Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Viết Và Đọc Tiểu Thuyết

Ðây là một cuốn sách viết để bất cứ người nào cũng có thể hiểu được miễn là biết đọc chữ Quốc ngữ. Vì vậy tôi cố tránh dùng những từ khó hiểu, những câu ý nghĩa tối tăm. Đây không phải là một cuốn sách bàn luận khô khan chỉ dành riêng cho một số người ít ỏi, có học thức cao, và quen thuộc với những danh từ triết lý. Sở dĩ tôi viết cuốn Viết và đọc tiểu thuyết này là vì tôi tin tưởng một cách rất chắc chắn rằng: 1. Bất kỳ ai biết chữ Quốc ngữ, cho dẫu người đó viết văn sai mẹo hay không có học thức cao rộng, cũng có thể viết ra những tiểu thuyết có giá trị. Cái chính là cần có khiếu riêng, cái khiếu ấy có thể có ở bất cứ giới nào, người làm thợ hay người làm ruộng, nhưng xưa nay không nảy nở ra được chỉ vì cái thành kiến trưởng giả cho văn nghệ tiểu thuyết là một thứ cao siêu dành riêng cho một hạng người. 2. Phần đông người viết tiểu thuyết (nổi tiếng hay vô danh) có những quan niệm sai lầm làm cho họ đi vào những con đường chật hẹp hoặc lạc hướng nên văn nghệ của nước nhà vì thế mà sút kém. Sau gần bốn mươi năm kinh nghiệm viết tiểu thuyết, trải qua bao nhiêu phen lầm lỗi và tìm tòi, tôi tự thấy cái trách nhiệm giúp đỡ một phần nào vào sự cố gắng của hàng nghìn hàng vạn các anh chị em có chí muốn tiến trên đường văn nghệ. Cuốn sách này không thể làm cho bất kỳ ai cũng thành văn sĩ một cách dễ dàng, nhưng - tôi mong thế - sẽ giúp đỡ: 1. Những người mới bước chân vào làng văn khỏi bỡ ngỡ, mất công tìm kiếm và mất rất nhiều thì giờ vì bước lầm đường. 2. Một số người đã có nhiều tác phẩm, suy xét lại về lối viết của mình và tìm ra con đường mới hợp với tài năng của mình hơn. 3. Những thiên năng ở những người ít học bị cái hàng rào thành kiến bấy lâu ngăn cản, được thoát ra ngoài để giúp cho nền văn hóa nước nhà thêm phong phú (chỉ có những người thợ, người dân quê mới dễ viết tiểu thuyết về đời sống của họ). Đó là đối với những người viết tiểu thuyết, còn đối với độc giả tôi cũng tin rằng: Trình độ độc giả cao thì nền văn hóa cũng cao. Độc giả sáng suốt, có quan niệm đúng về nghệ thuật sẽ giúp đỡ rất nhiều cho những tài năng chân chính, và sẽ có thêm nhiều thú thanh cao mà trước kia không được hưởng vì không biết đến. Tuy chỉ là độc giả nhưng cũng cần đọc đoạn nói về cách viết tiểu thuyết để có sự nhận chân về nghệ thuật. Cuốn sách này lại có thể giúp ích cho các học sinh khi học văn và khi viết văn. * Xin nhớ là cuốn sách này tôi chỉ viết về tiểu thuyết thôi chứ không nói đến các loại văn khác như loại thơ, nghị luận, phê bình, giáo khoa v.v... hoàn toàn khác hẳn tiểu thuyết (cũng như văn của ông Phạm Quỳnh, ông Trần Trọng Kim, ông Phan Văn Hùm khác hẳn văn tiểu thuyết). Nếu trong bài khảo luận này có dùng đến những chữ “văn”, “văn sĩ”, “văn nghệ”, “sách” v.v.. cũng chỉ là nói về văn hoặc sách tiểu thuyết thôi. Cũng có nhiều khi tôi trích làm thí dụ một câu của nhà văn này mà không trích của nhà văn khác, đó không phải là vì thiên vị mà chỉ vì trong hiện tình không kiếm được sách để trích ra. Cũng có khi tôi trích trong những truyện của tôi (có