Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bão Ngầm

Tiểu thuyết này đặc biệt dành tặng đồng đội tôi, những người lính can trường trên mặt trận đấu tranh phòng chống ma túy. Bước ra từ cuộc chiến đấu thầm lặng, như chất kháng thể của xã hội chống lại những kẻ gieo rắc cái chết, bao gian truân trên đường đời mà chúng tôi đã trải nghiệm bằng mồ hôi và cả máu xương, đã biến thành nguồn chất liệu sinh động cho cuốn tiểu thuyết này.  Một câu chuyện do lính viết từ những gì đã trải, đã thấy, đã cảm trong hiện thực cuộc đấu tranh sinh tử với tội phạm. Hành trình lần tìm ra các sào huyệt ma túy, chui sâu leo cao trong các đường dây, tổ chức tội phạm... của người lính, hẳn không phải một cuộc dạo chơi. Trên con đường vào trận, mỗi bước đi của họ đều nằm giữa lằn ranh sống và chết, vinh quang hay hèn nhát. Bởi, tội phạm không chỉ đón họ bằng những loạt đạn đồng khi chống trả, mà còn giăng đầy những chiếc cạm bọc nhung.  Hiểm nguy hay cám dỗ, đều có đặc tính của "quỳ tím", là liều thuốc thử đặc hiệu nhất giúp soi tỏ bản chất con người. Không thiếu những người xông xáo khi chiến đấu, nhưng lại chịu thúc thủ rồi gục ngã trước tiền và quyền. Khi ấy, những lớp vỏ rụng lả tả, bộc lộ những bộ mặt trần không son phấn. Để rồi chính họ lại cản trở bước chân đồng đội trong hành trình truy tìm thủ phạm. Nghiệt ngã là bản chất của mọi cuộc chiến. Trong mặt trận này, tính khốc liệt không chỉ hiện ra qua tiếng súng bắn trả của tội phạm, mà còn quyết liệt trong bản thân mỗi con người khi đứng trước những lựa chọn. Sự chuyển hóa giữa tốt và xấu, thiện với ác, trung thực hay đểu giả... diễn ra không ngừng nghỉ. Cuối cùng, quy luật đào thải sẽ cất những tiếng lạnh lùng, làm bắn ra khỏi quỹ đạo vận động những gì là giả tạo và lạc hậu, nghiền nát trong vòng quay luật đời mọi tráo trở, lừa lọc và phản bội... Cùng lúc ấy, nó tôn vinh những giá trị nhân văn, những mầm thiện trồi lên từ thực địa cuộc xung đột chính - tà. *** Mưa rả rích cả tuần, da trời thâm bầm xám ngoét như môi thằng nghiện. Đồi lúp xúp, đìu hiu trong chiều lạnh. Những rạch chè dài hun hút đến vô tận. Lẻ loi những thân cọ chơ vơ, tán lá ủ dột trĩu xuống vì nước, chốc chốc lại rùng rùng, đành đạch khi có dọn gió dưới thung thổi hất lên. Gió mang tối xuống nhanh. Trên con đường dẫn vào xóm Chè trơn như mỡ đổ, thấp thoáng bóng một người đàn bà chửa vượt mặt đang dò dẫm từng bước. Khối bụng lặc lè nhắc nhở chị ta thận trọng, phòng những cú sảy chân bất ngờ. Trên lưng, chiếc ba lô to như chực kéo người ngửa về sau. Ì ạch leo đến giữa đồi, thốt nhiên người đàn bà ngồi sụp xuống vạt cỏ. Thán khí từ phổi tranh đường ra qua mũi, qua mồm. Hơi thở dốc qua đi, chị chống tay vào cỏ, định đứng dậy đi tiếp. Đường về nhà còn xa, phải qua hai mỏm đồi thế này mới tới, mà trời đã nhập nhoạng. Chợt từ đâu le lói một cơn đau, âm ỉ ở vùng lưng dưới. “Chắc do đi bộ quãng đường xa, khó chịu nên em đạp?” Người đàn bà nhìn xuống bụng, cười mỉm rồi quyết định ngồi lại, hy vọng một lát cơn đau sẽ dịu đi. Luồn trong lớp áo mưa, đôi tay người mẹ xoa xoa, vỗ về đứa con trong bụng, thì thào: “Ngủ ngoan, bé bỏng của mẹ!”