Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí mật Shakespeare - Jennifer Lee Carrell

Sau khi ra mắt (từ tháng 1/2008), “The Shakespeare Secret” (Bí mật Shakespeare) hay còn có tên khác là “Interred with Their Bones” - tiểu thuyết đầu tay của Jennifer Lee Carrell đã lọt vào top 5 cuốn sách bán chạy nhất. Tác phẩm tạo thành một hiện tượng mới của làng xuất bản Mỹ với mức độ thành công tương đương với “Mật mã Da Vinci” của Dan Brown. The Shakespeare Secret (Bí mật Shakespeare) là một tiểu thuyết ly kỳ liên quan đến một vở kịch bị mất của Shakespeare, vở kịch The History of Cardenio. Vào một ngày tháng 6 năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dựng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị, khoa trương của trường ĐH Harvard chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho cô bạn mình là Katharine Stanley - đạo diễn người Mỹ đang dựng vở kịch Hamlet ở nhà hát Globe - một hộp nhỏ gói giấy vàng.  Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta đã giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind, chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời nữ hoàng Victoria được trang trí những bông hoa liên quan đến Ophelia, đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah; Arizona; Washington, D.C.; và quay trở lại London. Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo của vụ giết người.  Từ những tài liệu của Shakespeare cho đến những hầm mỏ hoang tàn, từ hiện tại đến quá khứ, tiểu thuyết tâm lý hành động của tác giả Jennifer Lee Carrell chứa đựng nhiều bất ngờ, hồi hộp và thú vị. Sức hút của tác phẩm được thể hiện rất rõ qua viện Bản quyền tác phẩm đã bán cho 20 quốc gia trên toàn thế giới. *** Một ngày tháng Sáu năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dụng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho Katharine Staley - đạo diễn người Mỹ một hộp nhỏ màu vàng. Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đáng ngờ đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời Nữ hoàng Victoria đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah Anzona… Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết một cách bất ngờ khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo… “Những điều xấu xa người ta làm vẫn sống sau họ, trong khi những điều tốt đẹp thường bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ.” Bí mật Shakespeare đã tạo ra một hiện tượng mới trong làng xuất bản Mỹ, với mức độ thành công tương đương với Mật mã Da Vince của Dan Brown. *** LỜI TÁC GIẢ: Một buổi tối mùa thu khi tôi mới bắt đầu vào đại học, trong lúc đang lục lọi tìm kiếm giữa những cuốn sách cũ trong căn phòng phía sau thư viện Child, góc riêng tư của khoa Anh văn nằm ở một góc tầng trên cùng thư viện Widener của trường Harvard, tôi bắt gặp bộ sách bốn tập: Sân khấu thời Elzabeth của E. K. Chambers, xuất bản năm 1923. Tôi lần lượt giở qua từng tập. Những tập sách này đầy ắp thông tin, phần lớn chúng tôi không biết có thể sử dụng làm gì, chẳng hạn như ghi chú rằng “rất nhiều diễn viên thời Elizabeth cũng là nghệ sĩ nhào lộn, và hiển nhiên có thể đi trên dây”. Tuy vậy, ở cuối tập ba, tôi tìm thấy vài trang nói về những vở kịch của Shakespeare, gồm cả một mục ngắn có tên “Những vở kịch đã thất lạc.” Tôi biết phần lớn những vở kich được viết bằng tiếng Anh thời Phục hưng đã không tồn tại được đến ngày nay, và vì thế tôi nghĩ - một cách mơ hồ - rằng một số tác phẩm Shakespeare sáng tác chắc chắn cũng đã thất lạc. Điều làm tôi ngạc nhiên là Chambers biết được một vài điều về những tác phẩm đã mất. Đập vào mắt tôi, bằng giấy trắng mực đen, là hai cái tên, và trong trường hợp của vở kịch Cardenio còn có cả nội dung sơ lược. Tôi bắt đầu tự hỏi sẽ ra sao nếu tìm được một trong những vở kịch này. Ở nơi nào người ta có thể khám phá ra một thứ như vậy? Và khoảnh khắc của sự khám phá sẽ như thế nào? Và liệu một khám phá như thế sẽ ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của một người - ngoài việc hiển nhiên người đó sẽ lập tức trở nên giàu có và nổi tiếng? Nhưng địa điểm thích hợp nhất để tìm kiếm những vở kịch thất lạc của Shakespeare là các thư viện ở châu Âu và những ngôi nhà cổ. Nhưng tất nhiên, nếu một vở kịch nằm ở nơi dễ đoán như vậy, thì nó đã được tìm ra từ lâu. Theo cách chủ quan của những kẻ nằm mơ ban ngày, tôi bắt đầu suy nghĩ xem ở nơi nào ngoài nước Anh, và cụ thể hơn, ở một số địa điểm tôi có thể thực sự tìm thấy nó, chẳng hạn New England (hay ít nhất nơi nào đó ở hành lang Đông Bắc giữa Boston và Washington D. C. ) hay vùng sa mạc phía tây nam. Thỉnh thoảng, tôi đi xa đến mức tìm kiềm những chiếc hộp đựng những cuốn sách sờn cũ trong cửa hiệu bán đồ cổ nằm trong những ngôi nhà thô kệch sau nhưng con đường mà tôi tình cờ đi qua trong lúc lang thang ở New England. Nhưng chẳng có ai lại để, cho dù một khổ thơ của Shakespeare chứ đừng nói tới cả tập bản thảo, nằm yên tại đó. Ở đâu đó trên bước đường tìm kiếm, tôi tự thừa nhận với mình rằng sẽ chẳng bao giờ tôi thực sự tìm thấy một trong các vở kịch thất lạc của Shakespeare - và rằng có thể sẽ thú vị hơn khi biến nó thành một câu chuyện, vì như thế tôi có thể kiểm soát những gì xảy ra, và xảy ra với ai. Và sau đó tôi nghĩ - tại sao không bám lấy bí mật khác thậm chí còn lớn hơn về Shakespeare? Ông là ai? Tôi đã mất hơn một thập kỉ chỉ để bắt đầu, nhưng Bí mật Shakespeare hay Chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ là kết quả. Đoạn văn trong tập sách của Chambers khởi đầu cho toàn bộ câu chuyện này, với vài chỉnh sửa nhỏ, chính là đoạn văn mà Kate đã đọc trong truyện. Những địa điểm liên quan tới Shakespeare xuất hiện trong cuốn tiểu thuyết đều là những địa danh có thật, mặc dù tôi đã tự cho phép mình hư cấu đôi chút ở một vài chỗ cho phù hợp với mạch chuyện. Những giả thiết về danh tính thực của Shakespeare cũng đều có thật - ít nhất với tư cách là những giả thiết. Cuối cùng, rất nhiều nhân vật lịch sử được hư cấu từ các sự kiện có thật. Tất cả các nhân vật hiện đại đều là hư cấu. Một mục ghi chú trong cuốn Đăng kí Stationers (một dạng bản quyền sơ khai ở nước Anh) xác nhận Shakespeare là đồng tác giả của vở kịch Cardenio cùng với John Fletcher, người kế tục ông trong vai trò nhà soạn kịch chính cho đoàn kịch của nhà vua (và cũng là đồng tác giả với ông trong nhiều vở kịch khác). Tôi chọn “tìm ra”  Cardenio vì trong hai vở kịch đã thất lạc mà chúng ta biết nhan đề, đây là vở kịch chúng ta biết được nhiều chi tiết về nội dung hơn, và cũng bởi vì nguồn gốc của vở kịch này, từ cuốn tiểu thuyết Don Quixote của Miguel de Cervantes, cho nó một mối liên hệ mơ hồ với vùng thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ, và do đó liên quan tới vùng tây nam nước Mỹ - một vùng đất tôi yêu mến, và là nơi tôi muốn các nhân vật của mình chơi trò đi tìm kho báu với vở kịch của Shakespeare. Vở kịch thất lạc còn lại - những nổ lực vì tình yêu được đền đáp - đã biến mất hoàn toàn, nhưng Cardenio đã xuất hiện trở lại dưới dạng bản thảo vào thế kỉ mười tám, khi Lewis Theobald “hiện đại hóa” nó trên sân khấu London. Bản thảo gốc, mà phần lớn học giả chấp nhận coi là xác thực, đã thất lạc, nhưng một bản rút gọn với cái tên Hai sự dối trá [sic] đã tồn tại tới ngày nay. Nhìn chung, bản phóng tác này thực sự kinh khủng đúng như Kate nói: đầy những lỗ hổng, chằng chịt những chỗ vá víu vụng về như khuôn mặt của Frankeinstein. Tuy vậy, rải rác trong bản thảo này có những câu có vẻ như đúng là do Shakespeare hay Fletcher - ở mức độ từng câu riêng lẻ, khó mà phân biệt giữa sự phụ hay đồ đệ, cũng giống như việc phân biệt giữa tranh của Rembrandt với tranh có xuất xứ từ “xưởng họa của Rembrandt” ở mức độ nhát cọ. Hai sự dối trá là nguồn gốc của những từ mà Kate cũng như những người khác đã nhận định là của Shakespeare trong cuốn tiểu thuyết này. Ngoại lệ duy nhất là câu chỉ đạo diễn xuất và dòng thoại về Sancho và Don Quixote: tôi phải mang gánh nặng trách nhiệm về những câu này vì trong bản rút gọn tôi đang nói đến không còn chút dấu vết nào của nhà quý tộc già điên rồ cùng anh hầu thực dụng của ông. Tuy vậy, giống như Kate, tôi muốn nghĩ rằng Shakespeare hẳn sẽ nhìn ra hai người này là không thể thiếu cho sự trào phúng và dẫn dắt mạch chuyện, và do đó chắc đã đưa họ vào dưới một dạng dẫn chuyện nào đó. Tôi đã đọc một giả thiết học thuật, do Richard Wilson đưa ra trong cuốn Shakespeare bí mật (Đại học Manchester xuất bản năm 2004) , cho rằng Cardenio có thể có mối liên hệ nào đso với gia đình Howard và cái chết của hoàng tử Henry. Gia đình Howard ủng hộ Tây Ban Nha và là những tín đồ Thiên chúa giáo bí mật, và nổi tiếng đố kỵ, nhất là bá tước Northampton và cháu ông ta, bá tước Suffolk (Để cho đơn giản, tôi sử dụng tước vị này để nói về hai người đó trong cuốn tiểu thuyết, mặc dù cả hai chỉ được phong bá tước sau khi vua James lên ngôi). Đúng là có những lời đồn đại về mối quan hệ tình ái giữa Frances Howard và hoàng tử, và theo những lời đồn “sự kiện chiếc găng tay” đã thực sự xảy ra (mặc dù tên của quý bà vẫn được giữ kín) ; câu chuyện khủng khiếp về việc Frances đầu độc một trong những tình nhân của chồng bằng những chiếc bánh tẩm thuốc độc đã được ghi lại rất chi tiết trong các tài liệu tư pháp, và bà ta đã thực sự bị phán quyết là có tội trước tòa. Tuy nhiên, chi tiết về những rắc rối của gia đình Howard và Shakespeare và nhà hát Quả cầu hoàn toàn do tôi tưởng tượng ra. Trong khi cách đơn giản nhất nói rằng William Shakespeare người Stratford đã viết những vở kịch mang tên ông, vẫn có rất nhiều ý kiến phản biện, từ thú vị gây tò mò tới thô thiển kỳ quặc, cho rằng có thể không phải như vậy. Tuy nhiên, vấn đề chính mà mọi giả thiết về “một người khác” đều không tránh khỏi, đó là tất cả đều đòi hỏi một sự đồng thuận im lặng: Nếu có một ai khác đã viết những vở kịch, thì chưa từng ai tiết lộ bí mật này. Trong một môi trường đầy rẫy những chuyện ngồi lê đôi mách, nói xấu sau lưng, những lời châm chọc đến mức chuyên nghiệp như tại triều đình của Elizabeth và James, đây là một thiếu sót không nhỏ. Nhiều hiệp hội của những người “chống lại giả thiết người Stratford (anti-Stratfordian)” hiện vẫn tồn tại - từ những tổ chức học thuật cho tới những nhóm theo lý thuyết âm mưu mang tính sùng bái. Rất nhiều người hâm mộ giải mã nhưng thông điệp được mã hóa mà theo họ tiết lộ danh tính của rất nhiều rác giá khác như là tác giả thực thụ, người đã ẩn danh một cách có chủ ý, của những tác phẩm được xuất bản dưới cái tên của “William Shakespeare”. Hai cái tên thay thế mà số người ủng hộ nhiều nhất - và cũng đáng tôn trọng nhất - là bá tước Oxford và Francis Bacon. Các ứng viên sáng giá khác gồm Christopher Marlowe; Edmund Spence; Philip Sidney và em gái ông Mary Herber, nữ bá tước Pembroke; Nữ hoàng Elizabeth; Walter Raleigh; bá trước Southampton, Derby, và Rutland, và một hội đồng bí mật gồm tất cả những người kể trên, được cho là do Bacon, hay Oxford, hoặc cả hai, chủ tọa. Còn điên rồ đến mức khó lý giải hơn là những người ủng hộ cho Henry Howard, bá tước Sussex (bị chặt đầu bốn mươi tư năm trước buổi công diễn đầu tiên một vở kịch của Shakespeare) và Daniel Defoe (ra đời bảy mươi năm sau buổi công diễn đầu tiên vừa nhắc tới ở trên). Một bổ sung mới nhất cho danh sách thu hút được sự chú ý nghiêm túc là vị triều thần khiêm tốn Henry Neville. Edward de Vere, bá tước Oxford đời thứ bảy, hiện là nhân vật được những người anti-Stratfordian ưa thích nhất. Những đoạn đảo chữ và ám chỉ về Oxford tromg cuốn sách này trên thực tế đều đã được đưa ra làm bằng chứng để chứng minh rằng bá tước là người viết các vở kịch. Như Athenaide đã chỉ ra, họ của ông ta - Vere - có liên quan tới từ Latinh verum, hay “sự thật” , theo một truyền thống lâu đời, và câu phương châm của gia đình ông ta - Vero nihil verius, tức “Không có gì đúng hơn sự thật” cũng tham dự vào mối liên hệ này. Đó là cách làm của những người ủng hộ ông ta ngoài đời thực: tìm kiếm những quan hệ “nghi ngờ” hay “có ý ngĩa” tới sự thật về Shakespeare. Từ “ever” là một bằng chứng thuyết phục khác. Người đầu tiên ủng hộ Oxford (hay Oxfordian) một cách nghiêm túc là J. Thomas Looney (đọc là “Loney” ), cuốn sánh Nhận diện “Shakespeare” của ông được xuất bản năn 1920 đã thuyết phục được nhiều người, trong đó có Sigmund Freud. Tuy vậy, Francis Bacon mới là tác giả thay thế được nhắc tới sớm hơn cả; những lập luận nghiêm túc nghiêng về ông đã được Delia Bacon và một vài người khác đưa ra từ những năm 1850. Những người ủng hộ Bacon (hay các Baconian) đã nghiên cứu kỹ lưỡng những tác phẩm của Shakespeare và các tác pharm thời Phục hưng khác với một sư hăng say mãnh liệt, khám phá ra vô số đoạn đảo chữ, ẩn ngữ theo chữ cái đầu, mật mã số và từ đồng nghĩa (thường là về “hog” (lơn thịt) và “bacon” (thịt muối) mà theo họ đã chỉ ra người hùng của họ chính lá tác giả các vở kịch; và thêm vào đó Bacon còn thường được cho là con trai của Nữ hoàng Elizabeth). Một số người thậm chí còn đi xa tới mức xem xét những buổi lên đồng hay đi đào trộm mộ. Tuy vậy, không phải tất cả những người ủng hộ Vacon đều dễ dàng bị khuất phục; trong số họ có cả các học giả, tác giả, luật gia, và thẩm phán ở cả nước Anh lẫn nước Mỹ. Tính đến nay bài viết mà các Baconian thích đọc nhất là bài tiểu luận của Mark Twain - “Có phải Shakespeare đã chết?”. Cho dù anh ta còn là gì khác nữa, chắc chắn Bacon là một người vừa xuất chúng vừa khôn ngoan. Đã từng có thời gian là chánh án của Hoàng gia, ông đã phát minh ra một hệ thống mật mã phức tạp đáng khâm phục mà Jem Branville đã sử dụng trong cuốn tiểu thuyết này. Bacon đã công bố mật mã năm 1623, cùng năm Tuyển tập Đầu tiên xuất hiện. Người đề xướng ra cái tên của bá tước Derby đời thứ sáu là Abel Lefranc, nhà nghiên cứu lịch sử văn học Pháp và giáo sư trường đại học Pháp, vào những thập kỷ đầu của thế kỉ hai mươi. Bất chấp tên của Derby (William) , những chữ cái đầu tiên tên goi (W. S. ), và cuộc đời nằm trong khoảng thời gian phù hợp, với những người nói tiếng Anh, tư cách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. ách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. Tác phẩm không hư cấu (và cũng không thiên vị) đáng chú ý nhất nói về những tranh cãi về tư cách tác giả này là cuốn Ai đã viết những tác phẩm của Shakespeare? Của John Mitchell (Thames và Hudson, 1996). Về một cái nhìn ủng hộ Shakespeare người Stratford, xin mời xem Cuộc điều tra vì Shakespeare của Scott McCrea (Praeger, 2005). Nhà hát Quả cầu nguyên bản bị cháy rụi vào ngày 29 tháng Sáu năm 1613 (một ngày thứ Ba, theo lịch Julian cũ) trong một buổi biểu diễn vở Henry VIII, sau đó được biết đến với cái tên Tất cả đều đúng. Theo những gì đã biết cho tới nay, đó là một tai nạn, do những tia lửa từ những phát đại bác bắn ra làm hiệu ứng đặc biệt rơi vào mái rạ. Những nhân chứng tận mắt chứng kiến đã thuật lại có một người đàn ông bị bỏng nhẹ trong khi cứu một đứa bé bị kẹt trong đám cháy; lửa bám vào người anh ta được dập tắt bằng bia. Nhà hát Quả cầu mới đúng là tòa nhà đầu tiên lợp mái