chỉ bần thần suốt cả một ngày; trông bề ngoài là đến phòng tập gym, nhưng chỉ để bắt chuyện với mấy anh đẹp trai, mấy nàng xinh gá Bạn thực sự đã cố gắng hay chưa, hay chỉ tưởng là mình đang cố gắng?" Vì sao bạn cố gắng mãi mà không đạt được kết quả như ý? Vì sao ngày nào bạn cũng bận bịu mà chẳng thu được gì? Trong khi đó, có những người đang thực sự sống cuộc sống mà bạn mong muốn. "Bạn chỉ tưởng là mình đang rất cố gắng" là tác phẩm hiện vẫn nằm trong top bán chạy nhất ở Trung Quốc, với 2 triệu bản được tiêu thụ, của cây viết trẻ Lý Thượng Long, mang đến rất nhiều câu chuyện chân thực xoay quanh tác giả, và những chiêm nghiệm, suy nghĩ tràn đầy cảm hứng, giúp cho người trẻ thay đổi tư duy, lối sống trong xã hội hối hả, dễ làm ta mất tập trung, mất phương hướng hôm nay. *** Vì sao bạn cố gắng mãi mà không đạt được thành quả như ý? Vì sao ngày nào bạn cũng bận bịu mà chẳng thu được gì?  Mình chỉ muốn hỏi bạn: Bạn đã cố gắng thật chưa, hay chỉ tưởng là mình đang cố gắng? Có lúc bạn cảm thấy cuộc sống sao mà bất công thế, không lẽ những gì mình làm còn chưa đủ hay sao. Một số người thì gặp tình huống này ở vài lĩnh vực trong cuộc sống, nhưng có những người họ làm gì cũng gặp, đi đâu cũng thấy. Những câu chuyện trong cuốn sách mang đầy hơi thở của cuộc sống, phản chiếu suy nghĩ và khát vọng của lứa tuổi thanh niên tràn đầy nhiệt huyết. Phải chăng: “Cuộc sống không phải do bản thân trải nghiệm thì không đáng sống”, cố gắng mà không hiểu rõ mình đang cố gắng vì điều gì, lại càng không xứng đáng. Là những trưởng thành của con người khi thời gian trôi qua, ngày hôm nay nhìn lại chúng ta thật khác so với mình của ngày hôm qua. Trường ca về sự trưởng thành của những người trẻ được vun đắp cùng những câu chuyện trong ba phần của Bạn chỉ tưởng là mình đang rất cố gắng. Bài hùng ca ấy được thế hệ trẻ chúng ta đồng thanh cất lên: khi mới bước vào đời, chúng ta mang niềm tin mãnh liệt cùng những suy nghĩ chứng minh bản thân to lớn biết bao nhiêu; khi lớn hơn vài tuổi, chúng ta trải qua những sự mất mát và có những bài học đầu tiên từ nghịch cảnh; và rồi chúng ta đều phải hoàn thiện bản thân, chúng ta phải chấp nhận hiện thực, biết buông bỏ lợi ích cá nhân để những người xung quanh ta được hạnh phúc. Cuốn sách không được tác giả viết ra với những tiêu đề như thế, nhưng ai đã trải qua ngày tháng hăm hở của một tuổi trẻ đều có thể nhận ra. Cuốn sách không được tác giả viết ra nhằm để kể câu chuyện của mình, cũng không để xây dựng một hệ thống người hâm mộ, mà chỉ đơn giản là để thấu hiểu nỗi lòng của người trẻ khi đứng trước lựa chọn: một bên là vực thẳm, bên còn lại là núi cao. Giỏi thôi chưa đủ, bạn có phải không thể thay thế hay không? Có phải bạn đã từng thấy một người giỏi giang vẫn bị công ty lí tưởng của mình từ chối, bị giấc mơ của anh ấy cự tuyệt từ ngoài cửa? Trên thực tế, bạn chỉ cần vẫn còn đọc sách, mỗi ngày không ngủ đến tận trưa, không chơi game đến nửa đêm, không uống rượu tới tận khi trời sáng; vậy bạn