. Mưa vẫn quất vào mặt, tóc bết dính, dẫn nước luồn lách qua cổ, qua nách, xuống bụng. Người đàn bà run lên bên con đường nhạt nhòa trong mưa. Như là tự nhủ phải về được đến nhà trước khi tối hẳn, chị quả quyết đứng dậy nhưng rồi lại khuỵu xuống. Một cơn đau mới lại đến. Đau thốc từ sau ra trước, tưng tức nơi cửa mình. Hôm trước khám thai, bác sỹ bảo phải hai tuần nữa mới sinh cơ mà. Chị nhìn xuống bụng vẻ nghi hoặc, lo lắng rồi lại như tự trấn an mình. Nhưng sao vẫn đau, đau liên tục, đau theo nhịp vài phút một lần, như thể bị động thai. “Đừng, đừng con ơi, ở lại với mẹ, mẹ chỉ còn mình con!”, trong cơn vật vã trên vệ cỏ, lùng bùng giãy giụa giữa manh áo đi mưa, người đàn bà vẫn lảm nhảm những tiếng cầu xin… Cơn đau mỗi lúc một mau hơn, lan nhanh từ vùng lưng dưới hông ra trước. Bụng dưới quặn lên vì co thắt, thúc đẩy. Háng ẩm ướt, hai bên đùi phía trong bỗng lép nhép. Sinh khí tứa ra. - Thôi chết! Hay là chuyển dạ? Trời ơi! Ánh mắt thất thần vụt nhìn xuống dưới, rồi dáo dác nhìn lên, nhìn ngang, như thể tìm một bóng người, một chỗ trú chân. - Có ai không? Cứu tôi với? - Tiếng kêu lạc giọng vì sợ hãi của người sắp làm mẹ. - Cứu, cứu với! - Cứu! Tiếng kêu yếu dần, tan vào vô vọng. Giờ này, trời này, chỉ một mình chị giữa mênh mông đồng đất. Trong xa xăm, đâu như có tiếng chó sủa tối vọng về. Trên đầu mây vần vũ, bồng bềnh tiền sử. Trời càng lúc càng tối, vạt chè, tán cọ thoáng chốc đã biến sang màu đen dị hình. Từ đất đã vọng lên tiếng ri ri nỉ non của dế. Chỉ có một mình! Tiếng khóc tức tưởi bật ra từ lồng ngực người mẹ trẻ, không chỉ vì cơn đau dứt ruột, mà ai oán như tủi phận, xót xa đến cùng cực. “Đàn ông đi biển có đôi, đàn bà vượt cạn mồ côi một mình”, câu ấy cũng chỉ nói đến lúc lâm bồn bình thường của người đàn bà, ở thời khắc họ cho cuộc đời những sinh linh mới mẻ. Đằng này, chỉ một mình chị cô độc tuyệt đối giữa bạt ngàn chè cọ, Không lúc nào ranh giới sống chết của cả hai mẹ con có thể mỏng manh hơn. Quay cuồng trong cơn đau, vòng xoáy màu máu đảo lộn rút con ngươi hướng lên trên, miệng há lưỡi thò khỏi cung răng. Đúng lúc ấy, như ảo giác, rõ ràng trong làn mưa bay từ nền trời đen ngòm, có ánh mắt đang nhìn xuống chị. Ánh mắt ấy lạ lắm, như thúc chị gắng lên, như chỉ dẫn cho chị cách thoát khỏi tình huống nguy hiểm hiện tại. Nó còn như van vỉ, cầu xin… Đăm đắm vào cái nhìn tưởng tượng, chợt như có lửa bùng lên trong cặp mắt người đàn bà. Một cái gì đó thật dữ dội, quyết liệt đã trỗi dậy. Bản năng giống cái bảo vệ những đứa con của mình ư? Không rõ. Chỉ thấy người mẹ trở dạ ấy ngồi nhổm lên giữa bê bết bùn đất, rướn hết thị lực nhìn xung quanh. Kia rồi, lờ mờ bóng cọ. Cắn môi bật máu, người mẹ nén đau lết cặp mông trượt trên mặt đất từng chút, từng chút một. Cọ già, tán phủ rộng rãi như cái lọng của tự nhiên. Dưới gốc, một đống tàu lá khô vương vãi. Cũng không xa là đống cành chè dân đốn vụ trước còn vất ngổn ngang. Củi chè bền lửa, chỉ tội mưa gió ướt sũng thế này làm sao mà cháy được. Người đàn bà khó nhọc vơ lấy nắm cành chất vội thành bếp, nhét mấy tàu cọ già xuống dưới, rồi bàn tay run rẩy móc ra một hộp diêm, quýnh quáng quẹt lửa châm. Khói um, mù mịt, chị nén đau ra sức thổi. Hì hục, rồi ánh lửa cũng bùng lên, ma quái nhảy nhót. Mồ hôi vẫn rịn ra theo từng cơn co thắt. Người mẹ trẻ lập cập mở chiếc ba lô, lấy mảnh áo mưa kê dưới mông, giật toang chiếc quần lót để chuẩn bị cho thời khắc vượt cạn, sẵn sàng đón đứa con bé bỏng chào đời bằng chính đôi bàn tay mình. Vũ trụ chao đảo, người đàn bà quằn quại hét từng tiếng đứt quãng: - Hùng ơi, khôn thiêng thì về đây cứu em, cứu con. Nối đời của anh đây, của dòng họ Vũ đây! Lửa vẫn cháy rần rật trên mấy tàu cọ. Nước ối đã ra đẫm ướt mảnh nylon. Nỗi sợ cạn dịch thoáng vụt qua trong đầu, người mẹ nghiến chặt hàm răng rặn mạnh. - Ra đi con, ra đi, mẹ xin con, Hùng ơi, cứu em, con ơi, thương mẹ… Ra đi, rồi mai mình về bà ngoại. - Người mẹ trẻ gào lên