Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mưa Trên Cây Sầu Đông - Nhã Ca

Cây sầu đông không biết có phải là một loại cây đặc biệt ở Huế không, tôi nghe người Bắc gọi là cây Xoan, người Huế gọi là Sầu đông, Thầu đâu hay có khi gọi Sầu đâu. Thân cây cao, có nhiều cành màu đen, khô, lá cây có khứa, nối chùm bằng những cọng nhỏ, hoa nhỏ, có cánh li ti màu tím nhạt, nhụy tím thẩm. Ở gốc cây, nếu bị vết sứt thường chảy ra một thứ nhựa trong màu vàng, có thể dùng để dán được. Bây giờ Huế đã đổ nát, đã tang thương. Tôi viết lại câu chuyện này để cùng những người bạn cũ và những cây sầu đông của Huế còn sống sót, nhớ tới một thành phố êm đềm thơ mộng cũ, những ngày cũ, với những giọt mưa rơi từ trên cây sầu đông. Sài Gòn năm 1968 *** Ánh mặt trời sau một mùa đông dài lẩn trốn, hôm nay hiện ra thật lộng lẫy. Hiện ra trên những mái ngói sạch bóng, trên những vườn cây xanh, hiện ra trên chiếc sân rộng giăng những hàng giây thép song song từ bờ rào đến miệng giếng, trên những hàng giây thép, những áo màu bay lay lắc đẩy đưa theo làn gió xuân nhẹ. Trước thềm nhà đặt đầy những chậu hoa thược dược, thằng Rọm đang ngồi lui cui thay mấy cây đại thọ vừa bị cắt bông để đem cắm vào bàn thờ buổi tối hôm trước. Sáng nay, có chị đàn bà gánh hoa từ trên Long Thọ xuống đi ngang qua nhà thật sớm, thằng Rọm đã gọi vào mua để thay thế những chậu cây cũ. Con Bông đang chạy ven bờ chè tàu, nhón gót hái những sợi tơ hồng non mướt đang giăng mắc trên bờ chưa ráo sương ướt. Ngoài ngõ có tiếng chuông xa xích lô bấm cong cong, thằmg Rọm dơ hai tay bẩn chùi vào đít quần rồi đứng dậy, lật đật đi ra cửa. - Ai? Thằng Đậu hở? Chi rứa? - Nì, xe cái bình sành ni vô. Bên cửa hàng bà biểu chở về đó. Thằng Rọm lạch bạch phụ với anh Đậu xính lô khiêng cái bình sành có hình nổi rồng phượng vô sân. Khi cái bình sành đặt nơi mái hiên rồi, anh Đậu xích lô hỏi thằng Rọm: - Răng, bà đem chậu sành về mần chi rứa. Thằng Rọm ngước mắt nhìn anh Đậu xích lô, nhăn mặt: - Chắc đám cưới bà đó, bà đem về chưng. Anh Đậu trợn mắt: - Nói thiệt hay nói chơi. Bà Phúc Lợi lấy chồng? Lấy ai rứa? - Lấy một người đàn ông. - Cái ông nị kỳ cục, ai giỡn, hỏi thiệt mà. - Thì tui cũng nói thiệt. Răng mà các người tò mò quá. Hỏi mần chi. Hỏi để đi ra bán cho cả làng cả nước biết hỉ? Anh Đậu dơ tay bịt miệng, vẻ hốt hoảng: - Bậy nờ, nhà bà từ lâu phúc đức, ai dám nói xấu. Hôm trước con vợ tui... Anh Đậu lại đưa tay che miệng. Nhưng thằng Rọm cười: - Vợ anh nghe chuyện nhà ni chớ chi? Thiệt tao nói cho mi biết con chó ăn cứt mà thơm, người ta ăn cơm mà thúi... Rồi không đợi anh Đậu nói thêm lời nào, thằng Rọm trở ra mấy chậu cây bông thọ đang trồng dở, ngồi xuống. Anh Đậu đội chiếc nón xích lô rách lên đi ra cổng: - Thôi tui về nghe. Thằng Rọm không trả lời. Nó bận bắt một con sâu màu xanh bám trên lá cây vạn thọ. Nó lấy hai ngón tay bóp con sâu nát bét rồi chùi lên quần. Khi đã trồng hết mấy cây bông, thằng Rọm lại lúi cúi tìm sâu tiếp tục bắt. Nó lượm được mấy con nữa, nó đặt trong vòng tay và cầm chặt lại. Thằng Rọm mãi tìm sâu không để ý đến Tỷ Muội mở cổng rào đi vào. Khi tới gần, thằng Rọm thấy bóng quần trắng loáng thoáng, nó mới ngẩng lên: - A, mi qua đó há? - Mần chi rứa ông thằng Rọm. Thằng Rọm phì cười: - Con ni hay hí? Kêu chi lạ rứa. Nhưng Tỷ Muội không để ý lời nói của thằng Rọm, nó chăm chú nhìn vào bàn tay thằng Rọm đang nắm chặt: - Cầm cái chi rứa. - Ni. Thằng Rọm dơ bàn tay lên rồi mở ra. Tỷ Muội kêu thét lên rồi lùi lại một bước. Trong lúc bàn tay thằng Rọm đầy sâu xanh, có con nằm ngay đơ, có con còn ngúc ngoắc muốn bò. Thấy mặt Tỷ Muội tái xanh, thằng Rọm dọa: - Sợ không? - Sợ, sợ ông thằng Rọm ơi, đừng dọa tui... tội tôi mà. Thằng Rọm cười xoà rồi bóp mạnh tay cho đám sâu bẹp dúm hẳn, lượm miếng lá chuối có rễ vạn thọ rũ sạch đất lau tay. Tỷ Muội đã hết sợ, nó hỏi: - Có ai ở nhà không? - Ai? - Ai nữa. Thằng Rọm cười: - Đang nằm trong buồng. Chắc ngủ chưa dậy. - Con quỷ ngủ dữ ác. Tỷ Muội bỏ thằng Rọm chạy vào nhà. Nó chạm phải bàn thờ bà ngoại của Đông Nghi, mấy cây đèn cầy sáp đang cháy dở và mùi nhang thơm nồng. Tỷ Muội nhìn lên tấm ảnh người đàn bà già, rồi chạy tuột vào một căn buồng nhỏ. - Nghi, Nghi. Ngủ chi dữ rứa. Tỷ Muội thấy Đông Nghi nằm trong giường, mùng màn chưa cuốn. Nó vén mùng chui tọt vào ngồi bên bạn. - Dậy, Nghi. Dậy nói chuyện ni cho nghe. Đông Nghi quay lại, mắt tỉnh khô. Nghi đâu có ngủ, nàng đã thức dậy từ lúc sáng sớm nhưng lười biếng nằm dài đó thôi. Nghe Tỷ Muội nói có chuyện Đông Nghi thở ra: - Nghe chuyện tao chưa đủ răng nghe chuyện người ta nữa? Tỷ Muội tiu nghỉu. Nó nhìn ra vườn, Đông Nghi ngủ mà không đóng cửa sổ. Nó nghe tiếng chim hót ngoài vườn và có tiếng cành lá lay động nữa. Nó hỏi bạn: - Đã móc võng lại chưa? - Rồi. - Ra vườn chơi đi. - Ừ, ra