chính là một trong số những người đang nỗ lực, một người luôn nhìn về phía mặt trời, luôn nhìn về phía tương lai, nhất định là một người giỏi giang. Sự giỏi giang đó liệu có là đủ hay không? Ở những thành phố lớn, thứ nhiều nhất chính là giấc mơ, thứ không thiếu nhất chính là những người giỏi. Vậy trong vô số những người giỏi đó, một người được chọn cũng đồng nghĩa với một người mất đi cơ hội, thế thôi. Khi bước vào cuộc sống, chúng ta phải học cách quen với tư duy không thể thay thế: một người công nhân cắt cỏ ngày ngày làm xong phần việc của mình cho một gia đình, cứ khoảng ba tháng anh lại lấy một số điện thoại lạ để gọi cho người chủ của mình để hỏi: “Thưa Bà, nhà Bà hiện có tuyển thêm công nhân cắt cỏ nữa không?” – Không! Bà chủ đáp lại. Người bạn của anh ta thấy làm lạ hỏi anh: “Tại sao lại phải gọi điện như vậy?” – Tôi chỉ muốn kiểm tra là tôi có làm việc tốt hay không thôi! anh ta trả lời. Qua câu chuyện trên, bà chủ thấy không cần thiết phải thay thế một người cắt cỏ mới trong khi những phần việc làm của người cũ vẫn tốt. Là người trẻ, giỏi thôi chưa đủ, hãy khiến mình trở nên xuất sắc. Cách để trở nên không thể thay thế thì có hai loại: một là làm những việc người ta không muốn làm; hai là làm những việc người khác đều làm một cách xuất sắc. Trên đời này có rất nhiều người làm những việc người khác không muốn làm, do đó họ trở nên xuất chúng. Trước khi Bruce Lee (Lý Tiểu Long) sang Hollywood, có rất nhiều cao thủ trong giới võ thuật trong giới điện ảnh, nhưng chỉ có ông là sẵn sàng sang Mỹ để phát triển. Kết quả là ông trở thành ngôi sao tầm cỡ thế giới, trở thành nhất đại tông sư, được cả thế giới ca tụng. Lời nhắn gửi trong phần I của Bạn chỉ tưởng là mình đang rất cố gắng là khi còn trẻ chúng ta ấp ủ những ước mơ to lớn hơn bất kỳ khoảng thời gian nào trong đời, chúng ta cần phải biết làm như thế nào cho mỗi khao khát đó, hãy trở nên kiệt xuất, nếu có thất bại thì ít nhất con đường đó cũng không uổng công đâu. Làm gì có cao thủ nào tu luyện mà không phải chịu đựng nỗi cô đơn, mà không phải vất vả khó nhọc; chọn con đường không thể thay thế thì hứng chịu ba cú đấm có hề chi? ***   Giữ lấy sự nhiệt tình đối với bản thân   Cổ Điển - Người sáng lập công ty New Elite Development, Chuyên gia tư vấn đời sống nổi tiếng.   Tôi xem lướt qua tất cả phần mở đầu các bài viết của anh Long, vừa xem vừa buồn cười... trong mười bài đầu thì có chín bài xuất hiện chữ “tôi” ở dòng đầu tiên, gần nhất là ở chữ thứ hai, “theo tôi thấy", xa nhất cũng chỉ ở dòng thứ hai mà thôi.   Tôi nghĩ, một gã phải tự yêu bản thân, lại nhiệt tình và có năng lực quan sát lắm mới viết được như thế, từ câu chuyện của mình mà nhìn cuộc đời, từ cuộc đời của mình mà nói về cuộc đời của người khác (đương nhiên, bệnh của tôi còn nặng hơn, nhìn lại dòng đầu tiên mà xem). Nietzsche là tổ sư viết kiểu này, trong tác phẩm Ecce Homo của mình, ông đã bắt đầu viết “tôi” ngay từ phần mục lục: 1, Tại sao tôi lại có trí tuệ như vậy; 2, Tại sao tôi lại thông minh như vậy; 3, Tại sao tôi lại viết ra cuốn sách hay như vậy.   