Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Thợ Thêu

Pascal Lainé là một nhà văn Pháp sinh năm 1942 ở Anet.    Ông đã đoạt cả hai giải thưởng lớn của Pháp là Medicis (1971 với tác phẩm l'Irrévolution) và Goncourt (1974 với tác phẩm La Dentellière), ngoài ra ông còn là tác giả của hơn 20 tiểu thuyết cũng như kịch bản phim.    Tác phẩm chính:  B comme Barrabas (1967) L'Irrévolution (Prix Médicis - 1971) La Dentellière (Prix Goncourt - 1974) Si on partait (1978) L'Eau du miroir (1979) Tendres cousines (1979) Terres des ombres (1982) Les Petites Egarées (1988) Dialogues du désir (1992) L'Incertaine (1993) Le Commerce des apparences (1997) Derniers jours avant fermeture (2001) Capitaine Bringuier (Théâtre) Monsieur vous oubliez votre cadavre Le mystère de la Tour Eiffel (2005) Un clou chasse l'autre ou La vie d'artiste (essai, Punctum editions 2006) *** Chuyện bắt đầu ở một tỉnh phía Bắc nước Pháp, cái tỉnh nhìn trên bản đồ nom giống một củ cải đường.   Về mùa đông, những người từ xa tới bằng ô-tô nhìn thấy trước mắt mình một vết phồng. Một mảng rộp ở chân trời. Cây cối ven đồng trơ trụi làm cho cảnh chiều tà thành mênh mông vô tận.   Nhà cửa trong làng rặt bằng gạch, một tầng. Vẫn chưa phải là phố, tuy giữa hai dãy nhà có con đường nhựa cộc cằn, thường được các trận mưa kỳ cọ chu đáo làm cho bóng loáng lên. Xe cộ rạch bùn trong các thửa ruộng trồng củ cải đường bị xéo nát thành hai cái rãnh sóng đôi. Cả những chiếc xe tải cũng làm việc tương tự đó.   Ngoài cái dòng các em bé đầu đội mũ trùm kín trước cửa trường học, mà sự lộn xộn tan biến ngay lập tức vì các em buộc phải tản đi theo lề đường, hoặc đi vào các rãnh rau, làng xóm nói chung im ắng vào mùa đông. Trong đêm tối, những con chó luồn từ xó tối này sang xó tối khác. Hoặc giả, tiếng lạch cạch của một chiếc xe đạp, tiếng động duy nhất làm nổi bật sự im ắng mỗi lúc một sâu hơn giữa các cơn động quen thuộc do những chiếc xe kéo moóc gây nên.   Đó là một làng công nhân nhưng nhà máy đã ngừng hoạt động, chỉ còn lại có cái vỏ bằng gạch và sắt.   Mùa hè ở đây thậm chí còn kỳ cục hơn. Có những đợt nắng kéo dài và con đường trở nên sạch sẽ. Khoai tây mọc trên những mảnh vườn nhỏ. Quần áo được đem phơi ra ngoài trời. Con đường hẻm xen giữa các ngôi nhà đầy những vỏ chai rỗng. Buổi tối, người đi làm ở thành phố trở về, sau khi bước khỏi ôtô, còn nán lại một chút. Họ sưởi chút nắng còn sót lại của mặt trời đang lặn trong ráng đỏ ánh lên từ phía đường quốc lộ. Đêm xuống. Bầu trời chuyển sang màu ximăng ướt và biến thành một bức tường nhẵn bóng, trên đó treo lơ lửng chiếc bóng đèn to tướng là mặt trăng.   Vào khoảng bảy giờ rưỡi, họ trở về nhà để xem tivi.   Với lũ trẻ, đó là khoảng thời gian để chạy nhảy trên đường phố và chơi những trò nghịch ngợm trong các ngõ ngách phía sau nhà.   