Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cảm Giác Hygge - Về Ánh Sáng, Sự Ấm Áp Và Những Điều Bí Mật

Hooga? Hhyooguh? Heurgh? Dù bạn chọn phát âm (hay thậm chí đánh vần) từ hygge theo cách nào thì cũng không quan trọng. Giống như Winnie-the-Pooh từng nói về hạnh phúc: “Cậu không đánh vần được nó. Cậu cảm nhận nó.” Không ngẫu nhiên mà Cảm giác HYGGE trở thành hiện tượng xuất bản trên thế giới và liên tục là best seller. Bởi Meik Wiking đã cho thấy, hygge không phải thứ “nguyên liệu” bí mật chỉ người Đan Mạch mới có. Bạn hoàn toàn có thể tìm thấy hygge để cho vào công thức hạnh phúc của chính mình. Hành trình tìm kiếm hygge chính là hành trình khám phá ánh sáng, sự ấm áp, và kết nối. Cốt lõi của hygge không phụ thuộc vào vật chất, mà là không khí và trải nghiệm. Đó là cảm giác được ở cạnh những người ta yêu mến. Cảm giác được trở về nhà. Cảm giác thoải mái và an toàn ở chốn thân thuộc, pha một cốc cà phê ấm nóng, nằm cuộn tròn trong chăn.Vậy nên, (có thể) bạn không đánh vần được hygge. Nhưng bạn hoàn toàn cảm nhận được nó. *** [Review Sách] “Cảm Giác Hygge”: Cẩm Nang Hạnh Phúc và Những Điều Bí Mật Khác Cảm giác Hygge của Meik Wiking đã phác họa cho chúng ta hạnh phúc là gì và những điều bí mật khác của quốc gia hạnh phúc nhất thế giới -Đan Mạch. Không ngẫu nhiên mà Cảm giác Hygge trở thành một hiện tượng xuất bản trên thế giới, tác giả cho thấy rằng hygge không phải là điều người Đan Mạch mới có. Bạn cũng có thể tìm thấy hygge để cho vào công thức hạnh phúc của chính mình. *Về tác giả Meik Wiking là CEO của Viện Nghiên Cứu Hạnh Phúc (Happiness Research Institute), một tổ chức độc lập  chú trọng vào sức khỏe, hạnh phúc và chất lượng cuộc sống của con người. Ngoài việc nghiên cứu về khoa học chính trị, ông còn viết lách, thích chụp ảnh và chơi thể thao. /HYGGE BẮT NGUỒN TỪ ĐÂU?/ Hygge xuất hiện đầu tiên trong chữ viết Đan Mạch vào đầu thế kỷ 19, nhưng thực chất nó bắt nguồn từ tiếng Na Uy. Hygge chúng ta có thể phát âm là /hooga/, không phải là /hy-gee/ nhé. Từ gốc hygge trong tiếng Na Uy có nghĩa là hạnh phúc. Tuy nhiên, theo nghĩa gần nhất thì hygge có nghĩa là hug (ôm). Theo một vài nghiên cứu, thì hygge lại bắt nguồn từ hygga (tiếng Bắc Âu cổ), từ này lại bắt nguồn từ hugr (tâm trạng). Hugr lại xuất phát từ một tiếng Đức có nghĩa là “suy nghĩ, cân nhắc”. Thú vị thay, những yếu tố “ tâm trạng”, “ôm”, “hạnh phúc” là những từ dùng để mô tả những yếu tố hygge như ngày nay. Hygge được hiểu là sự ấm áp, hạnh phúc và gần gũi đối với điều bình dị nhất trong cuộc sống. Một buổi tối cùng quây quần bên bếp lửa cùng với gia đình và những người ta yêu thương đã là hygge rồi. /CHÚNG TA BÀN GÌ VỀ HYGGE?/ Với phong cách sống của Đan Mạch, yếu tố ấm áp là điều không thể thiếu trong bất cứ gia đình nào. Sau đây chúng ta  sẽ cùng lướt qua một số yếu tố đặc trưng chỉ có Đan Mạch mới có thôi nhé. 1/ÁNH SÁNG Vì là một quốc gia có mùa đông kéo dài, bầu trời lúc nào cũng chìm trong bóng tối thì việc tối đa việc hấp thụ ánh sáng vào nhà là một điều vô cùng quan trọng. Ánh sáng ở đây có thể được hiểu là ánh sáng dịu nhẹ và ấm áp như ánh sáng của hoàng hôn. Đan Mạch là quốc gia sử dụng nến nhiều nhất trên thế giới. Vì yêu thích sự ấm áp nên họ thường dùng nến trong tất cả những ngày trong tuần, một ngọn nến nhỏ trên bàn ăn vào buổi tối cũng đủ làm bừng sáng cả không gian ngôi nhà. Điều đặc biệt là vào tháng 12 (Giáng sinh), đây là thời điểm nến được tiêu thụ gấp ba lần bình thường. Nến sử dụng cho thời gian này được gọi là nến Mùa Vọng. Loại nến này thường được đánh dấu bằng 24 dòng kẻ, mỗi dòng tượng trưng cho một ngày trước Giáng sinh. *Mùa Vọng: là khoảng thời gian 4 tuần trước ngày Giáng sinh, thường kéo dài từ 22-28 ngày, và có 4 ngày Chủ Nhật tính từ trước ngày lễ Giáng sinh. 2/ĐỒ ĂN VÀ THỨC UỐNG Phong cách Hygge khi bàn đến đồ ăn và thức uống thì đồ ngọt, cà phê và thịt là ba món thực phẩm không thể thiếu ở đất nước hạnh phúc nhất thế giới này. Đan Mạch nổi tiếng nhất thế giới về lượng tiêu thụ đồ ngọt, chỉ đứng sau Phần Lan. Trung bình một người Đan Mạch tiêu thụ 8.2kg đồ ngọt mỗi năm. Đồ ngọt ở đây có thể được hiểu là bánh kẹo, bánh ngọt, hay “người bánh” (món đặc sản của họ dành cho việc tổ chức sinh nhật cho trẻ con). Ngoài ra, người Đan Mạch còn yêu thích các loại đồ uống nóng như: trà, sô cô la nóng hay rượu vang nóng. Tuy nhiên, thức uống yêu thích nhất của họ là cà phê. Trong tiếng Đan Mạch, họ gọi là kaffehygge ( vừa cà phê vừa hygge) ở khắp nơi với bạn bè hay người thân của họ. 3/TRANG PHỤC Hygge trong cách ăn vận của người Đan Mạch cũng rất đơn giản, thanh lịch và tinh tế. Có một điều đặc biệt là người Đan Mạch thường rất thích mặc đồ màu đen, mang khăn choàng và mặc áo nhiều lớp (hay còn gọi là layer). Vì đặc tính thời tiết lạnh giá, chính vì vậy sẽ không hygge chút nào nếu không có một chiếc áo len hay một đôi tất dày để sưởi ấm cơ thể trong những ngày đông giá rét. 4/TƯƠNG TÁC XÃ HỘI Các mối quan hệ xã hội với bạn bè hay những người xung quanh cũng chú trọng yếu tố hygge này. Họ đề cao sự tôn trọng và sự gần gũi bên nhau, chia sẻ những câu chuyện ý nghĩa cùng nhau. Tuy nhiên, có một thách thức đối với những người mới chuyển sang sinh sống tại Đan Mạch thì rất khó cho họ để kết thân với một người bản xứ nào đó. Vòng tròn quan hệ của người Đan Mạch thường rất bền chặt, vì vậy sẽ rất khó để họ có thể mời ai đó vào cộng đồng của mình. Điều này cần thời gian, nhưng nếu bạn đã là bạn của họ, thì mối quan hệ ấy sẽ rất lâu bền đấy. Vậy tại sao hygge lại khiến cho người dân nơi đây lại cảm thấy hạnh phúc như thế? /NGHIỆN HYGGE/ Khi nhắc đến hygge, chúng ta sẽ nghĩ đến cảm giác hạnh phúc và ấm áp. Bạn không thể mua được hạnh phúc, nhưng bạn có thể mua bánh ngọt- và hai điều này gần như giống hệt nhau, ít nhất đó là những gì não bộ nghĩ. Như đã thảo luận trước đó, người Đan Mạch rất ưa chuộng đồ ngọt, đặc biệt là bánh ngọt. Khi bạn chọn một miếng bánh yêu thích, cảm giác hưng phấn sẽ lan tỏa khắp cơ thể bạn. Đã bao giờ bạn nghĩ vì sao bạn lại cảm thấy vui vẻ như vậy khi ăn đồ ngọt chưa? Ở cơ sở não trước có một vùng gọi là trung tâm tận hưởng (cucleus accumbens). Đây là một phần của hệ thống khen thưởng của não bộ, và có vai trò quan trọng trong việc tạo động lực, cảm giác thỏa mãn và sự tăng cường. Khi làm những việc có tính chất khen thưởng, não bộ giải phóng một chất hóa học và chất tín hiệu dopamine (hóc môn hạnh phúc) được kích hoạt.  