lẫn cả chê khen), đó cũng chỉ vì những cái dở, cái hay ấy nó dễ đến ngay trong ý nghĩ khi tôi muốn lấy một thí dụ thích hợp mà không kịp tìm thấy ở trong truyện của các nhà văn khác. Tác giả *** Những điều lầm lỗi Trước hết tôi nói về ý định của một người muốn viết một cuốn sách có nghệ thuật cao siêu, bền mãi với thời gian, như những cuốn Hoà bình và chiến tranh, Anna Kha Lệ Ninh, Tình nghĩa vợ chồng, Một bản đàn của Tolstoï, cuốn Những linh hồn chết của Gogol, cuốn Mấy anh em Karamazov, cuốn Những người bị ám ảnh của Dostoïevsky, cuốn Đỉnh gió hú của nữ văn hào Anh Emily Brontë, những tiểu thuyết của nữ văn hào Anh G. Eliot v.v... và độ hơn trăm cuốn sách khác, mỗi cuốn một vẻ, nhưng đều là những sách hay của nhân loại, đời đời công nhận. Đó là lý tưởng muốn noi theo của phần đông những người viết tiểu thuyết. Hoặc có người muốn viết tiểu thuyết loại trinh thám, phiêu lưu v.v... nhưng nghệ thuật của những cuốn đó cũng không khác nghệ thuật của những cuốn kể trên. Bây giờ tôi chỉ nói đến. Tiểu thuyết hay (không phân biệt loại gì) Tôi tự đặt mình vào một địa vị những người muốn viết tiểu thuyết và lần đầu lấy giấy bút ra suy nghĩ. Người ta định viết để làm gì và viết những gì? - Có người viết để ghi lên giấy một chuyện riêng (thí dụ: câu chuyện tình, một sự nhớ nhung, một cảnh vui vẻ hoặc sầu thảm trong gia đình v.v...) - Có người viết để ghi một câu chuyện nghe thấy hoặc một cảnh nhìn thấy đã làm họ cảm động. - Có người viết để đả đảo một sự bất công, để tán dương một cái gì tốt đẹp, để nêu lên một lý thuyết và đặt ra một câu chuyện để thực hiện ý đó (loại tiểu thuyết này gọi là luận đề tiểu thuyết). - Có người viết chỉ để cám dỗ người đọc, viết những tiểu thuyết có cốt truyện ngoắt ngoéo, những trường hợp éo le ly kỳ, nhiều chỗ bất ngờ, hồi hộp. - Có người viết chỉ thấy mình cần phải viết. Viết để làm gì, viết về thứ gì, cái đó không quan trọng. Cái quan trọng nhất là viết có hay không, tức là nghệ thuật có cao không (còn thế nào là hay, là nghệ thuật cao, sẽ bàn sau). Điều rất giản dị này, giản dị gần như là một sự cố nhiên, điều mà tôi đã biết từ khi viết những cuốn sách đầu tiên năm mười sáu, mười bẩy tuổi (cuốn Thôn dã, Hai chị em không hề xuất bản lần nào), điều mà bất cứ văn sĩ hay độc giả nào cũng biết, thế mà sau hơn hai mươi năm viết văn, tôi mới nhận ra và chính tôi đã nhiều lần phạm lỗi không cho sự viết hay là cái chính. Sự lầm lỗi này đa số tiểu thuyết gia có, nhưng trước hết tôi đem tôi ra làm thí dụ: 1) Sự lầm lẫn thứ nhất của tôi là lúc mới viết sách tôi chỉ để ý đến các ý thích của riêng mình. Tôi thích những truyện về đời riêng của tôi mà tôi thấy rất là lý thú, chỉ việc đem viết lên giấy và viết xong thấy nó hay ngay. Nhưng nếu đưa một người khác xem thì người ấy không thấy hay ở chỗ nào. Tôi đã bị cái tính yêu riêng những việc mình viết nó huyễn hoặc làm hoa mắt, không nghĩ đến sự tìm tòi cái hay. Tôi đã đứng vào vị trí chủ quan, nghĩ là mình đứng làm chủ mà nhận xét, chứ không đứng vào địa vị khách quan, nghĩa là mình biến thành một người khách đứng ngoài nhìn vào bằng con mắt sáng suốt hơn không bị