Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Thợ Thêu

Pascal Lainé là một nhà văn Pháp sinh năm 1942 ở Anet.    Ông đã đoạt cả hai giải thưởng lớn của Pháp là Medicis (1971 với tác phẩm l'Irrévolution) và Goncourt (1974 với tác phẩm La Dentellière), ngoài ra ông còn là tác giả của hơn 20 tiểu thuyết cũng như kịch bản phim.    Tác phẩm chính:  B comme Barrabas (1967) L'Irrévolution (Prix Médicis - 1971) La Dentellière (Prix Goncourt - 1974) Si on partait (1978) L'Eau du miroir (1979) Tendres cousines (1979) Terres des ombres (1982) Les Petites Egarées (1988) Dialogues du désir (1992) L'Incertaine (1993) Le Commerce des apparences (1997) Derniers jours avant fermeture (2001) Capitaine Bringuier (Théâtre) Monsieur vous oubliez votre cadavre Le mystère de la Tour Eiffel (2005) Un clou chasse l'autre ou La vie d'artiste (essai, Punctum editions 2006) *** Chuyện bắt đầu ở một tỉnh phía Bắc nước Pháp, cái tỉnh nhìn trên bản đồ nom giống một củ cải đường.   Về mùa đông, những người từ xa tới bằng ô-tô nhìn thấy trước mắt mình một vết phồng. Một mảng rộp ở chân trời. Cây cối ven đồng trơ trụi làm cho cảnh chiều tà thành mênh mông vô tận.   Nhà cửa trong làng rặt bằng gạch, một tầng. Vẫn chưa phải là phố, tuy giữa hai dãy nhà có con đường nhựa cộc cằn, thường được các trận mưa kỳ cọ chu đáo làm cho bóng loáng lên. Xe cộ rạch bùn trong các thửa ruộng trồng củ cải đường bị xéo nát thành hai cái rãnh sóng đôi. Cả những chiếc xe tải cũng làm việc tương tự đó.   Ngoài cái dòng các em bé đầu đội mũ trùm kín trước cửa trường học, mà sự lộn xộn tan biến ngay lập tức vì các em buộc phải tản đi theo lề đường, hoặc đi vào các rãnh rau, làng xóm nói chung im ắng vào mùa đông. Trong đêm tối, những con chó luồn từ xó tối này sang xó tối khác. Hoặc giả, tiếng lạch cạch của một chiếc xe đạp, tiếng động duy nhất làm nổi bật sự im ắng mỗi lúc một sâu hơn giữa các cơn động quen thuộc do những chiếc xe kéo moóc gây nên.   Đó là một làng công nhân nhưng nhà máy đã ngừng hoạt động, chỉ còn lại có cái vỏ bằng gạch và sắt.   Mùa hè ở đây thậm chí còn kỳ cục hơn. Có những đợt nắng kéo dài và con đường trở nên sạch sẽ. Khoai tây mọc trên những mảnh vườn nhỏ. Quần áo được đem phơi ra ngoài trời. Con đường hẻm xen giữa các ngôi nhà đầy những vỏ chai rỗng. Buổi tối, người đi làm ở thành phố trở về, sau khi bước khỏi ôtô, còn nán lại một chút. Họ sưởi chút nắng còn sót lại của mặt trời đang lặn trong ráng đỏ ánh lên từ phía đường quốc lộ. Đêm xuống. Bầu trời chuyển sang màu ximăng ướt và biến thành một bức tường nhẵn bóng, trên đó treo lơ lửng chiếc bóng đèn to tướng là mặt trăng.   Vào khoảng bảy giờ rưỡi, họ trở về nhà để xem tivi.   Với lũ trẻ, đó là khoảng thời gian để chạy nhảy trên đường phố và chơi những trò nghịch ngợm trong các ngõ ngách phía sau nhà.   Ở chỗ giao nhau của quốc lộ và con đường nội tỉnh đã có từ lâu là một quảng trường. Quốc lộ có trước. Trên quảng trường có nhà thờ; kề đó là đài tưởng niệm, xung quanh có những chiếc ghế dài. Các cụ ông, cụ bà bé choắt lại vì tuổi tác, thường đến đây vào những ngày đẹp trời. Với dáng điệu khẽ khàng một cách co ro, họ ngồi lên những chiếc ghế băng để đan len hoặc đọc báo. Cũng có khi hai ba em bé gái, mà thường thì vẫn chỉ có bọn chúng, ngồi trước mặt con đường quốc lộ, nhìn những chiếc xe con và xe tải chạy qua chạy lại. Một cô bé trong số đó có tên là Pom (Pomme - quả táo tây).   