Nhưng, cũng may đây đúng là một cuốn sách thực sự liên quan đến “bản thân”.   Mark Twain từng kể về việc viết văn của mình thế này: Ông thường ngồi trước trang giấy trắng suốt mấy giờ đồng hồ, viết rồi lại xóa, cho đến khi viết được một câu “thực sự ra câu”. Sau đó ông tự nhủ: “Nếu ta viết được một câu, ta chắc chắn có thể viết ra câu tiếp theo.” Cứ thế, cho đến khi hoàn thành cả cuốn sách.   Tôi có cảm giác, cuốn sách này cũng được viết ra như thế. Đây là một cuốn sách về “tôi” - một người trẻ tuổi, tất cả các câu chuyện đều bắt đầu bằng “Một người bạn của tôi”, đến “Tôi phát hiện”, sau đó kết thúc bằng “Tôi cảm thấy”. Qua những câu chuyện này, anh Long bàn luận về vấn đề “Bạn chỉ giả bộ cố gắng”, tuyên bố “Tôi đã trưởng thành rồi, buông tay đi”, nói cho bạn biết “Khi từ biệt, cần phải để tâm một chút", bàn về “Ai là người tốt với bạn” và “Đừng kết hôn với người mình quá yêu.” Có lúc tôi phải cảm thán, một người thuộc thế hệ 9x, không ngờ lại có tư tưởng thú vị như thế...   Nếu bạn cũng giống tôi, là một người lớn lên ở những thành phố và nông thôn đang phát triển nhanh chóng, trải qua tuổi thanh xuân tàn khốc trong sự kìm kẹp ở trường cấp III, trường đại học, lăn lộn kiếm sống giữa xã hội phức tạp, mà vẫn ôm trong lòng mộng tưởng, vậy thì bạn không thể tránh khỏi những vấn đề này. Kiểu như một người ôm theo con thỏ nhỏ mà mình yêu quý chen vào tàu điện ngầm vậy, những vấn đề ấy giống như những người xa lạ với gương mặt mơ hồ chen chúc ập đến bạn, bạn không thể tránh né, chỉ có thể đối mặt mà thôi.   Bởi vậy, đây là một cuốn sách chân thực. Những câu chuyện trong sách đều là thực, quan điểm dù đúng dù sai, cũng đều chân thành. Nếu nhìn từ góc độ học thuật, những câu chuyện về “người bạn của tôi” như vậy đều không danh tính, diện mạo mơ hồ, khó mà trở thành chứng cứ để lập luận được. Nhưng đọc xong ngẫm lại tận tường, lại cảm thấy chúng rất chân thực và hoàn chỉnh. Bạn gần như có thể tìm được ngay một người tương tự trong cuộc sống thực. Giống như những câu chuyện cười mà bạn kể về “một người bạn” vậy, người nghe đều biết đó chính là bạn.   Tôi từng trịnh trọng viết thế này: “Từ góc độ chuyên nghiệp của một chuyên gia tư vấn đời sống, tôi thấy có rất nhiều điểm cần phải mài giũa. Một số quan điểm còn có sự xung đột, một vài suy nghĩ còn thiếu hệ thống. Nhưng tư duy như vậy đã là hiếm có lắm rồi.” Viết như vậy thể hiện tôi khá lý tính và chuyên nghiệp, về sau, tôi cũng gạch bỏ câu này đi, vì nói như thế không chân thực.   Tuổi trẻ thực sự, không phải là như thế.   Tuổi trẻ thực sự là vô tri, khi đến tuổi trung niên ngoảnh đầu nhìn lại mới phát hiện, hóa ra chúng ta chẳng biết quái gì về cuộc đời, xã hội, và tình cảm cả. Nhưng lúc này, xin hãy giữ lấy sự vô tri đáng quý đó.   