cái yêu cái ghét riêng làm cho thiên vị. 2) Sự lầm lẫn thứ hai là cái thích những câu văn vẻ. Tôi bị ảnh hưởng tai hại của sự học ở nhà trường của văn chương Pháp và của văn chương Tàu hay ta hồi ấy (quãng 1922 - 1930); tôi thích những câu đọc lên nghe êm tai, nhịp nhàng đăng đối (nhưng trống rỗng) thành thử tôi chỉ cốt viết ra những câu như thế và cho ngay là truyện của tôi hay. Tôi còn nhớ một lần viết truyện Hồng Nương (không xuất bản), tôi viết xong một câu rồi đứng lên, đi đi lại lại trong phòng, trong lòng sung sướng mê man, thỉnh thoảng lại ngừng lại đọc to câu đó lên: “Hồng Nương! Hồng Nương! Sao đêm nay ta đọc đến tên nàng”và tôi quên cả đi ngủ. Đến bây giờ thỉnh thoảng tôi cũng đọc lại nhưng chỉ để tự giễu mình sao một câu như thế lại có thể cho là hay đến mê man. Ngay đến khi viết truyện đăng báo Phong hóa 1932 - 1933 (năm đó tôi đã hăm bảy, hăm tám tuổi) mà vẫn còn bị câu “văn vẻ” nó quyến rũ. Thí dụ như câu cuối cùng trong truyện Nắng Mới Trong Rừng Xuân: “Đôi bạn tay cầm tay, nhìn nhau yên lặng, trên đầu gió rì rào trong cành thông như tiếng than vãn của buổi chiều”. Tuy câu ấy không phải hoàn toàn dở nhưng bây giờ đọc lại tôi vẫn ao ước rằng không có thì hơn, hoặc có nhưng đừng “văn vẻ”, “sáo” quá như thế, giản dị hơn như những câu trong các tiểu thuyết sau này của tôi, viết chỉ cốt tả đúng cảm giác, đúng những nhận xét của mình; điều cần không phải là câu văn hay mà ở chỗ cảm giác, nhận xét của mình có gì hay không, đặc biệt không. Mời các bạn đón đọc Viết Và Đọc Tiểu Thuyết của tác giả Nhất Linh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Thầy: Hồi Ức Của Một Nhà Giáo Mỹ - Frank McCourt
AudioBook Người Thầy   Hồi ức của Frank McCourt (1930-2009) - một tài năng văn chương “nở muộn” - viết về khoảng thời gian hơn 30 năm đeo đuổi sứ mệnh làm thầy trên đất Mỹ. Cuốn sách này dành cho tất cả những ai ưu tư về ý nghĩa tối hậu của nghề sư phạm. 1. Trước hết, cuốn sách  Người thầy(*) được viết từ một độ lùi thời gian, khi McCourt đã về hưu và đã có tác phẩm Angela’s ashes ( Tro tàn của Angela - Hoàng Nguyên và Nguyễn Bích Lan đã dịch sang tiếng Việt, NXB Phụ Nữ, 2004) đoạt giải Pulitzer được nhiều người biết đến. Từ điểm nhìn khoan dung này có thể thấy đây là một tác phẩm mang cảm giác kiêu hãnh, đầy thanh thản của một người đã hoàn thành lý tưởng sự nghiệp nhà giáo của mình, nhìn lại một quá khứ hào sảng hơn là bày tỏ bức xúc hay cay đắng về nghề của người trong cuộc. Nước Mỹ thời bấy giờ, như tác giả viết: “Có phồn vinh, nhưng sự phồn vinh này không nhỏ giọt xuống tới các trường học, tới những ông thầy mới vào nghề cần học cụ cho việc giảng dạy lại càng không”. Điều đó tác động trực tiếp đến đời sống sư phạm của người thầy trẻ McCourt, người Ireland, chọn New York làm nơi lập nghiệp. Tuy nhiên, như đã nói, cuốn sách bằng một giọng văn tếu táo, hài hước cho thấy sự hào hứng, nhiệt huyết dấn thân vào nghề nhiều hơn là sự căng thẳng trước cơ chế. Trung tâm của nghề giáo là đời sống mô phạm của người thầy. Nhưng sự mô phạm đã được thầy McCourt “tư duy lại” như một kẻ đi ngược lối nghĩ thông thường của những