Gần vị trí của vùng trung tâm tận hưởng là khu vực các tế bào thần kinh, nơi các hóc môn dopamine được giải phóng trong những tình huống khen thưởng. Khi dopamine được vận chuyển từ sợi thần kinh đến những cơ quan cảm giác ở một số phần khác nhau của bộ não, ta trải nghiệm cảm giác sung sướng và thỏa mãn. Các hoạt động tình dục, hay ăn uống đều có tác động đến hệ thống khen thưởng này. Chính vì vậy, chúng ta liên kết một loại thực phẩm nào đó với cảm giác thỏa mãn, điều này khiến chúng ta ăn nhiều hơn. Do đó, khi nhắc đến hygge, việc bạn cảm thấy vui sướng và hạnh phúc khi ăn một miếng bánh ngọt là một cảm giác bình thường và dễ hiểu. /TẠI SAO ĐAN MẠCH LÀ QUỐC GIA HẠNH PHÚC NHẤT THẾ GIỚI/ Có nhiều yếu tố để xem xét, tuy nhiên chúng ta sẽ cùng nhau một vài yếu tố nổi bật. 1/XE ĐẠP VÀ HẠNH PHÚC/ Đan Mạch là một quốc gia có sự đầu tư mạnh mẽ về cơ sở hạ tầng cho người đi xe đạp. Tại thủ đô Copenhagen, 45% cư dân, học sinh hay người đi làm đều đạp xe đến chỗ làm và trường học. Không chỉ thuận tiện, đạp xe đạp còn là một hoạt động mang tính thân thiện với môi trường và cũng là một cách dễ dàng để vận động cơ thể hằng ngày. Theo nghiên cứu, những người đạp xe đạp sẽ hạnh phúc hơn những người đi xe ô tô. Đạp xe không những giúp ích cho cá nhân, cho sức khỏe và hạnh phúc của mỗi người, nó còn là một chỉ số để đánh giá mức độ ý thức cộng đồng. Ở Đan Mạch, đạp xe sẽ giúp cho họ kết nối nhiều với mọi người hơn, mở rộng mối quan hệ và tin tưởng người khác nhiều hơn, vì đạp xe cùng một ai đó xa lạ cũng thú vị mà. 2/CÁC MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI/ Nói đến hạnh phúc thì ngoại trừ GDP, sự tự do và chính sách quản lý của nhà nước ra thì các mối quan hệ xã hội đóng vai trò quan trọng, góp phần tạo nên chỉ số hạnh phúc cao ở Đan Mạch. Điều này được hiểu đơn giản là: Liệu một người có thể trông chờ hay tìm kiếm sự sẻ chia khi họ cần hay không? Đây không phải là cách tốt nhất để đánh giá hệ thống hỗ trợ xã hội, tuy nhiên đây là số liệu chúng ta có thể thấy rõ ở tất cả những quốc gia được nhắc đến trong Báo Cáo Hạnh Phúc Thế Giới. Người Đan Mạch luôn chú trọng sự cân bằng trong công việc và cuộc sống của họ. Sau những bộn bề trong công việc, gia đình và những mối quan hệ bạn bè thân thuộc sẽ được họ ưu tiên hàng đầu. Họ không dành quá nhiều thời gian cho công việc mà bỏ quên những quan trọng trước mắt. Các mối quan hệ xã hội và chỉ số hạnh phúc có sự liên quan mạnh mẽ lẫn nhau. Khi chúng ta có cảm giác thuộc về ai đó hoặc là cảm giác được chia sẻ và trân trọng thì hạnh phúc sẽ luôn nằm trong tay bạn. Điều này được kiểm chứng trong mô hình biểu đồ kim tự tháp thể hiện nhu cầu của con người do nhà tâm lý học người Mỹ gốc Nga Abraham Maslow  phát triển. Nếu các nhu cầu mang tính sinh lý: thực phẩm, giấc ngủ, và cảm giác được che chở không được đáp ứng, chúng ta sẽ khó đạt được hạnh phúc. 3/TẬN HƯỞNG HIỆN TẠI & LÒNG BIẾT ƠN/ Cảm giác hygge là việc bạn tận hưởng những khoảnh khắc bình dị đời thường mỗi ngày. Sống cho hiện tại là cách người Đan Mạch vẫn luôn theo đuổi, họ tận hưởng những giây phút ý nghĩa bên gia đình, người thân của mình. Yếu tố quyết định mỗi ngày của họ đều là một ngày ý nghĩa đó là cảm xúc trong ngày. Việc bạn có cảm xúc tích cực hay tiêu cực về một ngày của mình sẽ quyết định bạn hạnh phúc như thế nào. Với một tâm trạng vui vẻ và thoải mái, thì không ngạc nhiên khi chúng ta thấy được đây là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới. Ngoài ra, người Đan Mạch còn có thói quen ghi “nhật ký biết ơn” trong ngày. Hay nói cách khác, họ ghi chép lại những việc họ cảm thấy ý nghĩa và biết ơn hằng ngày. Chính từ lòng biết ơn này, họ trân trọng những gì mình có, sống hết mình và tận hưởng những niềm vui nhỏ bé và giản dị. Theo Robert A. Emmons, giáo sư ngành Tâm lý học của Đại học California cho rằng, những người cảm thấy biết ơn thường không chỉ hạnh phúc hơn mà còn có ích hơn, vị tha hơn và ít thực dụng hơn. Họ dễ dàng vượt qua những nghịch cảnh và hồi phục nhanh hơn sau tổn thương. /”BỘ SƠ CỨU” HYGGE/ Khi nhắc đến cảm giác hạnh phúc và ấm áp, danh sách dưới đây sẽ mang đến cho bạn một chút cảm hứng. “Bộ sơ cứu” này sẽ được sử dụng khi bạn cạn kiệt năng lượng và không muốn ra ngoài. Hay nói cách khác, bạn chỉ muốn ở một mình và tận hưởng trong không gian cá nhân của mình. Nến Một ít sôcôla hảo hạng Mứt Trà yêu thích Cuốn sách yêu thích Sổ tay Một tấm chăn ấm áp Một đôi tất len dễ chịu Bộ sưu tập những bức thư yêu thích Âm nhạc Khăn choàng Với những vật dụng như trên, bạn cũng có thể tạo cho một mình một không gian hyggelige (cảm giác hygge) hơn bao giờ hết. Còn gì tuyệt vời hơn khi nhâm nhi tách trà yêu thích trên chiếc ghế sofa, nghe những bản nhạc du dương và ngắm nhìn ra cửa sổ trong một buổi chiều mưa? /HYGGE WISHLIST:10 ĐIỀU KHIẾN CHO NGÔI NHÀ CỦA BẠN HYGGELIG HƠN/- THEO PHONG CÁCH ĐAN MẠCH 1/HYGGEKROG Hyggekrog có thể tạm dịch là “góc ẩn náu”. Đây là một góc trong phòng, nơi bạn thích được chui vào chăn cùng một cuốn sách, và một tách trà. Thường thì phong cách thiết kế của người Đan Mạch rất chú trọng vào nội thất sao cho ngôi nhà mang lại cảm giác hygge nhất có thể. Chốn hyggrekrog thường là sẽ ở cạnh cửa sổ, tuy nhiên không nhất thiết là phải như vậy. Hyggekrog có thể là một nơi có ánh sáng ấm áp, dịu nhẹ, cùng với chăn và gối, nơi bạn có thể thưởng thức trà và đọc một quyển sách yêu thích đã là quá hygge rồi. 2/ LÒ SƯỞI Lò sưởi là trái tim của hygge. Đây là nơi mọi người có thể ngồi cùng nhau thư giãn, tận hưởng những khoảnh khắc cùng gia đình và người thân. Chính cảm giác này lại mang đến sự ấm áp và cảm giác gần gũi cho tất cả mọi người. 3/ NẾN Như chúng ta đã biết, nếu không có nến thì sẽ không có hygge. 4/ NHỮNG THỨ LÀM TỪ GỖ Những nguyên liệu được làm từ gỗ luôn luôn mang lại cho người Đan Mạch một cảm giác đặc biệt. Gỗ khiến ta gần gũi hơn với thiên nhiên hơn. Các vật dụng làm bằng gỗ phổ biến như đồ chơi trẻ em bằng gỗ, một chiếc tủ gỗ, hay mặt sàn gỗ cũng đủ khiến cho chúng ta hygge rồi. 5/ THIÊN NHIÊN Ngoài gỗ ra, thiên nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc tạo cảm giác hygge. Điều này hoàn toàn đúng khi nói đến những thiết kế nội thất, trang trí nhà cửa bằng những chậu cây xanh, một nhánh cây khô, lá cây, thậm chí là hạt cũng được người Đan Mạch mang vào nhà để làm vật trang trí. 6/ CHĂN & GỐI Chăn và gối là hai thứ nhất-thiết-phải-có trong bất cứ gia đình hygge nào, đặc biệt là trong những ngày đông lạnh giá. Cảm giác trùm lên một chiếc khăn thật là hyggelige đúng không nào? Vì văn hóa Bắc Âu yêu thích sự ấm áp và gần gũi, chính vì vậy có một vài chiếc gối trong nhà luôn là một ưu tiên hàng đầu. Còn gì tuyệt vời hơn việc dựa đầu lên một chiếc gối êm ái khi đọc cuốn sách yêu thích kia chứ?  7/ SÁCH Sách đóng vai trò quan trọng trong việc tạo cảm giác bình yên và ấm áp trong bất cứ gia đình hygge nào. Vào những ngày cuối tuần, người Đan Mạch thường dành thời gian gia đình và bản thân. Ngồi nhâm nhi tách trà và đọc một quyển sách hay thì còn gì tuyệt vời bằng. 8/ ĐỒ GỐM Một tách trà xinh xắn, một lọ hoa đơn giản trên bàn ăn, chiếc cốc yêu thích mà bạn hay dùng- tất cả đều hyggelig. 9/ ĐỒ VINTAGE Văn hóa Bắc Âu luôn nâng niu và giữ gìn những món đồ truyền thống. Họ yêu thích những món đồ cổ hay đồ vintage. Những đồ vật không đơn thuần là những vật dụng vô tri vô giác, mà chúng chứa đựng giá trị cảm xúc và câu chuyện riêng của mình. Chỉ cần chúng lưu giữ kỷ niệm và là những vật dụng truyền thống cũng đủ mang lại cảm giác ấm áp rồi. 10/ CẢM NHẬN BẰNG XÚC GIÁC Khi nói đến những cảm nhận bằng xúc giác thì chúng ta đang ám chỉ không chỉ là vẻ bề ngoài, mà còn là cảm giác với đồ vật nữa.  Để những ngón tay lướt qua những bộ lông cừu, hoặc một chiếc bàn gỗ lúc nào cũng có sự khác biệt so với những bề mặt thủy tinh hay nhựa. Vì vậy, hãy thử cảm nhận những cái chạm trong ngôi nhà của chính mình nhé. Lời kết Hành trình tìm kiếm hygge là hành trình khám phá ánh sáng, sự ấm áp và sự kết nối. Nó không phụ thuộc vào vật chất, mà liên quan đến không khí và trải nghiệm. Đó là cảm giác bên cạnh những người ta yêu mến, cảm giác an toàn và thân thuộc khi ở một nơi thân thuộc. Tuy bạn không thể đánh vần được hygge, nhưng bạn có thể cảm nhận nó. Hãy tự tạo cho mình cảm giác hygge trong bất kì hoàn cảnh nào nhé. Review chi tiết bởi: Tuyết Sơn- Bookademy Hình ảnh: Tuyết Sơn ----------------------------   Mời các bạn đón đọc Cảm Giác Hygge - Về Ánh Sáng, Sự Ấm Áp Và Những Điều Bí Mật của tác giả Meik Wiking & Thùy Chi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Hannibal Và Những Ngày Run Rẩy Bắt Đầu
Được xem là một trong những sự kiện văn chương được chờ đợi nhất, Hannibal và những ngày run rẩy bắt đầu mang người đọc vào cung điện ký ức của một kẻ ăn thịt người, tạo dựng nên một bức chân dung ớn lạnh của tội ác đang âm thầm sinh sôi – một thành công của thể loại kinh dị tâm lý. Với Mason Verger, nạn nhân đã bịHannibal biến thành kẻ người không ra người,Hannibal là mối hận thù nhức nhối da thịt. Với đặc vụ Clarice Starling của FBI, người từng thẩm vấnHannibal trong trại tâm thần, giọng kim ken két của hắn vẫn vang vọng trong giấc mơ cô. Với cảnh sát Rinaldo Pazzi đang thất thế, Lecter hứa hẹn mang tới một khoản tiền béo bở để đổi vận. Và những cuộc săn lùng Hannibal Lecter bắt đầu, kéo theo đó là những chuỗi ngày run rẩy hòng chấm dứt bảy năm tự do của hắn. Nhưng trong ba kẻ đi săn, chỉ một kẻ có bản lĩnh sống trụ lại để hưởng thành quả của mình. Nhận định “Độc giả đang mong ngóng Hannibal và những ngày run rẩy bắt đầu vì tò mò không biết nó có tuyệt như Red Dragon (Rồng đỏ) và  The Silence of the Lambs (Sự im lặng của bầy cừu) không… Thật may mắn khi có thể trả lời bằng một câu phủ định. Không. Không tuyệt như thế. Mà tuyệt hơn.” - Stephen King, New York Times Book Review   “Phải chăng cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất năm nay là cuốn này?.. một kiệt tác… hấp dẫn đến lạnh người… Hannibal và những ngày run rẩy bắt đầu cuốn hút từ phần mở đầu chân thực tuyệt vời đến cái kết đáng sợ và dị thường một cách thú vị… Mỗi dòng trong sách đều ngập không khí của cuộc chiến đấu với cái ác ở bản thể đen tối nhất của nó… Tôi chuẩn bị đặt cược rằng năm nay độc giả Observer sẽ không tìm được cuốn nào lôi cuốn hơn.” - Robert McCrum, Observer     “[Thomas Harris là] Edgar Allan Poe thời nay.”   - Evening Standard Mời các bạn đón đọc Hannibal - Kẻ Ăn Thịt Người của tác giả Thomas Harris & Thu Lê (dịch).