rạ được chấp nhận ở khu vực phụ cận London từ sau vụ cháy lớn năm 1666. Những công trình kỉ niệm và nà hát về Shakespeare ở Stratford-upon-Avon đều nổi tiếng trên toàn thế giới. Thư viện Folger về Shakespeare ở trên đồi Capitol tại Washington D. C. sở hữu bộ sưu tập phong phú nhất về Shakespeare. Witon, tư gia của bá tước Pembroke, là một trong số ít địa điểm mà Shakespeare chắc chắn đã từng tới thăm còn tồn tại đến ngày nay - việc ông từng có mặt ở đây còn chắc chắn hơn tại bất cứ tòa nhà nào ở Stratford, ngoại trừ nhà thờ nơi ông được an táng. Bản copy tại tại Wilton, đài tưởng niệm Shakespeare ở Westminster cùng những thay đổi và những chữ cái viết hoa lạ lùng đều chính xác, mặc dù tôi đã tưởng tượng ra những màu sơn nhấn mạnh sự đảo chữ. Cũng như vậy, có một loạt tranh về chủ đề Arcadia trong gian phòng theo phong cách Palladian vẫn được gọi là phòng Lập phương, mặc dù tôi đã hư cấu đôi chút cho phù hợp với câu chuyện của mình. Ngăn hốc bí mật đằng sau một trong những bức họa đó là do tôi tưởng tượng ra. “Bức thư bị thất lạc” của nữ bá tước gửi cho con trai, nói rằng “chúng ta đang có Shakespeare ở đây” , đã được đề cặp tới trong tài liệu vào thế kỉ mười chín, nhưng từ đó tới nay chưa có học giả nào được nhìn thấy tận mắt. Bức thư của Will gửi cho con Thiên nga Ngọt ngào nhất là do tôi hư cấu. Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid được vua Tây Ban Nha Philip II thành lập nhằm mục đich đào tạo các thanh niên người Anh thành tu sĩ  Thiên chúa giáo và (theo cách nhìn của Nữ hoàng Elizabeth) gây ra những cuộc nổi loạn tôn giáo tại đất nước họ. Học viện này hiện vẫn tồn tại đào tạo thanh niên người Anh thành tu sĩ. Trong thư viện tuyệt vời của học viện này đã từng có một cuốn Tuyển tập Đầu tiên, nhưng tôi được nghe kể lại cuốn sách đã bị bán đi vào đầu thế kỉ hai mươi. Vào năm 1601, tám năm sau khi Christopher Marlowe bị sát hại, một “Christopher Morley” - tên gọi Marlowe từng sử dụng khi còn sống - được ghi lại trong tư liệu lưu trữ là đang theo học tại học viện. Tới năm 1604, Cervantes cũng có mặt tại thành phố này và hoàn tất Don Quixote tại đây. Những khu mỏ, thị trấn, và các nhà hát liên quan đến Shakespeare tồn tại nhiều vô số kể ở khắp miền tây Hoa Kỳ: những khu mỏ được đặt tên theo các nhân vật và vở kịch của Shakespeare rải rác khắp dãy núi Colorado. Nghiên cứu của Roz về chủ đề này chính là của tôi, được tiến hành cho một bài viết tôi thực hiện cho tạp chí Smithsonian với tên gọi “Một thi sĩ đã chinh phục miền Tây như thế nào” [Tháng Tám, 1998]. Thành phố Cedar, nằm ở vùng núi đá đỏ au của bang Utah, là nơi diễn ra Festival về Shakespear ở Utah, thành phố này rất tự hào về một bản sao mới xây lại của nhà hát Quả cầu thời Elizabeth - mặc dù tôi đã thêm vào Văn khố Preston dưới dạng bản sao ngôi nhà Shakespeare ra đời tại Stratford-upon-Avon. Vụ cá cược về vai diễn Hamlet của Jem Granville được lấy cảm hứng từ một vụ cá cược có thật đã diễn ra vào năm 1861 ở Denver. Tôi đã xây dựng nội dung những bài báo trong tiểu thuyết từ những phóng sự trên tờ Tin tức Rocky Moutain thuật lại một cách chi tiết cuộc cá cược có thật trong lịch sử này. Thị trấn ma mang tên Shakespeare nằm ở miền tây New Mexico, gần Lordsburg, trên biên giới bang Arizona; tôi đã nghe được câu chuyện về Bean Belly Smith vài lần từ những người chủ nhà. Tuy nhiên, tòa dinh thự của Athenaide nằm ở cuối con đường duy nhất của thị trấn là do tôi hư cấu thêm, mặc dù tòa lâu đài “nguyên bản” của Hamlet mà dinh thự đó mô phỏng theo là một địa điểm có thật - lâu đài Kronborg ở ngoại ô Elsinore (hay Helsingor) ở Đan Mạch, cũng như đại sảnh khiêu vũ tại lâu đài Hedingham, nơi đã từng là tư dinh của bá tước Oxford. Sự ám ảnh của những người theo trường phái Oxfordian với vở kịch Hamlet là có thật; những người này đã diễn giải giải vở kịch như một cuốn tự truyện được mã hóa của ứng cử viên họ ủng hộ. Như nhận xét của Kate và Athenaide, quả thực vở kịch có không ít điểm tương đồng đến kỳ lạ với cuộc đời của Oxford. Học giả người Mỹ Delia Bacon đã bị điên năm 1857 trong khi đang viết tác phẩm nổi tiếng Làm sáng tỏ [sic] triết lý trong những vở kịch của Shakespeare. Câu chuyện bà thức trắng đêm trước ngôi mộ của Shakespeare tại nhà thờ Thánh Ba ngôi ở Stratford được tái hiện theo đúng lời kể của chính bà về sự kiện này, trong một lá thư gửi cho người bạn Nathanien Hawthorne. Mục sư của nhà thờ Thánh Ba ngôi, Granville J. Granville, đã cho phép bà làm việc đó; mục sư Granville có vài người con, nhưng Jeremy (Jem) là do tôi hư cấu thêm vào gia đình ông. Cũng như vậy, bác sĩ George Fayrer đúng là người đã đưa Delia vào trại điên tư của ông ở Henley-in-Arden vào ngày 30 tháng Mười một năm 1857, nhưng cô con gái Ophelia của ông hoàn toàn là sản phẩm từ trí tưởng tượng của tôi. Francis J. Child là giáo sư Anh văn tại Đại học Harvard từ năm 1876 cho tới tận khi ông qua đời năm 1896; bộ sưu tập các bản ballad bình dân của Anh và Scotland do ông thực hiện cho đến nay vẫn là một trong những công trình học thuật lớn về văn học Anh. Ông cũng là một học giả xuất sắc về Shakespeare. Giống như trong tiểu thuyết, hoa hồng là một niềm đam mê lớn nữa của đời ông (và quả thực có một cây hồng Lady Banks lâu năm rất nổi tiếng mọc trong vường sau một nhà trọ - ngày này là bảo tàng - ở Tombstone, bang Arizona, mặc dù tôi đã lùi thời gian nó được trồng sớm lên vài năm). Tôi hy vọng hương hồn ông sẽ tha thứ cho tôi vì đã gán cho ông một đứa con sinh ra từ tình yêu. Những bài sonnet của Shakespeare có vẻ được viết một cách rõ ràng dành cho chàng thanh niên tóc vàng rụt rè hoặc quý bà tóc đen bí hiểm, thi sĩ có vẻ như bị ràng buộc với hai người này trong mối tình tay ba. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã bỏ công sức nhằm xác định xem quý bà và chàng thanh niên là ai; chưa ai trong số hai nhân vật bí ẩn này được xác định danh tính một cách thuyết phục. Trong mười bảy bài sonnet đầu tiên, Shakespeare cầu khẩn chàng thanh niên hãy có một đứa con. Thật đáng tò mò, lòi nói đầu của Theobald cho vở kịch Hai sự dối trá có ảm chỉ đến một người con gái ngoài giá thú của Shakespeare chưa từng được nhắc tới ở bất cứ nơi nào khác. Thi sĩ - người kể chuyện của những bài sonnet bị giày vò bởi ngọn lửa ghen tuông vì mối quan hệ giữa chàng thanh niên và quý bà tóc đen, việc gán đứa bé gái này cho quý bà và làm cho danh tính người cha đưa bé mơ hồ cũng là tự nhiên - nhưng mối liên hệ này là do tôi hư cấu nên và không hề được tìm thấy trên thực tế. Nicholas Hilliard quả thật là họa sĩ nổi bật nhất nước Anh vào thời Shakespeare còn sống; theo một nghĩa nào đó, có thể coi ông như là Shakespeare của mỹ thuật. Hilliard chuyên vẽ những bức chân dung cỡ nhỏ với những chi thiết tinh xảo, chính xác như một bức ảnh chụp. Bảo tàng Victoria và Albert ở London sở hữu một bức chân dung như vậy, vẽ một người đàn ông với hậu cảnh là những ngọn lửa. Thomas Shelton là quản gia mang hai dòng máu Anh và Ireland của gia đình Howard, đúng là người đã dịch Don Quixote sang tiếng Anh; bản dịch của ông ta được xuất bản năm 1612. Trong khi người em của ông ta chỉ là nhân vật hư cấu, trên thực tế đã có một số lượng không nhỏ người Anh theo Công giáo mộ đạo bí mất trốn tới lục địa để học tại các trường dòng giống như Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid. Những tu sĩ Jesuit người Anh thường được gửi trở lại Anh để coi sóc phần hồn cho những tín đồ Thiên chúa giáo ở nước này một cách bí mật. Những tu viện xuất hiện sớm nhất ở Santa Fe và