trước đi, đợi tao đi xúc miệng rửa mặt một chút. Đông Nghi nhảy ra khỏi giường, Tỷ Muội không đi mà ngồi đợi nơi chiếc ghế nhỏ. Nó thấy trên bàn của Đông Nghi những tờ giáy vẻ nhăng nhít còn bừa bãi. Trên bàn có thêm một đồ chơi mới, một con búp bê tóc vàng, chân dính vào một cái bục tròn, khi Tỷ Muội xoay, nó nghe thấy một điệu nhạc thật êm đềm. Một lát sau hai cô bạn đã ra ngoài vườn. Chiếc võng đã được giăng ra ở giữa cây sầu đông và cây hồng bì. Cây khế ngọt bị lẻ loi, Tỷ Muội nghĩ thế, và trước khi ngồi lên võng, nó vỗ vào thân cây khế và hái một đọt lá khế con cho vào miệng nhấm: - Lá non ngọt rứa thê mi ơi. Rồi nó nhìn quanh vườn: - Mau quá, mới đó mà mùa Xuân rồi. Đông Nghi im lặng. Mắt nàng nhìn mông lung vào những tàn cây xanh, những đọt lá non, những chồi đang hé. Ngày nào những giọt mưa trên cây sầu đông đã rụng xuống, vậy mà bây giờ, trên những cành khô, lá non đã xanh tươi, vẻ dửng dưng không nhớ nhung. Chính mình cũng đã quên hết rồi răng? Những điều đã nguôi ngoai thì quả là thật đúng. Tỷ Muội chợt nhìn thấy vẻ u buồn trên mặt bạn, nó lại tươi cười: - Nghi, đừng có khóc nghe. Đông Nghi mỉm cười choàng tay qua vai bạn. Nàng cảm thấy thương bạn ghê gớm. Tỷ Muội thật dễ thương, nó cũng bằng tuổi Nghi mà nó vô tư sung sướng quá. Đông Nghi nhìn khu vườn, hôm nay vườn cây đã mang một bộ mặt mới lạ hẳn. Những ngày mùa đông mưa mù trời đất như đã chìm vào giấc mộng xa xưa nào. Và Đông Nghi cũng thấy mình nhớn hẳn. Tay Nghi vẫn choàng qua vai Tỷ Muội. Tỷ Muội nép vào vai bạn: - Nghi nghỉ học luôn thiệt há? - Ừ. - Tụi nó nói Nghi đau Nghi nghỉ vài ngày. Đông Nghi cười, mắt mơ màng nhìn lên đọt cây: - Cô giáo có nhắc gì Nghi không? - Có, mấy cô hỏi thăm Nghi đau ra răng. - Mình có đau ốm chi mô. Tỷ Muội buồn bã: - Rứa là từ nay Muội đi học một mình. Đông Nghi nhìn vào mắt bạn, thấy mắt Tỷ Muội như rưng rưng sắp khóc. Đông Nghi cũng muốn khóc theo: - Thiệt mình không biết mần răng để cựa quậy nữa Muội ơi. - Răng chừ làm đám cưới. - Chắc vài tuần. - May áo mới chưa? - Tuần trước ba tui đi Saigon mua mười mấy chiếc áo dài, chưa kể áo cưới họ may. Tỷ Muội ngồi ngẩn ngơ. Đông Nghi cười lớn vỗ vào vai bạn: - Mi nghĩ là tao bằng lòng lấy thằng Khanh vì lẽ chi? - Mạ mi ép buộc chớ chi. - Không phải, vì tiếng đàn ghi ta của hắn, mùa xuân hắn đàn trở lại tao nghe và mê luôn. - Mê chi rứa? Đông Nghi ghé vào tai bạn: - Hắn có mùi hôi nách giống như con chi đó ở trường. Dù răng hắn cũng có mùi vị đặc biệt. Nói xong Đông Nghi rũ ra cười. Tỷ Muội cười theo nhưng thấy Đông Nghi vừa cười vừa chảy nước mắt ràn rụa, nó ôm chầm lấy bạn: - Nghi, Nghi đừng khóc. Đông Nghi đưa tay chùi nước mắt, vẫn chưa thôi cười: - Không, không, tao mô có khóc. Mi biết không? Khi tao đi lấy chồng mạ tao khóc, ông Bồ Đào khóc, thằng Rọm khóc, cây sầu đông khóc. Rồi không dừng được nữa, Đông Nghi òa khóc thật. Nàng ngồi im, nước mắt chảy như mưa lăn trên mặt lá cây. Tỷ Muội hốt hoảng định dỗ bạn, nhưng rồi nó cũng mũi lòng khóc theo bạn. Khóc một lúc, Đông Nghi nín hẳn. Như sau cơn mưa, cây cối sạch sẽ láng bóng, mặt của Đông Nghi trông rạng rỡ hẳn. Nàng nhìn cây sầu đông, những búp hoa như sắp bung nở. Không còn chi giống cảnh cũ nữa, sao mình vẫn còn đau lòng chuyện cũ? Đông Nghi ngơ ngác hỏi lòng mình, rồi nàng cầm tay bạn: - Hồi nớ Tỷ Muội nói chuyện chi lạ? - Chuyện con Trà. - Hắn mần răng? - Con Trà chửa hoang. Đông Nghi trợn mắt, bấu chặt vai bạn: - Thiệt không? - Thì nó nghỉ học cả tuần rồi, tụi nó đồn rầm rầm... Đông Nghi tự dưng mỉm cười. Thôi câu chuyện dành cho thành phố Huế đã ngã sang kẻ khác. Như vậy là Nghi thoát nạn. Nghi đứng dậy vươn vai, nhưng Tỷ Muội kéo bạn ngồi xuống. - Răng, chừ mi có muốn làm nổ thành phố Huế nữa không? Đông Nghi nhìn quanh khu vườn, mắt mơ màng: - Nổ à? Nó chưa nổ thì không trước thì sau nó sẽ nổ, nhưng tao không làm điều đó nữa. - Nếu nó nổ đi có tiếc không? - Tao thích Huế cứ như rì mãi. - Đồ mâu thuẫn. Đông Nghi hiền lành mỉm cười. Tỷ Muội đứng dậy, kéo tay bạn: - Đi vô đi, mình về. - Về mần chi? - Về học bài chớ. Bà quên tui còn đi học nữa. - Ừ hỉ. Đông Nghi thả tay bạn. Nàng đứng thẫn thờ, mình thì hết nữ sinh rồi. Hết nữ sinh thì mần răng làm nổ thành phố? Đông Nghi buồn bã: - Thôi mi về đi. - Không đưa tao vô hỉ? - Thôi Muội về học bài đi. Tỷ Muội cười và bỏ chạy, Nghi nói: - Mai rảnh đi đo áo mới với mình nghe. Hứa làm phù dâu thì phải diện nghe. - Dị òm. Tỷ Muội nói xong đã khuất sau những hàng cây. Còn một mình, Đông Nghi đi tới nơi cây sầu đông, nàng dựa vào thân cây mắt nhìn lên ngọn. Qua những cành cây xương xẩu và những tàu lá non mát, bầu trời xanh ngắt với những đám mây trắng nõn hiện ra. Những đám mây không bay mà đứng sửng, Đông Nghi bỗng thở dài, nàng đưa móng tay cào cào vào thân cây, bóc một mảng vỏ lớn. Đông