Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cậu Bé Kẽm - Viết (Hay Kể) Toàn Bộ Sự Thật Về Chính Mình Là Bất Khả

Tác phẩm - Năm 1989, Những cậu bé kẽm lần đầu được xuất bản - Tháng 7 năm 1992, những đơn kiện Những cậu bé kẽm và S. Alexievich đầu tiên được gửi đi - Ngày 20 tháng 1 năm 1993, phiên xử đầu tiên diễn ra - Ngày 10 tháng 8 năm 2015, giải Nobel Văn học thứ 112 trong lịch sử gọi tên Svetlana Alexievich, dư luận một lần nữa lại dậy sóng… Vì điều gì mà từ những dòng văn xuôi tư liệu về chiến tranh Afghanistan lại dẫn đến phiên tòa xử án văn chương? Những cậu bé kẽm là thiên thứ ba trong loạt năm quyển của bộ Những giọng nói không tưởng gồm: Những nhân chứng cuối cùng, Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ, Lời nguyện cầu Chernobyl và Thời second hand. Những cậu bé kẽm, một nhan đề khốc liệt – những xác người trong quan tài kẽm – những cái xác vừa mới mười tám đôi mươi – những cậu bé đẹp đẽ rạng ngời, vừa rời vòng tay cha mẹ, người thương để rồi trở về trong những cỗ quan tài kín bưng – “hàng vận chuyển 200”. Được viết bằng thể loại văn xuôi tư liệu cùng với tâm thế của một con người vị nhân phản chiến, cuốn sách đã khuấy lên một giai đoạn lịch sử đầy những tổn thương đau đớn, đã phác họa một bối cảnh, đã soi chiếu bằng một góc nhìn trước nay chưa từng được công bố. Những cậu bé kẽm là lời bộc bạch của những người sống sót trở về từ chiến tranh Afghanistan và của thân nhân những người đã mất. Đó là những dòng hồi ức khốc liệt, đẫm máu, thống khổ và vĩnh viễn làm thương tổn không chỉ thân thể mà còn tinh thần con người. Nó phơi bày cái phi nghĩa, vô nhân của một cuộc chiến tranh vô vọng. Những “Afghan” – những người Nga tham gia chiến tranh ở Afghanistan 1979 – 1989, những người ra đi trên danh nghĩa làm “nghĩa vụ quốc tế” rồi rút về trong thất bại, không bao giờ được biết niềm tự hào của thế hệ cha ông trong cuộc chiến tranh Vệ Quốc vĩ đại. Người “may mắn” nằm lại trong những chiếc quan tài kẽm, số khác thân xác lang bạt nơi chiến trận. Kẻ sống sót trở về cũng không bao giờ có thể quay lại cuộc sống của một người bình thường bởi những sang chấn khủng khiếp mang tên hội chứng Afghanistan. Người ngoài cuộc nhìn nhận họ như những kẻ sát nhân, kẻ bại trận, còn chính họ cũng quên mất phải sống bình thường là thế nào! Hơn năm trăm cuộc phỏng vấn đã được Svetlana Alexievich thực hiện để tạo nên bức tranh toàn cảnh về những góc khuất của chiến tranh. Cũng chính những trang tư liệu về nỗi đau của những nỗi đau này, ngày 20 tháng 1 năm 1993, cuốn sách của Svetlana Alexievich bị đưa ra tòa xét xử bởi những người cung cấp tư liệu đâm đơn kiện với lý do phỉ báng danh dự và ngụy tạo lời kể. Phiên tòa kéo theo sự chú ý của chính quyền và công chúng tạo thành làn sóng dư luận ở cả hai phía, ủng hộ và chống đối Svetlana Alexievich. Ở những lần tái xuất bản sau, Svetlana Alexievich đã đồng ý thêm vào toàn bộ biên bản vụ kiện cùng những sự kiện có liên quan. Vậy, vì điều gì mà từ những dòng văn xuôi tư liệu về chiến tranh Afghanistan lại dẫn đến phiên tòa xử án văn chương? Có lẽ câu trả lời sẽ nằm trong suy nghĩ mỗi người khi bước vào thế giới của Những cậu bé kẽm. “Tôi tự hỏi Svetlana Alexievich có cần phải viết một cuốn sách về những điều kinh khủng của chiến tranh không? Có! Những bà mẹ có cần phải bảo vệ con trai mình không? Có! Và những “người Afghan” có cần phải bảo vệ đồng đội mình không? Lại một lần nữa - có! …Các đạo diễn và nhạc trưởng, các chính khách và nguyên soái, những kẻ tổ chức cuộc chiến tranh này, không có mặt trong phòng xử án. Ở đây chỉ toàn những phía bị hại: là tình yêu, không chấp nhận sự thật cay đắng về chiến tranh; là sự thật, cần phải được nói ra mặc cho tình yêu thế nào chăng nữa; là danh dự, không thể chấp nhận tình yêu lẫn sự thật...” Pavel Shetko Một “cựu Afghan” Tác giả Nhà văn Svetlana Alexievich tại Ukraine trong một gia đình công chức. Năm 2015, bà được trao giải Nobel Văn học. Theo Viện Hàn lâm Thụy Điển, giải thưởng này được trao cho bà để “tôn vinh những dòng văn phức điệu của bà. Văn của bà là tượng đài tri ân sự đau khổ và lòng dũng cảm trong thời đại chúng ta.” Sau khi tốt nghiệp khoa Báo chí