Và đây là ngôi nhà của hai mẹ con cô bé Pom. Trước hết là một phòng lớn với chiếc bàn dài sơn trắng. Mặt bàn phủ tấm vải dầu có in những bông hồng đã ngả màu vàng vì thuốc tẩy (cũng còn có cả những vết nhòe màu vàng giống như những chiếc lá của bó hoa. Còn những vết thủng do tàn thuốc lá gây nên thì chẳng ra hình thù gì cả).   Những chiếc ghế sơn, có vài chiếc cùng kiểu với bàn, còn nữa thì mỗi chiếc mỗi kiểu. Rồi đến chạn bát.   Có thể ru rú trong nhà đốt lò sưởi, cũng có thể ngồi thoải mái với bộ quần áo ngủ; và bất chấp tất cả, ta vẫn cảm thấy, hầu như bằng xúc giác, cũng rung lên theo nhịp rung của những chiếc bánh xe tải đồ sộ. Những chiếc xe hối hả chạy qua, chỉ cách nhà có vài mét, nó cũng là lý do để tạo nên một cái gì đó khiến ở trong nhà cũng có cái vẻ ở ngay cạnh lề đường.   Căn phòng này do vậy đã trở thành phòng chính, và ở hai bên, mỗi bên một phòng nhỏ. Trong phòng thứ nhất có một chiếc tủ gương và một chiếc giường, một cái vũng mềm mại từ đó các giấc mơ, như ta vẫn thường nói, sẽ chảy thẳng ra lề đường. Ở chân chiếc giường lớn là một chiếc giường cũi dành cho trẻ em. Các thanh chắn trên thành cũi có cái bằng sắt mạ kền, có cái đã han gỉ.   Pom ngủ ở phòng thứ hai, căn phòng mà chúng ta chưa hề miêu tà đến, từ khi nó còn quá rộng đối với một chiếc giường cũi.   Chính vì có đôi má bầu bĩnh nên người ta mới gọi cô bé là Pom. Đôi má của cô rất nhẵn và khi có ai đó nói về nó trước mặt cô thì nó càng nhẵn, càng tròn và càng bóng nhoáng lên.   Cô bé còn có những thứ tròn trịa khác nữa. Vì thiếu một nhà thơ, kẻ xa lạ đến tội nghiệp trong câu chuyện này, bọn con trai trong làng bắt đầu nhìn cô bé như nhìn một giỏ trái cây.   Nhưng cô bé Pom cũng chẳng cần có nhà thơ để có thể rất hài hòa theo cốt cách riêng của cô. Có thể không thật đẹp. Cô không có cái mảnh mai thú vị của các thiếu nữ yêu kiều mà chỉ nhìn thôi, ta cũng đã có cảm giác rằng làn da tay của họ có thể làm chén nước rửa tay[1] mát mẻ và trong vắt hẳn lên. Trái lại, đôi bàn tay của cô, tuy không đến nỗi thô thiển, vẫn được gắn một cách chắn chắn vào cổ tay, rồi cổ tay lại được gắn vào cánh tay, và cứ như thế với cái vẻ hết sức tự nhiên.   Từ đầy đặn không phải dành cho một cô bé ở độ tuổi này (cứ cho là tuổi 14 đi), nhưng quả thật cô bé này tạo cho ta ngay lập tức một ấn tượng về sự đầy đặn: dù cô bận tíu tít hay chỉ ngồi rồi một chỗ, hoặc giả nằm bất động, mơ màng, dù mắt cô có lim dim, miệng há ra và tâm trí có phiêu diêu trong trạng thái gà gật thì sự có mặt của thân thể cô vẫn chế ngự cả căn phòng. Pom chỉ vừa đến độ tuổi trưởng thành, nhưng cả thân thể cô là một khối đồng nhất và chắc nịch. Cả phần hồn của cô cũng vậy. Cô không thuộc loại sinh vật mà sự hiện diện của nó tan biến đi những cái nhìn và những lời nói mơ hồ; cử chỉ, công việc của cô, dù là phù phiếm nhất, cũng vẫn làm cho mỗi giây phút của cô trở nên vĩnh cửu. Cô dọn ăn ở chỗ này, giặt giũ ở chỗ kia, cô ngồi làm bài tập (với một sự chăm chú khiến ai cũng phải mủi lòng) và những thái độ ấy, những cung cách ấy đều toát lên từ cô theo một nhu cầu hoàn toàn tự nhiên trong một thế giới yên bình.   