Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đứa Trẻ Cát

Tahar Ben Jelloun sinh năm 1944, nhà văn người Ma-rốc viết bằng tiếng Pháp. Đứa trẻ cát xuất bản năm 1985, được báo chí Pháp ca ngợi và độc giả đón đọc say mê ngay từ khi vừa phát hành. Đêm thiêng là phần tiếp nối và bổ sung cho đề tài Đứa trẻ cát nổi tiếng đã đưa ông đến với giải Goncourt 1987.   Chuyện xảy ra tại một khu đông dân của một thành phố Ả Rập, ông chủ lò gốm cay cú vì vợ sau bảy lần sinh chỉ toàn là con gái. Cảm thấy xấu hổ, nhục nhã vì không có con trai thừa kế, ông ta đã đi đến một quyết định thách thức với số mệnh rằng dù thế nào đi nữa, đứa con sắp ra đời dứt khoát phải là một thằng con trai. Thật oái oăm, đứa thứ tám chào đời vẫn là con gái. Thế rồi Ahmed - tên đứa trẻ sơ sinh - được trình làng và nuôi dạy như một đứa con trai. Nhưng sau bao năm tháng, cậu bé lớn lên, bối rối khám phá ra ý nghĩa đích thực của cái mà người ta vẫn che giấu cậu: giới tính.   Những di chứng quái gở của tôn giáo, sự ngu muội ở một bộ phận cộng đồng là lí do dẫn dắt ông bố đi đến một quyết định sai lầm kéo theo sau đó bao nhiêu tai họa cho gia đình, cho đứa con mà ông bất chấp mọi quy luật áp đặt nên. Và đó cũng là mục tiêu mà tác giả cũng đã tập trung phê phán trong một số tiểu thuyết khác của ông. Và không chỉ có vậy, François Nourissier, viện sĩ Viện hàn lâm Pháp, trong khi đánh giá về tiểu thuyết của Tahar Ben Jelloun, đã gọi đó là những tiểu thuyết của sự lưu đày, của trạng thái không thể hòa nhập, của sự chia rẽ của hai nền văn hóa!  ***  Tahar Ben Jelloun (Tiếng Ả Rập: الطاهر بن جلون‎) (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1944 tại thành phố Fes, Ma-rốc) là một nhà thơ, nhà văn người Ma-rốc. Mặc dù ngôn ngữ mẹ đẻ của ông là tiếng Ả rập nhưng hiện nay, các tác phẩm của ông đều được viết bằng tiếng Pháp.   Học trung học ở một trường song ngữ (tiếng Ả Rập và tiếng Pháp), sau đó Ben Jelloun học tiếp tiếng Pháp ở thành phố Tangier miền bắc Ma-rốc cho tới năm 18 tuổi. Đỗ vào trường đại học Mohamned-V ở Rabat, ông theo học ngành triết học. Trong những năm học đại học, ông đã viết nên những bài thơ đầu tiên của mình (được tập hợp trong tập thơ Hommes sous linceul de silence (1971)).   Tốt nghiệp, Ben Jelloun trở thành giáo sư dạy triết học ở Tetouan rồi sau đó ở Casablanca, Ma-rốc. Năm 1971, sau sự việc môn triết không được dạy bằng tiếng Ả Rập nữa, ông rời Ma rốc và đến Pháp để tiếp tục sự học môn triết của mình. Ở Pháp, ông bắt đầu viết nhiều hơn.   Đầu năm 1972, Ben Jelloun bắt đầu viết bài cho tờ Le Monde (Thế giới). Năm 1975, ông được công nhận học vị tiến sĩ về tâm thần học. Với những kinh nghiệm về tâm lý liệu pháp (nhờ vào những khảo cứu và lòng say mê), ông viết cuốn La Réclusion solitaire vào năm 1976.   Năm 1985, Ben Jelloun xuất bản cuốn tiểu thuyết L'enfant de sable (Đứa trẻ cát) được ca tụng rộng khắp. Ông được trao giải Goncourt năm 1987 cho tiểu thuyết La Nuit Sacrée (Đêm thiêng).   Năm 1997, cuốn Le Racisme expliqué à ma fille (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) được ông cảm tác dựa trên những thực tế trong gia đình mình được xuất bản.   Ông thường xuyên được mời diễn thuyết hoặc thỉnh giảng tại các trường đại học ở Ma-rốc và trên khắp châu Âu.   Năm 2004, Ben Jelloun giành được giải thưởng văn học quốc tế IMPAC Dublin cho tác phẩm This Blinding Absence of Light (do Linda Coverdale dịch sang tiếng Pháp). Ông cũng giành được giải Prix Ulysse vào năm 2005 cho toàn bộ sự nghiệp của mình.   Tháng 9 năm 2006, Ben Jelloun giành được giải đặc biệt vì “hòa bình và tình hữu nghị giữa người với người” tại Lễ hội văn hóa Lazio between Europe and the Mediterranean Festival được tổ chức tại Rome, Lazio nước Ý.   Ngày 1/2/2008, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã trao cho ông Huân chương Bắc đẩu Bội tinh.   