Tuy rằng chúng ta không hiểu thế giới này, nhưng không hiểu sao chúng ta lại cảm thấy mình có thể đi khắp thế giới, tuy rằng chúng ta không hiểu về tình yêu, nhưng lần nào chúng ta cũng dốc hết trái tim ra mà yêu; tuy rằng chúng ta bị hiện thực dập cho sứt đầu mẻ trán, nhưng chúng ta vẫn vô cùng lạc quan, nhận định rằng thế giới này sẽ nhờ mình mà thay đổi.   Cuối cùng, thế giới này thực sự đã thay đổi vì những người như thế.   Sự vô tri quý báu ấy, là thứ mạnh mẽ nhất.   Gibran nói: "Bạn không thể cùng lúc sở hữu cả tuổi trẻ lẫn tri thức về tuổi trẻ, vì tuổi trẻ bận rộn với kế sinh nhai, không có thời gian tìm tòi học hỏi, còn tri thức lại bận rộn với việc tìm kiếm bản thân, không thể hưởng thụ cuộc sống." Vì vậy, tuổi trẻ cần ngông cuồng một chút, trung niên cần vững vàng một chút, già rồi thì cần trang nghiêm một chút. Nếu lúc trẻ bạn không ngông cuồng, đến khi có tuổi lại không kiềm chế được nữa, thành ra lưu manh.   Bởi thế tôi cảm thấy đọc cuốn sách này còn sảng khoái hơn đọc mấy loại sách trống rỗng nhạt toẹt, không nói về người sống kiểu như Hai mươi triết lý cuộc đời mà bạn không thể không biết nhiều; thực tế hơn một cuốn sách dịch chẳng biết từ tiếng nước nào về tiền lệ thành công của ai đấy, mở đầu bằng “Hồi Zuckerberg còn nhỏ..." hoặc là "Max là CEO của công ty xxx ở thung lũng Silicon"... đừng nói là thung lũng Silicon, những người dịch sách ấy có khi còn chưa đặt chân đến Trung Quan Thôn 1cũng nên. Đừng nói lý thuyết, đừng kể chuyện người khác, mà hãy nói về bản thân anh. Việc bản thân anh làm, niềm vui của bản thân anh, nỗi đau của bản thân anh, mới là mạnh mẽ nhất.   Đừng hỏi thế giới này cần cái gì, hãy là chính bản thân mình, điều thế giới này cần là chính bạn.   Hãy giữ lấy lòng nhiệt thành đối với "bản thân", giữ lấy sự vô tri quý báu của thời tuổi trẻ này.   Bởi vì, thế giới này thay đổi chính nhờ những người như bạn.   Mời các bạn đón đọc Bạn Chỉ Tưởng Là Mình Đang Rất Cố Gắng của tác giả Lý Thượng Long.
Thông Minh Cảm Xúc 2.0 - Nâng Cao EQ Để Hạnh Phúc & Thành Công
Trong thời đại ngày nay, những thuật ngữ như “Trí Tuệ Cảm Xúc”, “Thông Minh Cảm Xúc” hay “EQ” đã trở nên không còn xa lạ gì với đại đa số chúng ta. Các nhà tuyển dụng hàng đầu dùng EQ như một tiêu chí đo lường trình độ của ứng cử viên, bên cạnh tay nghề chuyên môn. Các doanh nghiệp khôn ngoan sẵn sàng đầu tư công sức và tiền bạc vào rèn luyện EQ cho nhân viên nhằm nâng cao hiệu suất làm việc. Đó là về công việc, còn về đời sống cá nhân thì sao? Trong khi mối quan hệ giữa người và người (bạn bè, vợ chồng, cha mẹ - con cái…) ngày càng phức tạp, thì EQ xuất hiện như một thành tố thiết yếu giúp hàn gắn sợi dây tình cảm, kết nối tình thâm. Nếu bạn đã đọc qua quyển sách “Thông Minh Cảm Xúc để Hạnh Phúc & Thành Công” của cùng hai tác giảTravis Bradberry & Jean Greaves, chắc hẳn bạn sẽ không ngạc nhiên khi thấy EQ đóng vai trò quan trọng đến thế. Được viết cách nhau sáu năm, quyển sách thứ hai “Thông Minh Cảm Xúc 2.0 – Nâng cao EQ để hạnh phúc & thành công” chứa đựng những kỹ thuật cực kỳ cụ thể và thực tiễn nhằm giúp độc giả không chỉ hiểu mà còn thật sự tăng cường được EQ của