Lược Sử Tương Lai
Homo sapiens có phải là một dạng sống siêu đẳng, hay chỉ là một tay đầu gấu địa phương? Làm thế nào con người lại tin rằng họ không chỉ đã kiểm soát thế giới, mà còn mang lại ý nghĩa cho nó? Công nghệ sinh học và trí thông minh nhân tạo đe doạ loài người ra sao? Sinh vật nào có thể kế thừa loài người, và tôn giáo mới nào sẽ được sản sinh? Với giọng kể cuốn hút và mới lạ, Harari sẽ dần gợi mở và trả lời những câu hỏi trê, nhờ phân tích chi tiết những luận điểm gây nhiều tranh cãi: chủ nghĩa nhân đạo là một dạng tôn giáo, thứ tôn giáo tôn thờ con người thay vì thần thánh; sinh vật là thuật toán… ông vẽ ra một viễn cảnh tương lai khi Sapiens thất thế và Dữ liệu giáo trở thành một hình mẫu. HOMO DEUS còn bàn sâu hơn về các năng lực mà con người đã tự trang bị để sinh tồn và tiến hoá thành một giống loài ngự trị trên trái đất, để rồi chính trong tiến trình hoàn thiện và nâng cấp các năng lực ấy chúng ta sẽ bị truất quyền kiểm soát bởi một sinh vật mới, mang tên Homo Deus.   Mời các bạn đón đọc Lược Sử Tương Lai của tác giả Yuval Noah Harari & Dương Ngọc Trà (dịch) & Lê Dọn Bạn (dịch).
Một Q Tám Tư
Nó là một mớ bùi nhùi, một chiếc khăn len được đan hai đầu, rồi vứt xó, rồi lại tiếp tục đan nhưng không hề có một chút hình thù gì của chiếc khăn len. Nhưng đến cuối cùng nó vẫn là một chiếc khăn len đặc biệt. 1Q84 – Q tức là Question, đúng vậy, question với cả những nhân vật trong truyện lẫn người đọc cho đến phút cuối cùng. Câu chuyện kể về 2 nhân vật, 2 môi trường sống, 2 lối sống hoàn toàn khác nhau nếu không muốn nói là trái ngược. Tôi chần chừ do dự đọc quyển sách này đã bao lâu, có lần mở ra đọc vài trang lại gấp vào và vứt xó. Rồi một ngày ngẫu nhiên tôi đột nhiên rút nó ra khỏi kệ sách và đọc ngấu nghiến. Cuốn đầu tiên, khi chưa nhập vào mạch truyện tôi đã phải nhai nó cả tuần liền. Tôi tự nhủ, “Ừ thì đoạn của Aomame cũng hấp dẫn đấy, nhưng rồi sau đó đoạn của Tengo cũng hấp dẫn không kém. Cuốn thứ 2 trong vòng 5 ngày và cuốn thứ 3 thì tôi như bị rơi vào một vòng xoáy. Chỉ trong vòng 2 ngày, tôi nghỉ làm 2 ngày là ngốn cái cuốn sách bìa màu tím ấy từ sáng đến tối, cả trong mơ tôi cũng mơ thấy Nhộng không khí, Fukaeri, và cái hình ảnh xám xịt mà Murakami phác hoạ nên. Thế giới song song? Khái niệm chắc hẳn tôi chưa bao giờ tưởng tượng đến. Nhưng khi đọc 1Q84 tôi như bị hút trọn vào thế giới ấy. Những tình tiết ly kì, không hẳn là trinh thám hay ma quỷ, nhưng nó cứ gợi lên cho tôi một nỗi sợ tiềm tàng. Sự huyền bí của Người Tí Hon, họ là những kẻ man rợ hay thế nào? Nó giống như nỗi sợ những con búp bê mỗi đêm tỉnh dậy của các bé gái phải không? Tuy vậy, trong câu chuyện vẫn còn nhiều lỗ hổng bởi vì có quá nhiều tình tiết xảy ra. Tôi rất hụt hẫng với đoạn kết, Tengo và Aomame đã gặp nhau nhưng sao vẫn thấy nó chưa phải một cái kết hoàn hảo tôi mong chờ? Hay bởi vì nó còn quá nhiều câu hỏi? Những con người ở thế giới có hai mặt trăng rồi sẽ ra sao? Fukaeri? Cô gái ấy là Mẫu thể hay Tử thể? Bà già trong biệt thự Cây liễu và Tamaru? Và cả những Người Tí Hon chui ra từ cái xác của Ushikawa? Tại sao phải giao hợp? Rất nhiều câu hỏi không được giải đáp đến nỗi tôi phải lên google để tìm xem có còn một bản kết nào khác nữa không. Và sự thất vọng lớn nữa là đoạn kết chỉ toàn những lời tự nhủ trong lòng của Aomame mà chẳng hề nhắc đến cảm xúc của Tengo là mấy. Kiểu như mình rất bất mãn với việc 2 người này gặp nhau là có cái kết như thế. Bởi vì trước đó mình đã quá mong chờ họ gặp nhau rồi sẽ thế nào, và nghĩ ra đủ mọi tình huống giả tưởng. Murakami rất tài giỏi trong cách dùng ngôn ngữ và lối kể chuyện cuốn hút nhưng về logic thì không có một chút logic nào cả. Có lẽ đó cũng là cái chính tạo nên sự huyền bí trong những cuốn sách của ông. Đến giờ tôi vẫn mù mờ về sự tồn tại của Người Tí Hon để làm gì? Nó có đại diện hay là sự ẩn dụ về Thiện – Ác trong mỗi con người hay không? Và tình yêu của Aomame và Tengo có thật sự như họ nghĩ? Bởi nếu ngoài đời thực sẽ chẳng ai có thể yêu lại một người đã quá khác xa người ấy của 20 năm trước. Lúc đầu có thể sẽ rất yêu nhưng rồi sau này họ có nhận ra mọi sự tưởng tượng của mình về đối phương đều không phải sự thực? Nếu vậy, tình yêu trong câu chuyện này có còn ý nghĩa gì nữa không? Tôi không biết, nhưng sau tất cả tôi vẫn nghĩ đây là một cuốn sách hay. Nó không hay ở phần kết, không hay nếu ta lôi nó ra thành những triết lý hay chủ đề cố định. Nó chỉ hay khi ta bước vào dòng chảy câu chuyện mà không phán xét đúng sai. Cũng giống như đời người, ông A, B, C nào đấy vừa chết hôm nọ, ừ thì cũng chia buồn đấy rồi thôi. Nhưng nếu ta trải qua từng giây phút cuộc đời họ chắc chắn nó cũng sống động không kém bất kỳ cuộc đời nào. Tác giả: Bà Năm Mời các bạn đón đọc Một Q Tám Tư của tác giả Haruki Murakami & Lục Hương (dịch).