Ben Jelloun có 4 người con và hiện đang sống tại Paris.   Hai cuốn tiểu thuyết L'Enfant de sable (Đứa trẻ cát) và La Nuit sacrée (Đêm thiêng) đã được dịch ra 43 thứ tiếng. Cuốn Le racism expliqué à ma fille (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) đã được dịch ra 33 thứ tiếng. Bản thân ông cũng tham gia vào việc chuyển ngữ những tác phẩm của chính mình.     Tác phẩm chính:   Harrouda (1973)  Solitaire (Cô đơn) (1976)  The Sand Child (Đứa trẻ cát) (1985)  The Sacred Night (Đêm thiêng) (1987)  Silent Day in Tangiers (Ngày yên lặng ở Tangier) (1990)  With Downcast Eyes (Mắt cúi gằm) (1991)  Corruption (Tham nhũng) (1995)  The Fruits of Hard Work (Thành quả lao động) (1996)  Praise of Friendship (Ca ngợi tình bạn) (1996)  L'Auberge des pauvres (1997)  Racism Explained to My Daughter (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) (1998)  Islam Explained (Về đạo Hồi) (2002)  This Blinding Absence of Light (2003)  La Belle au bois dormant (Người đẹp ngủ trong rừng) (2004)  The last friend (Người bạn cuối cùng) (2006)  Yemma (2007)  Leaving Tangier (Rời bỏ Tangier) (2009)  The Rising of the Ashes (Tàn tro bốc cao) (2009)   *** Ấn tượng đầu tiên là khuôn mặt ấy dài ngoẵng bởi những nếp nhăn chạy dọc, những nếp nhăn giống như những vết sẹo bị cày xới bởi những trận mất ngủ triền miên, một khuôn mặt râu cạo nham nhở, bị thời gian tàn phá. Cuộc sống - cuộc sống nào đây? Một ngoại hình kì dị được sinh ra để rồi bị lãng quên - có bổn phận ngược đãi, ngáng trở, và thậm chí phải làm cho anh ta tức tối. Người ta có thể đọc hoặc có thể đoán ra được trên gương mặt ấy nỗi đau khổ ê chề mà chỉ cần một cử chỉ vụng về của bàn tay, một ánh mắt bênh vực, một con mắt dò xét hoặc ác ý cũng đủ làm cho vết thương ấy lại tấy lên nhức buốt. Anh ta thường tránh phô bày thân hình ra giữa ánh sáng chói chang và giấu hai con mắt vào sau làn tay áo. Ánh sáng của ban ngày, của một ngọn đèn, hoặc của mặt trăng rằm, đều làm cho anh ta đau đớn: tia sáng ấy muốn lột trần thân xác anh ta, len lỏi vào từng làn da thớ thịt và khám phá ra ở đó nỗi tủi hổ xót xa và những giọt nước mắt thầm kín. Anh ta cảm thấy luồng ánh sáng đó lướt qua cơ thể như một ngọn đuốc thiêu cháy tất cả những chiếc mặt nạ của anh, như lưỡi dao lần lần lột bỏ tấm voan bằng thịt ngăn cách anh ta với những người khác. Anh ta sẽ ra sao nếu khoảng không gian bảo vệ, ngăn cách anh ta với những người khác bị xóa bỏ? Lẽ nào anh ta lại bị phơi ra trần truồng, không một phương tiện tự vệ, trong tay những kẻ luôn rượt đuổi anh chỉ vì muốn thỏa mãn thói tò mò, tính đa nghi và thậm chí chỉ vì một mối hận thù dai dẳng; bọn họ không bao giờ bằng lòng với sự im lặng và trí thông minh của một kẻ luôn gây phiền hà cho họ bằng sự hiện diện độc đoán và đầy bí ẩn.   Ánh sáng lột trần cơ thể anh ta. Tiếng ầm ĩ làm cho anh ta bấn loạn. Từ ngày giam mình trong căn phòng nhìn ra sân thượng, anh ta không còn bị cái thế giới ồn ào kia tra tấn nữa, mỗi ngày một lần, anh ấy tiếp xúc với thế giới bên ngoài thông qua việc mở cửa cho Malika, bà giúp việc vẫn thường đưa thức ăn, đồ uống, báo chí và một bát hoa cam vào phòng cho anh. Anh ta rất quý mến bà lão vì bà đã trở thành một thành viên của gia đình. Kín đáo và dịu dàng, bà không khi nào lục vấn anh ta bất cứ điều gì, mà cả hai cứ như những kẻ tòng phạm, nhờ vậy họ rất gắn bó với nhau.   Tiếng ồn. Tiếng ồn của những giọng nói the thé hoặc nhạt nhẽo. Tiếng ồn của những tiếng cười thô lỗ, từ những tiếng hát chói tai phát ra từ chiếc radio. Tiếng ồn của những xô nước hắt ra ngoài sân. Tiếng ồn của lũ trẻ đang hành hạ một con mèo mù hay một con chó chỉ còn ba chân bị lạc vào giữa những đường phố hẹp, nơi những con vật và những người điên thường bị vướng bẫy. Tiếng ồn của những lời than vãn, nỉ non của những người ăn mày. Tiếng ồn chói tai của một chiếc loa phóng thanh, năm lần mỗi ngày, rè rè phát lời mời cầu nguyện. Đôi khi tiếng loa không còn là lời gọi mời cầu nguyện nữa mà là một cử chỉ xúi giục làm loạn. Tiếng ồn của mọi giọng nói và những tiếng la ó từ ngoài phố vọng vào và neo lại ở kia, ngay phía trên căn phòng của anh ta, đã đến lúc gió hãy cuốn chúng đi hoặc giảm bớt âm lượng của chúng.   