Nghi nhớ lại thời còn thơ ấu, nàng hay lấy dao cạo thân cây để sáng ra thấy mủ sầu đông chảy ra, đọng thành những hình thù vàng trong xinh xắn. Đông Nghi đi tới một luống hoa, nàng hái một bông vạn thọ chà nát trong lòng tay. Mùi hoa vạn thọ hăng hắc, ngon ngọt làm Đông Nghi choáng váng. Hoa vạn thọ nhiều nhất là mùa Xuân, mỗi mùa Xuân mới có, và nó mới khoe đầy đủ hương sắc. Như cây sầu đông, mùa đông mới có mưa và có giọt lệ của chàng. Tuấn ơi, chừ anh đang ở đâu? Đang làm gì? Những ngày ở Huế chóng vánh nhưng có đủ kỷ niệm để chàng nuôi nhớ suốt đời không? Nhưng Nghi, Nghi sẽ nhớ suốt đời. Con gái Huế lãng mạn lắm, dữ dội lắm, vậy mà thành trì thành kiến vẫn vây chặt được. Năm này qua năm khác, đời này qua đời khác, nếu không mọc cánh bay được một lần thì phải bán nắm xương tàn cho sông Hương núi Ngự. Đông Nghi cắn môi, nàng muốn khóc nhưng không thể khóc thêm được nữa. Bây giờ là mùa Xuân, mùa Đông chưa tới để mang những giọt lệ cho nàng. Nghĩ đến Tuấn, tim Đông Nghi đau nhói. Nàng ôm lấy ngực, mắt Đông Nghi hoa lên, rồi bao nhiêu cây cối như vừa quay ngược trước mắt nàng, Đông Nghi cố gượng chạy vào nhà. Vào tới sân, chân Đông Nghi vấp mạnh, rồi nàng lảo đảo muốn té. Đông Nghi lại gượng được, nàng mở bừng mắt, thằng Rọm như vừa ngã té xuống đất và đang lòm còm ngồi dậy. Hắn nạt: - Đi mô như bị ma đuổi rứa, khỉ. Đông Nghi khựng lại, nhưng rồi thấy dáng điệu của thằng Rọm, Đông Nghi không nín cười được, nàng cười phì. Thằng Rọm lại trợn mắt: - Cười nữa há. Ô cha, cái con ni cười chi lạ rứa hỉ? Đông Nghi đỡ thằng Rọm dậy: - Xin lỗi nghe. Rồi nàng mân mê mấy đóa hoa vạn thọ, màu vàng thẩm như ánh mặt trời ban mai chao nhẹ trong lòng nàng những nhớ nhung thơ ấu, màu vàng cũng nhắc nhở tấm lòng phụ bạc của nàng. Nghi chẳng phụ Tuấn là gì? Hình ảnh Tuấn chơ vơ giữa sân ga trống, mắt dõi theo chiếc xe cũ kỷ màu đen láng và bước chân chao hụt của chàng. Như thế là hết. Những lá thư ở xa gửi về không bao giờ Đông Nghi được đọc. Thằng Rọm thấy Nghi đang cười bỗng nhiên đăm chiêu, hắn gạt tay Nghi ra khỏi chậu hoa vạn thọ: - Ê, thả tay ra, gãy hết chừ. Đông Nghi chụm tay thằng Rọm. Rọm để yên bàn tay đen đủi của hắn trong tay Nghi nhìn chăm chăm rồi cười: - Ni lớn tồng ngồng rồi, sắp có chồng rồi, cứ làm như con nít con na. Rồi Rọm chỉ cái bình bằng sứ: - Mạ đem về bữa mô làm đám cưới đó tề. Không nghe Đông Nghi nói gì, thằng Rọm ngước nhìn lên, thấy hai giọt lệ đang lăn dài xuống má nàng. Thằng Rọm kêu: Nghi, răng khóc. Đông Nghi đã bỏ chạy vào nhà cánh cửa đóng lại. Buổi trưa hôm đó, Đông Nghi không ăn cơm, nàng khóc âm thầm một mình rồi ngủ thiếp đi. Khi tỉnh dậy trời đã chiều. Đông Nghi nghe tiếng ông Bồ Đào nói chuyện với thằng Rọm ở nhà ngoài. Lát sau nàng đi ra, ông Bồ Đào nói: - Mặc áo đi con. Sang bên nớ mạ rồi ba chở đi thử áo hỉ. Đông Nghi ngoan ngoãn rửa mặt, thay áo. Buổi tối hôm đó, đi thử áo dài xong, Đông Nghi với mẹ và ông Bồ Đào đi ăn phở ở vườn hoa Nguyễn Hoàng. Nhìn qua bên kia sông, vườn hoa trước trường Đồng Khánh tối om, chỉ thấy lờ mờ vài đọt dừa cao và những cột điện nhấp nháy sáng sát mặt đường. Thấy cảnh cũ, Đông Nghi lại muốn khóc, nhưng nàng cố che bằng nụ cười, nàng hỏi mẹ: - Đám cưới con mạ có may áo mới không? Bà Phúc Lợi cười, đưa tay vuốt tóc con gái: - Có chớ, mạ may áo gấm đẹp lắm. Rồi bà nhìn ra mặt sông, giọng mơ màng: - Mặc áo mới chắc hôm đó mạ thấy vui lắm. Lâu lắm mạ không còn biết vui khi mặc áo mới nữa. Đông Nghi cúi đầu. Khi đưa đám ma người ta cũng mặc áo mới. Khi bà ngoại chết Nghi cũng có áo mới. Trong đời ta còn bao nhiêu áo mới nữa, sá chi cái cáo mới ngày cưới. Đông Nghi lặng lẽ ăn. Ông Bồ Đào ân cần: - Con thích đi Saigon không, ba cho đi vài ngày trước đám cưới. Mộtánh sáng loé ra trong đầu Nghi. Nhưng rồi tia sáng đó cũng tắt ngấm rất nhanh. Đông Nghi lắc đầu: - Con không muốn xa Huế nữa. Câu nói của Nghi làm cho ông Bồ Đào nhìn bà Phúc Lợi cười đầy ý nghĩa. Nhưng Nghi không nghĩ như họ, nếu lần này được xa Huế không bao giờ nàng còn trở lại nữa. Nghi biết Nghi cũng không còn can đảm dứt bỏ Huế khi không có Tuấn bên cạnh. Căn nhà giam thành kiến ở trong mọt thành phố đầy thành trì miệng tiếng, khu vườn nhốt tuổi thơ, rồi cây nhãn cây hoàng lan, cây bại hoại. Thôi ngoại ơi, con ở lại đây để hái hoa bại hoại cúng ngoại hỉ? Nhưng giá đám cưới muộn hơn để mùa hè này Nghi còn được tắm sông với Tỷ Muội, đi biển với Tỷ Muội hay hai đứa đánh thẻ, chơi ô làng bên Đò Cồn bẻ bắp nướng ăn. Thôi, mơ ước chi nữa, bầu trời con gái đã sụp đổ, tình yêu đã sụp đổ. Mười phương cũng đã hết chín phương, còn một đi lấy chồng. Đông Nghi nhìn mẹ, nhìn ông Bồ Đào, tại sao hai người không là vợ chồng được. Thành kiến, miệng tiếng đã chia rẽ mẹ, và mẹ lại tiếp tục đổ lên đầu con. Ta ở đây, mai một đẻ con đẻ cái, ta lại tiếp