Đi Tìm Sylvie Lee
Đi tìm Sylvie Lee - cuốn sách đầy bất ngờ với những bí mật, sự lừa dối và những khúc quanh không thể lường trước. Đó là câu chuyện về mối quan hệ phức tạp giữa ba người phụ nữ, hai chị em và mẹ của họ trong một gia đình nhập cư gốc Trung Quốc, và khám phá những gì xảy ra khi con gái lớn của người chị biến mất, một loạt bí mật gia đình xuất hiện. Sylvie, cô con gái lớn, xinh đẹp, tài giỏi, thành đạt của gia tộc Lee, bay tới Hà Lan trong một chuyến viếng thăm cuối cùng với người bà đang hấp hối của mình và rồi biến mất. Chuyện gì đã xảy ra với Sylvie? Amy cùng cha mẹ cô đang quẫn trí và tuyệt vọng tìm câu trả lời. Sợ hãi nhưng vẫn quyết tâm, Amy bay đến Hà Lan, nơi cuối cùng Sylvie được nhìn thấy. Nhưng thay vì những câu trả lời đơn giản, cô phát hiện ra một thứ có giá trị hơn nhiều: sự thật. Sylvie, cô gái vàng, giữ bí mật đau đớn. . . những bí mật mà cô không thể tưởng tượng. Sylvie, cô con gái lớn, xinh đẹp, tài giỏi, thành đạt của gia tộc Lee, bay tới Hà Lan trong một chuyến viếng thăm cuối cùng với người bà đang hấp hối của mình và rồi biến mất. Chuyện gì đã xảy ra với Sylvie? Amy cùng cha mẹ cô đang quẫn trí và tuyệt vọng tìm câu trả lời. Sợ hãi nhưng vẫn quyết tâm, Amy bay đến Hà Lan, nơi cuối cùng Sylvie được nhìn thấy. Nhưng thay vì những câu trả lời đơn giản, cô phát hiện ra một thứ có giá trị hơn nhiều: sự thật. Sylvie, cô gái vàng, giữ bí mật đau đớn. . . những bí mật mà cô không thể tưởng tượng. Về tác giả:  Jean Kwok là một cây bút của tờ New York Times và là tác giả có sách bán chạy nhất trên thế giới với tác phẩm Girl in Translation và Mambo in Chinatown. Cô được vinh danh với rất nhiều giải thưởng trong lĩnh vực viết lách. Cô đã nhận bằng cử nhân trường Đại học Havard và hoàn thành bằng Thạc sĩ Nghệ thuật lĩnh vực tiểu thuyết tại Đại học Columbia. Jean Kwok hiện sống tại Hà Lan. *** Amy Thứ hai, ngày 2 tháng 5 Tôi đang đứng bên bậu cửa sổ trong căn hộ nhỏ của chúng tôi trên phố Queens, nhìn bố và mẹ tất tả đi làm. Nửa khuất sau tấm rèm cũ rách mà mẹ tự khâu, tôi thấy họ đi cạnh nhau trên đường đến ga tàu điện. Ở lối vào, họ dừng lại và nhìn nhau một lúc. Những lúc như này, tôi thường nín thở, để đợi bố chạm vào gò má mẹ, hoặc chờ mẹ bật khóc, hoặc mong một trong hai người sẽ đưa ra dấu hiệu nào đó về mối quan hệ thật sự của họ. Thay vào đó, mẹ ngượng nghịu giơ tay vẫy, để lộ cánh tay gầy gò dưới nếp gấp của chiếc khăn choàng đen, còn bố thì xộc thật nhanh vào cửa nhà ga đang mở khi giao thông buổi sáng gầm rú trên con phố bận rộn. Sau đó, mẹ cúi đầu và tiếp tục cuốc bộ đến tiệm giặt ủi địa phương nơi bà làm việc. Tôi thở dài và rời khỏi cửa sổ. Tôi cần làm điều gì đó có ích hơn. Tại sao tôi lại cứ theo dõi bố mẹ? Bởi tôi đã lớn tồng ngồng nhưng vẫn ru rú trong nhà và vô công rỗi việc. Nếu sơ sảy, tôi rồi cũng sẽ như mẹ. Rụt rè, cam chịu, bán mình vào công việc chẳng đồng dư. Thế nhưng, tôi lại bắt gặp một ý niệm khác về bố và mẹ sau ngần ấy thời gian. Sự say sưa trên khuôn mặt mẹ khi bà đọc tiểu thuyết ngôn tình Trung Quốc trong đêm, thể loại mà bố coi thường. Cách mà bố cố với lấy khuỷu tay mẹ khi ông đi phía sau, rồi ông chợt nhận ra, và rụt tay lại. Tôi ngang qua tủ quần áo trong phòng ngủ của mình, và dừng mắt nơi tấm áp phích treo trên tường - gần như khuất sau mớ giấy tờ lộn xộn và đống giặt ủi. Đó là một câu nói của Willa Cather mà tôi luôn yêu thích: “Trái tim của một người luôn là một khu rừng tối, bất luận nó kề cận với chủ nhân như thế nào”. Tôi không chắc mình có tin vào xúc cảm nhưng những lời của bà ấy thì không bao giờ làm tôi thất vọng. Căn hộ chật chội của chúng tôi vẫn còn phảng phất hương trầm mẹ thắp sáng nay trên bàn thờ bà ngoại. Bà mất ở Amsterdam một tuần trước. Bà sống ở đó với gia đình Tan, gồm có chị họ của mẹ, dì Helena; chồng của dì, dượng Willem; và cậu con trai Lukas, ba mươi ba tuổi, bằng tuổi chị gái tôi, Sylvie. Tôi chưa gặp bà bao giờ nhưng nỗi đau buồn mà mẹ mang như một con thác đổ dồn lên lòng tôi đến ngập lụt. Quầng mắt mẹ tấy đỏ và buốt rát. Mấy đêm rồi, trong khi bố trốn trong phòng ngủ, tôi nắm chặt lấy tay mẹ khi bà nằm co ro trên ghế sofa, nén tiếng khóc, cố ngăn dòng lệ ào chảy bằng một miếng khăn giấy cũ nhàu. Hôm nay tôi cũng mặc đồ đen, vì mẹ, trong khi bố vẫn ăn vận như thường ngày. Không phải là ông không quan tâm. Chỉ là ông không thể để chúng tôi nhìn thấy cảm xúc ấy. Chị Sylvie sống cùng bà và gia đình dì Helena tại Hà Lan trong suốt chín năm đầu đời và chị vừa bay trở lại đó vào một tháng trước, ngay khi nghe tin bà ốm. Chị cũng đang quản lý một dự án tư vấn cho công ty của mình tại đó. Chị Sylvie rực rỡ, lớn hơn tôi bảy tuổi, đã kéo theo cuộc sống hào nhoáng ở châu Âu về tới căn hộ sặc mùi bắp cải của chúng tôi ở phố Queens khi