Đại học Tổng hợp Quốc gia Belarus, bà làm việc cho tờ Báo nông nghiệp và tạp chí Neman ở Minsk. Trong suốt vài thập niên bà đã viết biên niên tư liệu – nghệ thuật Những giọng không tưởng – gồm năm quyển sách (Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ - 1983, Những nhân chứng cuối cùng - 1985, Những cậu bé kẽm - 1989, Lời nguyện cầu từ Chernobyl - 1997, Thời second-hand - 2013) và để những “con người nhỏ bé” đích thân kể về số phận của mình. Thực chất, đây là một thể loại đặc biệt, một loại tiểu thuyết chính trị đa giọng, trong đó những câu chuyện nhỏ bé hợp thành một lịch sử lớn. Các tác phẩm của Svetlana Alevievich đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng, là nền tảng cho hằng trăm bộ phim điện ảnh, kịch sân khấu và truyền thanh trên khắp thế giới, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế. *** LỜI GIỚI THIỆU “Văn chương đang ngạt thở trong những biên giới của mình”. Với tâm tình đó, nữ nhà văn Svetlana Alexievich đã quyết định chọn hình thức “truyện vừa tư liệu” cho cuốn sách Những cậu bé kẽm, được in lần đầu tiên năm 1989. Hai mươi sáu năm sau, cuốn sách đã góp phần đưa bà đến giải Nobel văn học năm 2015, cùng với bốn quyển sách khác trong loạt sách Những giọng nói không tưởng: Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ (1983), Những nhân chứng cuối cùng (1985), Lời nguyện cầu từ Chernobyl (1997) và Thời second hand (2013). Nhưng cũng chính thể loại truyện vừa tư liệu của Những cậu bé kẽm đã khiến bà phải ra tòa (phần cuối quyển sách đã giới thiệu tiến trình tố tụng này). Phiên tòa mà, từ một phía bà bị cáo buộc là “xúc phạm danh dự và phẩm giá” của những người lính đã chết trong cuộc chiến tranh Afghanistan, của những người mẹ vẫn còn đang ngồi bên mộ chí con mình. Còn từ phía những người ủng hộ nữ nhà văn, đó là phiên tòa “xử án văn chương”, “xử án một quyển sách”, “xử án sự thật”. Cuộc tranh cãi đó, cuối cùng được cố gắng ngã ngũ ở việc thế nào là thể loại truyện vừa tư liệu; vẫn chưa giải đáp được câu hỏi “sự thật là sự thật nào”, khi chính nữ nhà văn cũng hoài nghi như Pilatus đặt câu hỏi về sự thật trong phiên tòa xử Chúa. Phiên tòa đã khép lại đầu những năm 1990. Nhưng cuộc tranh cãi về sự nghiệp của nữ nhà văn Belarus viết bằng tiếng Nga một lần nữa được nhắc lại nhân Nobel 2015. Nếu bà được ngợi khen trên báo chí phương Tây như một “bậc thầy xuất sắc trong lĩnh vực văn xuôi nghệ thuật tư liệu”(Frankfurter Allgemeine), thì nhà phê bình Nga Olga Tukhanitsa, lại nhận xét vào tháng 12-2015: “Một mặt, Alexievich khăng khăng biện hộ mình không phải là nhà văn nhưng lại chứng minh những gì bà đang làm trong thế giới hiện đại là văn học chân chính; mặt khác, bà - như một nữ sinh, đoàn viên Komsomol, cố nhồi vào thông điệp của mình tất cả những khuôn mẫu định kiến về nước Nga…” Dẫu sao, chúng ta sẽ không thể tranh luận với cả hai ý kiến trên nếu chưa đọc hết Những cậu bé kẽm. Bản dịch tiếng Việt dựa trên nguyên bản tiếng Nga đã được tác giả hiệu đính và NXB Vremya (Moskva) phát hành năm 2017. Trân trọng giới thiệu cùng độc giả, và thành thật cảm ơn bà Marina Vladimirovna Sharoiko (Giảng viên Bộ môn Lý luận Văn học Nga, Đại học Tổng hợp Kuban) và bà Irina Letiagina (cựu biên tập viên NXB Cầu vồng, và NXB Tiến bộ - Liên Xô cũ) đã giúp chúng tôi hoàn thành bản dịch này. Phan Xuân Loan 10-2017 *** LỜI MỞ ĐẦU Tôi đi một mình. Giờ đây tôi sẽ phải đi một mình. Nó giết người. Con trai tôi. Bằng cái rìu nhà bếp tôi dùng xẻ thịt. Nó quay về từ trận chiến và giờ thì giết người. Buổi sáng nó mang cái rìu đặt về chỗ cũ, trong tủ bếp, nơi tôi cất chén dĩa. Hình như ngày hôm đó tôi còn làm cho nó món sườn hầm. Một lúc sau ti vi và báo buổi chiều đưa tin các ngư dân vớt được một thi thể từ dưới hồ. Từng mảnh. Bạn tôi gọi điện: - Chị đọc báo chưa? Một vụ giết người chuyên nghiệp. Kiểu Afghanistan. Con trai tôi đang ở nhà, nằm đọc sách trên xô pha. Tôi không biết và cũng chẳng đoán ra gì, nhưng chẳng hiểu sao sau những lời ấy tôi lại nhìn nó. Trái tim người mẹ. Cô có nghe tiếng chó sủa không? Không à? Còn tôi thì nghe đấy, vừa bắt đầu kể chuyện này là tôi đã nghe tiếng chó sủa. Lũ chó đang chạy. Ở đó, nơi