Ở chỗ giao nhau của quốc lộ và con đường nội tỉnh đã có từ lâu là một quảng trường. Quốc lộ có trước. Trên quảng trường có nhà thờ; kề đó là đài tưởng niệm, xung quanh có những chiếc ghế dài. Các cụ ông, cụ bà bé choắt lại vì tuổi tác, thường đến đây vào những ngày đẹp trời. Với dáng điệu khẽ khàng một cách co ro, họ ngồi lên những chiếc ghế băng để đan len hoặc đọc báo. Cũng có khi hai ba em bé gái, mà thường thì vẫn chỉ có bọn chúng, ngồi trước mặt con đường quốc lộ, nhìn những chiếc xe con và xe tải chạy qua chạy lại. Một cô bé trong số đó có tên là Pom (Pomme - quả táo tây).   Và đây là ngôi nhà của hai mẹ con cô bé Pom. Trước hết là một phòng lớn với chiếc bàn dài sơn trắng. Mặt bàn phủ tấm vải dầu có in những bông hồng đã ngả màu vàng vì thuốc tẩy (cũng còn có cả những vết nhòe màu vàng giống như những chiếc lá của bó hoa. Còn những vết thủng do tàn thuốc lá gây nên thì chẳng ra hình thù gì cả).   Những chiếc ghế sơn, có vài chiếc cùng kiểu với bàn, còn nữa thì mỗi chiếc mỗi kiểu. Rồi đến chạn bát.   Có thể ru rú trong nhà đốt lò sưởi, cũng có thể ngồi thoải mái với bộ quần áo ngủ; và bất chấp tất cả, ta vẫn cảm thấy, hầu như bằng xúc giác, cũng rung lên theo nhịp rung của những chiếc bánh xe tải đồ sộ. Những chiếc xe hối hả chạy qua, chỉ cách nhà có vài mét, nó cũng là lý do để tạo nên một cái gì đó khiến ở trong nhà cũng có cái vẻ ở ngay cạnh lề đường.   Căn phòng này do vậy đã trở thành phòng chính, và ở hai bên, mỗi bên một phòng nhỏ. Trong phòng thứ nhất có một chiếc tủ gương và một chiếc giường, một cái vũng mềm mại từ đó các giấc mơ, như ta vẫn thường nói, sẽ chảy thẳng ra lề đường. Ở chân chiếc giường lớn là một chiếc giường cũi dành cho trẻ em. Các thanh chắn trên thành cũi có cái bằng sắt mạ kền, có cái đã han gỉ.   Pom ngủ ở phòng thứ hai, căn phòng mà chúng ta chưa hề miêu tà đến, từ khi nó còn quá rộng đối với một chiếc giường cũi.   Chính vì có đôi má bầu bĩnh nên người ta mới gọi cô bé là Pom. Đôi má của cô rất nhẵn và khi có ai đó nói về nó trước mặt cô thì nó càng nhẵn, càng tròn và càng bóng nhoáng lên.   Cô bé còn có những thứ tròn trịa khác nữa. Vì thiếu một nhà thơ, kẻ xa lạ đến tội nghiệp trong câu chuyện này, bọn con trai trong làng bắt đầu nhìn cô bé như nhìn một giỏ trái cây.   Nhưng cô bé Pom cũng chẳng cần có nhà thơ để có thể rất hài hòa theo cốt cách riêng của cô. Có thể không thật đẹp. Cô không có cái mảnh mai thú vị của các thiếu nữ yêu kiều mà chỉ nhìn thôi, ta cũng đã có cảm giác rằng làn da tay của họ có thể làm chén nước rửa tay[1] mát mẻ và trong vắt hẳn lên. Trái lại, đôi bàn tay của cô, tuy không đến nỗi thô thiển, vẫn được gắn một cách chắn chắn vào cổ tay, rồi cổ tay lại được gắn vào cánh tay, và cứ như thế với cái vẻ hết sức tự nhiên.   Từ đầy đặn không phải dành cho một cô bé ở độ tuổi này (cứ cho là tuổi 14 đi), nhưng quả thật cô bé này tạo cho ta ngay lập tức một ấn tượng về sự đầy đặn: dù cô bận tíu tít hay chỉ ngồi rồi một chỗ, hoặc giả nằm bất động, mơ màng, dù mắt cô có lim dim, miệng há ra và tâm trí có phiêu diêu trong trạng thái gà gật thì sự có mặt của thân thể cô vẫn chế ngự cả căn phòng. Pom chỉ vừa đến độ tuổi trưởng thành, nhưng cả thân thể cô là một khối đồng nhất và chắc nịch. Cả phần hồn của cô cũng vậy. Cô không thuộc loại sinh vật mà sự hiện diện của nó tan biến đi những cái nhìn và những lời nói mơ hồ; cử chỉ, công việc của cô, dù là phù phiếm nhất, cũng vẫn làm cho mỗi giây phút của cô trở nên vĩnh cửu. Cô dọn ăn ở chỗ này, giặt giũ ở chỗ kia, cô ngồi làm bài tập (với một sự chăm chú khiến ai cũng phải mủi lòng) và những thái độ ấy, những cung cách ấy đều toát lên từ cô theo một nhu cầu hoàn toàn tự nhiên trong một thế giới yên bình.   