vùng lân cận, ở khu vực hiện nay là bang New Mexico, đều thuộc dòng tu Franciscan. Người bản địa châu Mỹ ở khắp vùng tây nam - lúc đó là Tân Tây Ban Nha với người Âu - liên tiếp nổi dậy trong thế kỉ mười bảy, tàn sát những người Tây Ban Nha xâm lược, đặc biệt là các tu sĩ. Dãy núi Dragoon ở vùng đông nam Arizona là căn cứ địa của người Apache cho tới khi Geronimo bị bắt năm 1886. (Người thủ lĩnh Apache vĩ đại Cochise yên nghỉ ở một địa điểm bí mật nào đó trong những dãy núi này). Mặc dù tôi đã hư cấu ra hẻm núi và khu hang động trong đó Kate tìm thấy kho báu bị chôn vùi cùng những bộ hài cốt, quả thực vùng này chứa đựng vô số hang động. Hang động Kartchner nằm gần đó (và mới được phát hiện gần đây) là một ví dụ tuyệt vời về những “cung điện tự nhiên” mà những lòng núi rỗng chắc hẳn vẫn còn ẩn giấu. “Chữ ký” trong cuốn Kinh thánh của vua James vẫn luôn nằm đó cho bất kỳ ai muốn xem (hay muốn đếm). Tại sao nó lại có mặt ở đó là câu hỏi vẫn chưa được giải đáp, và tôi cũng không rõ ai đã “phát hiện” ra nó. Không ai biết rõ bài Thánh thi số bốn mươi sáu, hay toàn bộ Sách các Thánh thi, được hoàn thành vào thời điểm nào (mặc dù thời điểm đó chắc chắn nằm giữa năm 1604 và 1610) , hay ai đã phụ trách bài Thánh thi nào. Cả Lancelor Andrewes, thu viện trưởng Westminster và sau đó là giám mục Chichester, và Laurence Chaderton, hiệu trưởng trường Đại học Emmannuel ở Cambridge, đều là những nhà thần học đã tham gia biên soạn cuốn Kinh thánh, và Chaderton, một người theo Thanh giáo, là thành viên của “Ủy ban Cambridge thứ nhất” được phân công phụ trách các bài Thánh thi. Tuy nhiên, bức thư của giám mục có nói đến Chaderton là do tôi tưởng tượng ra. Mặt khác, ngày tháng năm sinh của Bacon, Derby, và nữ bá tước Pembroke đều dựa trên các tư liệu lịch sử chính thức. Biến một giấc mơ giữa ban ngày thành một cuốn tiểu thuyết hóa ra lại cần đến vô số sự giúp đỡ và lời động viên. Trước hết và trên hết, tôi muốn cám ơn Brian Tart và Mitch Hoffman, sự kiên nhẫn cùng đôi mắt sáng suốt của họ đã giúp tôi định hình cuốn sách này. Bằng cách nào đó, họ đã giúp tôi luôn giữ được tiếng cười. Neil Gordon và Erika Imranyi đã giúp quá trình sáng tác của tôi được trôi chảy. Noah Lukeman tin chắc đây là cuốn sách tôi nên viết và đã làm những điều kỳ diệu để biến nó thành sự thật. Vì những ý kiến chuyên môn và tư liệu về nhiều lĩnh vực mà họ đã cung cấp, tôi cũng muốn gửi lời cám ơn tới Ilana Addis, Michelle Alexander, Kathy Allen, Bill Carrell, Jamie de Courcey, Lionel Faitelson, Dave và Ellen Grounds, cha Peter Harris, Jessica Harrison, Charlotte Lowe-Bailey, Peggy Marner, Karen Melvin, Kristie Miller. Liz Ogilvy, Nick Saunders, Brian Schuyler, Dan Shapiro, Ronald Spark, Ian Tennent, và Heidi Vanderbilt. Diễn đàn Straw Bale và Câu lạc bộ văn học Tucson đã được nghe một số trang bản thảo ban đầu, và để được tham dự vào hai nhóm này, tôi phải biết ơn Bazy Tankersley. Tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt tới tiến sĩ Javier Burrieza Sanchez, thủ thư và quản lý văn khố tại Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid; tới Nigel Bailey, người quản lý, và Carol Kitching, hướng dẫn viên chính tại dinh thự Wilton và Wiltshire; và tới Sarah Weatherall tại nhà hát Quả cầu của Shakespeare, London. Tập thể nhân viên thư viện Folger ở Washington D. C. , cũng như nhà thờ Thánh Ba ngôi và trung tâm Thư viện Shakespeare, đều ở Stratford, cũng đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Hơn bất cứ ai khác, Marge Garber đã góp phần định hình suy nghĩ của tôi về Shakespeare trên những trang giấy. Những thành viên của đoàn sân khấu Hyperion tại trường Harvard, trong những năm 1996 - 1998, và Shakespeare & Company, tại Lenox, Massachusetts, đã dạy cho tôi biết tất cả những gì về Shakespeare trên sân khấu. David Ira Goldstein và đoàn kịch Arizona đã đón tiếp tôi đến với thế giới của sân khấu chuyên nghiệp như một người khách thường xuyên. Ba người đã lắng nghe, đọc và nhận xét không ngừng trong suốt quá trình cuốn sách này hình thành: Kristen Poole, học giả, người kể chuyện, và người bạn: mẹ tôi, Melinda Carrell, người đầu tiên truyền cho tôi tình yêu với những cuốn sách; và chồng tôi, Johnny Helenbolt. Không gì có thể nói hết lòng biết ơn của tôi dành cho Johnny. *** Jennifer Lee Carrell sống tại Tucson, Arizona, Mỹ. Bà có bằng tiến sĩ về văn học Anh và Mỹ, chuyên đạo diễn các vở kịch của Shakespeare cho đoàn sân khấu Hyperion. Jennifer Lee Carrell là một tác giả người Mỹ của ba cuốn tiểu thuyết và nhiều bài viết cho Tạp chí Smithsonian và Ngôi sao hàng ngày Arizona   Mời các bạn đón đọc Bí mật Shakespeare của tác giả Jennifer Lee Carrell.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ba Ngày Và Một Đời
Bạn chờ đợi gì ở tác phẩm tiếp theo của một nhà văn vừa giành Giải Goncourt danh giá nhất nước Pháp? Nhất là khi giải thưởng ấy đã được trao cho tác phẩm không-trinh-thám đầu tiên của nhà văn chuyên viết trinh thám? Với Ba ngày và một đời, Pierre Lemaitre đã có một lời đáp thật khéo léo cho những trông đợi ấy. Ba năm sau giải Goncourt, Lemaitre trở về với sở trường trinh thám, nhưng là kiểu trinh thám rất khác với những gì ông viết trước đây. Một cốt truyện có thể tóm tắt được chỉ trong một câu nhưng chứa đựng câu chuyện của cả một đời người, và cả xã hội đương thời. Chậm rãi, u uẩn và đầy triết lý.   Bởi vậy, hãy quên hào quang của Hẹn gặp lại trên kia đi, hãy nhắm mắt lại và để Pierre Lemaitre dẫn bạn khám phá những ngóc ngách sâu kín trong đầu óc của một "kẻ sát nhân mười hai tuổi"! *** Ba ngày bi kịch quyết định cái chết của một đứa trẻ và sự sống sót của một đứa trẻ khác.  Một đời che dấu, dối trá, ác mộng và cảm giác tội lỗi, đắn đo giữa việc tới gõ cửa sở cảnh sát hay cứ lặng lẽ mà sống tiếp.   *** Ba ngày và một đời là tiểu thuyết trinh thám đánh dấu sự trở lại của nhà văn nổi tiếng nước Pháp Pierre Lemaitre. Sau thành công vang dội năm 2013 với giải thưởng Goncourt – giải thưởng văn chương danh giá nhất nước Pháp, Pierre Lemaitre đánh dấu sự trở lại cùng Ba ngày và một đời. Vẫn khai thác đề tài trinh thám quen thuộc, song tác phẩm này mang những đặc điểm rất khác so với những gì ông từng viết trước đây. Chậm rãi, u uẩn và đầy triết lý, một cốt truyện có thể tóm tắt được chỉ trong một câu nhưng chứa đựng câu chuyện của cả một đời người, và cả xã hội đương thời. Không hoàn toàn giống với Alex, ở Ba ngày và một đời, Pierre Lemaitre đã phá vỡ hoàn toàn lối viết trinh thám thông thường, khiến độc giả đôi khi tự hỏi: Liệu đây có phải một tiểu thuyết trinh thám? Câu chuyện bắt đầu từ một sự việc vặt vãnh trong một làng nhỏ hẻo lánh, kéo cậu nhóc Antoine 12 tuổi vào một cơn kích động không kiềm chế được, rồi dẫn tới án mạng. Bị tấn thảm kịch cuốn đi, Antoine mang theo mình bí mật khủng khiếp, một gánh nặng quá tầm đối với một cậu thiếu niên. Bắt đầu từ đây, Pierre Lemaitre dẫn độc giả tiến vào sâu hơn con đường rối rắm trong đầu óc một cậu nhóc 12 tuổi, để ta sống cùng cảm giác tội lỗi của cậu, trải qua cùng cậu từng phút hoảng loạn, từng giây ám ảnh. Cũng như nhân vật Raskolnikov của Dostoievski, Antoine luôn dằn vặt về tội ác mình đã gây ra và trong lòng luôn thường trực nỗi băn khoăn: thú tội hay trốn chạy. Ở những trang đầu, ta như được chứng kiến phiên bản hiện đại của Tội ác và trừng phạt. Nhưng với bàn tay lão luyện của người đã có mười năm viết trinh thám, Pierre Lemaitre cuốn người đọc vào những nút thắt mở liên tục, thôi thúc ta đọc tiếp, không một phút ngơi nghỉ. Phần sau