tục giữ trọn cái nề nếp cho cái nhà, cái vườn, ta sẽ thành bà mẹ khắt khe như mạ. Nhưng mạ tiếp tục sống như rứa mạ sẽ làm nổ tung thành phố đó. Nếu một mai bà vợ ông Bồ Đào nổi nơi tam bành. Nhưng Đông Nghi yên trí ngay, thành phố này là nơi mang tiếng trong nhà chưa rõ ngoài ngõ đã hay, không lý gì chuyện mẹ và ông Bồ Đào dấu kín mãi được. Nhưng nàng không đủ sức để tìm hiểu chuyện ai nữa, dù kẻ đó là mẹ nàng. Gió ở bờ sông thổi lên mát rượi, Đông Nghi nhớ lại đêm nào ngồi với Tuấn nơi ghế đá bên kia sông. Tóc nàng bay vào mặt chàng, hơi thở chàng phà ấm bên tai. Đông Nghi bỗng thấy nàng cô đơn, trống vắng như một kẻ đi xa trở về quê cũ vẫn còn nguyên từng ấy cảnh vật, nhưng sự xúc động xưa cũ đã chết mất rồi. Buổi tối hôm đó, ông Bồ Đào với mẹ lại bày bàn ra ngồi ở góc sân, nơi cây nhãn. Cũng người xưa cảnh cũ, bụi hoa nhài tỏa hương thơm nức. Và bà Phúc Lợi kêu, giọng ngọt ngào: - Nghi ơi, lấy nước trà ra cho mạ. Đông Nghi bưng nước trà ra, hương hoa nhài vẫn ngây ngất và nàng ngẩn ngơ như kẻ mất hồn: Thì ra có gì thay đổi mô? Có chi mô, Đông Nghi đặt hai tách nước trà xuống bàn, nhưng mạ không bắt đứng quạt nữa. Nàng đi vào phòng mở cửa sổ. Song cửa ngắn đã được tháo ra và thay bằng song cửa mới, Đông Nghi không trông thấy gì ở ngoài vườn hết. Nhưng khi nàng đứng yên, tưởng tượng, nàng có cảm tưởng như những giọt nước đang rơi lốp bốp ngoài kia, không biết có phải phía ở cây sầu đông không. Mùa đông qua rồi. Nghi ơi, đợi ta với mùa đông nghe. Bao nhiêu nước mưa sẽ là nước mắt, và ta sẽ khóc với người. Nhưng cũng chả can gì hết, chả chết ai hết. Mùa Xuân cũng sẽ trở lại. Đông Nghi lục lọi tìm xấp thơ của Tuấn. Nàng để giữa phòng và châm lửa đốt. Ngọn lửa bùng lên soi rõ khuôn mặt của Đông Nghi với hai mắt mở lớn, khô lệ.   Mời các bạn đón đọc Mưa Trên Cây Sầu Đông của tác giả Nhã Ca.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Điều Tuyệt Vời Nhất của Thanh Xuân - Bát Nguyệt Trường An
“Dư Hoài” “Hử” “Trước đây cậu có thích tớ không?” Cậu ấy dịu dàng nhìn tôi, cười khì khì, cúi đầu gãi gãi gáy, giống như chàng trai 17 tuổi cấp 3 năm đó. Cũng tốt, vấn đề mà Cảnh Cảnh năm 17 tuổi phải hỏi, Dư Hoài năm 17 tuổi trả lời. Rất lâu sau, Dư Hoài nhè nhẹ gật đầu. Bỗng chốc nước mắt tôi rơi ướt đẫm mặt. Thanh xuân là gì? Là những điều chưa dám nói, Những việc chưa dám làm, Những mơ hồ thoáng chốc chưa từng quên, Là khoảng thời gian không thể quay trở lại… dù chỉ một lần. Thanh xuân là gì? Là phát sáng cũng là tiếc nuối. Thanh xuân của chúng ta đều có một “ai đó”. Một cậu bạn cùng bàn bên được vây quanh bởi biết bao cô nàng, một cô bạn ngốc nghếch hay ngủ quên trong giờ học, hay thậm chí là một anh chàng lớp trên phía bên kia hành lang vẫn mỗi sáng rảo mắt qua phía bên này hành lang ấy. Ai cũng được và chỉ ở đó thôi... trong tim. Không hề dám mở lời kết bạn, mở lời yêu thương. Đem theo những cảm xúc non nớt với một tâm hồn mong manh của những cô cậu học sinh cấp 3 còn trẻ dại, chỉ dám đứng bên lề cuộc sống của người đó mà dõi theo, mà thương thầm nhớ trộm. Để rồi, những lời cần nói, không thể nói, những việc phải làm, lại không làm. Chỉ cho đến lúc thanh xuân từ lúc nào bỗng nhiên trôi qua vội vã, không một lời từ biệt, mới nhận ra rằng bản thân thực sự đã bỏ lỡ những gì. Tháng năm trôi đi, ai rồi cũng sẽ lớn. Chuyện ngày cũ, rồi chỉ là quá khứ mà thôi. Sớm muộn gì cũng mờ nhạt trong tâm trí, nhưng mỗi lần nghĩ lại chắc chắn đâu đó trong lòng vẫn còn rất nhiều những khoảng trống, những hoài niệm không tên. Nhưng cũng chẳng sao cả, bởi vì điều tuyệt vời nhất của thanh xuân chính là có một ai đó để đem theo trong tim đến mãi sau này. Điều tuyệt vời nhất của thanh xuân – câu chuyện thanh xuân không dành riêng cho ai. Mà dành cho thanh xuân của tất cả mọi người. Như một thước phim quay chậm, thật chậm, đọc Điều tuyệt vời nhất của thanh xuân để cùng bật cười với những ngốc xít, cùng bật khóc nơi những nuối tiếc và rồi nhắm mắt lại để thấy lòng mình trôi về những ngày thanh xuân đã và đang qua. “Điều tuyệt vời nhất của thanh xuân” là gì? Chẳng là gì cả! Chỉ là những mơ hồ như ánh mắt ấy, nụ cười ấy... Như cậu ấy! Vậy thôi! *** No. 1 Tôi tên là Cảnh Cảnh. Người thân đều nói tên này không hay, Cảnh nhi, Cảnh nhi, nghe giống như phải cật lực nén nhịn uất ức với ai vậy. Nhưng tôi thích cái tên này lắm. Tên có hay hay không chỉ là thứ yếu, điều quan trọng là trong cái tên này chứa đựng tâm ý. Bố mẹ tôi đều họ Cảnh, có lẽ lúc họ đặt tên cho tôi, trong đầu đều là “đoàn kết sức mạnh”, “kết tinh tình yêu” – những ý niệm đẹp đẽ như vậy, cho nên tôi được gọi là Cảnh Cảnh. Có điều sau đó họ ly hôn. Tôi cũng không chắc chắn với cách giải thích tên của mình, có phải chỉ là một bên tình nguyện hay không. No. 2 Năm tôi thi cấp ba gặp phải dịch SARS. Trong thời