mình. *** Cảm nhận về quyển sách Thông Minh Cảm Xúc 2.0 “Vạn vật đều có nhận thức, duy chỉ có loài người sở hữu trí thông minh phi phàm. Tùy thuộc vào dòng chảy của những suy nghĩ và cảm xúc tích cực hoặc tiêu cực, điều khiến loài người chúng ta thật sự khác biệt chính là khả năng mang lại những thay đổi tích cực. Thông Minh Cảm Xúc 2.0 giải thích một cách cô đọng và súc tích cách xử lý cảm xúc một cách sáng tạo và vận dụng trí thông minh của chúng ta theo chiều hướng có lợi cho bản thân.” ĐỨC ĐẠT LAI–LẠT MA “Một quyển sách súc tích với những câu chuyện đầy sức thuyết phục cùng nội dung hấp dẫn giúp bạn thấu hiểu và cải thiện mình.” NEWSWEEK “Các phương pháp rất đáng xem về những kỹ năng trí tuệ cảm xúc đã biến quyển sách này thành cuốn cẩm nang nổi bật nhất trong tuần của chúng tôi. Thật vui khi biết rằng chỉ số thông minh (IQ) trung bình của một người không giới hạn người đó ở mức thành tích trung bình.” NEWSDAY “Quyển sách này tiết lộ cho bạn những phát hiện phong phú và thực tiễn cùng kiến thức về tầm quan trọng của việc phát triển chỉ số thông minh cảm xúc (EQ). Nghiên cứu đã chứng minh một cách thuyết phục rằng EQ trong nhiều vai trò còn quan trọng hơn cả IQ và quan trọng hơn gấp nhiều lần đối với những người lãnh đạo.” STEPHEN R. COVEY, tác giả của quyển sách bán chạy nhất The 7 Habits of Highly Effective People (7 Thói Quen Thành Đạt) “Trí tuệ cảm xúc là một kỹ năng đặc biệt quan trọng để thành công trong sự nghiệp và cuộc sống. Đây là một quyển sách tuyệt vời mà bạn nên đọc.” KEN BLANCHARD, đồng tác giả quyển sách kinh doanh bán chạy nhất mọi thời đại The One Minute Manager (Vị Giám Đốc Một Phút) “Các khách hàng của tôi thường là những người thành công và vô cùng bận rộn. Quyển sách này chuyển tải vốn hiểu biết quý báu mà không hề làm lãng phí thời gian của bạn. Những huấn luyện viên của tôi và bản thân tôi đã đạt được những thành tích to lớn nhờ vào quyển sách này. Đây là những kỹ năng quan trọng để làm việc hiệu quả.” MARSHALL GOLDSMITH, tác giả sách bán chạy nhất What Got You Here Won’t Get You There (Điều Đưa Bạn Đến Đây Sẽ Không Đưa Bạn Đến Đó), chuyên gia huấn luyện hàng đầu do tạp chí Forbes, Thời báo phố Wall, The Harvard Business Review và Fast Company bình chọn. “Cuối cùng cũng có một quyển sách nói về phương pháp chứ không chỉ là lý thuyết. Chúng ta không cần được thuyết phục thêm về mức độ quan trọng của trí tuệ cảm xúc đối với thành công trong cuộc sống. Điều chúng ta cần là những cách thức thực tế để tăng cường trí tuệ cảm xúc. Quyển sách mới và xuất sắc của tác giả Bradberry và Greaves mà bạn đang cầm trên tay đúng là của trời cho. Nó sẽ thay đổi cuộc đời bạn.” JOSEPH GRENNY, đồng tác giả sách bán chạy nhất Crucial Conversations (Những Cuộc Đối Thoại Cốt Yếu) “Quyển sách này chứa đựng những lời khuyên sáng suốt đầy cảm hứng và thiết thực, bắt nguồn từ những nghiên cứu công phu. Những phương pháp hiệu quả mà các tác giả đưa ra có sức mạnh thay đổi cách bạn nhìn nhận cuộc sống, công