cuốn sách đặt người đọc vào một quãng thời gian sau đó, khi Antoine đã lớn hơn. Ta gặp lại tất cả những người chủ chốt liên quan đến vụ án năm xưa trong một cuộc đời mới. Sự pha trộn những sự vụ trong quá khứ với những hệ quả hiện hữu ở hiện tại khiến cuộc sống của Antoine có thêm những góc độ mới. Những gì còn lại từ quá khứ đóng vai trò quan trọng trong từng quyết định cũng như trong số phận sau này của nhân vật chính. Và những tiết lộ cuối cùng mà Pierre Lemaitre mang lại cho độc giả thật sự ngoài sức tưởng tượng. Bất ngờ, hợp lý và đáng suy ngẫm. Một cuốn sách không dồn dập, mau lẹ với những tình huống cấp tập, mà sâu sắc và đầy ẩn ý. Bởi vậy, hãy quên hào quang của Hẹn gặp lại trên kia đi, hãy nhắm mắt lại và để Pierre Lemaitre dẫn bạn khám phá những ngóc ngách sâu kín trong đầu óc của một “kẻ sát nhân mười hai tuổi” trong Ba ngày và một đời! Theo Bookaholic.vn *** Ba ngày và một đời có thể được tóm gọn trong một câu thế này: Câu chuyện diễn ra trong ba ngày và gây ám ảnh cả một cuộc đời. Ngày thứ nhất, cậu bé ấy giết người. Ngày thứ hai, cậu ta cùng gia đình nạn nhân đi tìm hung thủ. Ngày thứ ba, một cơn bão đã cuốn phăng tất cả mọi thứ, chôn vùi luôn cả bí mật mà cậu muốn che giấu suốt cuộc đời mình. Hung thủ được nêu đích danh ngay ở những chương đầu tiên, thậm chí phần giới thiệu ở bìa truyện phía sau quyển sách còn tiết lộ rằng kẻ sát nhân mới chỉ mười hai tuổi. Xuyên suốt quyển truyện không hề có những tình tiết phá án đuổi bắt hồi hộp, cũng không có quá trình điều tra bộ mặt thật của hung thủ. Tất cả chỉ là vụ giết người bí ẩn được đăng trên các phương tiện truyền thông nhưng lạ lùng thay, không có bất kỳ vết tích cụ thể nào được khẳng định. Ba ngày và một đời thể hiện đúng thứ tinh thần cần có của một quyển trinh thám xã hội, nặng về yếu tố tâm lý và khai thác những góc cạnh tối tăm trong suy nghĩ của nhân vật. Tớ nghĩ về mặt này Pierre Lemaitre đã làm rất tốt, đặc biệt ở những phân đoạn đấu tranh nội tâm của hung thủ. Ba ngày và một đời đề cập một phần về xã hội Pháp, lấy một nhóm nhỏ để đại diện cho xã hội đương thời, tuy có hơi chủ quan vì không xét trên tổng thể rộng lớn, nhưng nhóm người mà ông khắc hoạ cũng đã đủ để tạo thành một xã hội thu nhỏ, nơi mà mỗi cá thể bị trói chặt lại bằng định kiến và ánh nhìn của người khác. Khi ta huỷ hoại cuộc sống của một ai đó, khi ai đó huỷ hoại cuộc sống của ta, ánh nhìn của xã hội đóng vai trò gì. Xã hội và cá thể không thể tách rời nhau, một cá thể có thể tác động lên xã hội và ngược lại, cả xã hội có tác động vô cùng to lớn đối với một cá nhân nhỏ bé. Câu hỏi mà hung thủ tự đặt cho chính mình cứ khiến tớ nghĩ hoài: Chấp nhận đầu thú, hay là chịu hình phạt trong tình trạng hoàn toàn tự do với cái giá phải trả là toàn bộ cuộc đời mình. Hẳn là không ai muốn đầu thú rồi, nhưng đầu thú rồi chấm dứt nỗi đau đó hay là sống với sự ân hận và niềm day dứt cho tới phút cuối cùng của cuộc đời, quả không dễ trả lời. Điểm duy nhất khiến tớ chưa hoàn toàn đánh giá cuốn này 4 sao là vì tác giả cho người đọc biết khá sớm về hung thủ, điều đó giống như một con dao hai lưỡi, nó vừa có thể khiến câu chuyện bớt đi một phần lôi cuốn vì người đọc đã biết trước, lại cũng có thể khiến câu chuyện trở nên hồi hộp và bí ẩn vì người đọc hẳn sẽ tò mò đến cuối cùng thì hung thủ sẽ bị vạch trần thế nào. Dẫu sao tớ cũng thích những quyển trinh thám đấu trí cân não, nhưng quyển này là trinh thám xã hội nên tạm thời gác lại vấn đề này. Thường thì trinh thám xã hội sẽ đưa ra câu trả lời Hung thủ là ai, rồi mới dẫn dắt người đọc đi tìm Hung thủ đã làm chuyện đó như thế nào. Có điều khoảng cách giữa “Là ai” và “Làm như thế nào” trong quyển này hơi ngắn. Ừm tớ chỉ nhận xét có vậy thôi. Dẫu sao trinh thám của Pierre Lemaitre cũng đáng để đọc thử mà. Đại khái thì nếu cậu tò mò thì hãy cứ đọc đi, mình đâu biết được mình thích một quyển sách cho đến khi cầm lên và đọc nó. Truyện này có thể không quá xuất sắc đối với những ai là fan cứng của thể loại trinh thám, còn đối với một đứa coi trọng yếu tố tinh thần của truyện như tớ thì nó đọc ổn. *** Thật là khó định danh thể loại cho tác phẩm này, bảo nó là trinh thám thì chắc chắn không phải rồi. Vậy thì cứ gọi nó là một cuốn tiểu thuyết tâm lý – tội ác đi. Cậu bé Antoine, vì gặp nhiều ức chế nội tâm không thể xả bỏ, đã vô tình đánh chết Rémi, đứa bé 6 tuổi con nhà hàng xóm. Quá sợ hãi, cậu đã giấu xác Rémi xuống cái hố sâu trong rừng và tình cờ làm sao, khi người ta đang ráo riết tìm kiếm Rémi thì một cơn bão xuất hiện. Cơn bão khủng khiếp đó đã phá tan thị trấn nhỏ, thậm chí thổi rạp cả khu rừng tội ác. Người ta bận rộn tái thiết thị trấn, tu sửa thiệt hại, hầu như không còn ai muốn quan tâm đến số phận Rémi nữa, Antoine thoát hiểm một cách ngoạn mục…   Thật ra, từ đầu đến cuối, Antoine luôn thoát hiểm, dù cho đó là lúc cậu lỡ tay đánh chết người, hay mười mấy năm sau, khi cậu đã trở thành bác sĩ của thị trấn, xác Rémi được tìm thấy, thì cậu vẫn lọt lưới. Nhưng cái giá để trả cho sự trong sạch giả tạo ấy quả thực không nhỏ nếu không muốn nói là cậu sẽ phải gánh nó trên vai, mãn kiếp. Một án chung thân của tòa lương tâm đại hình đã lặng lẽ tuyên ngay từ khi câu vung gậy… Cuốn sách này vừa mỏng vừa nhẹ, đã thế lại đầy chi tiết thừa thãi, thậm chí có chỗ còn thiếu logic, mạch văn ỡm ờ chậm không ra chậm nhanh không ra nhanh, ít ra cũng phải đến 1/3 nội dung có thể cắt bỏ mà không làm ảnh hưởng gì đến kết cấu truyện. Nhưng cái kết thì đặc biệt xuất sắc, chỉ vài trang cuối truyện đã làm cho giá trị cuốn sách tăng vọt, với tôi nó gần giống như một cú shock vậy. Và sau cái kết, có lẽ hiệu ứng đi kèm với nó là cảm giác thỏa mãn nhẹ nhàng. Thoát được tội ác do mình gây ra không đồng nghĩa với việc thoát được nỗi bất hạnh mà mình phải gánh chịu. Có lẽ, chỉ là có lẽ, ở một góc heo hút nào đó của nước Pháp, Antoine vẫn đang tự sám hối lỗi lầm. Trần Hùng *** Đọc Pierre Lemaitre nên xác định luôn rằng với nhà văn này, không có ranh giới định dạng thể loại trinh thám, tâm lý hay xã hội… tôi không thích việc nhất định phải định danh các tác phẩm của Pierre Lemaitre vào thể loại văn học gì (nếu nó là trinh thám thì phải như này như kia, nếu nó là xã hội thì phải thế này thế khác…), bởi ở Hẹn gặp lại trên kia là tác phẩm không trinh thám đầu tiên của tác giả thì nó cũng có yếu tố trinh thám, rượt đuổi, điều tra thông tin; ở Alex, Ba ngày và một đời dù được định danh là tiểu thuyết trinh thám song là kiểu trinh thám không cần thiết phải rõ nét vai trò của thám tử cảnh sát điều tra. Pierre Lemaitre thích các “bài thực hành ngưỡng mộ văn chương”, các câu văn, ý tứ có sự vay mượn của các tác giả mà ông ngưỡng mộ, tiếc rằng ở đối tượng người đọc trâu cũng như bò như tôi, thì chỉ nhận ra “bài thực hành ngưỡng mộ văn chương” của tác giả ở tiểu thuyết giành giải Goncourt Hẹn gặp lại trên kia. Chúng ta có trinh thám vừa đọc vừa suy đoán hung thủ hoặc vừa đọc vừa khớp tất cả mảnh ghép để hoàn thành bức tranh; trinh thám biết ngay hung thủ và sự thật từ đầu; trinh thám để mở, mỗi người đọc có một đáp án… Ba ngày và một đời là kiểu trinh thám có thể biết ngay hung thủ là ai từ khi chưa mở sách, chỉ cần tinh ý đọc text bìa cũng lờ mờ đoán ra thủ phạm, hoặc chỉ sau 20-30 trang đầu đã rõ mười mươi hung thủ. Thế thì tại sao còn đọc làm gì. Cái này là gout đọc, tôi đọc trinh thám không nhiều, lại thích trinh thám chậm, thiên về tâm lý nhân vật, các chi tiết rất nhỏ lẻ và thực ra không thích quy mô vụ án nhiều xác chết. Vụ án chỉ tầm ở mức tìm thấy