kỳ rối loạn lúc ấy, là một học sinh bình thường của một trường trung học cơ sở bình thường, tôi đúng là không phúc hậu tiêu tốn tiền tài quốc gia mà. Cuộc thi Tiếng Anh được bỏ qua phần nghe, độ khó đề thi Toán cũng được giảm bớt, đề thi môn Ngữ Văn trở thành đề văn của học sinh tiểu học, Vật lý, Hóa học được điều chỉnh xuống thang điểm thấp nhất trong tổng số điểm. Tóm lại, từ trước đến giờ nhiều lần tham gia cuộc thi thử nhưng bạn học Cảnh Cảnh chưa lần nào được đứng thứ ba cả lớp, vậy mà thi lên cấp đề thi chung lại được đứng thứ ba toàn trường. Sau đó, các bạn cùng lớp kéo tôi đến cửa tiệm Kỳ Hạm của Adidas và cửa hàng Lý Ninh1 chụp ảnh. Lý Ninh: Thương hiệu thể thao nổi tiếng của Trung Quốc, Lining. Lining được biết đến rộng rãi và bị chỉ trích nhiều với khẩu hiệu “biến tấu” của Adidas. Ngoài ra, logo hình chữ “L” của Li-Ning khá tương đồng với dấu ngoắc của Nike, trong khi khẩu hiệu “Nothing is Possible” (Không gì là không thể) chẳng khác biệt mấy so với “Just do it” (Cứ hành động đi!) của Nike. Họ nói bức ảnh này biểu đạt “Nothing is impossible” – Không gì là không thể. Sau đó lại để tôi đến trước cửa tiệm Nike giơ giấy bảng trúng tuyển màu đỏ của trường Chấn Hoa lên để chụp ảnh lưu niệm. Họ nói rằng tấm ảnh thể hiện tinh thần “Just do it” – Hãy làm đi nào! Tôi hỏi họ có hiểu hàm ý của cụm từ “Just do it” không, họ nói, sao lại không biết? Chính là giết nó! Cuối cùng tôi không thể “giết” được Chấn Hoa. Điều này để sau hãy nói đi. Với lại, trong giai đoạn tôi buồn bực lúc đó, nghe nói Adidas vì một sự việc gây kinh ngạc nào đó mà trong lúc giận dữ đã thay đổi khẩu hiệu thành “Nothing is Impossible”. Đây mới là chân tướng sự thật. Trên thế giới, điều duy nhất không thay đổi chính là sự thay đổi và điều duy nhất có thể trên thế giới này chính là điều không thể. No. 3 Khi điền nguyện vọng, tôi điền nguyện vọng ba mục, đó là ban cơ bản Chấn Hoa, ban tự túc Chấn Hoa, ban phân ban Chấn Hoa. Còn nhớ lúc phải nộp nguyện vọng, tôi là người cuối cùng nộp cho giáo viên. Che che giấu giấu, sợ bị người khác nhìn thấy. Phải biết là, người luôn luôn đứng đầu lớp chúng tôi cũng không dám đăng ký vào Chấn Hoa. Cô bạn ấy đã đắn đo rất lâu, cuối cùng vẫn chọn trường trung học trực thuộc đại học sư phạm; chỉ cần đăng ký nguyện vọng trường sư phạm, thi đỗ với số điểm chuẩn là cô bạn có thể được bớt 10 điểm. Lúc đó, trường sư phạm sử dụng phương thức này chính là đoạt đi một nhóm vốn có khả năng thi thi đỗ trường Chấn Hoa nhưng lại không tự tin với lực học xuất sắc của chính bản thân mình. Khi ấy, mỗi khi kết thúc một kỳ thi, các bạn lớp tôi đều nói đùa trước mặt cô ấy rằng, cô ấy là mầm non tương lai của Chấn Hoa. Chúng tôi không có ác ý, nhưng hồi lớp ba, cứ mỗi lần thi thử xong, cô ấy lại vì trò đùa này mà tức giận. Không ít người vì điều này mà cho rằng cô ấy cố tình gây sự. Nhưng tôi hiểu cô ấy, chúng ta không phải chịu trách nhiệm khi dùng mấy câu nói để tâng bốc người khác, song chẳng may ngã xuống sẽ chẳng có ai đến đỡ cô ấy. Về sau tôi kể với bố tôi chuyện này, bố tôi nói kiểu vuốt đuôi mà đánh giá rằng, Cảnh Cảnh à, khi đó con đã có đầy đủ điều kiện để có thể đỗ trường Chấn Hoa rồi, con có thể đứng dưới góc độ là mầm non của Chấn Hoa mà suy xét vấn đề, rất tốt. Bố thật cmn thối mà… Tôi chợt nhớ ra ông ấy là bố tôi, không phải là bạn cùng bàn, vội vàng nuốt lại câu thường nói với bạn bè vào trong bụng. Thực ra, quan hệ giữa tôi và bố tôi, rất giống “bạn cùng bàn”. No. 4 Điền nguyện vọng như vậy là do bố tôi kiên quyết. Mục tiêu của ông là giữ vững phân hiệu, cố gắng tự túc. Nói không chừng có thể đỗ vào ban cơ bản. Tôi ngắt lời ông. Bố ơi, nếu như loại chuyện đó thực sự xảy ra, nhất định sẽ phải trả bằng một cái giá nào đó, ví dụ như giảm tuổi thọ. Sau đó, dĩ nhiên tôi lại hồ đồ mà vào ban cơ bản. Ban cơ bản của Chấn Hoa đó! Đây căn bản là làm cuộc cho vay nặng lãi với lão Diêm vương, hơn nữa lại còn là mắc nợ nặng nề, mẹ nhà nó, lấy mạng của tôi đi! No. 5 Giáo viên chủ nhiệm của lớp tôi nói rằng, trong tất cả 13 lớp, chỉ có ba bạn đăng ký trường Chấn Hoa, một là Dư Châu Châu lớp 7, hai là Thẩm Sằn lớp 2, và người còn lại là tôi. Thẩm Sằn cuối cùng thi không thành. Nghe đồn rằng cô bạn ấy đi vệ sinh cũng mang theo quyển sách từ đơn, cụm từ để học thuộc, là một người rất lợi hại. Ba năm đổi lấy một ngày kết quả thế này, tôi không biết nên nói gì nữa. Vào một ngày mùa hè nắng to, lúc tôi ngồi xổm trước cửa nhà Khẳng Đức Cơ liếm cây kem ốc quế đậu xanh tránh nắng, ngẩng đầu lên vô tình nhìn thấy Thẩm Sằn đi ngang qua. Cô bạn ấy không mang ô, cũng không tránh ánh nắng gay gắt ngoài kia, vẫn như cũ đeo cái balo to, mặt mũi bóng nhẫy, trên trán có nổi mụn nữa. ... Mời các bạn đón đọc Điều Tuyệt Vời Nhất của Thanh Xuân của tác giả Bát Nguyệt Trường An.