đồng nghiệp khác. Những giáo viên nghiêm khắc, quen sống trong tháp ngà khiến học sinh luôn lo sợ điểm xấu không thể chấp nhận được một kiểu mô phạm như McCourt, người thầy mà ngay từ buổi đầu đi dạy đã mắc cái lỗi - nhặt mẩu bánh mì kẹp thịt trên nền đất (của đám học trò choai choai nghịch ngợm ném nhau) để... gặm ngon lành. Những giáo viên luôn đóng kín mình, coi việc dạy học là trách nhiệm khô khan, xem học trò là bọn quỷ quyệt cần cảnh giác sẽ khó chấp nhận một lối dạy tự do, gần gũi, ở đó ông thầy trẻ dám lấy tuổi thơ lớn lên ở khu ổ chuột Limerick, Ireland tồi tàn, lấy thời sinh viên nghèo nhưng nhiều mộng tưởng đến quãng thời gian xếp bằng đại học đi bốc vác ở những hải cảng để làm chất liệu cho bài giảng... 2. Từ sự quan tâm, nắm bắt tâm lý “những chuyển động trong tâm hồn” học trò cộng với những trải nghiệm cuộc sống đã cho thầy giáo trẻ McCourt khả năng nhập vai đầy sáng tạo: “Anh thủ đủ mọi vai, là ông bốc xếp, thầy rabbi (giáo sĩ Do Thái), là cái vai cho học sinh gục đầu vào khóc, nhà mô phạm nghiêm khắc, ca sĩ, học giả xoàng, thầy ký, trọng tài, gã hề, ông cố vấn, người giám sát ăn mặc, người soát vé xe, người biện hộ, triết gia, kẻ đồng lõa, vũ công clacket, chính trị gia, bác sĩ trị liệu, gã điên, cảnh sát giao thông, mục sư, mẹ-cha-anh-chị-cô-chú, nhân viên kế toán, nhà phê bình, nhà tâm lý, chiếc phao cấp cứu...” mặc dù phía sau bục giảng đầy hào hứng bao giờ cũng là một thế giới đầy những căng thẳng, tranh cãi. Điều đáng sợ nhất là chính McCourt phải đối diện với những quan điểm dạy học truyền thống đầy khô khan và lạnh lùng của đồng nghiệp, cấp trên. Và kết quả của những cuộc va chạm là người thầy này đã phải nhiều lần bị thôi việc. Từng dạy tiếng Anh tại các trường McKee, Seward Park, trung học danh tiếng Stuyvesant..., thầy giáo McCourt vẫn là một kẻ vui vẻ hi sinh những đam mê danh vọng khác, chấp nhận nghịch cảnh và xác tín với con đường mình theo đuổi. Lần đầu tiên có một người thầy làm cái công việc lưu trữ và phân loại hai chồng thư: một chồng do những bà mẹ viết xin lỗi giáo viên về việc con mình nghỉ học với những lý do tẻ ngắt, còn chồng kia là của đám học trò giả phụ huynh viết phịa ra lý do rất xuất sắc và siêu tưởng để đôi chối việc nghỉ học của mình. Từ đó, thầy giáo McCourt thực hiện ý tưởng biến giờ giảng của mình thành một buổi nghiên cứu nghệ thuật viết thư xin lỗi. Ông cho học sinh tưởng tượng và viết những lá thư kiểu như “Thư Adam xin lỗi Chúa Trời” hay “Thư Eva xin lỗi Chúa Trời”... Và chúng ta cũng đọc thấy câu chuyện có một ông thầy “chịu chơi”, dám đi xem vở Hamlet với 29 học trò nữ da đen nghịch ngợm, ngổ ngáo, thực hiện ý tưởng biến giờ học sáng tác thành nơi trình diễn các món ăn truyền thống của dân nhập cư, phổ biến những cuốn sách ẩm thực kết hợp với chơi nhạc “cây nhà lá vườn”... 