một chiếc chìa khóa lạ của người đã khuất và muốn tìm hiểu chiếc khóa này mở cái gì thì với tôi cũng đáng đọc, miễn sao, quá trình điều tra thu thập xử lý thông tin được tác giả chú trọng vào các chi tiết rất nhỏ nhưng kỹ thuật quăng thả phải thật khéo, tâm lý nhân vật phải nhiều suy tư móc nối nhạy cảm, và cuối cùng, rất quan trọng, đã là văn học thì thể loại nào cũng vậy, phải nhiều tính văn chương (nhưng đừng sến quá). Ba ngày và một đời kể một câu chuyện rất đơn giản, cậu bé 12 tuổi Antoine với nhiều vấn đề bị dồn nén không giải quyết được đã lỡ tay dùng gậy phang vào đầu (chỗ hiểm) của cậu bé 6 tuổi Rémi và Antoine trở thành hung thủ gây ra án mạng. Trong 2-3 ngày người ta cho rằng Rémi bị mất tích và tổ chức tìm kiếm nhưng không có kết quả, Antoine lọt lưới. Trong thời gian sau đó, một cơn bão kéo theo mưa giông quét qua thị trấn, tất cả mọi vật, việc trôi bồng bềnh, đảo lộn trật tự vị trí, người ta cũng không thấy dấu vết của Rémi, Antoine cũng lọt lưới. 12 năm sau, xác của Rémi được tìm thấy nhưng Antoine vẫn thoát tội. Nếu chỉ nghe kể như vậy, thấy bất công không? Trong một tập truyện ngắn của Karel Capek tôi đọc gần đây, tôi rất ấn tượng ở một vài truyện ngắn bởi ý tứ của nó, rằng, con người thích hợp và phải chịu thứ công lý của chính xã hội loài người, không phải Thượng Đế hay bất cứ đấng nào phán xét, mà chính là những gì thuộc về xã hội loài người, mà ở Ba ngày và một đời, chính là sự cắn rứt lương tâm của hung thủ. Cậu bé 12 tuổi đồng nhất sự nặng nề của cuộc sống với nỗi cô đơn, sự sợ hãi của cậu, từ đấy cậu có cái nhìn bi quan với cuộc đời dù rất cố gắng sống tốt đẹp hơn mỗi ngày. Sự thật dường như được che đậy để không một ai biết, nhưng, những biểu hiện rất nhỏ của mọi người cũng khiến Antoine bị giày vò, muốn chạy trốn, chối bỏ vùng đất với ký ức buồn thảm. Công lý là trừng phạt sẽ hoàn toàn không có giá trị nếu như người phạm tội không sám hối. Sám hối là sự dừng lại, không tái diễn và ăn năn về hành vi đã gây ra. Hung thủ ở Ba ngày và một đời trở thành trung tâm của nỗi bất hạnh, một nỗi buồn thảm thuần khiết đã được dành cho Antoine ngay từ tuổi ấu thơ. Để rồi phải trả giá bằng việc sống không thôi lo sợ dằn vặt, lấy một người phụ nữ mình không yêu, là bố của đứa con ngoài mong muốn… như vậy, Antoine đã tự kết án chính mình. Hơn 240 trang sách, hung thủ biết ngay từ đầu nhưng tôi vẫn đọc, để cùng đi qua hành trình nhiều năm dài cô đơn u uẩn của Antoine, người đọc cũng có cùng tâm trạng như Antoine rằng, lúc này đây, sự việc cậu bé Rémi chỉ cần có người hỏi cặn kẽ thì lập tức sẽ nhận tội luôn, để mong chấm dứt sự khổ sở trong lòng, được giải thoát khỏi nỗi sợ hãi, ăn năn. Trong ba quyển của Pierre Lemaitre xuất hiện ở VN thì Ba ngày và một đời là quyển có lẽ mờ nhạt, lỏng lẻo nhất; đầu tiên ở văn chương rời rạc, nhiều đoạn được viết gượng ép ngô nghê như một cây bút non tay, việc này gây thất vọng không nhỏ cho người đọc thích Pierre Lemaitre (như tôi, có lẽ khoảng viết về trận bão và mấy chục trang đoạn cuối là tôi thấy đúng chất Pierre Lemaitre); thứ nữa về nội dung nhàm chán, ề a, tiết tấu nhanh không ra nhanh, chậm rãi xoáy vào tâm lý tạo độ sâu cũng không, nó rất không phù hợp với độc giả quen đọc trinh thám cướp giết hiếp nhiều án mạng và hành động, thậm chí chắc chắn sẽ có người chê đây là một quyển trinh thám nhiều lỗi, phi lô gíc, gượng gạo. Nhưng tôi lại đặc biệt thích cái kết của nó, một cái kết như nhét kẻ trụy lạc vào đời sống khổ hạnh vậy, trừng phạt, trả giá, kỷ luật đôi khi chỉ cần mang hình bóng như cái kết này thôi đã là một hình thức chịu án khổ hình rồi vì không gì bằng toà án lương tâm. Với một số trường hợp người ta sống tốt hơn hay tu tập, không phải bởi tính bản thiện mà chỉ bởi có thể sống như vậy người ta mới cảm thấy được thanh thản, đẩy lùi được phần tối trong họ. Cái kết diễn ra nhanh và đột ngột trong 1-2 trang cuối, nó tạo một cú chuyển bất ngờ, một cảm giác lâu lắm rồi tôi mới có lại kể từ thời đọc Nghe mùi kết thúc của Julian Barnes cách đây 4 năm, nó gây nên chút chao đảo và ngay sau đó, cho tôi cảm giác dễ chịu như vòng tròn đã khép lại, ta quay trở về điểm xuất phát ban đầu. “Hình phạt mà anh phải chịu, vì tội ác anh từng phạm phải, không được hình thành từ những năm tháng ngồi tù, mà từ cả một cuộc đời anh đã kinh tởm từ trước, nó là tất cả những gì anh ghét cay ghét đắng, phải gần gũi những con người tầm thường, phải làm cái nghề mà anh yêu thích trong một hoàn cảnh mà anh căm thù. Hình phạt dành cho anh là như thế đó: chịu hình phạt trong tình trạng hoàn toàn tự do với cái giá phải trả là toàn bộ cuộc đời mình”. Bất kỳ điều gì bắt đầu, đều khởi sự một kết cục. Ta đã kích hoạt một kết thúc bắt đầu vận hành, như bật một công tắc. Và dù cơn bão nào có quét qua, thì tất cả rồi sẽ được thiết lập lại theo trật tự và cách riêng của nó. EMi Delicate Mời các bạn đón đọc Ba Ngày Và Một Đời của tác giả Pierre Lemaitre & Phúc Chi Nhi (dịch).
Phương Trình Hạ Chí
Nằm trong series điều tra của thanh tra Kusanagi và thiên tài phá án - nhà vật lý học Yukawa, câu chuyện bắt đầu bằng cái chết của một cô gái trẻ tại một khách sạn hạng sang ở Tokyo. Một thời gian sau, những vụ nổ kỳ quái liên tiếp  xảy ra, khi ngoài đảo, lúc trên thuyền,mà không ai biết vì sao. Cuộc điều tra chỉ được bắt đầu từ án mạng của một cây viết tự do, để rồi các mối liên hệ bất ngờ dần lộ diện. Nhưng lần này, kẻ tình nghi lại là một “đệ tử tài giỏi ngoài sức tưởng tượng” đã được Yukawa truyền dạy nhiều kiến thức vật lý và khoa học. Làm thế nào để những thành tựu nghiên cứu không trở thành “ma thuật bị cấm” dưới bàn tay của tài năng đó? Lần này, Yukawa phải tự mình giải quyết  câu hỏi lớn. Một cuộc gặp tình cờ với cậu bé Esaki Kyohei trên xe lửa đã đưa đẩy Yukawa Manabu, một phó giáo sư vật lý đang đi dự hội nghị, tới nghỉ tại quán trọ buồn hiu mang tên Lục Nham Trang, để rồi bị cuốn vào số phận những con người nơi đó. Cái chết của người khách trọ Tsukahara Masatsugu, cựu cảnh sát hình sự thuộc Sở Cảnh sát Tokyo dưới vách đá gần biển Harigaura buộc cảnh sát phải lục lại hồ sơ một vụ án xảy ra cách đó mười sáu năm, nhưng Yukawa Manabu, vị "thám tử Galileo" đã nhận ra những điều bất thường quanh đó. Một bí mật tưởng chừng đã bị chôn sâu dưới đáy biển Harigaura đang chờ khám phá, mà cội nguồn của nó có thể kéo về tận Tokyo nhiều năm về trước. *** Phương Trình Hạ Chí là tác phẩm mới được xuất bản của nhà văn Higashino Keigo, người đã nổi tiếng với những tác phẩm như Phía sau nghi can X, Bạch Dạ Hành, Bí mật của Naoko Nhiều năm trước, có một cô gái xinh đẹp ở Tokyo trước đây từng là tiếp viên, sau đổi sang nhân viên quán ẩm thực địa phương, mặc dù biết anh chàng “nọ” đã có vợ nhưng vẫn yêu thầm. Thậm chí đến khi sắp sửa cưới chồng, trước khi kết hôn còn có tình một đêm chóng vánh với anh chàng ấy. Và nhiều năm sau, chính cái hậu quả của mối tình một đêm năm xưa, đã gây ra bao nhiêu câu chuyện đau lòng. 2 cái chết, một cái chết lãng xẹt và một cái chết đáng thương đã xảy ra, những người đáng bị pháp luật trừng trị, thì đều đã hưởng một cái kết khoan hồng hơn rất nhiều. Còn những người thân – những đàn ông vĩ đại bên cạnh họ, lại chịu một thảm cảnh khốc liệt. Thật đúng với câu “một phút sa chân, người thân lãnh đủ”. Phương trình hạ chí là một tác phẩm trinh thám mà yếu tố suy luận logic được đặt lên hàng đầu – có vẻ như ông tác giả là một fan trung thành của trinh thám cổ điển. Higashino không miêu tả quá nhiều tới pháp y, tới các vật chứng – điều mà trinh thám hiện