Chiếc Nhẫn Tình Yêu - Danielle Steel
Chuyện tình hai người quen nhau từ trên mạng và rồi gặp gỡ nhiều lần cuối cùng thì cũng quyết định tiến tới bên nhau. Yêu nhau cũng được nhiều năm và bây giờ cũng đến lúc kết hôn bày tỏ tình cảm với nhau. Nhưng anh chưa biết mở lời với cô làm sao khi cô đã từ chối anh một lần. Muốn được cô đồng ý thì anh quyết định dành dụm một số tiền để mua một chiếc nhẫn. Chiếc nhẫn đó chính là minh chứng tình yêu anh dành cho cô là chân thật, đêm đó anh lấy hết can đảm để mà cầu hôn và rồi cuối cũng ước mơ cũng thành sự thật, cô đã chấp nhận lấy anh. *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Khi ông Walmar rời nhà ga xe lưả ở Based, ông đứng nhìn quanh một lát trước khi đi bộ trở lại Lorrach để đón tàu hỏa về Berlin. các bắp thịt trong người ông đau nhừ. Trông ông dơ dáy và rách rưới, không còn có vẻ gì là một chủ ngân hàng có thể ngồi họp với Bộ Trưởng Tài Chánh cả. và không ai có thể ngờ là ông đang mang một số tiền lớn trong người cả. Khoảng trưa thì ông đến sát biên giới. Ông đã đi bộ sáu tiếng đồng hồ. Bây giờ là đến phần gay go nhất của cuộc hành trình trở về Berlin. Rồi ông sẽ phải lặp lại như thế nữa để đưa Ariana đi. Một khi hai con ông đã được an toàn ở Thụy Sĩ, thì ông chẳng thiết gì nữa cả, có chết cũng an lòng. Ông lại chui qua lỗ kẽm gai cắt khi đêm. Với một người ở tuổi ông, đi thế này thật là cả một cuộc phiêu lưu nguy hiểm. Song đới với ông sẽ không ăn thua gì nếu cức được hai con ông. Ông ngừng lại. Nghe ngóng. rồi chạy lại chỗ bụi cây. Nhưng lần này thật không may, ông nghe có tiếng chân người gần đây. Ông chui nhanh vào bụi cây. Nhưng hai tên lính đã vừa trờ tới. - Ấy, ông già, đi đâu vậy? Định đi tòng quân ở Berlin à? Ông cố cười vờ làm bộ ngu si. Nhưng một tên lính chỉa súng vào ông và hỏi: - Ông đi đâu? Ông cố nói với giọng nhà quê: - Đến Lorrach. - Sao phải đến đó? - cón gái tôi ở đó. - Ngực ông đập thình thịch. - Vậy à? Hay quá! Tên lính quay lại dí súng vào lưng ông, và ra dấu cho tên kia lục soát. chúng vạch áo ông ra, vỗ vào tuí áo, và sờ lưng quần. Ông nói: - Tôi có giấy tờ đây. - Ồ, vậy à. cho xem! Nhưng trước khi ông lấy được giấy ra thì một tên lính sờ lưng ông thấy một thứ gì mềm mềm dọc theo cánh tay phải của ông. Nó hỏi: - Gì đây, bố? Bố giấu cái gì phải không? - Y cười lớn và nháy nháy với tên bạn. Các ông già thường hay kỳ quặc. Hai tên lính biết vậy nên lặng thinh xé toạc áo sơ mi của ông ra, chiếc áo dơ dáy song vải rất tốt. Chúng không nghi ngờ gì, rõ ràng đây là một ông già nhà quê. Song chúng ngạc nhiên tròn xoe mắt khi mở ví ông ra, cả một mớ tiền giấy bạc lớn và bạc lẽ. Chúng đếm xong lấy làm kinh ngạc, hỏi: - ông đem tiền này cho Quốc Trưởng à? - Chúng nói xong thì cười lớn một cách thích chí. Ông Walmar chỉ nhìn xuống đất. Ông hy vọng là chúng thỏa mãn với số tiền lấy được và cho ông đi. Nhưng hai tên lính thời chiến tranh thì đủ khôn để biết cần phaỉ làm những gì. chúng trao đổi nhau bằng mắt, tên thứ nhất bước lui, tên thứ hai bắn vào ông Walmar. Ông ngã xuống trên đám cỏ. Chúng nắm chân ông kéo vào bụi cây, lấy hết giấy tờ, tiền bạc, rồi trở lại lều của chúng. chúng ngòi đếm bạc thích thú, còn giấy tờ thì đốt hết. Chúng cũng không bận tâm đọc các giâý tờ đó nưã. Ông ta là ai thì chẳng quan trọng gì. Chỉ khổ cho Gerhard đang nằm chờ ở một khách sạn tại Zurich. Và khổ cho Ariana đang ngồi kinh sợ trong nhà giam ở Berlin. Mời các bạn đón đọc Chiếc Nhẫn Tình Yêu của tác giả Danielle Steel.