Anh ta đã khuếch trương những dị ứng đó; cơ thể quá nhạy cảm và dễ xúc động của anh ta đón nhận mọi thứ dị ứng dù chỉ là một chấn động rất nhỏ, hấp thụ và giữ cho chúng luôn phát huy tác dụng, vì thế giấc ngủ của anh ta thật khó khăn nếu không muốn nói là không thể. Các giác quan của anh ta không hề bị rối loạn như người ta vẫn nghĩ. Mà ngược lại, chúng trở nên đặc biệt sắc sảo, năng động và không biết mệt mỏi. Chúng thực sự phát triển và chiếm lĩnh toàn bộ vị trí trong cái thân xác mà cuộc sống đã làm đảo lộn và số phận bị đổi hướng.   Khứu giác của anh ta có khả năng phân biệt được tất cả. Lỗ mũi đem đến cho anh ta mọi thứ mùi, ngay cả những thứ mùi không còn ở đó nữa. Anh ta nói rằng anh ta có khứu giác của người mù, thính giác của một xác chết đang ấm nóng và thị giác của một nhà tiên tri. Nhưng cuộc sống của anh ta không phải là cuộc sống của một vị thánh, tuy nhiên, cuộc sống ấy cũng có thể trở nên tốt đẹp như thế nếu như anh ta không có quá nhiều thứ phải làm.   Từ khi lui về ẩn dật trong căn phòng trên cao này, anh ta chẳng tiếp chuyện bất cứ ai. Anh ta cần một thời gian dài, có thể là nhiều tháng để thu nhặt các bộ phận của mình, sắp xếp lại quá khứ theo trình tự thời gian, sửa chữa cái hình ảnh bi thảm mà mọi người xung quanh đã dành cho anh ta trong thời gian gần đây, thu xếp một cái chết mà anh ta đã kí thác vào đó tất cả: cuốn nhật ký riêng tư, những điều bí mật của anh ta - có thể chỉ có cuốn sổ này là điều bí mật duy nhất - và cũng có thể đây là bản phác thảo một câu chuyện mà chỉ mình anh ta nắm giữ chìa khóa mà thôi.   Một màn sương mù dày đặc bao bọc dai dẳng xung quanh anh ta, che chắn cho anh những ánh mắt đầy ngờ vực và những lời thị phi của những người bà con và hàng xóm vẫn to nhỏ với nhau trước ngõ. Bức màn màu trắng này làm cho anh ta bình tâm trở lại, đưa anh ta vào giấc ngủ yên lành và nuôi dưỡng những giấc mơ tuyệt vời của anh.   Chuyện ẩn cư của anh ta không làm cho gia đình phải suy nghĩ nhiều. Họ đã quen với cảnh nhìn anh ta đắm chìm trong sự câm lặng ghê người, hoặc trong những cơn cáu giận bùng phát hết sức phi lí. Có cái gì đó không thể xác định được một cách minh bạch đã xen vào giữa anh ta và những người còn lại trong gia đình. Chắc hẳn là anh ta có những lí do riêng, và chỉ có mình anh ta là có thể nói ra được thôi. Anh ta quả quyết rằng thế giới của anh ta chỉ thuộc về anh ta mà thôi, và rằng cái thế giới ấy ưu việt hơn rất nhiều so với thế giới của bà mẹ và các chị của mình - nói tóm lại là rất khác nhau. Thậm chí anh ta còn nghĩ rằng mẹ và các chị không thể có một thế giới riêng nào hết. Họ bằng lòng sống ở bề ngoài sự vật, không đòi hỏi gì lớn, tuân theo quyền uy, những luật lệ và ý muốn của anh ta. Mặc dù không nói với nhau, nhưng phải chăng bà mẹ và những người chị gái đều cho rằng anh ta đã lựa chọn và chấp nhận lối sống lặng lẽ ấy, bởi lẽ anh ta không còn làm chủ được bản thân, không làm chủ được hành vi và sự biến thái trong con người mình do những cú sốc thần kinh căng thẳng tột độ lúc nào cũng chực làm anh ta mất trí? Ít lâu nay, bước chân của anh ta đã bớt đi dáng vẻ của một người đàn ông độc đoán, một chủ nhân không bị ai tranh ngôi đoạt vị trong gia đình, một người đàn ông thay cha quán xuyến mọi việc trong gia đình.   Lưng anh ta đã bắt đầu còng xuống, đôi vai buông xuôi một cách vô duyên, trở nên nhỏ hẹp và mềm nhũn, chúng k còn ý định làm chỗ dựa êm ái cho mái đầu của người tình hoặc là chỗ đặt bàn tay thân tình của bạn bè. Anh ta cảm thấy một khối nặng vô hình đè lên lưng, đến nỗi mỗi bước đi phải gắng ngẩng mặt lên và giữ cho thật cân bằng để khỏi ngã. Anh ta lết đi từng bước, nặng nhọc di chuyển thân mình, âm thầm chống chọi với những cơn đau dồn dập ập đến.   Mời các bạn đón đọc Đứa Trẻ Cát của tác giả Tahar Ben Jelloun.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Qua Sông - Đào Hiếu