Đôi bàn tay ngắn ngủi của cô bé trở nên luống cuống khi tập thêu, tưởng chừng như đã bị tách khỏi cô, nhưng cũng không vì thế mà mất đi ở cô cái nhất quán của sự tinh tế và sự thô kệch nào đó. Công việc cô làm, dù là việc gì ngay lập tức trở thành sự hòa hợp ấy, sự nhất quán ấy. Khi đó, cũng như những người khác, cô là chủ đề của một trong những bức tranh sinh hoạt mà trong đó hiện ra rất sống động qua cách bố cục và qua các giai thoại. Cái dáng vẻ ấy của cô thật riêng biệt, chẳng hạn như khi cô ngậm giữa hai làn môi chiếc ghim trong lúc đang sửa lại mái tóc. Cô bé là Cô thợ giặt, Cô xách nước, hoặc giả, Cô thợ thêu.   Có thể Pom đã thừa hưởng những năng khiếu đó ở bà mẹ, người đang phục vụ ở một quán rượu trong thành phố. Bà nói “Xin hầu ngài” một cách rất thoải mái bất cứ khi nào có một quý ông yêu cầu bà lên buồng trên gác. Bởi vì bà cũng là một người hầu theo đúng nghĩa riêng của từ đó dù ở gác lửng hay dưới tầng trệt, đứng hay bò, luôn luôn đơn giản và tự nhiên, cũng đơn giản, tự nhiên như cô con gái của bà vậy. Cả ở nhà bà mẹ và cô con gái, sự thoải mái trong tư thế là giống hệt nhau, kể cả khi ở trong căn buồng trên gác của quán rượu, vẫn là động tác tự nhiên ấy, luôn luôn đồng nhất và với một sự trong trẻo chân thành bất chấp tất cả. Tuy nhiên bà mẹ, người hầu ấy, không cởi giày vì trên sàn có những cái giằm. Đó chính là chỗ bất ổn duy nhất trong cuộc sống của bà.   Hai mẹ con nhà Pom còn giống nhau về tính nết. Họ chấp nhận một cách đơn giản những niềm vui và nỗi cay đắng mà số phận ban phát cho họ, cũng chẳng lấy gì làm nhiều lắm. Cả hai, cùng với ngôi nhà nhỏ của họ nằm ở rìa đường, tạo thành một cánh tay chết của cuộc sống, vệt sáng lặng lẽ từ một ô cửa sổ ở ngay cạnh một miệng cống, nơi những sinh vật khác qua lại nhộn nhịp.   Pom không hề tỏ ra ngạc nhiên và hoảng sợ khi cô thấy những dấu hiệu đầu tiên của giới tính, những dấu hiệu chưa ai nói trước với cô. Cô tự thay và giặt lấy đồ lót của mình, không giấu giếm nhưng cũng không nói với ai, như một con mèo bới đất và mùn cưa giấu đi các thứ bẩn thỉu mà nó vừa bĩnh ra. Mẹ cô đã nhìn thấy cô làm cái công việc tỉ mẩn và lặng lẽ này, và cô lắng nghe những lời khuyên của mẹ với một sự chăm chú chừng như chính cô đã hỏi vậy. Tâm hồn Pom cũng tròn trĩnh và nhẵn bóng như thân thể cô: không có chỗ gồ ghề khúc khuỷu nào ngăn được dòng chảy mọi vật trong cô.   (Ở đây tác giả có thể nhấn mạnh một chút về sự chung sống giữa một thiếu nữ với một người mẹ có quan hệ với nghề làm điếm. Có thể gợi lại những đêm không ngủ, những giờ khác chờ đợi dày thêm nỗi tủi nhục âm thầm của cô gái, cho đến tận khi mẹ trở về vào giữa đêm khuya, bước đi mệt mỏi và nặng nề, đôi mắt đờ dại vì mệt và chán chường, đụng phải ngay khi cánh cửa vừa hé mở, bộ mặt nhợt nhạt và cái vẻ dò hỏi đầy đau khổ của đứa con. Cũng cần phải nói về những lời giễu cợt bóng gió, hoặc sự im lặng nhọn hoắt như lưỡi kim mà Pom thật khó bề chống đỡ được mỗi khi cô đi trên đường làng, làm những thương tổn của tâm hồn cô mỗi lúc một rõ ràng, sâu sắc hơn. Ta cứ hình dung số phận chua xót của cô bé, và cuốn tiểu thuyết có thể sẽ trở nên một câu chuyện về những hư đốn của cô tiếp theo sau sự ngây thơ trong trắng ban đầu).   