Khuôn Mặt Người Khác
Mặt, xét cho cùng, là vẻ biểu cảm của nó. Mà vẻ biểu cảm, đó là một loại phương trình biểu thị mối quan hệ với những người khác. Đấy là con đường mòn liên kết ta với người. Nếu con đường đó bị vùi lấp thì ngay cả những người gắng tìm cách đi trên con đường đó cũng sẽ đi ngang qua trước nhà ta như đi ngang qua một chốn hoang phế không người. Nếu không kịp thời dọn quang con đường mòn thì cuối cùng người ta sẽ quên rằng đã từng có con đường đó.  Tâm hồn con người được bọc trong một bộ da. Người ta bị mất tay mất chân, bị hỏng mắt là chuyện bình thường. Người bị thương bận tâm đến cái gì nhiều nhất? Không phải là tính mạng, không phải là sự phục hồi các chức năng của cơ thể, không. Điều làm họ băn khoăn trước hết là có giữ được cái hình dạng trước đây hay không. Nếu như trong Người đàn bà trong cồn cát (1962), cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, Kobo Abe viết bằng giọng văn xuôi đơn giản; thì Khuôn mặt người khác (1964) giọng văn đã trở nên phức tạp hơn bởi nhiều câu hỏi được đặt ra. Nếu như nhân vật chính của Người đàn bà trong cồn cát chỉ đơn giản là cố gắng để trốn thoát; thì nhân vật chính của Khuôn mặt người khác là cố gắng để tìm thấy chính mình và để đánh mất mình, và cố gắng tìm mọi cách để sống trong một xã hội mà dường như đã từ chối anh ta! Với Khuôn mặt người khác, Kobo Abe đã cố gắng để đối phó với các vấn đề lớn của bản sắc và cá tính trên quy mô quốc gia, bằng cách tập trung vào miêu tả một người đàn ông không tên. Anh là chủ nhiệm một phòng nghiên cứu hóa chất cao phân tử tại một viện khoa học. Trong lúc thí nghiệm đã xảy ra vụ nổ oxy lỏng, khuôn mặt bị biến dạng với những sẹo lồi, rất may là không ảnh hưởng gì đến mắt vì anh đeo kiếng. Bề ngoài, anh cố giữ được vẻ bình thản với khuôn mặt bị hủy hoại, nhưng đó chỉ là sự giả tạo. Trong anh luôn bùng nổ những cơn bão của tâm trạng dằn vặt, suy tư dữ dội, luôn đau khổ và mặc cảm, hoài nghi ở thái độ mọi người đối với bộ mặt kỳ dị của mình. Anh nghi ngờ cả sự gần gũi chăm sóc của người vợ vẫn chung sống cùng anh sau khi anh bị tai nạn. Và, mối quan hệ của anh với người vợ cũng bị biến dạng! Âm thầm và kiên trì bền bỉ, anh đã nghiên cứu chế tạo thành công bộ mặt nạ hoàn toàn giống mặt người, có khả năng biểu cảm linh hoạt như gương mặt thật. Anh giữ bí mật sự việc và nuôi dưỡng ý định dùng bộ mặt nạ thử thách tình yêu của vợ mình. *** Trong khi Murakami và Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe ( 1935 - 2007), Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998 có viết: “Lớp nhà văn này đã tích luỹ trong mình  cảm nghĩ về thực trạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Kobo Abe sinh ngày 7.3.1924 tại Tokyo. Tên thực của ông là Kimifusa (“Kobo” là cách phát âm theo Hán tự của từ “Kimifusa”). Cha ông là bác sỹ tại một bệnh viện nằm trong trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia ở Manchuria. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro... ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ do nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hoá đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941 Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đấy Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhất các kỹ thuật của Chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943 Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami tác giả Rừng Na-uy viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn  phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách . Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ văn học của ông: Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shino hanzai (Bức tường - tội lỗi của S.Karma, 1951). Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hoá thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị toà án lôi ra phán xử. Năm 1947 Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chỉ thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết Owarishi michi no shirube ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của đảng này. Những tác phẩm mang tính cách trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, “Akai mayu” (1950, Cái kén đỏ), “Kabe” (1951) và “S.Karuma - Shi no hanzai” (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập tới, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiểu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant - garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không giống thực tế và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Daiyon kampyoki  (1959), Moetsukita chizu (1967, Tấm bản đồ rách), Mikkai (1977) và Hako otoko (1974, Người đàn ông trong chiếc hộp). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Woman in the Dunes, (1962, Người đàn bà trong cồn cát) và The Face of Another (1964, Khuôn mặt người khác). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hoá, vong ngã, trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã được ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muôn loài, tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài. không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hoá thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe  được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX. Những tác phẩm chính: Người đàn bà trong cồn cát (1963), Khuôn mặt người khác (1964), Người hộp (1973) Cái Kén Đỏ Chiếc thuyền Nô-Ê Bọn Chiếm Đóng Và một số và kịch. Khuôn mặt người khác là cuốn tiểu thuyết tiêu biểu cho những đặc điểm các tác phẩm của Kōbō Abe. *** Thế là em đã vượt qua được cái mê cung rắc rối mà tìm đến. Tin ở cái kế hoạch mà anh ta gửi cho em, rốt cuộc em đã đến chỗ trú ẩn này. Chân bước rụt rè, em lên cái cầu thang cót két như bàn đạp cỗ đàn ooc-gơ. Căn phòng đây rồi. Nín thở, em gõ cửa, chẳng hiểu sao không có tiếng đáp. Thay cho tiếng đáp, một cô bé nhảy tâng tâng như con meo con chạy tới mở cửa cho em. Em gọi cô bé, toan hỏi xem người ta có nhắn gì cho em không, nhưng cô bé chẳng trả lời gì cả, chỉ mỉm cười và chạy đi. Em cần anh ta, thế là em ngó vào cửa. Nhưng em không thấy anh ta, không thấy một cái gì nhắc nhở đến anh ta, một căn phòng chết, trong đó tinh thần hoang phế đang lượn lờ. Cảnh tượng bức tường mờ đục khiến em giật mình. Em toan đi, tuy cảm thấy mình có lỗi, thì mắt em chợt bắt gặp ba quyển vở nằm trên bàn, bên cạnh là một bức thư. Đến đây em chợt hiểu ra rằng thế là em đã sa vào bẫy. Mặc dù lúc ấy những ý nghĩ hết sức cay đắng giày vò em, nhưng sự cám dỗ không thể nào cưỡng lại được. Hai tay run run, em xé phong bì và bắt đầu đọc thư... Chắc là em tức giận, chắc là em oán trách. Nhưng anh sẽ chịu đựng được cái nhìn của em, cái nhìn đàn hồi như chiếc lò xo kéo căng, và dù thế nào đi nữa anh vẫn cứ muốn em tiếp tục đọc. Anh không có hy vọng gì rằng em sẽ vượt qua được mấy phút đó một cách êm đẹp, và sẽ bước một bước về phía anh. Anh bị anh ta tiêu diệt hay anh ta bị anh tiêu diệt, cách nào chăng nữa thì màn của vở bi kịch những chiếc mặt nạ đã hạ xuống. Anh đã giết anh ta, đồng thời tự nhận mình là kẻ phạm tội và anh muốn thú nhận hết, thú nhận triệt để. Có thể vì em rộng lượng hay ngược lại, anh cũng vẫn cứ muốn em đọc tiếp. Người có quyền xử tử thì có trách nhiệm phải nghe cho hết lời khai của bị cáo. Còn nếu chỉ quay lưng lại với anh, kẻ đang quỳ gối trước em đây, thì liệu em có khỏi bị nghi oan là tòng phạm không? Thôi được, hãy ngồi xuống, cứ coi như em đang ngồi nhà. Nếu không khí trong phòng tù hãm thì mở cửa sổ ra. Ấm chén uống trà, nếu cần em lấy ở bếp. Hễ khi nào em bình tĩnh ngồi xuống thì nơi trú ẩn giấu kín ở cuối mê lộ này sẽ biến thành tòa án. Trong lúc em xem lời khai, để cho phần cuối tấn bi kịch của những chiếc mặt nạ càng có vẻ xác thực hơn, anh sẵn lòng chờ lâu thế nào cũng được, trong lúc chờ đợi, anh vá những chỗ thủng trên tấm màn sân khấu, vả lại, chỉ riêng việc hồi tưởng lại những chuyện đó cũng khiến anh không cảm thấy chán ngán. Vậy thì ta sẽ trở lại sự việc vừa mới xảy ra với anh, ba ngày trước cái thời điểm mà đối với em là “lúc này”: Đêm ấy, gió lẫn với trận mưa dường như có hòa tan mật ong làm cửa sổ rung lên thảm thiết. Suốt ngày anh đổ mồ hôi, thế mà khi mặt trời lặn, anh bỗng muốn sưởi ấm bên ngọn lửa. Các báo viết rằng trời sẽ lạnh trở lại, nhưng ngày đã trở nên dài hơn, chẳng làm sao lẩn tránh được thực tại đó và cứ một cơn mưa tạnh là đã cảm thấy ngay sự hiện diện của mùa hè. Chỉ cần nghĩ đến điều đó là tim anh bắt đầu phập phồng lo lắng. Ở tình trạng hiện nay, anh giống như một vật bằng sáp bất lực trước cái nóng nực. Chỉ cần nghĩ đến mặt trời chói lòa là da anh phồng rộp cả lên. ... Mời các bạn đón đọc Khuôn Mặt Người Khác của tác giả Kobo Abe.