C ách đây 26 năm tôi có viết một truyện dài dựa theo cuộc đời của anh thương binh Phan Thành Lợi. Đây là sáng kiến của bà Đỗ Duy Liên, lúc ấy là phó chủ tịch UBND Thành phố HCM. Anh Lợi quê ở Củ Chi, là một thương binh bị cụt cả hai tay, hai chân. Lúc đó anh được cấp một căn hộ nhỏ trong "làng phế binh" Thủ Đức. Tôi lui tới làm việc với anh trong vài tháng và viết xong một truyện dài lấy tên là Qua Sông. Tác phẩm được nhà xuất bản Văn Nghệ in năm 1986 với số lượng là 10.150 cuốn, khổ 13x19cm. Hồi đó sách in bằng giấy đen, sần sùi, trông rất xấu xí, nhưng vẫn không đủ sách để mà bán. Sau khi anh Lợi qua đời vì những thương tích cũ hành hạ, tôi gần như quên tác phẩm ấy, một phần vì tôi nghĩ đó chỉ là một cuốn sách viết theo đơn đặt hàng, và phần khác vì đề tài "cách mạng" không còn được độc giả quan tâm nữa, do những tác động quá tệ hại của guồng máy tham nhũng ngoài xã hội. Hai mươi bốn năm sau, trong lúc nhàn rỗi, tình cờ đọc lại "Qua Sông", tôi không thể ngờ rằng trong quá khứ mình đã từng tiếp xúc với một anh du kích Củ Chi lạ lùng như vậy, đã từng viết về một cuộc tình đau đớn như vậy. Tôi từng xem những phim chiến tranh thuộc loại tầm cỡ của điện ảnh Mỹ như "Giải cứu binh nhì Ryan", "Huyền thoại mùa Thu", "Cuốn theo chiều gió", "Trung đội"…nhưng chưa từng thấy nhân vật nào có số phận nghiệt ngã như anh Phan Thành Lợi, chưa từng thấy có chiến trường nào bi thảm như chiến trường Củ Chi khi phải hứng chịu những trận bom rải thảm của máy bay B52 trong trận càn Cedar Falls đẫm máu đầu năm 1967. Đọc lại Qua Sông, tôi chợt "ngộ" ra một điều, đó là: cuộc chiến vừa qua không phải là cuộc chiến của những người đang cầm quyền hiện nay ở Việt Nam, mà là cuộc chiến của những người lính đã chết ngoài mặt trận, của những thương binh như Phan Thành Lợi, của những cô giao liên dũng cảm như Huệ, của những bà mẹ thui thủi chờ mong con bên ánh đèn dầu, của những đôi lứa yêu nhau đã phải chia lìa chỉ sau một trận đánh, của những trẻ thơ chết như rạ giữa đồng sau một trận pháo bầy. Còn chúng ta, những người đang cướp bóc, đang giành giựt của cải và quyền lực… chỉ là một lũ ăn theo, một bọn dây máu ăn phần, một phường hôi của bần tiện. Trong kháng chiến chống Mỹ, những người như anh Lợi cứ nghĩ rằng mình là "cộng sản" nhưng thực tế họ không hề biết chủ nghĩa cộng sản là gì. Ở các đô thị miền Nam cũng vậy: Có những trí thức trẻ đã đấu tranh dưới ngọn cờ của Đảng cộng sản Việt Nam, thậm chí đã là đảng viên, nhưng vẫn không phải là một người cộng sản, vì không hề quan tâm đến triết học Mác-Lênin và cũng không muốn tìm hiểu nó. *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Người Đàn Bà Trên Đồi Cỏ Vua Mèo Nữ Quái ... Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** T ổ của Bạch có ba người, toàn thiếu nữ rất trẻ, rất vui tính. Buổi trưa trời đứng gió, họ dừng lại tại một nhà cơ sở nấu ăn, nghỉ trưa rồi đợi cho nắng dịu một tí, ba người mới lên đường. Xế chiều, họ đi ngang qua một cánh đồng mênh mông. Họ đi được một lát thì bỗng thấy trước mặt có một mảng đen lớn trông như một mảng bóng tối xa lạ. - Cái gì vậy? Một người hỏi. Bạch dừng lại, nhón gót lên nhìn. Không biết là cái gì. Một vùng đen như thế thực là hiếm có trong một khu vực đồng ruộng rừng chồi và bưng biền. Họ đi tới, đi tới nữa. Ánh sáng mờ dần đi và những vùng lá cây trở nên đen hơn. Ba người đến