Đôi bàn tay ngắn ngủi của cô bé trở nên luống cuống khi tập thêu, tưởng chừng như đã bị tách khỏi cô, nhưng cũng không vì thế mà mất đi ở cô cái nhất quán của sự tinh tế và sự thô kệch nào đó. Công việc cô làm, dù là việc gì ngay lập tức trở thành sự hòa hợp ấy, sự nhất quán ấy. Khi đó, cũng như những người khác, cô là chủ đề của một trong những bức tranh sinh hoạt mà trong đó hiện ra rất sống động qua cách bố cục và qua các giai thoại. Cái dáng vẻ ấy của cô thật riêng biệt, chẳng hạn như khi cô ngậm giữa hai làn môi chiếc ghim trong lúc đang sửa lại mái tóc. Cô bé là Cô thợ giặt, Cô xách nước, hoặc giả, Cô thợ thêu.   Có thể Pom đã thừa hưởng những năng khiếu đó ở bà mẹ, người đang phục vụ ở một quán rượu trong thành phố. Bà nói “Xin hầu ngài” một cách rất thoải mái bất cứ khi nào có một quý ông yêu cầu bà lên buồng trên gác. Bởi vì bà cũng là một người hầu theo đúng nghĩa riêng của từ đó dù ở gác lửng hay dưới tầng trệt, đứng hay bò, luôn luôn đơn giản và tự nhiên, cũng đơn giản, tự nhiên như cô con gái của bà vậy. Cả ở nhà bà mẹ và cô con gái, sự thoải mái trong tư thế là giống hệt nhau, kể cả khi ở trong căn buồng trên gác của quán rượu, vẫn là động tác tự nhiên ấy, luôn luôn đồng nhất và với một sự trong trẻo chân thành bất chấp tất cả. Tuy nhiên bà mẹ, người hầu ấy, không cởi giày vì trên sàn có những cái giằm. Đó chính là chỗ bất ổn duy nhất trong cuộc sống của bà.   Hai mẹ con nhà Pom còn giống nhau về tính nết. Họ chấp nhận một cách đơn giản những niềm vui và nỗi cay đắng mà số phận ban phát cho họ, cũng chẳng lấy gì làm nhiều lắm. Cả hai, cùng với ngôi nhà nhỏ của họ nằm ở rìa đường, tạo thành một cánh tay chết của cuộc sống, vệt sáng lặng lẽ từ một ô cửa sổ ở ngay cạnh một miệng cống, nơi những sinh vật khác qua lại nhộn nhịp.   Pom không hề tỏ ra ngạc nhiên và hoảng sợ khi cô thấy những dấu hiệu đầu tiên của giới tính, những dấu hiệu chưa ai nói trước với cô. Cô tự thay và giặt lấy đồ lót của mình, không giấu giếm nhưng cũng không nói với ai, như một con mèo bới đất và mùn cưa giấu đi các thứ bẩn thỉu mà nó vừa bĩnh ra. Mẹ cô đã nhìn thấy cô làm cái công việc tỉ mẩn và lặng lẽ này, và cô lắng nghe những lời khuyên của mẹ với một sự chăm chú chừng như chính cô đã hỏi vậy. Tâm hồn Pom cũng tròn trĩnh và nhẵn bóng như thân thể cô: không có chỗ gồ ghề khúc khuỷu nào ngăn được dòng chảy mọi vật trong cô.   (Ở đây tác giả có thể nhấn mạnh một chút về sự chung sống giữa một thiếu nữ với một người mẹ có quan hệ với nghề làm điếm. Có thể gợi lại những đêm không ngủ, những giờ khác chờ đợi dày thêm nỗi tủi nhục âm thầm của cô gái, cho đến tận khi mẹ trở về vào giữa đêm khuya, bước đi mệt mỏi và nặng nề, đôi mắt đờ dại vì mệt và chán chường, đụng phải ngay khi cánh cửa vừa hé mở, bộ mặt nhợt nhạt và cái vẻ dò hỏi đầy đau khổ của đứa con. Cũng cần phải nói về những lời giễu cợt bóng gió, hoặc sự im lặng nhọn hoắt như lưỡi kim mà Pom thật khó bề chống đỡ được mỗi khi cô đi trên đường làng, làm những thương tổn của tâm hồn cô mỗi lúc một rõ ràng, sâu sắc hơn. Ta cứ hình dung số phận chua xót của cô bé, và cuốn tiểu thuyết có thể sẽ trở nên một câu chuyện về những hư đốn của cô tiếp theo sau sự ngây thơ trong trắng ban đầu).   Thế nhưng mọi việc lại khác hẳn. Trước tiên Pom và mẹ cô có đặc quyền về sự vô tư. Cái đó không che lấp thực tế mà ngược lại làm cho thực tế trở nên trong suốt khiến con mắt người đời lướt qua đi mà không dừng lại. Quả thật chẳng ích lợi gì để mà tìm hiểu xem Pom có “nghi ngờ” vị thế của bà mẹ hay không. Pom làm gì có đủ tư cách để mà nghi ngờ. Tuy nhiên, số phận của cô (nếu chúng ta cứ khoác cho tâm hồn đơn sơ ấy tấm áo “số phận”) không phải không liên quan đến việc mẹ cô làm điếm tại một quán rượu trong thành phố, hơn nữa, bà mẹ vốn tính ngay thật, cứ kể bô bô trước mặt con gái về những người đàn ông đã chung chạ với mình. Tình trạng đó cùng với những câu chuyện mà mẹ cô thường nói, những câu chuyện kỳ quặc vì sự tầm thường của nó (trong đó chỉ có sự vô hại và chỉ có một người mẹ trung thực mới có thể nói với con mình bằng những từ ngữ chính xác như vậy), đã tạo nên trong Pom lòng kính trọng lớn lao đối với phẩm chất của “các quý ông”. Cô không nhìn thấy phẩm chất ấy ở trong đám trai làng. (Chẳng hạn khi cô đi đến trường hoặc khi cô trở về nhà). Bọn này mang trên mình chúng tất cả những gì là bừa bãi, là nhếch nhác trên trái đất này, mùi rượu vang, mùi các cuộc đình công, các đám rước ngày Một tháng Năm, và mọi lộn xộn khác mà đôi khi người ta đã chiếu trên vô tuyến truyền hình. Mẹ con nhà Pom có một người hàng xóm, gã này mỗi lần say khướt thường làm bọn trẻ trong làng sợ hết hồn, chạy bán sóng bán chết cho đến tận đường cái. Pom đã nhìn thấy bộ phận sinh dục của gã. Những quý ông ở thành phố không thể được tạo nên như vậy. Bằng chứng là các quý ông ấy là những chưởng khế, dược sĩ, nhà công nghiệp, nhà buôn. Ngoài thú tính, họ còn có những chiếc đồng hồ, những chiếc nhẫn vàng và sau nữa là những tập séc dày cộp. Chính với những thứ ấy mà các quý ông cưỡi lên bụng các cô gái trong khi vợ của quý ông đang vào thời kỳ mãn kinh ở nhà (tất nhiên Pom không thể diễn đạt nổi tất cả những điều đó).   Mùa hè, cô bé ngồi trên một chiếc ghế băng ở quảng trường, buông thả mình trong một sự chú ý mơ hồ đến những người lái xe, rất gần vào lúc mà bọn chúng chuẩn bị chạy qua đường quốc lộ đến tận chân trời; và cũng rất xa, như những quý ông mà cô nhận biết được qua tấm kính bằng những lời kể của bà mẹ.   Mời các bạn đón đọc Cô Thợ Thêu của tác giả Pascal Lainé.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Như Núi Như Mây - Nguyễn Đông Thức