tôi chỉ mới hai tuổi. Thường sẽ có một sự phân chia đều giữa các chị em gái về sự xinh đẹp và thông minh, nhưng trong gia đình tôi, cả hai phẩm chất ấy đều thuộc về chị. Và tôi, chỉ là một cái bóng, suy cho cùng, chỉ là một âm vọng nhạt nhẽo. Nếu tôi không yêu chị Sylvie rất nhiều, thì tôi hẳn sẽ rất ghét chị ấy. Làm thế nào mà một sinh vật xuất sắc như Sylvie lại được sinh ra từ những người trần tục như mẹ và bố? Cứ mỗi khi tôi học với bất kì giáo viên nào từng dạy chị Sylvie, họ đều thốt lên rằng, “Ah, em là em gái của Sylvie Lee đây mà” với đầy ắp những mong đợi. Và tôi sẽ dõi chờ khi những hy vọng cao ngút ấy của họ bỗng chốc biến thành sự hoang mang trước vẻ chậm chạp và đần độn mà tôi thể hiện. Tiếp đó họ sẽ thất vọng, và cuối cùng, là sự thờ ơ. Sylvie từng theo học tại Đại học Princeton, nhận bằng Cử nhân Kỹ thuật Hóa từ Viện Công nghệ Massachusetts, đi làm một vài năm, sau đó trở lại trường học để lấy tiếp bằng Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh từ Harvard. Bây giờ chị ấy là một chuyên gia tư vấn quản lý, một công việc mà tôi không bao giờ hiểu được dù cho chị có cố giải thích bao nhiêu lần. Cũng như tôi, Sylvie rất mê đồ ngọt, nhưng khác hẳn với tôi, chị ấy không bao giờ lên cân. Tôi đã từng trố mắt nhìn chị ăn lần lượt hết từng cái bánh trứng mà chẳng hề ảnh hưởng gì đến vòng eo thanh thoát, như thể nội lực mãnh liệt bên trong chị sẽ đốt cháy đám calo kia, tiêu hủy hết mọi thứ mà chị ấy nạp vào. Sylvie từng bị nhược thị khi còn nhỏ và đeo miếng che mắt trong nhiều năm. Giờ thì thứ duy nhất không hoàn hảo trên khuôn mặt đáng yêu của chị ấy là mắt phải có phần lác nhẹ khi chị ấy mệt mỏi. Hầu hết mọi người đều không nhận thấy, nhưng đôi khi tôi cũng tự an ủi mình với khiếm khuyết nhỏ này của Sylvie - Thấy chưa, chị ấy cũng không hẳn đã hoàn hảo. Tôi tiến đến hộc tủ gồ ghề, nơi tôi đã cẩn thận bọc và giấu một chùm lô quất nhỏ màu cam. Nếu tôi để chúng trên mặt bếp bằng nhựa vinyl và để bố bắt gặp một con ốc sên yếu ớt ẩn mình giữa những quả mọng này, bố chắc sẽ giết nó. Bố làm việc trong một chợ cá ở khu phố Tàu. Ông buộc phải trở nên vô cảm với cái chết - trước những con cá nằm ngoi ngóp trên mặt thớt gỗ cho đến khi ông kết liễu chúng bằng con dao pha trên tay mình. Con ốc nhỏ với lớp vỏ trong mờ vẫn còn lóp ngóp bò trên một trong những quả lô quất và trông nó có vẻ ổn. Bất cứ điều gì đủ mạnh để tồn tại trên hành trình gian nan từ Trung Quốc thì xứng đáng có cơ hội để sống tiếp. Tôi lấy một cái túi nhựa đã qua sử dụng, nhẹ nhàng bỏ quả lô quất và con ốc sên vào đó, rồi bước đến cửa. Tôi giũ nhẹ chiếc áo khoác mỏng và cầm lấy ví cùng điện thoại. Trước khi bước ra ngoài, tôi tháo cặp kính dày cộm màu tím và nhét chúng vào túi áo. Tôi cũng chẳng buồn đeo kính áp tròng. Sự hợm hĩnh và biếng nhác hòa vào cuộc sống trong thế giới mờ ảo của tôi gần như mọi lúc. Tôi lê bước qua vài tòa nhà tiến đến công viên nhỏ gần đó. Vẫn còn sớm, nên một số cửa hàng vẫn đóng cửa im lìm, và tôi rùng mình khi một làn gió lạnh buốt quét xuống vỉa hè bê tông. Một mùi hôi thối xộc lên từ nhựa đường quẩn quanh, dọc khắp các tòa nhà trống hoắc như hù dọa tôi. Một người mẹ đang kéo một đứa trẻ nhỏ bẩn thỉu đằng sau vội ngoảnh mặt khi đi ngang qua tôi. Không ai nhìn vào mắt ai nơi đông người, quạnh quẽ và tẻ nhạt này - không ai cả, ngoại trừ những kẻ đang cố gây sự. Lúc này, một nhóm người đang lang thang trước ô cửa sổ vỡ ở cửa hàng với tấm biển to oạch về thứ gì đó giảm giá năm mươi phần trăm. Không hơn không kém, họ chỉ như những vệt đen trong tầm nhìn hạn chế của tôi khi rú lên sau lưng tôi, “Nỉ-hào cô em! Có thể cho anh gửi cái“trứng cuốn” vào “miếng chả” của cô em không?” rồi phá lên bằng một tràng cười khản đặc. Họ phải nói mấy lời đần độn này mỗi ngày sao? Miễn là họ vẫn giữ khoảng cách, sự mờ ảo trong tầm nhìn khiến tôi thoải mái như trong một cái kén. Khi gần như mù, tôi có thể vờ như mình cũng bị cũng điếc. Một ngày nào đó, tôi sẽ tiếp tục chương trình học của mình tại Đại học Thành phố New York và hoàn thành chứng chỉ giảng dạy để tôi có thể thoát khỏi nơi này. Tôi sẽ rời xa cả mẹ và bố. Việc tôi đã bỏ học năm ngoái cũng chẳng đáng lo ngại. Tôi có thể làm được. Tôi đã có bằng cử nhân tiếng Anh. Tôi gần tới đích rồi. Tôi có thể thấy chính mình đang đứng trước một lớp học đầy những đứa trẻ. Chúng đang lắng nghe, cười vui trước những câu chuyện cười tôi kể, đôi mắt mở to trước sự rực rỡ của văn học mà chúng đang đọc, và tôi sẽ không bỏ sót bất cứ một từ nào. Tỉnh lại đi, Amy. Tất cả những gì mày có thể làm bây giờ là một vị cứu tinh ốc sên, đó cũng không hẳn là một biến chuyển tồi đâu. Sylvie và tôi đều theo đạo Phật, và một số ý niệm, như tất cả những gì trân quý trong cuộc sống, vẫn ở lại với chúng tôi. Khi