việc và thế giới.” Thuyền trưởng D. MICHAEL ABRASHOFF, tác giả quyển sách bán chạy It’s Your Ship (Con Tàu Của Bạn) “Nếu bạn băn khoăn tự hỏi tại sao sự nghiệp của mình sa lầy hoặc mãi giậm chân tại chỗ – hoặc đơn giản nếu bạn muốn thăng tiến thật nhanh – thì đây chính là quyển sách mà bạn phải đọc. Trí tuệ cảm xúc là điều cực kỳ cần thiết để thành công trong công việc, và quyển sách này mang đến cho bạn một sự khởi đầu nhanh chóng cho việc phát triển những kỹ năng và cách cư xử cần thiết để bổ sung cho chuyên môn của bạn.” Tiến sĩ LOIS P. FRANKEL, tác giả sách bán chạy nhất Nice Girls Don’t Get The Corner Office (Phụ Nữ Thông Minh Không Ở Góc Văn Phòng) do Thời báo New York bình chọn “Quyển sách này là tiếng gọi thức tỉnh dành cho bất kỳ ai muốn có sự cải tiến đáng kể trong công việc và củng cố các mối quan hệ. Tiến sĩ Bradberry và Greaves, thông qua những nghiên cứu đáng tin cậy, đã đưa ra những phương pháp thực tế và những câu chuyện lôi cuốn làm thay đổi cách chúng ta suy nghĩ về bản thân và tương tác với những người mà chúng ta quan tâm nhất.” JIM LOEHR, tác giả sách bán chạy The Power of Full Engagement (Sức Mạnh Của Toàn Tâm Toàn Ý) do Thời báo New York bình chọn “Tôi đã mua tặng quyển sách này cho cả nhóm của mình. Chúng tôi thấy nó rất hữu ích khi làm việc với nhau và giao dịch với khách hàng trong nước. Theo cách nói thông dụng trong vài năm qua, thì trái tim và linh hồn của văn hóa doanh nghiệp chính là cách họ ủng hộ và nâng cao trí tuệ cảm xúc. Những người nhìn xa trông rộng sẽ nhận ra rằng trí tuệ cảm xúc giúp phân biệt những công ty tốt với những công ty hàng đầu. Quyển sách này là công cụ tuyệt vời cho phương pháp tiếp cận từ gốc rễ. Nếu bạn mong muốn trở thành một nhà lãnh đạo có sức ảnh hưởng thật sự, được mọi người tin tưởng và ủng hộ, quyển sách chính là cơ hội không chỉ giúp bạn nâng cao nghề nghiệp chuyên môn mà còn làm mới các mối quan hệ cá nhân của bạn.” REGINA SACHA, phó chủ tịch hội đồng quản trị, phụ trách nhân sự, FedEx Custom Critical “Với nhịp sống nhanh đến chóng mặt ngày nay, người ta dành nhiều thời gian cho bàn phím máy tính, điện thoại di động và các cuộc gọi hội đàm hơn là gặp mặt nói chuyện. Chúng ta phải ráp nối những mẩu đối thoại không đầu không đuôi, những hộp thư thoại khó hiểu và những mẩu tin nhắn đầy chữ viết tắt để biết phải làm gì tiếp theo. Trong mạng lưới ngày càng phức tạp này, trí tuệ cảm xúc trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Quyển sách cung cấp những thông tin và hiểu biết vô giá mà không ai có thể bỏ qua.” RAJEEV PESHAWARIA, giám đốc điều hành Goldman Sachs International “Tiến sĩ Bradberry và Greaves đã tạo ra một quyển cẩm nang vừa hiệu quả vừa dễ đọc. Quyển sách này thâu tóm những điều quan trọng nhất trong cuộc sống. Thành công ở Hollywood cũng khó khăn như trong bất cứ ngành kinh doanh nào, thế nên kỹ năng về trí tuệ cảm xúc là vô cùng cần thiết. Tôi thật lòng khuyên bạn nên đọc quyển sách này.” MATT OLMSTEAD, giám đốc sản