Thế nhưng mọi việc lại khác hẳn. Trước tiên Pom và mẹ cô có đặc quyền về sự vô tư. Cái đó không che lấp thực tế mà ngược lại làm cho thực tế trở nên trong suốt khiến con mắt người đời lướt qua đi mà không dừng lại. Quả thật chẳng ích lợi gì để mà tìm hiểu xem Pom có “nghi ngờ” vị thế của bà mẹ hay không. Pom làm gì có đủ tư cách để mà nghi ngờ. Tuy nhiên, số phận của cô (nếu chúng ta cứ khoác cho tâm hồn đơn sơ ấy tấm áo “số phận”) không phải không liên quan đến việc mẹ cô làm điếm tại một quán rượu trong thành phố, hơn nữa, bà mẹ vốn tính ngay thật, cứ kể bô bô trước mặt con gái về những người đàn ông đã chung chạ với mình. Tình trạng đó cùng với những câu chuyện mà mẹ cô thường nói, những câu chuyện kỳ quặc vì sự tầm thường của nó (trong đó chỉ có sự vô hại và chỉ có một người mẹ trung thực mới có thể nói với con mình bằng những từ ngữ chính xác như vậy), đã tạo nên trong Pom lòng kính trọng lớn lao đối với phẩm chất của “các quý ông”. Cô không nhìn thấy phẩm chất ấy ở trong đám trai làng. (Chẳng hạn khi cô đi đến trường hoặc khi cô trở về nhà). Bọn này mang trên mình chúng tất cả những gì là bừa bãi, là nhếch nhác trên trái đất này, mùi rượu vang, mùi các cuộc đình công, các đám rước ngày Một tháng Năm, và mọi lộn xộn khác mà đôi khi người ta đã chiếu trên vô tuyến truyền hình. Mẹ con nhà Pom có một người hàng xóm, gã này mỗi lần say khướt thường làm bọn trẻ trong làng sợ hết hồn, chạy bán sóng bán chết cho đến tận đường cái. Pom đã nhìn thấy bộ phận sinh dục của gã. Những quý ông ở thành phố không thể được tạo nên như vậy. Bằng chứng là các quý ông ấy là những chưởng khế, dược sĩ, nhà công nghiệp, nhà buôn. Ngoài thú tính, họ còn có những chiếc đồng hồ, những chiếc nhẫn vàng và sau nữa là những tập séc dày cộp. Chính với những thứ ấy mà các quý ông cưỡi lên bụng các cô gái trong khi vợ của quý ông đang vào thời kỳ mãn kinh ở nhà (tất nhiên Pom không thể diễn đạt nổi tất cả những điều đó).   Mùa hè, cô bé ngồi trên một chiếc ghế băng ở quảng trường, buông thả mình trong một sự chú ý mơ hồ đến những người lái xe, rất gần vào lúc mà bọn chúng chuẩn bị chạy qua đường quốc lộ đến tận chân trời; và cũng rất xa, như những quý ông mà cô nhận biết được qua tấm kính bằng những lời kể của bà mẹ.   Mời các bạn đón đọc Cô Thợ Thêu của tác giả Pascal Lainé.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lửa Hận - Jessica Hall
Một bi kịch của sự ghen ghét, hận thù, danh vọng đã khiến một người đàn bà trở thành kẻ đánh mất nhân tính, đẩy đưa bao số phận vào chốn hiểm nguy, mạng sống như ngàn cân treo sợi tóc. Với ngòi bút sắc bén, đôi khi có phần cay đắng, trần tục, Jessica Hall đã vén lên một bức màn cuộc sống đầy rẫy tội ác, hận thù và cả sự phân biệt sang hèn, giai cấp... Thế nhưng, ẩn sâu trong đáy trần tục ấy, vẫn lóe lên một tia sáng bất biến chiếu rọi mọi tâm hồn, đó chính là tình yêu thương, lòng bao dung độ lượng và niềm khát khao hạnh phúc. *** M ẹ anh đã có lời mời cả hai người đến