3. Nhưng sau những bài giảng đầy hứng thú, sau thế giới vui nhộn ở những lớp học, đời sống của một giáo viên nghèo nhập cư là một chuỗi hi sinh cay đắng: đó là sự thiếu thốn trong đời sống khiến vợ chồng McCourt phải ly dị; đó là những ngày ông phải sống lang bang với một gian trọ trên quán rượu nơi hải cảng, vây quanh bởi thế giới ô tạp anh chị, giang hồ, đĩ điếm; đó là sự gan lì, khoan dung, bỏ qua những lời lẽ chế nhạo đầy vô tâm của những học sinh lãnh đạm, những phụ huynh thực dụng... Điều đáng quý là sự cô độc và giằng xé đau đớn ấy đã không làm mất đi niềm say mê mở ra những biên độ sáng tạo, tinh thần hài hước trong các bài giảng, trong những giờ ngoại khóa của thầy McCourt. Cuối cùng, điều cốt yếu mà chúng ta nhận ra trách nhiệm lớn lao, cao trọng nhất đối với người thầy đó chính là bằng tài năng và thiên chức của mình, biết khơi gợi sự sáng tạo nơi giang sơn - lớp học của mình, chống lại sự cưỡng bức trong giáo dục. Vì sự cưỡng bức sẽ hủy hoại thứ cảm xúc lành mạnh, lòng trung thực và sự tự tin nơi học sinh. Cưỡng bức trong giáo dục có nguy cơ sinh ra những công dân chỉ biết run sợ và phục tùng. Xã hội đang rất cần những người thầy biết xua đi nỗi sợ hãi bên lề trái của bảng đen để đem lại động lực hiểu biết, khuyến khích tinh thần tự do sáng tạo nơi mỗi học sinh, mỗi công dân tiến bộ của tương lai. Đó có lẽ là hình mẫu người thầy mà bất cứ xã hội nào cũng mong đợi.   Mời các bạn đón đọc Người Thầy: Hồi Ức của Một Nhà Giáo Mỹ của tác giả Frank McCourt.
Một mình ở Châu Âu - Phan Việt
Bất hạnh là một tài sản Những người đàn bà, họ không một mình ngẫu nhiên tới Paris, Venice, Rome, Florence…   Họ có thể là sinh viên mới ra trường, muốn đến Paris để viết văn; có thể là người đã đi qua một cuộc hôn nhân, giờ đến đó để nhìn lại; có thể là người bấy lâu vẫn mòn mỏi chờ đợi mối tình lớn của đời mình và mong nó xảy ra ở châu Âu… Hoặc họ có thể, như tác giả của cuốn sách này, đến châu Âu một mình để du lịch như một người không quá khứ, không ràng buộc; và để hỏi những câu hỏi bước ngoặt về tình yêu và hôn nhân…   Cuốn sách này, hơn cả một cuốn du ký về những ngày du ngoạn qua các thánh địa mơ ước ở châu Âu, còn là một hành trình nội tâm xuyên suốt, dai dẳng, và không phải không đau đớn.   Có thể thấy điều đó, dẫu chẳng ở châu Âu một mình. Mời các bạn đón đọc Một mình ở Châu Âu của tác giả Phan Việt.
Madam Nhu Trần Lệ Xuân: Quyền Lực Bà Rồng - Monique Brinson Demery
"Ngay cả những người quen thuộc với lịch sử Việt Nam vẫn sẽ thấy kinh ngạc với truờng hợp lạ kỳ của bà Nhu. Monique Demery đã lần ra dấu vết của Bà Rồng quyền lực, nguời đã thú nhận mình yếu đuối và cõi lòng tan nát nhưng không nhận trách nhiệm về vai trò của mình trong cuộc chiến tranh đã hủy hoại nhiều cuộc đời của đất nước bà và của người Mỹ." (Elizabeth Becker - Tác giả cuốn When the War Was Over: Cambodia and the Khmer Rouge) "Một cuốn sách thật sự ấn tượng! Demery đã thâu tóm sống động cuộc đời và thời đại của một trong những nhân vật lạ lùng nhất của Việt Nam. Với lối kể lôi cuốn, sự nghiên cứu tường tận tư liệu từ các nguồn tiếng Pháp, tiếng Việt, và tiếng Mỹ - bao gồm những bài phỏng vấn với bà Nhu - quyển sách của Demery giờ đây là tiêu chuẩn cho việc tìm hiểu về quyền hành văn hóa trong gia đình số một Việt Nam Cộng hòa." (Robert K. Brigham - Giáo sư Lịch sử và Quan hệ Quốc tế, Đại học Vassar) "Đây là câu chuyện mới nhất chưa được kể về