xuất loạt phim Prison Break và NYPD Blue “Đây là một quyển sách tuyệt vời, thiết thực và hữu ích trong đó chứa đựng nhiều công cụ và kỹ thuật mà bạn có thể sử dụng để hòa hợp với tất cả những người bạn tiếp xúc trong cuộc sống.” BRIAN TRACY, tác giả quyển sách bán chạy Eat That Frog (Để Hiệu Quả Trong Công Việc) “Tiến sĩ Bradberry và Greaves đã thành công trong việc tạo ra một tài liệu thực tiễn về trí tuệ cảm xúc. Đơn giản nhưng không sơ lược, đây là quyển sách dành cho những nhà quản lý và nhân viên muốn tìm hiểu nhanh nhưng vẫn đầy đủ về trí tuệ cảm xúc. Quyển sách này và chương trình đào tạo của TalentSmart® góp phần quan trọng trong chương trình đào tạo nhân viên và ban quản lý tại Nokia.” Thạc sĩ JENNIFER TSOULOS, bộ phận nhân sự, Nokia Mobile Phones “Bạn hãy sẵn sàng giấy bút để ghi chép những thông tin tràn ngập trong sách. Quyển sách tuyệt vời này chứa đựng vô số kiến thức có giá trị và lời khuyên cực kỳ hữu ích – dựa trên những chứng cứ khoa học vững chắc. Thành thật mà nói thì đây là quyển sách quý giá nhất mà lâu lắm rồi tôi mới được đọc. Tôi sẽ tặng nó cho tất cả bạn bè và khách hàng của mình như một quyển sách không thể bỏ lỡ.” JIM BELASCO, đồng tác giả quyển sách bán chạy Flight of the Buffalo (Để Nhân Viên Lãnh Đạo) do Thời báo New York bình chọn “Quyển sách này là tài liệu tuyệt vời đối với chúng tôi, những người cung cấp dịch vụ cứu hỏa cho công chúng. Thông qua những bước đơn giản, hiệu quả nêu trong sách, tôi có thể học và thực hành kỹ năng trí tuệ cảm xúc cần thiết để hỗ trợ khách hàng tốt hơn trong những tình huống dầu sôi lửa bỏng. Quyển sách là công cụ hữu ích cho hầu hết các đội trưởng trong việc tăng cường hiệu quả làm việc theo nhóm và đẩy mạnh tinh thần đồng đội.” DOMINICK ARENA, đội trưởng đội Cứu Hỏa thành phố Escondido, California “Trí tuệ cảm xúc là yếu tố quyết định cho sự thành công hay thất bại sau cùng của người thầy thuốc. Tiến sĩ Bradberry và Greaves đã xoáy trúng vào tâm điểm với nguồn tài liệu có cơ sở và kịp thời này. Tôi giảng dạy về trí tuệ cảm xúc trong chương trình phát triển lãnh đạo của khoa, và tôi cũng hướng dẫn cho các sinh viên y khoa. Tôi có thể hình dung được quyển sách này được lồng vào chương trình giảng dạy y khoa như thế nào.” Tiến sĩ DIXIE FISHER, phó giáo sư lâm sàng, Trường Y Khoa Keck, USC “Những thành công trong kinh doanh của tôi là nhờ có sự hậu thuẫn mạnh mẽ của các Giám đốc Điều hành (CEO) trong các công ty đầu tư của chúng tôi. Tôi tin chắc rằng quyển sách này đã nói đúng điều đó. Trí tuệ cảm xúc cá nhân đóng vai trò quyết định kết quả hơn bất kỳ yếu tố nào khác, nhưng ta lại có ít kiến thức về nó nhất. Đây là một quyển sách mà các nhà quản lý phải đọc để hiểu biết sâu sắc hơn và lập kế hoạch nâng cao hiệu quả cũng như thành công cho tổ chức của họ.” RICK HOSKINS, giám đốc điều hành, Genstar Capital, LLC Mời các bạn đón đọc Thông Minh Cảm Xúc 2.0 - Nâng Cao EQ Để Hạnh Phúc & Thành Công -  của tác giả Travis Bradberry & Jean Greaves.