dự Lễ hội Trắng Đen, và rất mừng là Sable đã vui lòng đón nhận lời mời thân mật ấy. “Chắc chắn. Ba anh đã hứa sẽ khiêu vũ với em mà, ông ấy nói còn đi bản vanxơ đẹp hơn anh nữa kia”. Nàng cầm tay anh và ngắm nhìn bộ đồ dạ vũ của anh. “Anh đâu thể sở hữu em nguyên cả buổi tối, phải không, ngài điệp viên 007 Jame Bond?” Anh bật cười và đưa nàng ra thang máy. Sau vụ tấn công cố sát cuối cùng của bà Laure, Jean-Del những muốn giữ cho Sable tránh xa báo chí nhưng nàng vẫn một mực muốn đối diện với giới truyền thông để làm rõ ngọn ngành những chuyện vừa qua. Họ hàng nhà Gamble và cộng đồng Cajun lần lượt vây lấy nàng, và giờ đây phần lớn bạn bè của Marc cùng các hội đoàn đều cam kết hỗ trợ cho các dự án cộng đồng Cajun của Sable. Sable vui mừng về sự hỗ trợ đó nhưng không mấy quan tâm đến sự chú ý dành cho nàng. “Em mang trong mình dòng máu của LeClare”. Nàng nói với Jean-Del. “Nhưng không nhập mình vào với xã hội ấy. Em vẫn là một người Cajun và em mãi mãi tự hào về điều đó”. Lễ hội lên đến đỉnh điểm khi họ về đến nhà Gamble và được đích thân bà Elizabet ra đón tận cửa. “Mẹ bắt đầu lo lắng rồi đấy”. Bà nói khi hôn lên má Jean-Del rồi quay sang ngắm Sable. “Xem nào, cháu sắm bộ áo váy này ở đâu vậy?” Nàng nhìn lại mình. “Cháu mua nó ở một quầy hàng mới tại Metairie và nghĩ nó hợp cho buổi tối hôm nay”. ... Mời các bạn đón đọc Lửa Hận của tác giả Jessica Hall.
Lễ Diễu Hành Phục Sinh - Richard Yates
Ai cũng có thể là một phóng viên hào nhoáng và vô trách nhiệm hoặc đơn thuần là một người sửa bài cần mẫn, nhưng đây lại là một người viết tiêu đề, biên tập bản thảo! Người mà phải đọc tất cả những tin tức phức tạp hàng ngày để lựa chọn ra những ý chính và tóm tắt lại bằng những từ đắt ý, khéo léo sắp xếp vừa vặn trong một chỗ trống có giới hạn - ông là một nhà báo tuyệt vời và là một người cha xứng đáng với danh tiếng của mình. Và người phụ nữ ấy: nhỏ bé, năng động, có một cuộc sống dường như gắn liền với giá trị không tưởng mà bà cho là “nhạy bén”. Bà mải mê với tạp chí thời trang, với việc ăn mặc có thẩm mỹ và đã nhiều lần cố gắng chỉnh lại mái tóc của mình, nhưng không thể giấu nổi đôi mắt hoang mang và thật sự, chưa bao giờ bà biết cách tô son trên môi của mình - một đôi môi luôn thể hiện dáng vẻ của sự thiếu kiên định đến mức độ đáng kinh ngạc và đầy yếu đuối. Hai người, đã từng yêu nhau say đắm, và hơn thế, họ từng là vợ chồng. Họ có hai cô con gái vô cùng xinh xắn, đáng yêu: Sarah và Emily. Tuy nhiên, không một ai trong hai chị em đó có được cuộc sống hạnh phúc, và nhìn lại thì dường như mọi bất hạnh đều bắt đầu từ việc ly dị của cha mẹ họ. Là nạn nhân của một cuộc hôn nhân tan vỡ, Sarah và Emily như hai cây non phải nương tựa, che chở cho nhau qua giông bão cuộc đời. Hai cô gái sớm bước vào thế giới tình yêu, như một người dạn dày, từng trải. Chính Sarah là người cho Emily biết kiến thức đầu đời về tình dục, khi chúng đang ăn kem que và đùa cợt với nhau quanh cái võng bị đứt ở sân sau nhà chúng ở Larchmont, New York. Emily lắng nghe đầu óc cô bé đầy những suy nghĩ băn khoăn và xáo trộn. Sẽ thế nào, khi mà Sarah được giao nhiệm vụ tham gia diễu hành trong ngày lễ Phục sinh, để một nhiếp ảnh