nơi, dẫm chân lên cái vùng bóng tối xa lạ ấy. Cái vùng bóng tối tạo thành bằng tro than của cánh đồng bị xăng đặc đốt cháy rụi. Bước chân đi qua còn hơi ấm nóng. Bụi than bám lên tới gối. Những bàn chân trần đã trở nên đen mốc, xù xì. Nhưng họ không thể đi con đường khác vì sợ lạc. Hoàng hôn. Ba người đến bến sông. Bến sông vắng. Không thấy giao liên đâu. Họ ngồi chờ trên bờ cỏ, lấy cơm ra ăn và nhìn dòng sông phẳng lặng. - Trước đây có một người đưa đò trên bến sông này – Bạch nói – đó là một chiến sĩ cách mạng rất dũng cảm, một người thương binh, một người anh rất đáng quý của mình. Bây giờ anh không còn ở đây. - Anh hy sinh rồi sao? - Không! Nhưng đã trở thành một người tàn phế. Cụt cả hai chân hai tay. Bạch khóc. Những người đồng hành bất ngờ về những giọt nước mắt ấy. Họ ngồi lặng thinh. Cũng lặng thinh như dòng sông Sài Gòn trong buổi chiều đang xuống. Sương cũng bắt đầu xuống, mênh mông, nhẹ, mơ hồ. Giao liên vẫn chưa tới, sông vẫn vắng buồn. Ba cô gái đã mắc võng trên những cây chồi thấp, nằm đợi, súng dựa gốc cây, hiền lành như những nhánh củi. Sông vẫn không ngớt vang lên tiếng sóng nhỏ xao xác. Không có một con thuyền nào đi qua đây mà thỉnh thoảng vẫn có tiếng động quen thuộc của mái chèo. Tiếng mái chèo vang lên trong trí nhớ của người con gái, tiếng mái chèo quẫy nước trong sáng, đều nhịp, tiếng ai gọi đò, tiếng nói chuyện rầm rì trên mặt sông khuya. Bạch còn nhìn thấy cả những đóm thuốc lá lập lòe, ở xa dễ lầm với đóm đóm. Những con đom đóm lớn bay nhấp nhô, vệt sáng giữ rất lâu trong đêm đen, những con đom đom sáng đến nỗi người ta có thể nhận ra chúng ngay cả dưới ánh trăng rằm. ... Mời các bạn đón đọc Qua Sông của tác giả Đào Hiếu.
Người Mong Hạnh Phúc - Laurent Gounelle
T ôi không muốn rời Bali mà không trở lại. Tôi không biết vì sao. Tôi không đau ốm; lúc nào tôi cũng thấy khỏe mạnh. Tôi đã học được cách trả công ở đây, và khi kỳ nghỉ của tôi gần kết thúc thì cái ví tiền của tôi đã gần như rỗng. Tôi thậm chí không dám bàn đến việc chuyển tiền qua ngân hàng. Những người thông thạo thì bảo tôi: “Anh muốn đưa thì cứ đưa, nhét vào cái hộp đặt trên giá ấy.” Vâng, điều đó đã làm tôi yên tâm, ngay cả khi thấy sợ cái ý tưởng để lại tấm phiếu thanh toán cho một người nghe nói đã từng chăm sóc thủ tướng Nhật. Thật khó tìm được ngôi nhà lọt thỏm trong một làng nhỏ ở giữa đảo, cách Ubud mấy cây số. Tôi không hiểu vì sao ở đất nước này gần như không có tấm biển chỉ đường nào. Đọc một tấm thẻ chỉ có thể hiểu được khi người ta có những điểm tham chiếu, nếu không thì có dùng điện thoại di động cũng vô ích trong vùng không phủ sóng này. Chỉ còn lại một giải pháp khả dĩ: hỏi người qua đường. Rất may, tôi là người không bao giờ gây khó cho bản thân. Tôi cảm thấy đa số đàn ông có ấn tượng là họ bị mất tính đàn ông, nếu họ hạ mình đến mức đó. Họ thích im lặng và ra vẻ “Tôi biết rồi”, cho đến khi hoàn toàn mất hướng, và bà vợ phải nói: “Thì em đã bảo phải hỏi thăm mà lại.” Ở Bali có một cái dở là mọi người đều nhã nhặn đến mức luôn nói “vâng”. Đúng thế. Nếu bạn nói với một cô gái “Cô thật duyên dáng”, cô ấy sẽ mỉm cười nhìn bạn và nói “vâng”. Và khi bạn hỏi đường, họ sẽ muốn giúp bạn đến mức không thể thú nhận là họ không giúp được. Thế là họ chỉ hướng cho bạn, mà chắc chắn là hú họa. Tôi khá bực mình khi lại đứng trước cổng vườn. Không hiểu vì sao tôi lại hình dung ra một ngôi nhà khá sang trọng, như thỉnh thoảng vẫn thấy ở Bali, với những hồ sen, dưới tán của những cây đại khoe những bông hoa trắng với mùi hương đậm đặc đến mức hơi quá. Thực tế thì khu nhà giống như một dãy lán trại, kiểu như những ngôi nhà nhỏ không có vách và nối liền với nhau. Trong khung cảnh khu vườn, chúng có vẻ thật đơn giản, trần trụi và có phần thảm hại. ... Mời các bạn đón đọc Người Mong Hạnh Phúc của tác giả Laurent Gounelle.