trong từng đợt co thắt, háng dang rộng, tay phải nắm chặt con dao ăn. Nửa giờ vật vã, kết bằng một tiếng rú váng động. Bên dưới, đầu trẻ đã nhô ra khỏi ống sinh. Người mẹ dồn toàn sức cho cơn co bóp cuối cùng. “Oe, oe”, bé trai dây rốn lòng thòng đã trườn khỏi lòng mẹ đi ra, cơn đau vụt tắt, chỉ còn những âm ỉ, giật giật khó tả miền bụng dưới. Phản xạ đón con xảy đến, khi tiếng khóc đầu tiên lọt vào tai người mẹ. Chị đảo chiều nằm, quay xuống cứa dao cắt rốn hài nhi rồi ấp nhanh bé vào lòng cùng mớ quần áo vương vãi. Bầu vú như tự tìm đến miệng trẻ. Không rõ sữa đã về chưa, chị bóp mạnh. Tiếng khóc ngằn ngặt làm người mẹ nhở đến đống lửa gần tàn. Bàn tay quờ quạng chất thêm mấy tàu cọ khô vào. Lửa lại in hình nhảy múa trong đôi mắt đang sáng rực vì sung sướng của người mẹ. Đêm nhích dần về sáng, người mẹ trùm cả đống quần áo đắp cho con. Khi hài nhi thiếp vào giấc ngủ, chị cũng nằm vật ra, miên man. Thời gian bỗng đảo chiều chuyển động, kéo quá khứ hiện hình đầy ắp trong cơn mê mệt. Những tiếng nổ chát chúa như nện vào óc hôm nao, bỗng rền vang trong ký ức… Ngoài tán lá, mưa cũng đã ngớt. Thi thoảng có giọt nước rơi xuống đống lá khô, lộp bộp như tiếng gà mổ ngô. Đống lửa leo lét tàn dần nhưng cũng đủ giữ cho hai mẹ con họ qua đêm thu mưa gió trên triền đồi heo hút ấy.   - - -   Ánh trăng non đầu tháng, không đủ cường lực để xuyên thủng lớp giáp của rừng. Dòng người lầm lũi chuyển động theo sau ánh đèn pin loang loáng. Câm lặng. Chỉ có tiếng lách cách khe khẽ của kim khí chạm nhau. Sau cơn mưa ban chiều, muỗi tủa ra từ bụi, u u rờn rợn. Thảng hoặc, có con gì thấy động vụt bỏ chạy. Những tiếng xột xoạt bất ngờ phát ra từ bụi rậm tối ngòm, làm tốp người khựng lại, dò xét rồi lại ngập ngừng bước tiếp. Cây gậy trên tay khua khua, đập đập về phía trước, sang hai bên đường mòn, để tránh những cú táp bất ngờ của con cạp nong, hổ mang nào đấy. Đêm xuống, rừng đen ngòm như một cái bẫy khổng lồ, chờ đợi những cái sa chân. Trên đầu, những búi dây leo quềnh quàng, búa xua xuống trước trán. Trong đấy, biết đâu chẳng có những con lục xà đang thả mình… Hơn ba giờ đi bộ, lõi của rừng đã ở lại phía sau. Những tán lá ken trên đầu bớt dày. Từ ống nhòm đêm, đập vào mắt là một thung lũng hẹp, tạo thành giữa ba khe núi, như cái miệng nơm úp. Mờ mờ hiện ra một con đường mòn hình con rắn, đang ngoằn ngoèo trườn đi giữa các khe núi. Phía sau đã là vành đai biên giới. Tin trinh sát báo về, độ quá nửa đêm sẽ có cuộc giao hàng lớn ở đây. Người cầm đèn pin đi đầu nói nhỏ: “Nghỉ tại chỗ mười phút, tranh thủ hội ý!”. Tốp người tản ra, vặn vẹo đỡ mỏi rồi vạch quần xả nước ồ ồ. Sảng khoái. Có tiếng hỏi nhỏ: - Thuốc lá đâu? Tao điếu, mày! Những đốm lửa lập tức được chuyền nhau, lập lòe đom đóm. - Muốn chết à? Tắt thuốc ngay, ngu thế! Ngồi cả xuống đi! - Tiếng quát khẽ nhưng đầy uy lực. Những điếu thuốc nhả vội khỏi mồm, rơi xuống đất. Bàn chân di di. - Lát nữa, chúng sẽ giao nhận hàng dưới thung lũng. Bây giờ thằng Linh phụ trách tổ 1 vận động ra phục hai bên cánh gà của khe núi kia. Tổ 2 thằng Tuấn chỉ huy. Tuấn “đen” đâu? Mày dẫn năm anh em lùi lại rừng ngay, ém sát đường mòn. Thấy chúng đi qua, cứ để yên cho qua. Khi ta gọi hàng, bọn nó sẽ chạy tán loạn. Nếu qua chỗ chúng mày thì xông ra mà bắt, đừng để sổng thằng nào. Tổ 3 triển khai đội hình bao vây toàn bộ khu vực giao hàng. Hai chục khẩu AK tập trung ở đây, tạo thế gọng kìm, đợi chúng “chập” với nhau sẽ phang. - Nếu nó “bật” lại thì ta được phép bắn hạ chứ? - Nghe này! Cả hai nhóm không dưới mười