còn nhỏ, chúng tôi thường rượt đuổi nhau quanh căn hộ với lưới bắt bướm, cố bắt ruồi và rồi lại thả chúng ra. Thế nhưng, như được chứng thực bởi bố và những-sinh-vật-biển- khác, tôn giáo chỉ tồn tại cho đến khi ta giáp mặt với sự khắc nghiệt của cuộc sống thường nhật. Công viên vẫn đang hồi sinh sau mùa đông khắc nghiệt và tôi vật vã tìm cho mình một vị trí đẹp rợp lá. Tôi rón rén gập người giữ con ốc giữa ngón trỏ và ngón cái khi điện thoại di động đổ chuông. Tôi nhảy lên và suýt thả rơi con ốc. Tôi đặt nó xuống, xoay xở để kéo điện thoại ra khỏi áo khoác, và nheo mắt để đọc số. Tôi vừa định trả lời thì người gọi đã cúp máy. Dãy số rất dài, bắt đầu với 31+. Tôi đã nhìn thấy đầu số này trước đây trên điện thoại của Sylvie. Là một người từ Hà Lan - có lẽ là anh họ xa của tôi, Lukas, bởi anh ấy không bao giờ gọi cho tôi. Anh ấy hay nói chuyện với chị Sylvie. Tôi dò thử phí cuộc gọi cho Lukas ở Amsterdam rồi lưỡng lự. Hy vọng anh ấy sẽ gọi lại. Tôi đi thẳng tới một tiệm đĩa. Tôi thích la cà ở một trong những chốt phát nhạc của họ nhưng hầu như chẳng mua thứ gì. Bụng tôi thắt lại khi nghĩ đến núi tiền vay sinh viên, chất chồng theo từng tấm bằng. Nhiều năm luẩn quẩn, cố gắng xác định những gì tôi muốn làm với cuộc đời mình trước khi quyết định chọn việc đi dạy - nhưng rồi, tật nói lắp lại trở lại khi tôi đứng trước nhóm thực tập. Dù tôi gần như đã bỏ được, nhưng nỗi sợ hãi về việc nói lắp đã chứng minh rằng nó luôn mạnh mẽ như nó vốn có: tất cả những khuôn mặt trống rỗng đó, sự hoảng loạn như một cái chăn dày khiến tôi nghẹt thở. Đôi lúc, tôi nghĩ, lẽ ra tôi nên an phận là một kẻ nhập cư thất học như mẹ và bố. Vài con chim non rời tổ và vút cao, như chị Sylvie, những con khác thì bối rối, và run rẩy, rồi rơi bổ xuống đất. Cuối cùng, tôi không thể đối diện với các bạn cùng lớp và giáo viên của mình nữa. Và chị Sylvie, tất nhiên, là người bảo lãnh cho tôi khi các khoản vay của tôi vượt quá thời gian gia hạn. Chị ấy đã thanh toán mà không nói một lời. Chị Sylvie, khá giả, ít nhất là so với tôi, nhưng chị ấy không giàu đến mức có thể gánh vác thêm một khoản chi phí mà không cảm thấy hề hấn gì. Chị và chồng chị, anh Jim, thậm chí còn đang nặng vai khoản vay sinh viên hơn cả tôi, anh Jim thì không kiếm được nhiều tiền từ công việc tư vấn hướng nghiệp tại một trường công lập ở Brooklyn. Mặc dù có tiền thừa kế, nhưng bố mẹ của anh cho rằng người trẻ nên tự kiếm tiền, thế nên anh ấy sẽ không nhận được một xu nào cho đến khi họ mất, ngoại trừ món quà khôi hài mà họ đã cho anh khi cưới chị Sylvie. Còn tôi, thay vì phụ giúp bố và mẹ, những người đã làm lụng vất vả nhiều năm trời, thì tôi lại đang sống trong căn hộ của họ và ăn bám họ hằng ngày. Tôi hiện tại vẫn lông bông, mặc dù khả năng đánh máy của tôi rất nhanh - cũng là kỹ năng duy nhất mà tôi có, nhưng công việc thì khan hiếm. Do kinh tế mà thôi, tôi phân bua với tất cả, nhưng tất nhiên là tôi rõ hơn ai hết, bởi chỉ có tôi mới hiểu rõ nhất về mình. Chị Sylvie nói rằng tôi không có đủ tiềm năng, tôi bực dọc và bảo chị ấy thôi đi, để cho tôi yên. Trong cửa hiệu, tôi đi đến quầy nhạc cổ điển và bắt đầu thư giãn ngay khi giọng hát mượt mà, êm ái của Anna Netrebko phát ra từ chiếc loa. Cô ấy hát bài Verdi. Các kệ đĩa CD nằm gọn gàng bên cạnh các bảng xếp hạng âm nhạc và những thùng đĩa nhựa nối tiếp nhau. Những cây guitar và vĩ cầm cũ xếp thẳng hàng trên tường. Tôi thật sự thích cái cách mùi giấy, đồ sơn mài và nước tẩy hương chanh tỏa hương. Zach, một anh chàng đáng yêu, đã đi làm trở lại. Ít nhất, tôi tin là anh ấy hấp dẫn. Rất khó để chắc chắn khi không có kính - thứ giúp tôi không bị “đứng hình” nếu đến gần anh ta. Đối với tôi, những đường nét trên khuôn mặt và cơ thể của anh ấy thật lôi cuốn, tôi yêu giọng nói của anh ấy - ấm áp, hào sảng và trong trẻo. Anh ấy luôn có vẻ như đang mỉm cười với tôi. “Này, Amy. Tuần này cậu muốn nghe gì?” Tôi cố gắng thể hiện sự thân thiện trên khuôn mặt mình nhưng dường như tôi đang biến nó trở nên nhăn nhó đến mức ngượng nghịu. “Anh có gợi ý nào không?” Anh ấy chỉ việc để cho khách hàng nghe thử các đĩa nhạc nhưng dường như chưa bao giờ lưu tâm đến những lần lượn lờ của tôi trong cửa hiệu. “Vậy, Joseph Szigeti thì sao?” Tôi hăng hái đến mức quên cả xấu hổ. “Tôi vừa đọc một bài báo về bản thu Prokofiev Concerto No.1 in D của anh ấy.” “Đang rất sốt đấy,” anh ấy nói và lấy ra một đĩa CD. “Anh ta là minh chứng rằng kỹ thuật hoàn hảo không phải là tất cả.” Ngay khi chúng tôi đi đến quầy nghe, điện thoại của tôi đổ chuông. “Xin lỗi”, tôi lí nhí nói. “Tôi phải nghe máy.” Tôi cúi đầu và rời cửa tiệm. Tôi bắt máy và ngay khoảnh khắc nghe thấy giọng anh Lukas, tôi biết có chuyện chẳng lành xảy ra. Đường truyền đầy nhiễu sóng, có thể do cuộc gọi xuyên