đại làm rất tốt & nhanh gọn. Thực tế thì nếu có sự hỗ trợ tài tình của pháp y, kiểu như nhà hình sự học Lincoln Rhyme của Jeffery Deaver, hay team pháp chứng của Tần Minh, thì vụ án mạng này sẽ được phá giải không đến một tuần. Nhưng vì để thể hiện tài năng suy luận logic của thám tử, sự vô dụng của cảnh sát địa phương cũng như thể hiện một tác phẩm có chiều sâu hơn (suy ngẫm về hậu quả của những hành vi sai trái), Keigo đã dụng ý để cho hung thủ từ từ lộ diện bằng những phán đoán đầy logic. Đỉnh cao về trinh thám cổ điển được Keigo miêu tả trong Phía sau nghi can X có thể nói là mẫu mực nhất của ông, điển hình tiêu biểu tới mức những tác phẩm khác, đều rất khó để sánh kịp. Phương trình hạ chí cũng là trường hợp tương tự, dù rằng nó vẫn thể hiện một cách hết sức xuất sắc. Yếu tố bất ngờ không được chú trọng trong tác phẩm này. Vì giáo sư vật lý nổi tiếng Yukawa đóng vai thám tử nên không có gì ngạc nhiên, những suy luận của thiên tài này đều hết sức đắt giá. Thậm chí có thể nói từ đầu tới cuối, duy nhất anh ta là người nhìn thấu rõ hoàn toàn sự việc, dựa trên những chi tiết tưởng chừng không liên quan. Tuy nhiên độc giả hoàn toàn có thể dễ dàng đoán ra được hung thủ đã sát hại vị cảnh sát già Tsukahara, bởi cái nhà trọ Lục Nam Trang không có quá nhiều thành viên! Như Sherlock Holmes từng nói “bắt một gã sát thủ trong một đám tù nhân là điều hết sức dễ dàng, với tôi thì chỉ cần 24h là đủ “. Ấy vậy mà mỉa mai thay, đám cảnh sát Nhật bản ở địa phương lại loay hoay trong đám tơ vò mà mãi mãi chẳng thể tìm ra đáp án! Có vẻ như tất cả sẽ phải “cạn lời” khi mà nguyên nhân tử vong đã rất rõ ràng “ngộ độc khí CO trong một không gian khép kín”. Chỉ cần vài suy luận đơn giản cũng có thể đoán ra, chẳng hiểu sao Higashino Keigo lại để cho hình ảnh của đám cảnh sát tỉnh trở nên tầm thường đến thế. Dù không ghi điểm với tính chất của một sách trinh thám, song tác giả của Phương trình Hạ Chí lại rất thành công khi để lại dấu ấn với những ví dụ hết sức thực tiễn về vật lý, toán học, hóa học & nêu lên thực trạng về môi trường biển đáng để độc giả suy ngẫm Ít ai biết một miếng giấy thiếc có khả năng làm gián đoạn sóng điện thoại, và việc của hành khách đi tàu khi không muốn tắt nguồn chỉ cần đơn giản là dùng thiếc bọc quanh nó. Giáo sư Yukawa đã dạy cậu bé Kyohei một cách dễ hiểu như thế. Tại sao tổng ba góc của một tam giác lại bằng 180 độ? Nhiều lúc chúng ta chỉ cần thêm nhiều những giáo sư như thế, dạy học bằng bản chất, đơn giản là suy luận logic dễ hiểu, không khuôn sáo máy móc. Việc giáo dục gắn với thực tiễn sẽ khiến cho học sinh cảm thấy đi học là điều hết sức tuyệt vời Khí CO được sinh ra trong điều kiện cháy không hoàn toàn. Ví dụ đơn giản hơn là chúng ta nếu muốn sưởi ấm bằng than tổ ong trong mùa lạnh, rất dễ gây ra tai nạn chết người vì bình thường trong môi trường đóng kín thiếu Oxi, than sẽ cháy không sinh ra CO2 mà lại là khí độc CO. Higashino có vẻ ác cảm với các nhân vật nữ. Bởi không chỉ riêng Phương trình hạ chí mà các tác phẩm khác như Bạch Dạ Hành, Ảo dạ, Trước khi nhắm mắt, Bí mật của Naoko, các nhân vật nữ chính đều được ông Keigo miêu tả với phong cách rất “rắn độc”. Yuhiko trong Bạch dạ hành, người đã cộng sinh với Ryo, giết người, tổ chức cưỡng hiếp, đe dọa tống tiền, giết người thân… Không có việc gì mà cô không dám làm để đạt được mục đích Mifuyu trong Ảo dạ, một phiên bản độc ác nâng cấp hơn so với Yuhiko Naoko (Bí mật của Naoko) được xem là ích kỷ, sẵn sàng lừa gạt người chồng tội nghiệp chỉ để được sống một cuộc đời mới! Với Phương trình hạ chí, lại một lần nữa, nơi mà những sai lầm của nữ nhân xinh đẹp đều khiến cánh mày râu – những người thân trong gia đình, họ hàng, phải lãnh một hậu quả nặng nề. Không biết đọc xong tác phẩm này, những người đàn ông thành đạt còn có ý định trăng hoa với những cô bồ nhí bên ngoài nữa hay không. Bởi sau tất cả: Kẻ tù tội, rồi chết vì u não. Người nhẹ nhàng hơn thì lĩnh án vài năm vì tội bao che. Kẻ lại bất đắc dĩ phải ra tay sát hại người vô tội đáng kính, kết cục cũng thê thảm. Vấn đề giáo dục về những giá trị đạo đức một lần nữa lại trở thành đề tài nóng hổi. Nếu như một cô gái có được môi trường giáo dục tốt, liệu rằng có yêu một người đàn ông đã có vợ, thậm chí cắm sừng ông chồng tương lai? Chắc chắn là không rồi. Viện cớ nhân danh tình yêu, thẳng thắn mà nói thì tất cả chỉ là ngụy biện Một tác phẩm không quá đỉnh cao về trinh thám, nhưng sẽ lại khiến độc giả nhớ mãi, vì những điều thật đặc biệt. *** Có vẻ cái tên Higashino Keigo không ít fan ở Việt Nam đâu nhỉ. Trả lời câu hỏi Sự cứu rỗi của thánh nữ có hay hay không? Câu trả lời là có hay. Có vẻ Nhã Nam vẫn là nhà chọn sách tốt trong rất nhiều các tác phẩm của Keigo. Sẽ chỉ nói về Thánh nữ chứ không so sánh nó với tác phẩm nào của Keigo. Cà phê, lại là cà phê. Mình nhớ trong Sự thật về Bebe Donge của Simenon thì người vợ cũng đã đầu độc chồng trong ly cà phê. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng liên quan đến cà phê. Thế nên các quý ông quý bà thích uống cà phê cẩn thận nha, có thể bị độc chết bất cứ lúc nào. Mashiba Yoshiaka, người chồng bị độc chết trên sàn nhà, thạch tín còn sót lại trong cốc cà phê lênh láng bên cạnh. Mọi nghi vấn được tập trung vào hai đối tượng: người vợ Ayane và cô người tình bí mật Hiromi. Vấn đề là cả hai người đều có chứng cớ ngoại phạm vững chắc. Bài toán đặt ra là làm thế nào để hạ độc Yoshitaka và đầu độc bằng cách nào? Vì trong thời điểm xảy ra vụ án không ai có khả năng tiếp cận nạn nhân. Thật ra, trong Sự cứu rỗi của thánh nữ, hung thủ có thể thấy ngay từ đầu. Vấn đề là nguyên nhân và cách thức gây án. Một bài toán vô cùng khó và có những cái không thể ngờ tới. Vẫn là những người phụ nữ. Nếu bạn nào ít nhiều đọc Keigo chắc hẳn sẽ rất ấn tượng với những người phụ nữ trong tác phẩm của ông. Họ thường đẹp và rất nguy hiểm. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng không ngoại lệ. Cô ấy đẹp, thu hút nhưng luôn treo cái chết trên đầu bạn. Thật sự rất nể người phụ nữ này luôn. Làm sao cô ấy có thể kiên trì sống và chịu đựng, chấp nhận cuộc sống với tình yêu và sự thù hận, treo cái chết lơ lửng từng ngày như vậy. Sự cứu rỗi của thánh nữ nằm trong series “Thám tử Galileo” Yukawa. Đọc đến nửa thì vị thám tử này mới nhập cuộc nhưng vô cùng thú vị. Có lẽ bài toán càng hóc búa thì càng thu hút vị thám tử này. Mặc dù khó tin, có thể là “đáp án ảo” chỉ “có thể chỉ xảy ra về mặt lý thuyết nhưng không hề tồn tại trong hiện thực” nhưng chứng minh đáp án đó là ảo lại cho ra một kết quả hết sức kinh ngạc của một sự thật chua xót. Và tất nhiên tác giả cũng có lồng ghép một số kiến thức rất thú vị vào trong vụ án vì thám tử Galileo là giáo sư dạy vật lý ở trường đại học mà. Cứ tưởng đâu đây là vụ án “hoàn hảo”, biết mười mươi mà không đủ bằng chứng để buộc tội gây “ức chế”, nhưng may quá, vẫn còn ánh sáng cuối đường hầm mặc dù sự thật là đau xót. Có một câu hỏi: Đàn ông quan niệm như nào về lập gia đình? Phải chăng họ lập gia đình chỉ vì cần người sinh con? Họ không cần tình yêu? Nếu không sinh được con thì người phụ nữ chẳng qua chỉ là vật trang trí trong ngôi nhà không hơn không kém? Tác phẩm: Phía Sau Nghi Can X Bạch Dạ Hành Bí mật của Naoko Thánh Giá Rỗng Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ Tên của trò chơi là bắt cóc Ác Ý Ảo Dạ Ma Nữ Của Laplace Phương Trình Hạ Chí Cáp Treo Tình Yêu Trứng Chim Cúc Cu Này Thuộc Về Ai Thư Ma Thuật Bị Cấm ... Mời các bạn đón đọc Phương Trình Hạ Chí của tác giả Higashino Keigo.