Chết Đi Cho Rồi, Leonard Peacock - Matthew Quick
Trong cuốn tiểu thuyết Chết đi cho rồi, Leonard Peacock, tác giả của Về phía mặt trời kể về một cậu bé tài giỏi, nhưng gặp nhiều vấn đề ở trường và phải sống với một bà mẹ vô tâm chỉ quan tâm tới thời trang. Cậu đi đến quyết định tự sát, và trước khi tự sát, cậu đã tặng những người cậu yêu quý một món quà. Sử dụng biện pháp flashback (kể về những người bạn thân của cậu bé, về người bạn người Iran chơi violon thần sầu, về cô giáo dạy Anh văn và thầy giáo dạy lịch sử) xen lẫn những bức thư gửi từ tương lai (của bản thân cậu bé, của người vợ và con gái tưởng tượng), câu chuyện dần hé lộ về cuộc sống và các mối quan hệ cá nhân của Leonard, qua đó đặt ra những câu hỏi thực tế, mang tính thời sự cao về cả một thế hệ trẻ, về hệ thống giáo dục và về cách người lớn nhìn nhận trẻ con, cũng như những ước mơ vô cùng bình dị. Một cuốn sách khiến người ta nhớ đến Catcher in the Rye, The Perks of Being a Wall Flower và Mysterious Skin. *** Khẩu súng lục P-38 của phát xít Đức từ thời Chiến tranh thế giới thứ hai trông thật kỳ cục gần cái tô ngũ cốc trên bàn. Một sự giao thoa đồ dùng công nghệ nhìn hết sức trật chìa. Nhưng nếu nhìn kỹ vào báng súng thì có thể thấy một cái dấu thập ngoặc nhỏ xíu và con đại bàng đậu trên đỉnh, trông thật vãi. Tôi lấy iPhone chụp một phát cho cái “cặp đôi hoàn hảo” đó, để lưu lại vật chứng kiêm tác phẩm nghệ thuật hiện đại. Đến khi ngó vào màn hình điện thoại, tôi bò lăn ra mà cười, bởi cái “cục” tác phẩm nghệ thuật ấy nhìn gớm không thể tả. Chứ gì nữa, cái tô ngũ cốc và một khẩu P-38 cứ như cái thìa nằm chình ình bên cạnh – một vụ “dàn cảnh” như thế lên khuôn hình trông có vẻ như nghệ thuật sắp đặt hiện đại đấy chứ? Nhảm vãi. Mà cũng nhí nhố ra phết. Hồi đi tham quan mấy bảo tàng nghệ thuật, tôi thấy lắm thứ còn kinh hơn, chẳng hạn như trên tấm toan trắng toát chỉ có mỗi một vạch đỏ bé tí quẹt qua. Có lần tôi đã đốp thẳng vào mặt Herr Silverman về cái bức tranh đó rằng vẽ vời kiểu thế thì tôi cũng làm được. Thế rồi bằng giọng điệu siêu tự tin, thầy vặc lại tôi thế này: “Nhưng mà em có làm đâu.” Phải thừa nhận là cái câu phản pháo đó hơi bị đúng. Biết vậy tôi ngậm quách miệng lại cho rồi. Đây, giờ thì tôi đang sáng tạo nghệ thuật hiện đại trước khi ngủm đây. Biết đâu sau này họ lại chả đặt cái iPhone này vào trong Viện bảo tàng nghệ thuật Philadelphia với bức hình khẩu súng phát xít và tô ngũ cốc vẫn còn trên đó ấy chứ. Họ có thể đặt cho nó một cái tên thật kêu như Bữa điểm tâm của sát thủ choai choai hay mấy cái tên vớ vẩn và gây sốc kiểu kiểu như vậy. Tôi cá là giới nghệ thuật và thông tấn sẽ khoái lắm đây. Họ sẽ khiến cho tác phẩm nghệ thuật hiện đại của tôi đùng một cái mà nổi như cồn. Nhất là sau khi tôi trừ khử xong thằng ôn con Asher Beal và tự khai tử tôi luôn. Giá trị các tác phẩm nghệ thuật lúc nào mà chả tăng vọt khi người ta phát hiện ra người nghệ sĩ đã làm vài việc dở hơi nào đó, chẳng hạn như ông họa sĩ Van Gogh cắt cụt cả tai mình, tác gia Poe thì cưới ngay cô em họ vị thành niên, ca sĩ Manson thì sai thuộc hạ đi ám sát người nổi tiếng, không thì cũng kiểu như ông nhà báo Dr. Thompson đòi người ta phải bỏ tro cốt của mình sau khi tự sát vào trong nòng pháo mà bắn, hoặc đòi mẹ mặc áo váy con gái như nhà văn Hemingway, hay diện nguyên cả bộ đồ làm bằng thịt sống như cô ca sĩ quái chiêu Lady Gaga, nói chung là lắm thứ khó nói xảy ra với một nghệ sĩ tới nỗi mà người này phải giết cả bạn cùng lớp rồi tương luôn một phát súng vào đầu mình như kiểu hôm nay tôi sẽ làm đây. Vụ việc ám sát lẫn tự sát của tôi sẽ khiến cho tác phẩm Bữa điểm tâm của sát thủ choai choai trở thành một kiệt tác vô giá bởi vì ai mà chả thích mấy kiểu nghệ sĩ điên điên lập dị. Anh mà cứ chán chán, xinh xinh, bình bình – giống tôi từng thế - thì anh rớt lớp nghệ thuật là cái chắc và suốt đời chỉ là một nghệ sĩ xoàng xĩnh mà thôi. ... Mời các bạn đón đọc Chết Đi Cho Rồi, Leonard Peacock của tác giả Matthew Quick.