Đại Tây Dương. Tôi lấy tay bịt tai bên kia lại để cố nghe rõ hơn. “Amy, anh cần nói chuyện với Sylvie ngay,” Lukas nói. Giọng anh ấy căng thẳng và đầy gấp gáp với ngữ điệu Hà Lan của anh nặng hơn là tôi nghĩ. Tôi nhíu mày. “Nhưng chị ấy đang ở Hà Lan chỗ anh mà.” Anh ấy thở mạnh đến mức tôi có thể nghe thấy nó qua điện thoại. “Sao cơ? Không có, cô ấy đã bay về đó vào thứ bảy. Giờ này phải đến nơi rồi chứ. Em không nghe tin gì từ chị em sao?” “Nhà em còn không biết là chị ấy đang về. Em mới nói chuyện với chị ấy sau đám tang của bà. Khi đó là khi nào nhỉ? Thứ năm, phải không? Em nghĩ chị ấy sẽ ở lại lâu hơn. Chị ấy cũng có nhắc đến dự án của chị ở đấy vẫn chưa xong.” “Sylvie vẫn không trả lời điện thoại. Anh rất muốn nói chuyện với cô ấy”. Rõ ràng, một người có trách nhiệm như chị Sylvie sẽ báo cho chúng tôi biết ngay nếu chị ấy quay lại. Chị ấy lẽ ra đã đến gặp mẹ và kể cho mẹ nghe về bà. Tim tôi bắt đầu đập mạnh như có một vết cắt dưới da. Phải có một vài lời giải thích đơn giản nào đó chứ. Tôi cố gắng trấn an: “Đừng lo lắng, em sẽ xem chuyện gì đang xảy ra.” “Uhm, làm ơn hãy tìm hiểu xem có chuyện gì nhé. Khi nào tìm thấy cô ấy, bảo Sylvie gọi cho anh, được chứ? Ngay lập tức nhé.” Một khoảng lặng rợn người. “Anh hy vọng cô ấy sẽ không có chuyện gì.” Tôi vội đeo kính và nhanh chóng đến tiệm giặt khô nơi mẹ làm việc. Mùi kinh khủng của hơi nước và hóa chất bao trùm lấy tôi khi tôi đẩy cánh cửa mở. Tôi thấy mẹ đang đứng sau một cái quầy dài, lí nhí một thứ tiếng Anh bập bẹ với một người phụ nữ ăn vận đẹp đẽ, mái tóc vàng óng ả sau lưng. “Chúng tôi rất bực khi một cái cúc áo đã bị long ra sau khi nhận lại mớ đồ này.” Bà khách vừa nói vừa đẩy về phía mẹ một chiếc áo sơ mi sọc của nam. “Vô cùng xin lỗi bà!”. Khuôn mặt nhỏ bé của mẹ dường như thêm gầy gò và xanh xao trong bộ quần áo đen, đôi mắt sưng lên vì khóc. “Tôi sẽ sửa nó”. Người phụ nữ gõ bộ móng tay được cắt tỉa cẩn thận lên mặt quầy. Giọng bà ta vừa cáu gắt vừa ra vẻ trịch thượng, như thể bà ấy đang nói chuyện với một đứa trẻ phạm lỗi. “Chất lượng dịch vụ thật sự không tốt như chúng tôi mong đợi, đặc biệt là sau khi lên giá đấy.” “Rất xin lỗi bà!”, mẹ lặp lại. Tôi nhìn trừng trừng về phía tấm lưng xương xẩu của bà ta. Tôi muốn nói với bà ấy rằng chủ cửa hiệu tăng giá chứ mẹ tôi chẳng được lợi gì trong đó. Mẹ thậm chí còn chưa được tăng lương trong suốt từng ấy năm làm việc ở đây - phải đứng suốt cả ngày, khiêng hàng đống quần áo nặng trịch, rồi giặt, ủi và sửa chúng. Nhưng miệng tôi cứ ngậm chặt. Tôi đợi cho đến khi bà khách mắng mỏ mẹ xong và rời đi. Mặc dù đang buồn, nhưng khi thấy tôi, nụ cười lại làm bừng sáng khuôn mặt mẹ. Tuy có thể hiểu một ít tiếng Hoa, nhưng tôi không bao giờ học nói cho đàng hoàng, vì vậy mẹ luôn nói chuyện với tôi bằng tiếng Anh. “Sao con lại ở đây, Amy?” Tôi đã định không làm mẹ lo lắng nhưng tôi nhận ra mình đang ghì chặt cổ tay bà, vò nát chiếc áo blouse vải polyester mỏng manh. “Anh họ Lukas vừa gọi cho con. Anh ấy nói, chị Sylvie đã bay về nhà vào cuối tuần trước, nhưng chị ấy không nhấc máy.” “Ay yah.” Mẹ thảng thốt lấy tay che miệng. Đôi mắt to đen của bà trợn trắng. “Nó không nói với chúng ta là nó về. Nó nhất định vẫn ổn. Chỉ là nhầm lẫn gì đó thôi. Con gọi anh Jim chưa?” “Con đã thử mọi cách nhưng anh ấy không trả lời. Không có vụ rơi máy bay hay chuyện gì xảy ra, phải không mẹ?” “Tất nhiên là không! Con đang nói bậy gì vậy!” Mẹ vuốt trán ba lần bằng bàn tay trái gầy guộc để xua đuổi những xui xẻo trong lời nói tôi vừa thốt ra. Mẹ nhìn chằm chằm tôi cho đến khi tôi cúi người để mẹ có thể làm điều tương tự với tôi. Tôi và mẹ có chiều cao gần như nhau và khi chợt nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của chúng tôi trong gương ở cửa hàng, tôi mới chợt nhớ rằng tôi trông giống bà đến mức nào - ngoại trừ việc tôi đeo một cặp kính dày và không thể nào so sánh với hình ảnh của mẹ khi còn trẻ. Mẹ từng là cô gái đáng yêu nhất trong làng chúng tôi ở Quảng Đông. Bây giờ ở độ tuổi 50, làn da của mẹ vẫn đẹp với một vài nếp nhăn mờ, lớp kem mềm mượt làm nổi bật đôi mắt ấm áp, và có gì đó dịu dàng nhưng hoang dã trong ánh mắt của bà, như một chú nai vàng trong rừng thông. “Con đi đến nhà chị đi. Xem chuyện gì xảy ra. Hãy lấy chìa khóa, trong lọ gừng khô ở nhà.” “Con có chìa khóa riêng. Chị Sylvie có đưa cho con trước khi chị ấy đi. Nhưng mẹ có chắc không, mẹ?” Tôi thấy ngại khi nghĩ đến việc vào nhà chị Sylvie mà không có sự cho phép. Tâm trí tôi rối loạn: Nếu anh Jim ở đó thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra đây? Và điều gì có thể xảy ra với chị Sylvie? “Chắc, chắc chắn mà,” mẹ khẳng định. “Con hãy đi ngay đi! Nhanh lên!” Mời các bạn đón đọc Đi Tìm Sylvie Lee của tác giả Jean Kwok & Liên Thảo (dịch).