thằng đâu, đều có AK, lựu đạn, nên chúng mày phải hết sức cẩn thận. Mặc áo giáp vào! Tìm thân cây to mà nấp! Đầu tiên ta sẽ gọi hàng, nếu chúng bắn lại thì cứ hạ súng tầm thấp mà “tiu” què chân cho anh. Vạn bất đắc dĩ mới phải tiêu diệt, vì tao cần những cái lưỡi còn cử động để khai. Lưu ý lúc bắn tạo góc bốn mươi lăm độ, kẻo phang nhầm vào nhau. Quy ước là bắn điểm xạ ba viên một. Tao hô xung phong, chúng mày đồng loạt xông ra nhé. Chú ý vồ tay, đừng để chúng kịp rút chốt lựu đạn. Còn anh chưa lao ra, cấm thằng nào manh động rời khỏi chỗ nấp. Nghiêm cấm nổ súng khi tao chưa có lệnh! Có tiếng rì rầm bàn tán các tình huống có thể xảy ra lúc vào trận. - Đội trưởng Thắng ơi em ở tổ nào anh? - Có tiếng con gái cất lên. - Con Hoa, mày ở tổ anh, phụ trách liên lạc giữa các tổ bằng bộ đàm. Tý nữa mà có đàn bà thì mày khám! - Nhớ chọc rồi ngoáy cho kỹ em gái, nhỡ nó giấu hàng! - Ai đó chêm vào rồi cười khùng khục. - Vớ vẩn! Vào việc đi! Tiếng lên đạn loạch xoạch. Những bóng đen tản ra rất nhanh, trả lại cho rừng cái yên tĩnh vốn có. Chiều hôm trước. Toàn “khỉ đốm” ngả người lim dim trên ghế phụ chiếc Lexus 470. Xe đang lao vùn vụt trên đường, trực chỉ hướng biên giới, chợt điện thoại đổ chuông. Một số máy lạ hoắc gọi tới, có số đuôi 919. Gã ngạc nhiên, số này chỉ có ông Trùm biết. Nhầm máy chăng? Gã uể oải cầm máy lên nghe. Mất toi cơn ngủ, khí nóng nghe như đã bốc tới mặt. Giọng nói chuẩn bị sẵng. Bỗng, đầu dây kia có tiếng rất quen: - Nghe thôi, đừng hỏi! Sếp dặn mày cẩn thận. Bọn “cớm”1 đang làm mạnh. Lúc giao hàng đề phòng bọn A Tú chơi đểu. Có gì tao gọi lại. Máy tắt phụt, đột ngột như lúc gọi đến. Toàn ngả người ra sau ngẫm ngợi. Mấy đứa ngồi sau hỏi với lên: - Ai gọi đấy anh? - Câm đi! Đéo phải việc chúng mày! - Toàn sẵng giọng. Cuộc gọi bất ngờ khiến gã thấy bất an. Nỗi lo sợ không còn là điều gì mơ hồ nữa. Bởi gã đang ngồi trên chiếc xe chứa cả tạ “trắng”2, khác nào kẻ đang ôm bom. Gã biết đi chuyến này quá nguy hiểm. Đang cao điểm, Công an ra quân rầm rộ. Thằng nào ho he thò mặt ra hãy coi chừng. Mới rồi mấy đường dây lớn trong nước vừa bị hốt trọn, dắt díu nhau vào trại cả trăm thằng, chờ ngày ra tòa mà nhận án tử. Thành thử, hàng khan lắm, đội giá cao vọt. Khách đói hàng kêu như vạc, nhao nhao tìm nguồn cung. Bán ra lúc này một vốn trăm lời. Toàn vào nghề đã có “thâm niên”. Nghề này đã thò chân vào thì khó mà rút ra. Khó, vì chỉ có nó mới thỏa mãn cơn khát tiền trong mỗi con người. Mỗi bánh kiếm lãi cả trăm triệu. Ban đầu, nhiều đứa bước chân vào nghề có thể là do những khó khăn, quẫn bách trong cuộc sống. Nhưng vào cuộc rồi, thấy tiền thật dễ kiếm, thì việc kiếm tiền trở thành đam mê lúc nào chẳng hay. Tiền có sức mạnh vạn năng, mang những giấc mơ sang giàu về trên mặt đất. Khi đã phè phỡn vì nhiều tiền, bước vào đẳng cấp của những kẻ sống trên tiền, thì chẳng còn cái phanh nào tồn tại trong đời nữa. Có những thằng nhiều tiền quá chẳng biết làm gì, bèn chôn cả hầm tiền dưới đất. Đêm nào cũng lén xuống thơ thẩn chơi với tiền. Chơi say mê, chơi chân thành. Chúng nó bảo, âm thanh vĩ đại nhất trên cuộc đời này là tiếng sột soạt của tiền khi mang ra đếm. Nó ngân lên những giai điệu mà những kẻ không tiền không thể hiểu được. Một điều nữa khiến những kẻ đã “ngồi trên thuyền” không thể nhảy xuống, buộc phải đi đến cùng. Đó là vì luật chơi. Đợt trước, có thằng sợ chết gặp lão Trùm để thoái thác việc vận chuyển. Lão hỏi “sao lại thôi, thôi dễ thế á?” rồi đưa mắt cho mấy thằng hộ sát xúm vào tẩn cho nó một trận thừa sống thiếu