con trai tôi đang ngồi tù có những con bẹc giê lớn. Và mọi người mặc toàn đen, rặt một màu đen. Tôi trở về Minsk, đi ngang qua cửa hàng bánh mì, qua vườn trẻ, tay cầm ổ bánh mì với sữa và nghe thấy tiếng sủa. Tiếng sủa chói tai. Nó làm tôi như đui mù. Có lần tôi suýt lọt vào gầm xe. Tôi sẵn sàng ở rịt bên mộ con mình, sẵn sàng nằm cạnh nó. Nhưng tôi không biết… không biết sẽ sống thế nào với chuyện này. Đôi khi tôi sợ xuống bếp, sợ nhìn thấy cái tủ bếp đó, nơi cất cái rìu. Cô không nghe thấy gì hết à? Không à? Giờ đây tôi không biết nó sẽ ra sao, con trai tôi. Tôi sẽ đón nó về thế nào sau mười lăm năm nữa. Nó bị tuyên mười lăm năm khổ sai. Tôi đã nuôi dạy nó thế nào? Nó mê khiêu vũ. Tôi và nó đã đến bảo tàng Hermitage ở Leningrad. Chúng tôi đã đọc sách cùng nhau. (Khóc.) Chính Afghanistan đã cướp mất con trai tôi. …Tôi nhận được điện tín từ Tashkent: “Hãy đón chuyến bay số…” Tôi lao ra ban công, gào to hết sức: - Còn sống! Con tôi còn sống! Cuộc chiến khủng khiếp này kết thúc với tôi rồi. Rồi tôi ngất đi. Dĩ nhiên chúng tôi đã ra sân bay trễ, chuyến bay đã hạ cánh từ lâu, tôi tìm thấy con trai mình trong vườn hoa. Nó nằm trên đất và níu lấy cọng cỏ, ngạc nhiên sao cỏ xanh đến thế. Nó không tin mình có thể trở về. Nhưng gương mặt nó không có niềm vui. Buổi tối những người láng giềng kéo sang nhà chúng tôi, họ có một cô con gái nhỏ, bé thắt một cái nơ xanh trên tóc. Nó đặt con bé ngồi lên gối, ôm vào lòng và khóc, nước mắt cứ thế lã chã tuôn rơi. Bởi ở đó chúng đã giết người, cả nó. Mãi sau này tôi mới hiểu ra. Ở biên giới, hải quan đã “tỉa” quần lót của nó. Hàng Mỹ. Không được phép. Vì thế nó về nhà mà không có đồ lót. Nó mang về cho tôi cái áo choàng, cái áo cũng bị tịch thu. Nó mang cho bà ngoại cái khăn trùm đầu, họ cũng lấy mất. Nó đành về với những bông hoa lay ơn. Nhưng gương mặt nó không có niềm vui. Buổi sáng thức dậy nó còn bình thường: “Mẹ ơi! Mẹ ơi!”. Đến chiều mặt nó tối dần, khóe mắt nặng trĩu. Tôi không thể tả nổi điều đó. Lúc đầu nó chẳng uống giọt nào. Nó ngồi quay vào tường rồi bật dậy khỏi xô pha, với lấy cái áo khoác. Tôi đứng ngay cửa: - Con đi đâu, Valyushka? Nó nhìn tôi như nhìn vào thinh không. Rồi bỏ đi. Tối muộn tôi đi làm về, nhà máy ở xa, lại làm ca hai, tôi gọi cửa nhưng nó không mở. Nó không nhận ra giọng tôi. Chuyện đó thật kỳ quặc, ừ thì giọng bạn bè có thể không nhận ra, nhưng đây là giọng mẹ nó! Hơn nữa, lại là “Valyushka” - chỉ có tôi mới gọi nó như thế. Dường như lúc nào nó cũng đang đợi ai đó, sợ sệt. Tôi mua cho nó cái sơ mi mới, ướm thử và thấy trên tay nó có những vết cắt. - Cái gì đây? - Chuyện nhỏ mà mẹ. Sau đó tôi mới biết. Sau phiên tòa. Trong thời gian huấn luyện nó đã cắt cổ tay. Trong một giờ diễn tập, nó là nhân viên điện đài, nhưng không kịp ném điện đài xách tay lên cây đúng lúc, không hoàn thành nhiệm vụ đúng thời gian quy định nên thượng sĩ phạt nó múc 50 thùng chất thải từ nhà vệ sinh diễu qua đội hình. Nó đã xách và ngất xỉu. Bệnh viện chẩn đoán: chấn động tâm thần nhẹ. Đêm đó nó đã cắt ven tay. Lần thứ hai là ở Afghanistan. Trước cuộc bố ráp, họ kiểm tra và điện đài không hoạt động. Thiếu một số phụ kiện khan hiếm khi đó. “Kẻ nào đã lấy trộm chúng. Ai?” Chỉ huy cáo buộc nó hèn nhát giấu các chi tiết đó đi để không phải hành quân cùng mọi người. Mà ở đó trộm cắp như rươi, thậm chí các bộ phận ô tô cũng bị tháo rời đem bán cho các dukan*. Để mua ma túy, thuốc lá, thức ăn. Họ lúc nào cũng đói. Trên truyền hình đang có chương trình về Edith Piaf*, chúng tôi luôn xem cùng nhau. - Mẹ, - nó hỏi, - mẹ có biết ma túy là gì không? - Không. - Tôi nói dối, còn chính mình bắt đầu dõi theo nó: nhỡ nó hút thì sao? Tôi không phát hiện ra dấu vết nào. Nhưng ở đó họ sử dụng ma túy - tôi biết điều này. - Ở Afghanistan thế nào hở con? - Có lần tôi hỏi. - Thôi mà mẹ! Khi nó đi khỏi nhà, tôi đọc lại hết những bức thư từ Afghanistan của nó, tôi muốn đào xới, tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với nó. Tôi không tìm thấy gì đặc biệt, nó viết buồn nhớ cỏ xanh, bảo bà ngoại chụp hình trên nền tuyết rồi gởi cho nó. Nhưng tôi đã nhận ra, cảm thấy đã có gì đó xảy ra với nó. Họ đã trả về cho tôi một con