Nếu Ngày Mai Không Bao Giờ Đến - Yasushi Kitagawa
Tác phẩm “Nếu ngày mai không bao giờ đến” là tác phẩm thứ 2 của Kitagawa, xuất bản năm 2006. Cuốn tiểu thuyết này trở thành best seller với doanh số bán hàng đạt 90.000 bản và được xếp hạng nhất trong bảng xếp hạng của “Hội nghiên cứu phổ biến việc đọc sách, book sommelier” năm 2007. Có rất nhiều thứ để miêu tả vẻ đẹp của tuổi trưởng thành. Khi từng dòng hồi ức lướt qua đủ để con người ở thì hiện tại cảm thấy bồi hồi và nuối tiếc. Người ta vẫn thường nói, mọi cuộc hạnh ngộ trên đời là do duyên số đưa đẩy, nhưng cũng tồn tại những cuộc gặp gỡ vốn được lên kế hoạch từ trước, chỉ chờ một cái cớ hoàn hảo để tiếp cận đối phương. Đó cũng chính là cách Haruka xích lại gần hơn với cậu bạn Yousuke, người cô thầm mến mộ đã lâu. *** Đây là cuốn sách đã từng đạt được kỉ lục 90,000 bản tại Nhật. Có rất nhiều thứ để miêu tả vẻ đẹp của tuổi trưởng thành. Khi từng dòng hồi ức lướt qua đủ để con người ở thì hiện tại cảm thấy bồi hồi và nuối tiếc. Người ta vẫn thường nói, mọi cuộc hạnh ngộ trên đời là do duyên số đưa đẩy, nhưng cũng tồn tại những cuộc gặp gỡ vốn được lên kế hoạch từ trước, chỉ chờ một cái cớ hoàn hảo để tiếp cận đối phương. Đó cũng chính là cách Haruka xích lại gần hơn với cậu bạn Yousuke, người cô thầm mến mộ đã lâu. “Tôi muốn trở thành một người khiến bất cứ ai có duyên gặp gỡ cảm thấy tuyệt vời vì được quen biết một người như thế.” Không nhiều màu sắc, không nhiều kịch tính, dữ dội mà chỉ với một gam màu dịu dàng và lãng đãng xuyên suốt, tựa tiếng nói thủ thỉ chảy nhẹ vào tai, rồi khắc sâu trong tâm trí bạn những bài học quý giá về cuộc đời. Lại một lần nữa, nhà văn Yasushi Kitagawa đem sự sâu lắng và trải đời của mình vào từng con chữ như một dòng chảy ngầm mãnh liệt khơi dậy sự thức tỉnh và thay đổi trong tư duy của mỗi người trẻ. Càng đọc càng bị cuốn hút vào, khi được một phần ba cuốn sách, bạn sẽ có cảm giác như nó không phải viết cho ai khác, mà được viết ra dành cho mình. Cảm giác đồng cảm, cảm động, hưng phấn khiến bạn phải đứng dậy đi đi lại lại loanh quanh trong phòng. “Hãy giữ niềm tin son sắt vào giấc mơ tương lai của chúng ta Đem bầu nhiệt huyết hướng đến nó, và làm những việc bản thân cần làm Làm được như thế thì bất kể ước mơ lớn đến thế nào, Một khi ta đã đặt lời thề hứa nhất định sẽ đạt được mong ước.” Sự bình yên và gắn kết giữa hai tâm hồn đồng điệu giúp Haruka và Yousuke bước vào thế giới của nhau như một điều tất yếu. Tay trong tay, Haruka dẫn lối đưa Yousuke đến những miền cảm xúc mới lạ nhờ sự chia sẻ được ba cô bé chỉ dạy và ghi chép tỉ mỉ trong cuốn sổ nhật ký. Những tâm sự chất chồng về mối quan hệ gia đình, nỗi niềm lo lắng bất an về tương lai hay những thắc mắc về thế giới đầy màu sắc của người lớn được Haruka diễn giải qua những con chữ nhẹ nhàng đầy trầm tư, điều hiếm thấy ở độ tuổi mười tám. Mỗi bài học chia sẻ cùng cậu bạn Yousuke , đều được cô bé gấp thành những chiếc máy bay nhỏ nhắn, mỗi chiếc bay lên trời tựa như  khao khát muốn biến ước mơ thành hiện thực, chạm được vào đích đến của thành công.  “Sống cuộc đời là chính mình” – là điều Haruka mong mỏi được nhìn thấy ở cậu trai cô yêu mến thôi thúc cô hành động. Từng ngày thấy Youssuke trưởng thành, trong lòng Haruka như nở hoa. Cuối cùng mảnh đất khô cằn trong tâm hồn cũng được hồi sinh nhờ một người đặc biệt. Bệnh tật cũng đầu hàng trước cái cách cô sống vui vẻ và lạc quan; nhưng trên đời, không ai nói trước được điều gì. Có những người vốn dĩ chẳng bao giờ dám nghĩ đến ngày mai sẽ ra sao. “Nhưng một đời người sẽ có gì xảy ra và xảy ra lúc nào thì không ai biết trước được. Mọi người đều nghĩ ngày mai sẽ tới như một điều hiển nhiên. “Trên đời này chẳng ai có thể đảm bảo ngày mai sẽ đến” – có những người hiểu được những câu chữ này nhưng họ cũng không bao giờ nghĩ rằng có thể chính mình bỗng nhiên sẽ không có ngày mai.” Tác phẩm “Nếu ngày mai không bao giờ đến” là tác phẩm thứ 2 của Kitagawa, xuất bản năm 2006. Cuốn tiểu thuyết này trở thành best seller với doanh số bán hàng đạt 90.000 bản và được xếp hạng nhất trong bảng xếp hạng của “Hội nghiên cứu phổ biến việc đọc sách, book sommelier” năm 2007 . Như một bản nhạc êm dịu được cất lên trong ngày hè rực rỡ, gặp gỡ rồi tạm biệt. Rồi số phận sẽ đưa đẩy cả hai đến những ngã rẽ nào, hãy lật giở từng trang viết để cảm nhận bạn nhé !  *** Đầu hè năm 2005. Một cậu học sinh phổ thông ghé thăm tôi. Đó là cậu học sinh mà tôi dạy cho đến khi tốt nghiệp trung học cơ sở, giờ đã học lớp 11 rồi. Cậu ta ngồi xuống ghế, tay ôm cuốn "Sách cho hiền tài" mà tôi viết. Tôi đã được anh trai cậu ấy (cũng từng là học sinh của tôi) cho biết cậu học sinh này khi vừa vào trung học phổ thông thì phát hiện ra có khối u trong não và đã được phẫu thuật một lần, cả tình trạng bệnh hiện nay nữa. Vì thế, tôi hỏi: "Em có khỏe không?", lòng như cảm thấy mình chạm được vào khối u đó vậy. Cậu ta vốn là một học sinh luôn rất vui tươi suốt từ thời cấp hai. Lúc đó, cậu ấy cũng trả lời tôi rất khỏe: "Có ạ, giờ thì em còn đi học được nữa." Trái với câu trả lời đó, chỉ cần nghe câu sau cũng biết tình trạng chắc hẳn không hề tốt. Nguyên văn lời cậu ấy thế này: "Căn bệnh là một quả bom nổ chậm mà em không biết bao giờ sẽ nổ." Nghe câu ấy, tôi chết lặng. Cậu ấy đã đến gặp tôi bất chấp tình trạng đó. "Mẹ em bảo hãy đi cảm ơn thầy vì bà nghĩ rằng cuốn sách này giờ đã thành thứ viết ra cho em..." với vẻ ngại ngùng, cậu ta đưa ra cuốn "Sách cho hiền tài" và nói rằng cậu ta muốn tôi viết vài lời và ký tặng. Tôi vừa nghĩ một lúc xem nên viết gì, vừa nghe chuyện cậu ta rồi ký chữ ký mình chưa quen tay vào. Thế rồi, tôi nhìn theo sau lưng cậu học sinh ấy khi ra về, vẫn chưa nói được nhiều điều. Cái dáng người bước đi chậm rãi liêu xiêu ấy dường như là một người khác so với cậu học sinh vừa mới đây. Vậy mà vừa ra đến cửa, cậu ta đã quay lại "Em cảm ơn thầy ạ" rất lễ phép. Trong lời chào ấy có sự khỏe mạnh khi xưa. Ngực tôi nhói lên vì sự tương phản ấy. Sau đó tôi mới nghĩ ra có lẽ khi ấy, tình trạng của cậu ấy đã thực sự rất tồi tệ rồi. Mùa thu năm 2005. ... Mời các bạn đón đọc Nếu Ngày Mai Không Bao Giờ Đến của tác giả Yasushi Kitagawa.