chết, về sau Toàn không gặp lại thằng ấy nữa. Có lẽ xác nó đã dưới đáy sông hay mục ruỗng ở một xó xỉnh nào đó rồi. Và gã hiểu ra, đã cùng tổ chức, cùng đánh quả, ăn chia với nhau, biết hết chiêu thức và các mối làm ăn. Nay tự dưng bảo rút, rút là rút thế nào? Ai cho rút mà rút? Luật làm ăn, chỉ cần có ý định rút lui, là đã tự điền tên mình vào sổ khai tử. Bởi về nguyên tắc, không thể để thằng ất ơ nào đó nắm thông tin về mình mà lại không làm việc cho mình. Để nó sống, tức là thông tin có nguy cơ bị lộ lọt. Nên đã bỏ việc, thì phải cho nó im lặng vĩnh viễn. Lão Trùm chỉ cho lính tạm nghỉ ngơi, mỗi khi dính cao điểm bị “cớm” đánh mạnh. Nhưng khi yên ắng, phải trở lại với công việc. Đừng dại dột nghĩ đến chuyện “rửa tay gác kiếm”. Cuối cùng thì những thằng như gã đều có suy nghĩ giống nhau, đằng nào tay cũng đã “nhúng chàm”, buôn một bánh khác nào nghìn bánh. “Mẩu số chung” đều là tai chỉ kịp nghe một tiếng “bùm”, hay thấy nhói đau nơi bắp tay khi mũi tiêm thuốc độc chọc vào, rồi tất cả thành hư vô. Thành thử, kệ mẹ cho số phận đưa đẩy, dẫn dắt. Mời bạn đón đọc Bão Ngầm của tác giả Đào Trung Hiếu.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhà Băng
“NHÀ BĂNG” , nguyên tác tiếng Anh “The money changers”, người dịch Vũ Đình Phòng, Nhà Xuất bản Hà Nội, xuất bản năm 1996. Nếu anh giàu tức là anh nghèo Bởi anh sẽ giống như con lừa còng lưng Dưới những thỏi vàng đè nặng Anh phải vác tiền bạc của cải Nhưng chỉ trên một quãng đường Rồi cái chết sẽ giải tỏa cho anh khỏi nỗi nhọc nhằn đó. *** Nhiều người vẫn còn giữ lại ấn tượng lo âu, dai dẳng trong hai ngày hôm đó của tháng Mười. Hôm ấy là thứ Ba, Ben Rosselli, chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ, đồng thời là cháu nội của cố sáng lập viên nhà băng này đã công bố một tin ghê rợn. Tin này lập tức loan truyền khắp các phòng ban và ra cả bên ngoài. Hôm sau, thứ Tư, người ta phát hiện ra một vụ ăn cắp ngay tại chi nhánh chính của Ngân hàng đóng ngay ở trung tâm thành phố, sự kiện này mở đầu cho một loạt sự kiện nối tiếp nhau như phản ứng dây chuyền, đầy bất ngờ, dẫn đến một thảm họa tài chính, đến một bi kịch con người, đến một cái chết.   Khi Tổng giám đốc Ben Rosselli gọi điện cho một số các quan chức thân cận dưới quyền, chưa ai đoán được ông định nói điều gì. Một số nhận được lời triệu tập trong lúc họ ăn sáng ở nhà, số khác vào lúc họ bước vào phòng giấy. Dĩ nhiên đó là những quan chức cấp cao nhất nhà băng, nhưng Ben Rosselli còn triệu tập cả một số nhân viên kỳ cựu mà ông vẫn thường coi là bạn bè thân thiết. Tất cả đều nhận được câu triệu tập y hệt nhau: "Mời đến hội trường họp lớn trong Tòa nhà cao ốc vào mười một giờ sáng nay."   Đó là tên gọi trụ sở công khai của Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ. Đúng giờ quy định, khoảng hai chục người đã tề tựu trong phòng họp. Trong lúc chờ đợi, họ vẫn đứng bàn tán xôn xao, không ai quả quyết kéo ghế ra ngồi. Đột nhiên một tiếng nói to làm mọi người ngừng trò chuyện:   - Ai cho phép bác làm chuyện này? Các cặp mắt quay cả lại nhìn người vừa nói câu đó: Roscoe Heyward, Phó tổng giám đốc, đặc trách khu vực các tài khoản. Ông ta quát hỏi bác quản lý nhà ăn dành cho các quan chức cao cấp của nhà băng, lúc này đang rót rượu Xeres ra ly. Đây là thứ rượu quý đặc biệt của Tây Ban Nha. Là cấp lãnh đạo cao, Roscoe Heyward nổi tiếng là người nghiệt ngã trong công việc theo đúng các khuôn phép của nhà băng. ... *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Nhà Băng của tác giả Arthur Hailey.