người khác. Đó không phải là con tôi. Mà chính tôi đã đưa con vào quân ngũ, nó vốn được hoãn nghĩa vụ. Tôi muốn nó thành người dũng cảm. Tôi thuyết phục con và chính mình rằng quân đội sẽ trui rèn nó tốt hơn, mạnh mẽ hơn. Tôi tiễn nó đi Afghanistan với tiếng ghi-ta cùng một bữa tiệc ngọt chia tay. Nó mời bạn bè và các cô gái… Tôi nhớ đã mua tới mười cái bánh kem. Chỉ có một lần nó nói về Afghanistan. Vào một buổi tối. Nó ghé vào bếp, lúc tôi đang làm thịt thỏ. Cái bát đầy máu. Nó nhúng các ngón tay vào máu rồi nhìn cái bát. Nhìn chằm chằm. Rồi nói với chính mình: - Họ chở cậu ấy về với cái bụng bị thủng. Cậu ấy đề nghị mình bắn. Và mình đã bắn. Những ngón tay đầy máu thỏ. Với những ngón tay dính máu đó nó vớ lấy điếu thuốc rồi bỏ ra ban công. Tối hôm đó nó không nói thêm với tôi một lời nào. Tôi tìm tới các bác sĩ. “Hãy trả lại con trai cho tôi! Xin cứu giúp!” Tôi kể lại tất cả… Họ kiểm tra nó, thăm khám, nhưng ngoài chứng đau thần kinh tọa, họ chẳng phát hiện gì. Một lần nọ về nhà, tôi thấy bốn cậu trai lạ ngồi sau bàn. - Mẹ, họ từ Afghanistan về. Con gặp họ ở nhà ga. Họ chẳng có chỗ nào để qua đêm cả. - Tôi sẽ nướng một cái bánh ngọt cho các cậu. Nhanh lắm. - Chẳng hiểu sao tôi lại mừng rỡ. Chúng sống ở nhà tôi một tuần lễ. Tôi không đếm, nhưng tôi nghĩ chúng uống cỡ bốn thùng vodka. Mỗi tối tôi lại gặp ở nhà năm người lạ, người thứ năm là con tôi. Tôi không muốn nghe những câu chuyện của chúng, tôi sợ lắm. Nhưng vì ở chung một nhà nên tôi tình cờ nghe thấy. Chúng kể suốt hai tuần mai phục, chúng được phát thuốc kích thích để bạo gan hơn. Nhưng tất cả những chuyện đó được giữ kín. Vũ khí nào giết người hiệu quả hơn. Từ khoảng cách nào… Sau này tôi mới nhớ lại những câu chuyện đó, khi sự việc đã xảy ra. Chỉ sau đó tôi mới nghĩ ra, hoảng hốt nhớ lại. Còn trước đó chỉ có nỗi sợ: “Ôi,” tôi nói thầm, “chúng điên làm sao. Tất cả đều dở người”. Ban đêm. Trước cái ngày nó giết người. Tôi nằm mơ thấy mình đang đợi con nhưng mãi vẫn không thấy nó. Thế rồi người ta đưa nó về. Bốn “người Afghan” đó đưa về. Và họ ném nó xuống sàn xi măng dơ dáy. Cô hiểu không, sàn xi măng trong gian bếp chúng tôi ấy…* Cái sàn như sàn nhà tù. Lúc đó nó đã vào học khoa dự bị trường Đại học Kỹ thuật Phát thanh. Nó viết tốt bài luận. Nó hạnh phúc và mọi việc đều ổn. Tôi đã nghĩ nó đang nguôi ngoai. Sẽ đi học. Rồi cưới vợ. Nhưng cứ tối đến, tôi sợ những buổi tối, nó ngồi và nhìn chằm chằm vào vách rồi thiếp ngủ trên ghế bành. Tôi muốn nhào tới, lấy thân mình che chở và không thả cho nó đi đâu nữa hết. Bây giờ tôi nằm mơ thấy nó còn nhỏ và đòi ăn. Lúc nào nó cũng đói. Nó chìa hai tay. Trong mơ lúc nào tôi cũng thấy nó nhỏ bé và bị hạ nhục. Còn trong đời thật? Mỗi tháng hai cuộc gặp. Bốn tiếng chuyện trò qua lớp kính. Mỗi năm hai lần thăm nuôi, đó là khi tôi được mang gì đó cho nó ăn. Và tiếng chó sủa. Tôi nằm mơ thấy tiếng chó sủa. Chúng đuổi theo tôi khắp chốn. Có một người đàn ông tán tỉnh tôi. Tặng cả hoa. Khi ông ta mang hoa tới, “Ông tránh xa khỏi tôi,” tôi bắt đầu hét, “tôi là mẹ của tên giết người”. Thời gian đầu tôi sợ gặp những người quen, tôi trốn trong nhà tắm và chờ những bức tường đổ sập xuống người. Tôi ngỡ như người ngoài đường đều nhận ra tôi, chỉ trỏ nhau xem rồi xầm xì: “Nhớ vụ ghê rợn đó không? Chính con trai bà ta giết người đấy. Chặt làm tư. Kiểu Afghanistan”. Tôi chỉ ra đường vào buổi tối, tìm hiểu hết những loài chim đêm. Tôi nhận biết chúng qua tiếng hót. Vụ án được điều tra. Vài tháng trôi qua. Nó im lặng. Tôi đến quân y viện Burdenko ở Moskva. Ở đó tôi tìm được vài cậu trai từng phục vụ trong đội đặc nhiệm như nó. Tôi bộc bạch cùng họ. - Các cháu này, vì cái gì mà con trai bác giết người? - Hẳn là có chuyện gì đó. Tôi phải thuyết phục mình rằng con tôi có thể đã làm điều đó. Giết người. Tôi gặng hỏi họ rất lâu để hiểu ra rằng: nó có thể! Tôi hỏi họ về cái chết. Không, không phải về cái chết, mà về việc giết chóc. Nhưng cuộc trò chuyện đó không gợi được ở họ những cảm xúc đặc biệt nào, những cảm xúc mà bất kỳ việc giết chóc nào cũng đều có thể gợi lên ở một con người bình thường chưa từng thấy máu. Họ nói về chiến tranh như nói về một công việc, một