gia chụp từ văn phòng quan hệ cộng đồng. Trông cô thật đáng yêu, có thể nói, chưa khi nào trông cô lại đáng yêu đến thế, khi vận chiếc váy đắt tiền bằng lụa dày - mốt dành cho những quý bà Trung Quốc trước chiến tranh, và đội một chiếc mũ rộng vành dệt bằng rơm. Cô sánh bước cùng Tony - chàng “hoàng tử” luôn đem đến những điều “tuyệt vời”. Cả hai cười với nhau rất lãng mạn trong cái nắng tháng Tư, tạo nên một bức ảnh ấn tượng đăng trên bản tin Chủ nhật của tờ Thời báo New York. Bức ảnh ấy còn được đóng khung treo trên tường và có giá trị mãi mãi. “Lễ diễu hành Phục sinh” là sự hồi sinh của nhà văn Mỹ Richard Yates và ông được đánh giá là một nhà văn lớn. Đây là một tác phẩm văn xuôi duyên dáng và thể hiện được chiều sâu của bi kịch. *** Đọc tiểu thuyết “Cuộc diễu hành phục sinh” của nhà văn Richard Yates, tôi cứ thấy có một đôi mắt u buồn, đau đáu, đắng đót đằng sau mỗi thân phận con người.  Ngập tràn trong cuốn tiểu thuyết là những cuộc làm tình chớp nhoáng, nóng bỏng nhưng phía sau ấy vẫn cháy lên những khao khát nào lớn hơn nhu cầu xác thịt. Richard Yates đã tung ra hai cuộc đời tương phản. Một bên là cuộc đời tự do của Emily với những cuộc làm tình, với rượu mạnh và những kì nghỉ dài bất tận. Một bên là cuộc đời nhạt nhẽo, buồn tẻ của người chị Sarah gắn liền với hôn nhân, với bạo lực, với cô độc và những vùng vẫy khao khát trong sự bất lực đến tuyệt vọng. Những thân phận con người trong tiểu thuyết “Cuộc diễu hành phục sinh” được nhà văn Richard Yates móc nối với nhau bằng hôn nhân, sex, rượu mạnh và nỗi cô đơn bất hạnh triền miên của con người.  Richard Yates không cần tạo ra sức hấp dẫn trong tiểu thuyết của mình bằng cách khai thác những sự kiện xã hội, những biến cố lịch sử vĩ đại. Thực tế cho thấy, ngay từ thiên tiểu thuyết đầu tiên danh tiếng “Con đường Cách mạng” của mình cho đến thiên tiểu thuyết “Cuộc diễu hành phục sinh”, ông là nhà văn có biệt tài đào sâu vào tận cùng nỗi đau thân phận. Cả cuốn tiểu thuyết chỉ xoay quanh cuộc đời của ba nhân vật chính, ba mẹ con nhà Grimes: Pookie, Emily và Sarah.  Những con người bình thường nhất, thậm chí là thấp kém nhất trong xã hội Mỹ qua ngòi bút của nhà văn Richard Yates đã trở thành biểu tượng đời sống tinh thần với nỗi tuyệt vọng triền miên kéo dài trong lịch sử nước Mỹ.  Richard Yates đã quăng nhân vật của mình vào cơn bão khốc liệt và rồi dang tay đón những “đứa con” mang trên thân thể mình đầy những thương tích bầm giập ở bên kia. Nhà văn chấp nhận hiện thực xã hội nghiệt ngã của nước Mỹ, chính vì thế, chỉ bằng thân phận ba người phụ nữ bất hạnh, ông đã khái quát cả một bức tranh rộng lớn về lịch sử đời sống nước Mỹ.  Độc giả Việt Nam sẽ có cơ hội để nhìn khác hơn về xã hội Mỹ những năm chiến tranh Việt Nam qua thiên tiểu thuyết này. Ở đó là một cuộc sống lặng lẽ, buồn tẻ và nhạt nhẽo. Bao người vùng vẫy trong một cuộc sống không lý tưởng với những nỗi cô đơn, bế tắc và tuyệt vọng. Chúng ta sẽ cảm nhận được sự ngây thơ của nhiều thanh niên Mỹ về chiến tranh ở những cuộc làm tình chớp nhoáng trước khi lên đường.  