Hồ Sơ Cuối
Bạn đã từng nghe đến một tổ chức tâm linh nhưng do nhà nước quản lý? Đã bao giờ nghe đến những vụ án bí ẩn chưa từng được công khai? Những vụ án đầy ly kỳ, những tên tọi phạm cực kỳ hung tàn và những góc khuất thối nát trong xã hồi sẽ được phơi bày qua cuốn tiểu thuyết này... Hãy thử trải nghiệm nỗi kinh hoàng tột cùng bị chôn giấu... *** 1000 năm trước, cái thời mà nhân giới vẫn còn cuồng tín thần linh, vẫn còn run sợ quỷ thần... Có một vị thần vì đi ngược tôn nghiêm của thiên giới nên bị trục xuất khỏi thiên cung, căm hận trước những gì mình phải trải qua, trước những bất công mình bị đày đọa nên vị thần này đã mở mang một thế giới mới... Thế giới của những á thần bị quên lãng và ruồng bỏ... Thế lực của y càng lớn thì sự hận thù trong y càng lúc càng tăng lên... Quyết tâm phải đánh sập thiên cung để trả thù nỗi nhục bị trục xuất năm xưa nên y đã liên minh với đại quỷ thần vương nước la sát đem quân thảm sát nhân giới làm bàn đạp đánh đế thích thiên... Nhưng cuối cùng chính y lại phản bội vua pandaka của la sát giới vào phút chót để đổi lấy một danh thần... Y chính là asura ( atula vương) Vị thần chiến tranh của thiên giới năm xưa... Bắt đầu kỷ nguyên của một huyền thoại bất diệt.... Các bạn có tin câu chuyện bên trên không?   Mời các bạn đón đọc Hồ Sơ Cuối của tác giả Nguyễn Điệp.
Cuộc Trốn Chạy Của Josef Mengele
Cái ác liệu có khi nào không phải đền tội? Mặc dù đã chạy trốn sang Mĩ Latinh, không có bản án của cộng đồng quốc tế, nhưng bác sĩ của trại Auschiwitz, Josef Mengele, vẫn phải chịu đựng những gì còn hơn một bản án: một cuộc đời trốn chui trốn lủi, cô đơn, tuyệt vọng trong cái cái nóng như thiêu đốt của miền nhiệt đới Nam Mĩ, trong nỗi lo sợ đến cùng cực. Những thứ còn tệ hơn cả cái chết. Ngòi bút tỉ mỉ của Guez đã miêu tả cả một khung cảnh thiên nhiên hoang dã ở phía Tây bán cầu và hành trình khổ nhục của Josef Mengele từ sau khi rời khỏi châu Âu đến ngày từ giã cõi đời. Giọng văn của ông khéo léo đến độ, nếu không biết đó là Mengele, hẳn khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã không khỏi xót thương cho số phận buồn bã cô đơn của một kiếp người ở xứ sở cách chúng ta nửa vòng trái đất. “Một thành công lớn trong việc mô tả một con quỷ lăn lộn trong cái tầm thường xoàng xĩnh sau cái thời là Thiên thần chết ở Auschwitz.”       - Jean-Christophe Buisson *** Trốn chạy có phải là cách để cái ác không phải đền tội. Thế nhưng, trốn chạy cả đời vẫn khó có thể thoát khỏi bán án của lương tâm mình… Cuốn sách kể lại câu chuyện về hành trình bỏ trốn tới Nam Mỹ của Josef Mengele – một bác sĩ thời Đức quốc xã. Bằng ngòi bút sắc bén của một nhà báo kết hợp cùng sự điêu luyện của một nhà văn, Olivier Guez đã lột tả hết sức chân thực cuộc đời của một kẻ trốn chạy cả đời cũng không thoát khỏi bản án của lương tâm mình. Để đến cuối cùng, cuốn tiểu thuyết để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc mãnh liệt hơn bao giờ hết về tội ác của Đức quốc xã cùng những nỗi đau âm ỉ dai dẳng khôn nguôi. Cái ác liệu có khi nào không phải đền tội? Mặc dù đã chạy trốn sang Mỹ Latinh, không phải chịu sự trừng phạt của cộng đồng quốc tế, nhưng bác sĩ của trại Auschwitz, Josef Mengele, vẫn phải chịu đựng những thứ còn hơn cả một bản án: một cuộc đời trốn chui trốn lủi, cô đơn, tuyệt vọng trong cái nóng như thiêu đốt của miền nhiệt đới Nam Mỹ, trong nỗi lo sợ đến cùng cực. Những thứ còn tệ hơn cả cái chết. Để hoàn thành tác phẩm Cuộc trốn chạy của Josef