công việc cần phải giết người. Sau đó tôi đến gặp những cậu trai cũng từng ở Afghanistan, và khi Armenia động đất họ đã tới đó cùng những đội cứu hộ. Tôi muốn biết, tôi bị ám ảnh vì chuyện đó: họ có sợ không? Họ cảm giác thế nào khi chứng kiến cái chết? Không, họ chẳng thấy sợ gì cả, thậm chí lòng thương hại ở họ cũng đã cùn mằn. Những hộp sọ vỡ tung, bẹp dí, những khúc xương người… Nhiều trường học bị vùi trong lòng đất. Những lớp học. Bọn trẻ ngồi học và cứ thế mà đi vào lòng đất. Còn họ thì nhớ và kể lại những chuyện khác, nào là họ đã đào được những kho rượu vang béo bở ra sao, họ đã uống những loại vang nào, loại cô nhắc nào. Họ đùa cợt: phải chi có thêm động đất ở đâu đó. Nhưng phải ở chỗ nào ấm áp cơ, nơi nho có thể mọc và làm được vang ngon. Họ sao thế? Tâm lý họ có bình thường không vậy? “Con căm thù cái đứa bị giết đó.” Nó viết cho tôi như thế cách đây không lâu. Sau năm năm. Chuyện gì đã xảy ra ở đó? Nó câm nín. Tôi chỉ biết, cậu trai đó tên Yura, khoác lác rằng đã kiếm chác được nhiều chi phiếu ở Afghanistan. Nhưng sau đó hóa ra cậu ta phục vụ ở Ethiopia, là chuẩn úy. Cậu ta đã nói dối về Afghanistan. Tại phiên tòa, chỉ một mình luật sư biện hộ nói rằng chúng ta đang xử án một người bệnh. Trên ghế bị can không phải là tội nhân, mà là bệnh nhân. Anh ta cần được điều trị. Nhưng đó là bảy năm về trước, khi sự thật về Afghanistan chưa được hé lộ. Và chúng ta đã gọi tất cả là anh hùng. Những chiến sĩ làm nghĩa vụ quốc tế. Còn con trai tôi là kẻ giết người. Bởi nó làm cái việc mà họ từng làm ở đó. Vì việc đó mà họ được trao mề đay và huân chương. Nhưng tại sao họ lại buộc tội mình con tôi? Tại sao không buộc tội những kẻ đẩy nó vào nơi đó? Dạy nó giết người! Tôi đâu có dạy con mình việc đó. (Bùng nổ và gào thét.) Nó giết người bằng cái rìu bếp của tôi. Rồi buổi sáng nó mang đặt cái rìu lại vào tủ bếp. Như một cái muỗng hay một cái nĩa bình thường. Tôi ganh tị với những bà mẹ có con trở về cụt cả hai chân. Cứ để nó căm thù mẹ mình sau khi đã nốc say. Căm thù cả thế giới. Cứ để nó lao vào bà ta, như lao tới kẻ thù. Bà ta sẽ trả tiền cho gái mại dâm, để nó không phát rồ. Bản thân bà ta từng một lần trở thành tình nhân cho nó, bởi nó đã trườn ra ban công và muốn lao xuống từ tầng mười. Tôi chấp nhận tất cả. Tôi ganh tị với tất cả những bà mẹ, kể cả những ai có con đã nằm trong huyệt mộ. Tôi sẽ ngồi bên mộ chí của con và hạnh phúc. Tôi sẽ mang hoa tới. Cô có nghe tiếng chó sủa không? Nó đuổi theo tôi. Tôi nghe thấy chúng. Một bà mẹ Mời các bạn đón đọc Những Cậu Bé Kẽm - Viết (Hay Kể) Toàn Bộ Sự Thật Về Chính Mình Là Bất Khả của tác giả  Svetlana Alexievich & Phan Xuân Loan (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sức Mạnh Của Ngôn Ngữ Không Lời
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Sức Mạnh Của Ngôn Ngữ Không Lời của tác giả Carol Kinsey Goman. CÓ BAO GIỜ BẠN TỰ HỎI... Ấn tượng bạn để lại trong lòng cấp trên của bạn như thế nào? Bạn có nên tin vào những điều cấp trên đã hứa hay không? Bạn đang nuôi dưỡng mối quan hệ với một khách hàng tiềm năng, hay đang lãng phí thời gian của bản thân? Liệu các thành viên trong nhóm có hiểu những gì bạn nói hay không? Làm thế nào để biết rằng anh ấy/cô ấy thật sự ủng hộ ý kiến của bạn? Khán giả đang chán ngán, thất vọng, hay thích thú với những gì bạn đang trình bày? Lời đáp cho những câu hỏi trên đang ở ngay trước mắt bạn. Bạn biết đấy, chính ngôn ngữ là phương tiện được dùng để chuyển tải thông điệp trong công việc cũng như trong giao tiếp thường ngày. Tuy nhiên, có những điều không phải lúc nào cũng được nói ra bằng ngôn ngữ. Chẳng hạn, cấp trên của bạn nói rằng cô ấy sẽ xem xét việc thăng chức cho bạn, nhưng trong khi nói, cô ấy lại khoanh tay và mỉm cười gượng gạo. Rõ ràng hai thông điệp mà cô ấy đưa ra hoàn toàn trái ngược nhau. Tương tự, nếu một khách hàng nói với bạn rằng ông ấy không quan tâm tới chuyện mua xe mới, nhưng ánh mắt ông ấy lại không rời bản hợp đồng trên bàn thì điều đó nghĩa là ông ấy thực sự muốn có một chiếc xe mới. Dấu hiệu của giao tiếp không lời thường tiết lộ những động cơ và cảm xúc ẩn chứa bên trong như sự sợ hãi, lòng trung thực, niềm vui, sự do