Như núi như mây lại là một câu chuyện tình đầy sóng gió nhưng bền bỉ, bị ngăn cản bởi gia đình, bởi cuộc chiến tranh và bởi khoảng cách địa lý. Nhưng Vân và Sơn - đôi bạn trẻ yêu nhau ngày ấy vẫn tìm về bên nhau, dù khi được mãi mãi bên nhau thì cả hai chỉ còn là nắm tro tàn. “Cách đây hai mươi sáu năm, em đã thề với lòng mình sẽ chỉ yêu một mình anh. Biển đã chứng kiến lời thề ấy và qua bao sóng gió lại đón mình quay về. Em muốn, sau này, khi hai đứa mình chết đi, tro của hai đứa sẽ được rải xuống trên vùng biển ấy, để linh hồn mình mãi mãi bên nhau…” Dù thời điểm bắt đầu chuyện tình cách đây đã lâu, nhưng tình yêu thì không bao giờ là cũ. Với Như núi như mây, Nguyễn Đông Thức đã cuốn hút người đọc từ đầu đến cuối. *** Nhà văn Nguyễn Đông Thức sinh ngày 18 tháng 10 năm 1951 tại Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Hiện nay ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp đại học. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1988). Sau ngày miền Nam giải phóng, Nguyễn Đông Thức tham gia thanh niên xung phong và làm báo, viết văn. Hiện nay anh công tác tại báo Tuổi Trẻ thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm chính đã xuất bản Ngọc trong đá (tiểu thuyết, 1986) Mưa khuya (truyện ngắn, 1987) Tình yêu thường không dễ hiểu (truyện ngắn, 1987) Trăm sông về biển (tiểu thuyết, 1988) Con gái vốn phức tạp (truyện ngắn, 1988) Mối tình đầu tiên và cuối cùng (truyện ngắn, 1989) Bản án trước khi chào đời (truyện ngắn, 1989)... Vĩnh biệt mùa Hè Vĩnh biệt facebook Như Núi Như Mây ...     Mời các bạn đón đọc Như Núi Như Mây của tác giả Nguyễn Đông Thức.
Người Tình Cũ - Đào Hiếu
Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Người Đàn Bà Trên Đồi Cỏ Vua Mèo Nữ Quái Dù Đến Rồi Đi ... *** Tôi không gõ cửa, vì khi xoay cái nắm đấm tôi biết bên trong không gài chốt. Ðối với căn phòng này, như thế có nghĩa là vào được. Trần rất ít tiếp khách. Ngoại trừ người phục vụ đem các bữa ăn, gần như không ai được vào căn phòng này. Cánh cửa đóng. Nó sơn xanh đã ngã màu, ngăn cách anh và cái thế giới bên ngoài với những tiếng giày dép, tiếng máy chữ lóc cóc… Trần năm trên chiếc giường nệm nhỏ. Anh mặc một bộ pyjama kẻ sọc xanh bằng loại vải rẻ tiền. Có tôi hay không có tôi, anh vẫn nằm như vậy. Tôi quen với dáng dấp anh cũng như anh quen với dáng dấp tôi, với những cử chỉ của tôi. Tôi quan sát anh trong im lặng và anh cứ nằm im cho tôi quan sát. - Ðừng uống thủy ngân nữa. Tôi nói. Trần cười. Anh cười vì tôi nói câu ấy đã mấy lần rồi. Nhưng anh vẫn uống. Thủy ngân, thạch tín. Toàn thuốc độc. Những phân tử thủy ngân len vào tế bào, buộc tế bào phản ứng lại, tích tụ nước. Da thịt anh căng lên, mặt sưng phù. Nụ cười của anh cũng sưng phù. - Nó đang xuống, Trần nói, nhưng không uống thủy ngân nó vẫn xuống, thành ra chưa kết luận được là do thủy ngân hay do nó theo chu kỳ của nó. Phải ít lâu nữa mới biết được. Chính Trần cũng không biết được "ít lâu" là bao nhiêu ngày, bao nhiêu tuần. Không phải chỉ có cơ thể mà cả ý thức và ý chí anh đang chống lại thủy ngân. Tim đập không bình thường gây mất ngủ liên tục. ... Mời các bạn đón đọc Người Tình Cũ của tác giả Đào Hiếu.