Lạc Đường - Đào Hiếu
Mùa Thu năm 2007 tôi gặp nhà văn Nguyễn Mộng Giác tại Hoa Kỳ. Tôi khoe với anh là mình đang viết hồi ký. Anh nói: viết hồi ký cũng giống như quay phim đám cưới. Phim quay xong, người trong cuộc ngồi xem rất thích thú nhưng người ngoài chỉ liếc mắt ngó qua rồi đi, vì đám cưới ấy chẳng dính dáng gì tới họ. Anh nói nghe rất có lý. Hơn nữa tôi không phải là một nhân vật quan trọng nào đó mà chỉ là một anh Việt cộng nằm vùng không mấy người biết đến. Nhưng tôi tin rằng hồi ký của gã vi-xi vô danh ấy sẽ thu hút người đọc và biết đâu sẽ gây tiếng vang lớn. Tôi bắt đầu viết hồi ký này giữa năm 2006, viết được hơn một nửa thì tôi sang Mỹ và hoàn tất nó vào mùa Thu năm 2007 tại thành phố Lake Forest và quyết định gọi tên nó là “tự truyện Lạc Đường”. Đầu năm 2008 tôi về Việt Nam, đưa bản thảo cho vài người bạn. Và nó đã được đón nhận rất ồn ào. Từ vài ba người bạn thân, nó lan truyền trong giới nhà văn nhà báo và họa sĩ. Đáng ngạc nhiên nhất là giới luật sư đọc rất nhiều. Biết rằng tự truyện này không thể xin giấy phép in công khai được, tôi bèn gởi nó cho trang web Talawas. Mười ngày sau tôi nhận được thư của chị tổng biên tập Phạm Thị Hoài. Chị nói: “Tôi sẽ đích thân biên tập tác phẩm này.” Rồi tự truyện Lạc Đường xuất hiện trên Talawas. Hai mươi bốn giờ sau, chị Hoài lại viết cho tôi: “đã có 15.333 lượt người đọc”. Mấy hôm sau, buổi tối, khi tôi đang nằm coi TV thì nhận được cú điện thoại từ đài BBC. Lê Hải gọi tôi. Anh nói: “Tôi đã đọc xong tự truyện Lạc Đường của anh và rất khâm phục. Xin chia vui cùng anh. Anh có thể cho đài BBC một cuộc phỏng vấn không?” Đó là cuộc phỏng vấn dài 20 phút phát sóng sau đó mấy ngày và được phát lại lần thứ hai cách nửa tháng. Tôi rất cám ơn Talawas và đài BBC vì nhờ các phương tiện truyền thông này mà tự truyện Lạc Đường đã được hàng vạn người biết đến. Dạo ấy mỗi ngày tôi nhận được rất nhiều thư độc giả từ khắp Việt Nam và khắp nơi trên thế giới gởi về qua địa chỉ E.mail của tôi. Tôi biết mình đã thành công ngoài dự kiến và điều mà anh Nguyễn Mộng Giác lo ngại đã không xảy ra. Ở lần tái bản này tôi đã sửa chữa và bổ sung một số thiếu sót. Những chuyện được kể trong tác phẩm này là sự thật mặc dù đôi khi, do không kiềm chế nổi sự ngông cuồng của mình, tôi đã thể hiện nó như một tiểu thuyết. ĐÀO HIẾU *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Người Đàn Bà Trên Đồi Cỏ Vua Mèo Nữ Quái ... Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** Trước Tết Tân Hợi (1971) chừng một tháng, tôi xin được một cái phép ba ngày về thăm mẹ. Căn nhà của tôi bây giờ chỉ là một nơi hoang tàn, lạnh lẽo. Tôi đi từ nhà trước ra nhà sau, không một bóng người. Khi tôi đẩy cửa bước vô căn buồng nhỏ nơi mẹ tôi thường nằm thì nghe có mùi gì rất lạ. Căn buồng tối quá, tôi phải mở cánh cửa nhỏ mới nhìn thấy được mọi thứ trong đó. Chiếc giường nhỏ kê sát vách không có ai nằm. Một chiếc gối nhỏ và chiếc mền cũ màu xám tro. Tôi đến bên giường, vừa đặt tay lên gối thì một đám bụi bốc lên. Trên chiếu lờ mờ hiện lên những vật gì màu nâu. Tôi cúi xuống. Các bạn có biết đó là cái gì không? Đó là phân người. Chúng đã khô quắt lại. Từ ngày tôi bị bắt lính, mẹ tôi đã sống thui thủi một mình trong cái buồng nhỏ này với ngọn đèn dầu hiu hắt từng đêm. Những người hàng xóm kể lại rằng khi bà đi xuống bếp lục cơm nguội ra ăn, với tay lấy chai nước mắm chan vô chén cơm, hóa ra đó là chai dầu lửa. Bà nhai miếng cơm trộn trạo trong miệng một lúc mới nghe được mùi hôi và ói ra đầy giường. Xế chiều buồn quá bà ngồi dậy quơ lấy cây gậy tre, từng bước chống đi, dò dẫm đến những nhà quen ở đầu chợ. Tôi liền chạy ra đầu chợ, thấy mẹ ngồi đó, nhưng bà cũng không nhận ra tôi nữa. Lúc tôi chạy đến ôm bà, bà mới nhận ra hơi hướng của tôi. Bà sờ lên đầu lên mặt tôi và hỏi: -Con đấy hả? Thế là bà khóc. Tôi cũng khóc. Buổi chiều đó tôi cõng mẹ từ ngoài chợ về nhà. Những người trong làng đổ xô ra xem, xem anh lính binh nhì cắp cây gậy tre trong nách cõng mẹ đi qua thị trấn. Hàng xóm chạy đến giúp tôi dọn dẹp nhà cửa. ... Mời các bạn đón đọc Lạc Đường của tác giả Đào Hiếu.