dự, nỗi thất vọng và hơn thế nữa… Những cử chỉ nhỏ nhặt nhất, như cách đồng nghiệp của bạn đứng hoặc bước vào phòng cũng cho thấy sự tự tin, thận trọng hoặc độ tin cậy nơi họ. Rồi, cách bạn ngồi, đứng hoặc cách bạn nhìn người khác cũng hé lộ phần nào trạng thái cảm xúc trong con người bạn. Bạn là một chuyên gia ngôn ngữ hình thể! Ngay từ lúc lọt lòng, tôi đã là một chuyên gia ngôn ngữ hình thể! Có thể bạn sẽ ngạc nhiên về điều này. Nhưng, giống như tôi – bạn cũng là một chuyên gia như vậy. Khi còn là trẻ sơ sinh, chúng ta đã biết biểu lộ nhiều nét mặt khác nhau để thể hiện tâm trạng và nhu cầu của bản thân. Chúng ta biết chỉ đúng những vật mình thích, biết kết nối với mẹ qua ánh mắt yêu thương. Lớn hơn một chút, chúng ta biết tiếp thu những cử chỉ và biểu hiện phù hợp với truyền thống văn hóa trong gia đình. Rồi khi trưởng thành, chúng ta học cách chọn lọc (và che đậy) những dấu hiệu mình muốn hoặc không muốn. Tất cả những điều đó được thực hiện một cách vô thức. Đối với tôi, từ khi tôi theo học chương trình cao học và chuẩn bị trở thành nhà trị liệu thì việc thực hiện những dấu hiệu không lời đã không còn là vô thức nữa. Tôi bắt đầu để ý tới các cử chỉ mà mình thể hiện hoặc bắt gặp trong giao tiếp. Việc tham gia giảng dạy chương trình Ngôn ngữ Thần kinh học và Phương pháp Erickson trong thôi miên và liệu pháp tâm lý đã dạy tôi cách quan sát những chuyển động mắt, những biểu hiện trên gương mặt và những cử chỉ cơ thể nhằm khám phá sự đồng thuận hay phản kháng ẩn chứa bên trong chúng. Khi tôi bắt đầu tư vấn cho nhiều tổ chức thương mại và diễn thuyết trước đông đảo khán giả trong và ngoài nước, tôi chú ý hơn tới ngôn ngữ cơ thể mình, sao cho mọi cử chỉ, tư thế, và biểu hiện của tôi đều phản ánh chính xác thông điệp mà tôi muốn truyền tải. Sau này, tôi truyền lại ý tưởng và kỹ thuật đó cho các nhân viên và các nhà quản lý mà tôi đào tạo. Trước khi cho ra đời cuốn sách này, tôi đã tìm hiểu hầu hết những tiến bộ gần đây trong nhiều lĩnh vực. Các nhà nghiên cứu thuộc ngành tâm lý học, thần kinh học, y học, xã hội học, nhân chủng học và giao tiếp học đã chia sẻ với tôi phương pháp và suy nghĩ của họ trong lĩnh vực giao tiếp không lời. Nhờ những đóng góp ấy, tôi hiểu hơn vì sao và làm thế nào ngôn ngữ hình thể lại có được sức mạnh kỳ diệu đến như vậy. Ngôn ngữ hình thể nơi công sở Hiểu rõ vai trò của ngôn ngữ hình thể trong các hoạt động thường ngày là việc hết sức quan trọng. Rất nhiều nhân viên, nhà quản lý chỉ vì không đọc được dấu hiệu ngôn ngữ cử chỉ của đối phương, hoặc không nhận ra sự khác biệt về văn hóa khi đưa ra cử chỉ, khiến cho mọi nỗ lực trong mối quan hệ hai bên bị đổ vỡ. cũng như sức mạnh của ngôn ngữ cử chỉ trong giao tiếp, đặc biệt là trong môi trường công sở. Khi nắm vững các kỹ năng được trình bày ở đây, bạn sẽ không chỉ đọc chính xác các dấu hiệu không lời từ đối phương, mà còn biết sử dụng ngôn ngữ hình thể một cách hiệu quả, nhờ đó đạt được lợi thế cạnh tranh trong đàm phán. Và điều này có thể áp dụng vào bất cứ lĩnh vực nào! Thực tế cho thấy, thành công trong công việc gắn liền với trình độ và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hình thể. Những ví dụ sau sẽ chứng minh rất rõ điều ấy. Khả năng lãnh đạo Vào cuối Thời đại Công nghiệp (Industrial Age), hiệu quả của lối quản lý mệnh lệnh và kiểm soát đang suy giảm mạnh. Thay vào đó, các nhà lãnh đạo (từ các thành viên ban quản trị cấp cao đến các tổ trưởng sản xuất) đều phải tìm cách lãnh đạo cấp dưới thông qua ảnh hưởng của mình hơn là dựa vào quyền hành từ chức vụ. Ảnh hưởng đó có được nhờ vào hai khả năng sau: ■ Hiểu tâm lý nhân viên, biết lắng nghe những gì họ nói và biết đọc những thông điệp không lời mà họ thể hiện. ■ Cử chỉ và lời nói phải đồng bộ. Điều này có nghĩa là ngôn ngữ hình thể phải phù hợp với lời nói để từ đó củng cố nội dung muốn truyền đạt thay vì phá hỏng nó. Giáo dục Ngôn ngữ cử chỉ của giáo viên là nhân tố quan trọng thúc đẩy học sinh hoàn thành bài tập về nhà. Nghiên cứu ở các nhóm học sinh tiểu học, trung học và đại học cho thấy, ở mọi lứa tuổi khác nhau, học sinh đều có thiện cảm với những giáo viên hay sử dụng cử chỉ thân thiện hơn, như giao