Lá Ngọc Cành Vàng - Nguyễn Công Hoan
Nga là con nhà quyền quý, lá ngọc cành vàng. Một lần Nga gặp gỡ Chi nghèo nàn rách rưới nhưng nhân cách hơn người. Ngay từ lần đầu gặp mặt Nga đã cảm mến Chi, rồi thẩn thờ chờ đợi mong gặp Chi.  Hẹn Chi lại nhà để cho sách, nhưng Chi lãnh đạm không dám vọng tưởng nên không dám gặp gỡ.  Nhưng vì thế Nga lại càng thương Chi, rồi dò hỏi, Nga biết Chi tài giỏi lại có nhiều đức tính tốt, lại càng thương Chi. Nga mơ màng được người chồng như Chi, nhưng biết gia đình phân biệt giai cấp, mộng tưởng sẽ ko thành.  Càng nghĩ ngợi, càng mơ mộng, càng dò hỏi, Nga càng thất vọng rồi sinh ra ngây dại.  Vì muốn cứu Nga, chú Tham giấu cha mẹ Nga cho Chi lại thăm. Nga khỏi bệnh nhưng có mang với Chi. Ông bà Phủ nhất quyết không cho cưới, bắt Nga uống thuốc thôi thai.  Đau đớn, cô độc, tuyệt vọng, Nga chết trong rên rỉ. Chết trong sự giá lạnh của tư tưởng gia thế con ông cháu cha *** Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ. Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,…) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ). Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996. Mời các bạn đón đọc Lá Ngọc Cành Vàng của tác giả Nguyễn Công Hoan.
Cham Vào Tương Lai - Jay Asher
Josh và Emma là hàng xóm của nhau, thuở nhỏ rất thân thiết nhưng khi lớn lên, họ lại trở nên xa cách. Emma đã có bạn trai nhưng Jossh vẫn âm thầm theo đuổi cô. Mọi chuyện bắt đầu vào một ngày, gia đình Jossh nhận được chiếc đĩa AOL CD-ROM cài chương trình miễn phí. Và mẹ của cậu đã tặng nó cho Emma để cô cài vào chiếc máy tính mới của mình. Emma đăng nhập vào chương trình và nó đã dẫn đến những điều mà cô không thể ngờ được. Nó giống như mạng xã hội mà cô vẫn thường chơi, nhưng những thông tin của cô trên trang đó alij cho thấy đó không phaior cô bé của hiện tại mà là cô của 15 năm sau. Và, chồng của Emma, không ai khác là Jossh trong tương lai. Vậy là, thật bất ngờ, họ đã chu du vào tương lai của chính mình. Và, trong khi đối mặt với cả hiện tại và tương lai, họ nhận thức được rằng, mọi hành vi, quyết định của hiện tại đều sẽ ảnh hưởng đến tương lai một cách mật thiết. Tương lai biết trước giống như một lăng kính để họ biết sống tốt cho hiện tại hơn. *** Jay Asher, sinh tại Arcadia, California năm 1975, là cây bút chuyên viết truyện cho lứa tuổi vị thành niên, tác giả của cuốn sách bestseller Thirteen Reasons Why (dịch: Mười ba lí do tại sao, 2007) trên New York Times. The Future of Us (tạm dịch: Tương lai của chúng ta, 2011) là cuốn sách thứ hai của anh và đang được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. *** Hôm nay chưa thể chia tay với Graham được dù đã bảo với tụi bạn là lần tới gặp mình sẽ làm. Thay vào đó, mình trốn tịt trong phòng ngủ, cài đặt chương trình cho chiếc máy tính mới trong khi cậu ta chơi ném đĩa ở công viên bên kia đường. Bố vừa chuyển đến cho mình chiếc máy tính này làm quà chuộc lỗi lần nữa. Mới tuần vừa rồi bố trao tận tay mình chùm chìa khóa chiếc Honda cũ trước khi cùng dì chuyển từ trung tâm Pennsylvania đến Floria để bắt đầu cuộc sống mới. Hai người vừa sinh con đầu lòng, và thế là mình nhận được chiếc máy tính đời Window 95 kèm theo một màn hình màu. Mình đang mải thử nhiều kiểu màn hình chờ khác nhau thì có tiếng chuông. Mình để mẹ ra mở cửa vì vẫn chưa quyết định được nên chọn kiểu tường gạch hay ống nước. Mong sao không phải là Graham. “Emma!” Mẹ gọi lớn. “Josh tìm con đấy.” ... Mời các bạn đón đọc Cham Vào Tương Lai của tác giả Jay Asher.