Tài Ăn Nói Của Người Đàn Ông
Trong cuộc sống cũng như trong công việc, những người biết ăn nói thường tận dụng triệt để khả năng giao tiếp, trò chuyện của mình để thuyết phục người khác, giúp mọi việc thuận lợi, suôn sẻ. Có thể nói, biết cách nói chuyện, bạn sẽ có mối quan hệ giao tiếp tốt, đó cũng là điều kiện tiên quyết để bạn xây dựng nền tảng cơ bản cho cuộc sống hạnh phúc, sự nghiệp thành công. Cuốn sách Tài ăn nói của người đàn ông của Hoàng Văn Tuấn tiết lộ với các bạn những bí quyết giúp người đàn ông thành công trong giao tiếp, trong công việc và cuộc sống hàng ngày. *** Trong các trường hợp xã giao, xuất phát từ nhu cầu phép lịch sự hoặc công việc, bạn thường phải tự giới thiệu mình. Một nhà tâm lý học nước ngoài đã đưa ra 5 thái độ và phương thức cần chú ý khi tự giới thiệu bản thân như sau: 1. Phải bình tĩnh và đầy tự tin. Đối với những người tự tin, nói chung mọi người sẽ nhìn bằng con mắt khác hẳn. Nếu bạn có lòng tự tin, đối phương sẽ có thiện cảm đối với bạn. Ngược lại, nếu bạn sợ sệt hoặc bối rối làm cho quan hệ đôi bên gặp phải trở ngại. 2. Trong các trường hợp giao tiếp công cộng, nếu bạn muốn làm quen với một ai đó, tốt nhất hãy tìm kiếm trước các tư liệu thông tin liên quan tới đối phương, chẳng hạn như tính cách, sở trường hoặc ý thích cá nhân. Có được những tư liệu này rồi, sau khi tự giới thiệu mình, sẽ dễ dàng nói chuyện làm cho mối quan hệ được dung hoà. 3. Khi bày tỏ mình mong muốn được làm quen với đối phương, cần phải nhiệt thành. Bất kỳ ai cũng cảm thấy được người khác mong muốn làm quen là một vinh hạnh. Nếu thái độ của bạn nhiệt tình, thì phản ứng nhận được cũng sẽ tương tự. 4. Khi tự giới thiệu mình, cần biết dùng ánh mắt để biểu đạt thiện ý, sự quan tâm và mong muốn quan hệ của mình. 5. Sau khi biết được họ tên của đối phương rồi, đừng ngại nhắc lại một lần nữa, vì bất cứ ai cũng đều thích thú khi nghe tên của mình, làm cho anh ta có cảm giác tự hào và thoả mãn. 2. Những điều cần tránh khi tự giới thiệu 1. Không nên quá phô trương sự nhiệt tình, những động tác như bắt tay thật mạnh hoặc nhiệt tình vỗ vào mu bàn tay của đối phương có thể làm cho đối phương cảm thấy ngạc nhiên. 2. Không ngắt lời người khác để tự giới thiệu mình, cần đợi thời cơ thích hợp. 3. Không nên có thái độ hời hợt, cần tôn trọng đối phương, bất kể nam hay nữ cũng đều muốn người khác tôn trọng mình, đặc biệt là mong muốn người khác tôn trọng những ưu điểm và thành công của họ. Vì vậy, khi tự giới thiệu mình cần tỏ ra trang trọng. 4. Nếu muốn làm quen với một ai đó, cần phải chủ động, không nên chờ đợi đối phương chú ý tới mình. 5. Không nên chỉ quen biết với một nhân vật đặc biệt nào đó, nên quan hệ rộng rãi với nhiều người. 6. Nếu một người trước đây bạn đã từng gặp rồi mà họ chưa nhớ ra tên của bạn, thì cũng không nên đưa ra những lời mang tính chất nhắc nhở. Phương pháp tốt nhất là ngay lập tức tự giới thiệu mình một lần nữa.   Mời các bạn đón đọc Tài Ăn Nói Của Người Đàn Ông của tác giả Hoàng Văn Tuấn.