Chúng ta sẽ thấy khao khát được sống một cuộc sống hoà bình, an phận của những người tìm mọi cách trốn lính. Nỗi đau của nước Mỹ qua ngòi bút nhà văn Richard Yates là nỗi đau về những thế hệ thanh niên bị o bế tâm hồn. Đọc “Cuộc diễu hành phục sinh”, người đọc sẽ thực sự bất ngờ bởi trực diện bức tranh xã hội tình dục ở nước Mỹ. Nhà văn Richard Yates xây dựng số phận hai nhân vật chính là hai chị em nhà Grimes: Sarah và Emily với hai sự lựa chọn cuộc sống đối nghịch nhau. Sarah muốn có một gia đình ổn định với một người đàn ông mà cô yêu và tôn thờ như tất cả những người phụ nữ khác và như chính niềm ao ước của mẹ cô, Pookie.  Emily kịch liệt phản đối hôn nhân, đặc biệt là khi cô biết sự thật về những bạo hành mà người chị của mình phải chịu từ người chồng vũ phu. Dường như nhà văn Richard Yates xây dựng Emily trở thành một biểu tượng của cuộc sống tự do để cổ xuý cho khao khát tìm hạnh phúc qua cách sống ấy. Nhưng có lẽ là không phải như vậy. Những cuộc làm tình của Emily với bao nhiêu người đàn ông mà chính cô cũng không nhớ nổi được Richard Yates miêu tả vô cùng nóng bỏng. Emily chưa bao giờ yêu những người đàn ông đưa cô lên giường. Thế nhưng, cô vẫn lao vào những cuộc làm tình ấy không mệt mỏi để khao khát kiếm tìm một thứ vô hình. Hạnh phúc chăng? Không có ai trả lời cho cô điều ấy cả. Để rồi cuối cùng, có lẽ cô yêu Howard và mệt mỏi muốn dừng cuộc đời mình ở đó. Nhưng Howard đã ra đi. Thiên tiểu thuyết kết thúc ở sự cô độc của Emily, không gia đình, không người thân, không bạn bè, không tình yêu. Cô gục ngã trong những ký ức về người chị gái Sarah, người chị gái yêu quý của cô đã bị người chồng giết chết trong một lần say rượu.  Chỉ với hơn ba trăm trang tiểu thuyết, nhà văn Richard Yates đã xây dựng trọn vẹn ba cuộc đời bất hạnh nhà Grimes. Thành công xuất sắc ở khả năng miêu tả tâm lý và xây dựng một thế giới nội tâm sâu thẳm đầy bí hiểm, nhà văn đã đẩy nhân vật của mình vào tận cùng nỗi tuyệt vọng của thân phận con người để phản ánh một cách chân thực nhất đời sống nước Mỹ thế kỷ XX và khao khát đi tìm một lối thoát cho người Mỹ.  Đọc “Cuộc diễu hành phục sinh”, chúng ta sẽ bị chìm đắm trong ma trận của những cuộc làm tình, những ly rượu mạnh, những cơn khủng hoảng tinh thần, những nỗi xót xa và cuối cùng cay đắng nhận ra nỗi đau về thân phận con người không phải là của riêng Richard Yates nói về người Mỹ mà nó còn mãi là nỗi đau chung của toàn nhân loại. Vân Hà *** Richard Yates sinh năm 03/02/1926 và mất ngày 17/11/1992 là nhà văn Mỹ. Ông đã viết rất nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết về cuộc sống của người dân Mỹ giữa thế kỷ 20. Ông được coi là người đã chép lại hoàn hảo biên niên ký về đời sống sâu sắc và vô cùng phức tạp của nước Mỹ giữa thế kỷ 20 trong những tác phẩm kinh điển của mình - những khúc bi ca về sự cô độc của con người đã vạch trúng tâm thức của thời đại, phản ánh một cách khốc liệt đời sống hiện thực Mỹ. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, Revolutionary Road (Con đường cách mạng) đã đoạt giải thưởng Sách Quốc gia vào năm 1962. Rất nhiều tiểu thuyết của ông được dựng thành phim, Revolutionary Road (Con đường Cách mạng), The Easter Parada (Lễ diễu hành Phục sinh). Mời các bạn đón đọc Lễ Diễu Hành Phục Sinh của tác giả Richard Yates.