chiến tranh Việt Nam - cuốn tiểu sử đầy cuốn hút, riêng tư với kết cục bi thảm của bà Ngô Đình Nhu, Đệ nhất Phu nhân không chính thức của Việt Nam Cộng hòa, người mà quyền lực chính trị và bản tính sắt đá đã mang lại cho mình danh hiệu Bà Rồng. Cuộc đời bà đã khép lại trong cảnh lưu đày và cô liêu vào năm 2011. Monique Demery đã dành mười năm tìm hiểu về nhân vật Bà Rồng khó lường này. Kết quả của sự cần mẫn đó là một quyển sách hay vừa đậm chất học thuật vừa có thể đọc say mê như một câu chuyện bí ẩn thú vị." (David Lam - Tác giả cuốn sách Vietnam Now: A Reporter Returns) "Để hiểu được một phụ nữ - "bí ẩn lớn nhất của tạo hóa" - đã là điều vô cùng khó. Hiểu và nhận xét, đánh giá đầy đủ, chính xác về một phụ nữ lừng lẫy như bà Ngô Đình Nhu, còn là việc khó hơn bội phần! Tôi không thể và không nên làm điều đó. Một cách ngắn gọn và chủ quan, tôi cảm thấy bà là một phụ nữ tài năng và mạnh mẽ hiếm có của Việt Nam trong thế kỷ 20. Sự chủ quan, kiêu ngạo, cùng một thể chế độc tài, gia đình trị, đã đưa bà và những người thân vào một số quyết định sai lầm, dẫn đến sự sụp đổ của một chế độ giờ được nhiều người nhìn nhận lại là dù sao cũng tốt nhất ở miền Nam từ 1954 đến 1975. Nhận xét về cuốn sách này thì dễ hơn: Sách viết công phu, hấp dẫn, đầy ắp thông tin, tư liệu. Tác giả có cố gắng khách quan, dù không giấu đuợc ít nhiều thiện cảm với nhân vật. Bản dịch của Mai Sơn cũng giản dị, dễ đọc, một điều tuởng dễ mà không hề dễ..." (Nhà văn - Nhà báo Nguyễn Đông Thức). Mời các bạn đón đọc Madam Nhu Trần Lệ Xuân: Quyền Lực Bà Rồng của tác giả Monique Brinson Demery.
Cuộc tranh đấu của Tôi - Adolf Hitler
Mein Kampf là tựa đề tiếng Đức của quyển sách do Adolf Hitler làm tác giả bắt đầu từ năm 1924, trình bày tư tưởng và cương lĩnh của ông về Đế chế Đức một khi ông ta lên nắm quyền. Hitler phát động vụ Đảo chính Nhà hàng bia ngày 8 tháng 11 năm 1923 nhưng bị đàn áp một cách đẫm máu, bị án tù bắt đầu từ ngày 1 tháng 4 năm 1924. Án tù này tạo cho Hitler một thời gian tĩnh lặng để suy nghĩ, phân tích và đặt ra những kế hoạch kinh thiên động địa cho tương lai. Hitler muốn đặt tựa đề cho quyển sách là Bốn năm rưỡi tranh đấu chống lại những dối trá, ngu xuẩn và hèn nhát, nhưng Max Amann, nhân viên quản trị cứng đầu trong ngành xuất bản của Quốc xã, người sẽ lo phát hành quyển sách, phản đối cái tựa nặng nề – và khiến cho sách khó bán chạy – nên đề nghị tựa là Cuộc tranh đấu của tôi (Mein Kampf). Amann cảm thấy thất vọng não nề về nội dung. Thoạt tiên, ông đã hy vọng một câu chuyện cá nhân trong đó Hitler sẽ kể lại bước đường tiến thủ từ một anh "công nhân" vô danh ở Wien đến vị thế nổi tiếng cả thế giới. Ít có phần tiểu sử trong quyển sách. Nhà quản trị kinh doanh của Quốc xã cũng mong những chi tiết nội tình của vụ bạo loạn ở nhà hàng bia, tấn kịch và trò nước đôi mà ông chắc chắn sẽ khiến quyển sách thu hút người đọc. Nhưng Hitler đã quá khôn lanh về điểm này, không muốn khơi lại đống tro tàn trong khi Đảng Quốc xã đang bị loại ra ngoài vòng pháp luật. Không có mấy lời nói đến vụ bạo loạn bất thành trong quyển Mein Kampf. Mời các bạn đón đọc.