Mengele, Guez đã phải tìm tài liệu về bác sĩ quốc xã trong suốt ba năm. Trong suốt quá trình thai nghén cho cuốn sách, ông cũng tự mình đi tới Günzburg, Argentina và Brazil (đặc biệt là trang trại Santa Luzia ở ngoại ô Serra Negra), nghiên cứu rất nhiều tư liệu, gián tiếp tiếp cận các cuốn nhật ký của viên bác sĩ bỏ trốn để hiểu rõ cách nhìn thế giới của quốc xã. Về quá trình này, ông từng chia sẻ với tờ Le Monde: “Tôi đã sống cùng ông ta, với cái nhân vật đê tiện, tầm thường tột bực đó. Tôi đã bước lên sàn đấu. Tôi đối diện với ông ta. Sáu tháng đầu tiên, có lúc tôi đã kêu tên ông ta trong đêm.” Với ngòi bút tỉ mỉ của mình, Guez đã miêu tả cả một khung cảnh thiên nhiên hoang dã ở phía Tây bán cầu và hành trình khổ nhục của Josef Mengele từ sau khi rời khỏi châu Âu đến ngày từ giã cõi đời. Giọng văn của ông khéo léo đến độ, nếu không biết đó là Mengele, hẳn khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã không khỏi xót thương cho số phận buồn bã cô đơn của một kiếp người ở xứ sở cách chúng ta nửa vòng trái đất. Auschwitz là một trong những trại tập trung do Đức Quốc xã xây dựng ở Ba Lan để hành hạ và sát hại dã man người Do Thái trong Thế chiến 2. Rất ít người Do thái đến các trại tập trung này có cơ hội được trở về *** Olivier Guez là nhà báo, nhà văn người Pháp. Ông lớn lên ở Strasbourg, một thành phố gần Đức. Ngay từ khi còn nhỏ, bà ngoại ông đã cho ông đọc rất nhiều. Sau khi học tại Sciences-Po Strasbourg, London School of Economics và Collège e’Europe de Bruges, ông làm nhà báo tự do cho nhiều tờ báo quốc tế như New York Times, Le Monde, Frankfurter Allgemeine Zeitung, Le Figaro Magazine, L’Express, etc. Ông viết chung tác phẩm đầu tay La Grande Alliance với Frédéric Encel. ***   Lão gia “Hạnh phúc chỉ nằm ở những gì khuấy động, và chỉ có tội ác mới khuấy động được; đức hạnh... không bao giờ có thể dẫn tới hạnh phúc.” SADE Con tàu North King rẽ nước trên dòng sông đầy bùn. Trên boong tàu, hành khách chăm chú ngắm nhìn đường chân trời từ khi bình minh lên, và giờ đây, khi những cây cần cẩu ở công trường đóng tàu và vạch kẻ đỏ của khu nhà kho cảng hiện ra trong màn sương, đám khách người Đức cùng hát một khúc quân hành, người Italia làm dấu thánh giá, còn người Do Thái thì cầu nguyện dù trời đang có mưa bụi, các cặp đôi hôn nhau, con tàu cập bến Buenos Aires sau ba tuần lênh đênh trên biển. Một mình dựa vào thành tàu, Helmut Gregor suy tư. Hắn từng hy vọng rằng một chiếc tàu tuần tra của cảnh sát mật sẽ tới đưa hắn đi và giúp hắn tránh khỏi những phiền nhiễu của hải quan. Khi lên tàu ở Gênes, Gregor đã xin Kurt đặc ân này, hắn tự giới thiệu là một nhà khoa học, một chuyên gia tầm cỡ về di truyền học và đề xuất với Kurt hắn sẽ trả tiền (Gregor có rất nhiều tiền), nhưng kẻ tổ chức vượt biên cười và né tránh: quyền ngoại lệ này chỉ dành cho những nhân vật tai to mặt lớn, những quan chức của chế độ cũ, chứ không mấy khi dành cho một đại úy của SS*. Dù sao thì Kurt cũng sẽ đánh điện tới Buenos Aires, Gregor có thể trông cậy vào ông ta. Kurt đã bỏ túi một số bền, nhưng chiếc tàu tuần tra thì không hề xuất hiện. Gregor phải kiên nhẫn chờ đợi trong sảnh đường rộng mênh mông của hải quan Argentina cùng với những người di cư khác. Hắn giữ chặt hai chiếc va li, một to một nhỏ, và khinh khỉnh nhìn đám dân châu Âu lưu vong đứng quanh đó, những hàng dài người vô danh lịch lãm hay nhếch nhác mà hắn luôn tránh xa trong suốt hành trình. Gregor thà ngắm nhìn đại dương và các