Lâu Đài Sói - Hilary Mantel
Lâu đài sói của Hilary Mantel viết về Nước Anh thế kỷ 16 đang đứng trên bờ vực một thảm họa. Nếu nhà vua chết mà không có người thừa kế nam, đất nước có thể sẽ bị hủy diệt bởi nội chiến. Chưa hết, Henry VIII còn muốn chấm dứt cuộc hôn nhân hai mươi năm với hoàng hậu để lấy Anne Boleyn, một mối tình chống lại cả Giáo hoàng lẫn châu Âu kính Chúa. Giữa bối cảnh ấy xuất hiện Thomas Cromwell, một nhân vật cơ trí và tham vọng, vừa tràn đầy lý tưởng vừa cơ hội chủ nghĩa, kẻ đã giúp nhà vua thực hiện được một việc vô tiền khoáng hậu: ly hôn với hoàng hậu, dần ly khai khỏi giáo hội La Mã, và sẵn sàng cho cái giá phải trả để làm được điều ấy. Tác phẩm mang đến cho nhà văn Hilary Mantel giải thưởng Man Booker danh giá năm 2009. *** Hilary Mantel Mary sinh ngày 06 tháng 7 năm 1952), nhũ danh Thompson, là một tiểu thuyết gia, nhà văn truyện ngắn, nhà tiểu luận và nhà phê bình người Anh. Các tác phẩm của bà gồm các chủ đề từ hồi ký cá nhân đến tiểu thuyết lịch sử, đã được đưa vào danh sách ngắn đề cử các giải thưởng văn học lớn. Năm 2009, bà đoạt giải Man Booker cho cuốn tiểu thuyết Wolf Hall. Cuốn tiểu thuyết gần nhất của bà, Bring Up the Bodies, là cuốn thứ hai của bộ ba tiểu thuyết Thomas Cromwell đã đoạt giải Man Booker 2012. Bộ tiểu thuyết lịch sử nói về vị cố vấn Thomas Cromwell của Vua nước Anh Henry VIII. Bà là nhà văn người Anh đầu tiên và người phụ nữ đầu tiên nhận giải thưởng hai lần, theo bước chân của J. M. Coetzee, Peter Carey và J. G. Farrell—thắng giải Lost Man Booker   Mời các bạn đón đọc Lâu Đài Sói của tác giả Hilary Mantel.
Nhà Tiểu Họa - Jessie Burton
Nhà tiểu họa xoay quanh cô gái Nella Oortman mười tám tuổi đến Amsterdam để bắt đầu cuộc sống làm vợ của thương gia nổi tiếng Johannes Brandt. Ngôi nhà mới của nàng dù đẹp lộng lẫy nhưng không hề ấm áp. Johannes đối xử tử tế với vợ nhưng luôn xa cách. Thế giới của Nella thay đổi khi Johannes tặng nàng món quà cưới vô cùng đặc biệt: một phiên bản thu nhỏ ngôi nhà của họ với kích thước chỉ bằng chiếc tủ có ngăn kéo. Nhiệm vụ của Nella là trang trí cho ngôi nhà thu nhỏ đó. Nàng liên lạc với một nhà tiểu họa trên phố Kalverstraat. Đó là một nghệ sĩ bí ẩn và sống ẩn dật, những sản phẩm nhỏ bé, tinh xảo của người nghệ sĩ này mô tả người và vật trong cuộc sống thật theo những cách thức kỳ lạ, khó hiểu và đầy bất ngờ. Món quà của Johannes giúp Nella nhìn sâu vào thế giới khép kín của gia đình nhà Brandt. Nàng dần khám phá ra nhiều điều bí mật được che giấu và sợ hãi khi biết rằng nguy hiểm đang treo lơ lửng trên đầu họ. Trong xã hội bị cai trị bởi những điều luật tôn giáo hà khắc đó, tỏ ra khác biệt đồng nghĩa với đe dọa những giá trị đạo đức chung, một người giàu có như Johannes cũng không thể bình an vô sự nếu khác biệt với mọi người. Chỉ một người duy nhất dường như thấy trước số phận đang chờ đợi họ. Nhà tiểu họa giải cứu… hay gây ra sự hủy diệt đối với những con người đó? Và liệu những con người ấy sẽ phải làm gì để tồn tại giữa xã hội nơi số phận con người chỉ là những mô hình tiểu họa.? Lật đến trang cuối cuốn sách, có lẽ bạn sẽ không biết mình nên thương xót hay lấy làm mừng cho Nella, liệu những cái chết có phải là cái giá phải trả cho sự tự do mà bấy lâu nay nàng mong mỏi? Viết về Hà Lan cuối thế kỷ 17, nhưng Nhà tiểu hoạ vẫn xuất sắc chiếm được trái tim độc giả khắp thế giới khi được dịch ra hơn ba mươi thứ tiếng với hàng triệu bản doanh thu. Nhà tiểu họa của Jessie Burton đã được The Observer và Waterstones bình chọn là cuốn sách của năm vào năm 2014 và nằm trong Top 7 sách best-sellers của Amazon vào năm 2015. *** Jessica Kathryn Burton là một tác giả và nữ diễn viên người Anh. Tính đến năm 2018, cô đã xuất bản ba cuốn tiểu thuyết, The Miniaturist, The Muse và The Restless Girls. Muse đã được xuất bản trong 38 ngôn ngữ.   Mời các bạn đón đọc Nhà Tiểu Họa của tác giả Jessie Burton.