tiếp bằng mắt, gật đầu, hướng người về trước, mỉm cười… Việc phát huy những cử chỉ này ở giáo viên sẽ giúp học sinh có thêm động lực học tập, các em sẽ yêu thích giờ học hơn và sẵn sàng nghe theo lời thầy cô giáo. Bán hàng Khi một nhân viên bán hàng gặp gỡ khách hàng tiềm năng, khách hàng sẽ đánh giá nhân viên ấy dựa vào vẻ ngoài và cách cư xử của họ. Quá trình này chỉ diễn ra trong khoảng bảy giây nhưng ấn tượng đó lại kéo dài. Việc bán hàng được hay không tùy thuộc vào những hành vi không lời được thể hiện ngay trong lần gặp đầu tiên. Trang điểm, tư thế, tác phong, nét mặt và ánh mắt là những yếu tố mà các nhân viên bán hàng thành công cần nắm vững và biết cách vận dụng. Đàm phán Một cuộc đàm phán thành công có thể nhờ vào khả năng nắm bắt những ẩn ý sau lời nói của đối phương. Để có được điều này, bạn cần hiểu được ngôn ngữ hình thể. Nhà đàm phán tài ba là người nhận ra khi nào nên trì hoãn hoặc thúc đẩy quá trình đàm phán. Họ biết cách xoa dịu và bình ổn những tình huống căng thẳng. Tuy nhiên, thay vì chỉ căn cứ vào lời nói, cách chủ yếu họ sử dụng để đánh giá diễn biến xung quanh là quan sát những cử chỉ không lời vốn bộc lộ những động cơ vô thức và dễ bị bỏ qua. Y tế Kỹ năng giao tiếp không lời của bác sĩ đối với bệnh nhân có một vai trò rất quan trọng. Mặc dù không ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng điều trị bệnh (như các thiết bị kỹ thuật, dụng cụ y tế), nhưng việc nhạy bén với những dấu hiệu không lời và thể hiện "sự thấu cảm lâm sàng" đối với người bệnh sẽ đem lại cảm giác hài lòng nơi người bệnh, giúp họ bình tâm và lạc quan hơn. Pháp luật Khi thẩm vấn nghi phạm, thay vì chỉ lắng nghe những câu trả lời mâu thuẫn nhau, một cảnh sát được đào tạo bài bản sẽ tìm kiếm những phản ứng tâm lý thoáng qua trên khuôn mặt nghi phạm. Chẳng hạn nụ cười thoáng qua có thể ngầm hiểu rằng nghi phạm tự tin rằng hắn vừa đánh lừa được thẩm vấn viên. Dịch vụ khách hàng Nhiều người cho rằng thái độ phục vụ tận tình của nhân viên chính là chìa khóa đem lại thành công cho dịch vụ khách hàng. Nghiên cứu cho thấy khả năng nhận biết các dấu hiệu không lời của nhân viên cũng quan trọng không kém. Việc nắm bắt ngôn ngữ hình thể một cách tinh tế sẽ giúp nhân viên hiểu rõ khách hàng thật sự đang nghĩ gì hoặc cảm nhận được gì. Xây dựng kỹ năng Vận dụng kỹ năng giao tiếp không lời nghĩa là bạn đi vào tìm hiểu và áp dụng những cử chỉ gần như vô thức trước đó. Thay vì chỉ cảm nhận về một ai đó, bạn có thể nhìn vào dấu hiệu hình thể để đọc suy nghĩ của họ. Thay vì chỉ hy vọng rằng bản thân tạo được ấn tượng tốt thì bạn có thể biết cử chỉ nào giúp bạn có được sự tự tin và lấy được thiện cảm từ đối phương. Nắm được các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết này không chỉ giúp bạn học hỏi những điều mới mẻ mà còn giúp bạn nhận thức được sức mạnh của ngôn ngữ cử chỉ để từ đó phát huy hơn nữa năng lực của bản thân. Bạn sẽ biết cách tạo ấn tượng tốt đẹp ngay từ lần gặp đầu tiên. Bạn cũng sẽ biết cách giải mã một ánh mắt, một nét mặt hay cử chỉ nào đó và nhanh chóng xây dựng niềm tin với khách hàng cũng như các thành viên trong nhóm. *** Đánh giá Cuốn sách Sức mạnh của ngôn ngữ không lời của tác giả Carol Kinsey Goman là một tài liệu tham khảo hữu ích cho bất kỳ ai muốn nâng cao kỹ năng giao tiếp của mình, đặc biệt là trong môi trường công sở. Cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về ngôn ngữ không lời, từ những khái niệm cơ bản đến các ứng dụng cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau. Ưu điểm: Nội dung cuốn sách được trình bày rõ ràng, dễ hiểu, với nhiều ví dụ minh họa sinh động. Cuốn sách cung cấp kiến thức nền tảng về ngôn ngữ không lời, từ những khái niệm cơ bản như ánh mắt, cử chỉ, nét mặt đến những ứng dụng cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau như lãnh đạo, bán hàng, đàm phán, dịch vụ khách hàng,... Cuốn sách có tính ứng dụng cao, giúp người đọc nâng cao kỹ năng giao tiếp và thành công hơn trong công việc. Nhược điểm: Một số thông tin trong cuốn sách có thể hơi cũ, cần cập nhật thêm. Kết luận: Cuốn sách Sức mạnh của ngôn ngữ không lời là một tài liệu tham khảo hữu ích cho bất kỳ ai muốn nâng cao kỹ năng giao tiếp của mình. Cuốn sách cung cấp kiến thức nền tảng và các kỹ năng thực tế giúp người đọc hiểu rõ hơn về ngôn ngữ không lời và sử dụng nó một cách hiệu quả trong giao tiếp. Mời các bạn mượn đọc sách Sức Mạnh Của Ngôn Ngữ Không Lời của tác giả Carol Kinsey Goman.