vì sao hoặc đọc thơ Đức trong cabin của mình còn hơn; hắn đã nhìn lại bốn năm vừa qua trong đời mình, từ khi hắn chạy khỏi Ba Lan một cách thảm hại vào tháng Một 1945 và trà trộn vào lực lượng Vệ quốc Đức Quốc xã để thoát khỏi nanh vuốt của Hồng quân: hắn bị giam vài tuần trong một trại tù của Mỹ, sau đó được thả vì hắn có giấy tờ giả mang tên Fritz Ullmann, rồi hắn ẩn náu trong một nông trang đầy hoa ở Bavière, cách thành phố Gunzburg quê hương hắn không xa, ở đây hắn làm công việc cắt cỏ cho gia súc và phân loại khoai tây trong ba năm với cái tên Fritz Hollmann, rồi sau đó hắn chạy trốn tới Pâques cách đây hai tháng, vượt qua dãy núi Dolomites bằng đường mòn trong rừng của những kẻ buôn lậu, rồi đến vùng Nam Tyrol ở Italia, ở đây hắn đổi tên thành Helmut Gregor, cuối cùng hắn tới Genova, nơi tên buôn lậu Kurt đã giúp hắn làm các thủ tục với chính quyền Italia và cơ quan nhập cảnh Argentina. Tại hải quan, kẻ đào tẩu xuất trình giấy thông hành của Hội Chữ thập đỏ quốc tế, giấy phép lên bờ và visa nhập cảnh: Helmut Gregor, cao 1,74 mét, mắt nâu xanh lá cây, sinh ngày 6 tháng Tám 1911 tại Termeno, tiếng Đức là Tramin, tỉnh Nam Tyrol, công dân Đức quốc tịch Italia, theo Thiên Chúa giáo, nghề nghiệp kỹ sư cơ khí. Địa chỉ tại Buenos Aires: 2460 phố Arenales, khu phố Florida, nhà của Gerard Malbranc. Nhân viên hải quan kiểm tra hành lý của hắn, quần áo gấp cẩn thận, tấm ảnh chân dung một phụ nữ tóc vàng mảnh dẻ, vài cuốn sách và một số đĩa hát opera, rồi anh ta cau mày khi thấy các món đồ trong chiếc va li nhỏ: ống tiêm hạ bì, vài cuốn sổ ghi chép và bản đồ giải phẫu, các tiêu bản máu, tiêu bản tế bào: không liên quan gì tới một kỹ sư cơ khí. Anh ta bèn gọi nhân viên y tế của cảng tới. Gregor run rẩy. Hắn đã mạo hiểm một cách điên rồ để giữ chiếc va li nhỏ gây liên lụy, kết quả quý giá của biết bao năm trời nghiên cứu, của cả đời hắn, mà hắn đã mang lên tàu khi vội vã rời khỏi nơi làm việc ở Ba Lan. Nếu bị quân Xô viết bắt được khi đang giữ cái va li đó, hắn sẽ bị xử tử ngay lập tức mà chẳng cần xét xử gì. Trên đường trở lại Tây Âu mùa xuân 1945, khi quân đội Đức Quốc xã rút chạy tán loạn, hắn đã gửi va li cho một nữ y tá có lòng trắc ẩn, rồi sau đó tìm lại cô ở Đông Đức, trong vùng Liên Xô kiểm soát, một chuyến đi điên rồ sau khi hắn được thả khỏi trại giam Mỹ và ba tuần đi đường. Sau đó, hắn đưa va li cho Hans Sedlmeier, một người bạn từ thuở nhỏ và là người được cha hắn, một nhà công nghiệp, hết mực tin cậy, Sedlmeier mà hắn thường xuyên gặp gỡ trong khu rừng xung quanh nông trang nơi hắn ẩn náu suốt ba năm. Gregor không thể rời khỏi châu Âu mà không đem theo chiếc va li này: Sedlmeier đã trả lại va li cho hắn trước khi hắn đi Italia cùng với một chiếc phong bì dày đầy tiền mặt, và giờ đây một gã ngớ ngẩn móng tay bẩn thỉu đang bới tung mọi thứ, Gregor thầm nghĩ, còn nhân viên y tế của cảng thì xem xét các tiêu bản và những ghi chép viết bằng kiểu chữ gothic sin sít. Vì không hiểu gì cả, nên nhân viên hải quan hỏi hắn bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Đức, tay kỹ sư cơ khí giải thích với ông ta về thiên hướng trở thành nhà sinh vật nghiệp dư của mình. Hai người đàn ông khinh bỉ nhìn nhau, còn nhân viên y tế đang muốn đi ăn trưa nên ra hiệu cho nhân viên hải quan cho hắn qua. Ngày 22 tháng Sáu 1949 ấy, Helmut Gregor đặt chân tới nơi ẩn náu mới: Argentina. Mời bạn đón đọc Cuộc Trốn Chạy Của Josef Mengele của tác giả Olivier Guez & Hoàng Mai Anh (dịch).