Sổ Tay Hình Cảnh - Ngô Đồng Tư Ngữ
Nếu bạn quen biết một chuyên gia tâm lý tội phạm, hãy yêu quý, vì chỉ có họ mới chạm tới được những bí mật sâu kín nhất của tội phạm... Nếu bạn quen với một pháp y, hãy trân trọng, vì chỉ có họ mới lắng nghe được tiếng nói sau cùng của người đã khuất... Chuyên gia tâm lý tội phạm - Cung Khắc, vì người bạn tốt tham của rẻ, đã vào ở một căn nhà mà trong mắt người ngoài là "có ma". Nhưng vào ở tới ngày thứ hai, Cung Khắc phát hiện ra người sống sát vách không phải nữ quỷ gì mà là nữ pháp y Diệp Nam Sênh tính cách cực kỳ quái gở. Mối quan hệ giữa họ không chỉ đơn thuần là hàng xóm kể từ khi Cung Khắc và Diệp Nam Sênh cùng tham gia giải quyết một vụ án. Không những vậy, Diệp Nam Sênh còn phải lòng anh chàng này và theo đuổi quyết liệt. Yêu một người chính là cam tâm tình nguyện bước chân vào một thế giới xa lạ thuộc về một con người khác. Diệp Nam Sênh yêu Cung Khắc. Khi Cung Khắc ôm Diệp Nam Sênh, họ nguyện chìm đắm vào thế giới xa lạ của nhau, chỉ dựa vào một phần dũng cảm. *** Ngày 25 tháng 8 năm 1992, cơn mưa rào như trút nước vào lúc chập tối quét qua thành phố cảng Lâm Thủy, phía Đông Bắc. Lượng nước mưa dày đặc như đổ ào từ trên trời xuống, cộng với sức gió giật cấp năm, quá nửa những cây mới trồng tại dải phân cách xanh ở Lâm Thủy đã bị quật đổ trong chốc lát. Những cây du bị bật cả rễ nằm ngổn ngang bên vệ đường quốc lộ, có những cây đổ ngang ra giữa đường. Con đường giao thông huyết mạch của thành phố Lâm Thủy đối mặt với một thách thức nghiêm trọng, vô số xe cộ bị ách tắc trên đường không thể nhúc nhích, người trong xe ngoài việc bấm còi inh ỏi để trút giận thì cũng chỉ còn cách cầu xin ông trời nhanh chóng dừng cơn mưa dữ dội này lại. Tài xế xe buýt đường 11 - Lý Tôn Nghĩa - cũng đã phải đứng trên con đường Nghĩa An góc Tây Bắc thành phố tròn hai tiếng đồng hồ. Đừng nói là khách trên xe sốt ruột, ngay cả anh ta cũng sắp són ra quần vì nhịn tiểu. Tám giờ đúng, anh ta trở về đội bàn giao xe, chẳng kịp ký tên đã cởi quần lao vội ra ngoài cửa. "Lý, anh vội đi đầu thai đấy à!" Người đồng nghiệp cất xe sớm hơn anh ta một lúc - tài xế NGô đã thu dọn xong hộp bút chì buổi tối định mang về nhà cho con gái, gào lên sau bóng lưng sắp khuất dạng của Lý Tôn Nghĩa: "Có cần tôi chở anh về nhà không?". "Tôi đi vệ sinh một lát, sao anh nhiều chuyện thế hả!". Trong lúc nói, Lý Tôn Nghĩa đã vòng ra cửa lớn của công ty giao thông công cộng, lách vào một con ngõ nhỏ gần đó. Anh ta cởi khóa quần, vừa "trút nước" vừa thoải mái nói chuyện với anh Ngô này, anh bảo hôm nay mưa to như thế mà Đài phát thanh cũng chẳng dự báo trước một tiếng, đi đường cứ gọi là tắc cứng. "Thì ai nói không." Anh Ngô lại bỏ hộp bút chì ra, trời rất tối, ngọn đèn đường duy nhất xung quanh đó cũng phải cách vài mét. Loại ánh sáng tù mù này khiến những hình vẽ trên hộp bút hoàn toàn không thể nhìn rõ. Mặc kệ đi, con gái chắc là sẽ thích thôi. Nghĩ tới chuyện về nhà con bé nhìn thấy hộp bút chì sẽ nhào vào lòng anh gọi "bố", tài xế Ngô cười thật thà, rồi ngẩng đầu lên nói vọng vào trong ngõ: "Tôi bảo này anh Lý, trút lâu vậy chắc là xong rồi chứ, đừng coi mình là cái đập nước, cứ cố mà tích vào". .... Mời các bạn đón đọc Sổ Tay Hình Cảnh của tác giả Ngô Đồng Tư Ngữ.
Thác Lũ - Clive Cussler
Đến nay, những tác phẩm của Cussler như Night probe, The sea hunters đã bán được 120 triệu bản. Phần lớn gia tài của ông đều dành cho những cuộc săn tìm thông tin về máy bay và tàu mất tích trong lịch sử loài người. Cussler dựa vào những gì thu được, hư cấu câu truyện của mình theo ý tưởng: lịch sử sẽ ra sao nếu những sự kiện đó xảy ra theo hướng trái ngược. Khi còn niên thiếu, Cussler thường cùng với mấy cậu bạn tham gia vào những cuộc phiêu lưu tưởng tượng của các chàng cao bồi miền Tây hay người da đỏ trên cánh đồng gần nhà. Sau khi tốt nghiệp đại học Pasadena, ông xin làm thợ bảo dưỡng máy bay cho lực lượng hàng không Mỹ trong suốt cuộc chiến với Triều Tiên. Chính sự trải nghiệm trong thời gian này đã cung cấp cho ông kiến thức để viết nên những tác phẩm lớn và Thác Lũ (Tiểu Thuyết Phiêu Lưu) là một tác phẩm nổi tiếng, độc giả sẽ bị cuốn theo cuộc phiêu lưu trên Thác Lũ mà Clive Cussler là cha đẻ của những cuốn tiểu thuyết phiêu lưu bán chạy nhất theo bảng xếp hạng của Báo New York Times. "Trí tưởng tượng chưa cạn, nhưng tôi không còn sức viết như thời trẻ. Có lẽ sau 35 năm say sưa lần mò dưới đáy đại dương tìm kiếm xác những con tàu cổ đã khiến tôi mệt mỏi. Hơn nữa, tôi không muốn cố viết để lừa dối bạn đọc với những câu truyện nhạt nhẽo. Trojan Odyssey sẽ là dấu chấm hết cho sự nghiệp văn chương của tôi", nhà văn tâm sự. *** "Những đợt sóng trở nên hung dữ và tồi tệ hơn mỗi khi có một trận gió nổi lên. Thời tiết êm ả buổi sáng sớm thay dổi đột ngột từ trạng thái hiền lành sang hung hãn vào lúc gần nửa đêm. Những ngọn sóng bạc đầu trên những đợt sóng cao như những tòa tháp bị ném thành những mảng tia nước. Màn nước hung hãn và những đám mây đen quấn quít nhau dưới đợt tấn công của một trận bão đang kéo tới. Không thể biết nơi nào nước kết thúc và nơi nào bầu trời bắt đầu. Trong lúc chiếc tàu hành khách Công Chúa Dou Wan chiến dấu vượt qua những đợt sóng chồm lên như những ngọn núi trước khi phủ chụp xuống chiếc tàu, những người có mặt trên tàu chẳng hề biết gì về thảm họa sắp xảy ra chỉ cách họ vài phút sau. Những khối nước điên cuồng được những cơn gió mạnh từ hướng đông bắc và hướng tây bắc xô tới cùng lúc, tạo ra những dòng chảy dữ dội đập vào chiếc tàu về cả hai phía. Gió nhanh chóng đạt tới vận tốc một trăm sáu mươi ki-lô-mét mỗi giờ mang theo những ngọn sóng cao đến mười mét hoặc hơn. Lọt vào vùng nước xoáy, chiếc Công Chúa Dou Wan không có nơi nào để trú ẩn, mũi của nó ngóc lên, lao vào dưới những ngọn sóng quét qua những boong lộ thiên của nó và tràn về phía đuôi tàu, sau đó tràn ngược về phía trước, lúc đuôi tàu chồm lên, thô bạo ném những chân vịt quay tít của nó ra khỏi khỏi nước. Bị tấn công từ mọi phía, chiếc tàu nghiêng một góc ba mươi độ, lan can mạn phải dọc theo boong tàu dành cho du khách tản bộ biến mất dưới một dòng nước. Rồi, rất chậm chạp, nó bướng bỉnh tự lấy lại thăng bằng và lì lợm tiếp tục lao tới, vượt qua trận bão tuyết mù lòa tồi tệ nhất. Thuyền phó thứ nhì Li Po đang đứng quan sát, rút lui vào buồng lái và đóng mạnh cánh cửa lại. Trong tất cả những ngày giong buồm trong biển Trung Hoa, anh ta chưa bao giờ thấy tuyết quay cuồng giữa một trận bão dữ. Po không nghĩ các vị thần công bình khi tạo ra những trận gió hủy diệt như thế dành cho chiếc Công Chúa sau một chuyến hải trình dài nửa vòng thế giới, và chỉ còn khoảng ba trăm ki-lô-mét nữa trước khi nó vào cảng. Trong mười sáu giờ qua, chiếc tàu chỉ đi được sáu mươi bốn ki-lô-mét." ​... Mời các bạn đón đọc Thác Lũ của tác giả Clive Cussler.