Vòng Tay Học Trò
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Vòng Tay Học Trò của tác giả Nguyễn Thị Hoàng: Tác giả   Tìm chân dung đích thực của tác giả ‘Vòng Tay Học Trò’ Trong sinh hoạt văn chương miền Nam 20 năm (1955-1975), Nguyễn Thị Hoàng là một trong vài nhà văn nữ, nổi tiếng ngay với tác phẩm văn xuôi đầu tay “Vòng Tay Học Trò.” Nhưng, nếu Nhã Ca (ở lãnh vực văn xuôi) cũng nổi tiếng ngay với truyện vừa “Ðêm Nghe Tiếng Ðại Bác,” lấy bối cảnh sinh hoạt của một gia đình viết về chiến tranh thì, Nguyễn Thị Hoàng lại nổi tiếng khi bà vượt qua vạch phấn cấm kỵ (taboo) của truyền thống đạo đức xã hội Việt Nam, khi viết về lãnh vực tình yêu và, tình dục giữa một cô giáo và học trò của mình, theo xu hướng hiện sinh. Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng và ‘Tiếng Chuông Gọi Người Tình Trở Về’ qua nét bút của họa sĩ Chóe. Trong phần giới thiệu ngắn gọn về tiểu sử nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, trang mạng Wikipedia-Tiếng Việt, cũng ghi nhận như sau: “Tác phẩm đầu tay của bà (NTH) có nhan đề Vòng Tay Học Trò dưới bút danh Hoàng Ðông Phương. Ðây là một tiểu thuyết hiện sinh mô tả vấn đề tình yêu, tình dục giữa một cô giáo tên Tôn Nữ Quỳnh Trâm và học trò Nguyễn Duy Minh được đăng dưới hình thức nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa. Tác phẩm trở thành một trong những tác phẩm gây tranh cãi nhất thời kỳ này, và về sau được tái bản nhiều lần.” Tuy nhiên, theo một vài tư liệu hiện có trên Wikipedia thì, bước chân đầu tiên tìm đến với cõi giới văn chương của người nữ văn sĩ này, vốn là thi ca chứ không phải văn xuôi. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho nhà văn Mai Ninh (hiện cư ngụ tại Paris) năm 2003, tác giả “Vòng Tay Học Trò” cũng xác nhận rằng: “...NTH khởi viết, trước tiểu thuyết, bằng thơ (Tạp chí Bách Khoa 1960), và căn chất mãi mãi cũng chỉ là thơ, rất 'dốt' và sợ cái gì liên quan đến khoa học...” Thực tế cũng cho thấy, bà không chỉ làm thơ đăng báo mà, còn có tới hai thi phẩm đã được xuất bản. Ðó là các tập thơ “Sầu Riêng,” XB năm 1960 và “Kiếp Ðam Mê” XB năm 1961.[1] Tuy nhiên, cũng khác với Nhã Ca. Nếu tác giả “Ðêm Nghe Tiếng Ðại Bác” gây xôn xao dư luận những người yêu thơ cũng như văn giới ngay tự những bài thơ thứ nhất của bà, đăng tải trên Tạp chí Hiện Ðại của nhà thơ Nguyên Sa thì, dường như thơ Nguyễn Thị Hoàng lại kém may mắn hơn! Chúng không nhận được sự chào đón hay, chú ý của dư luận quần chúng. Chính vì thế mà số người biết nhà văn Nguyễn Thị Hoàng là một người làm thơ trước khi viết văn không bao nhiêu - Trừ những người có mối quan tâm đặc biệt, muốn tìm hiểu hoặc, nghiên cứu về sự nghiệp văn chương của bà. Trong số những người có mối quan tâm đặc biệt tới lộ trình chữ, nghĩa của Nguyễn Thị Hoàng, tôi trộm nghĩ, chúng ta phải kể tới nhà văn Nguyễn Ngọc Chính. Ông là người có nhiều bài viết nhất về tác giả “Vòng Tay Học Trò.” Với loạt bài nằm trong “Hồi Ức Một Ðời Người,” họ Nguyễn đã sưu tập về cõi thơ Nguyễn Thị Hoàng và, ghi nhận: “...Trước khi nổi tiếng trong nhóm nhà văn nữ trước 1975, Nguyễn Thị Hoàng là một nhà thơ của xứ Huế với hai tập thơ Sầu Riêng (1960) và Sau Phút Ðam Mê (1961). (2) Nổi bật hơn cả là bài thơ Chi lạ rứa với 40 câu thơ mang đặc những ngôn từ của miền Trung như chi lạ rứa, bởi vì răng, bên ni bờ, đau chi mô, hiểu chi mô (...). “Những vần lục bát là thế mạnh trong thơ Nguyễn Thị Hoàng với những câu thơ rất da diết nhưng cũng rất tự nhiên như văn viết:   Em mười sáu tuổi tơ măng Thịt da đốt cháy thiên đường tình yêu Trong cơn chăn gối rã rời Im nghe từng chuyến xe đời đi qua Ðường về không nhịp trùng lai Chúa ơi con sợ... ngày mai một mình   Nhìn lên thành phố không đèn Âm u còn một màn đêm cuối cùng Mắt sâu dòng lệ ngập ngừng Mình xa nhau đến muôn trùng thời gian   Lênh đênh tiếng hát kinh cầu Ăn năn cổ thụ cúi đầu ngẩn ngơ Trên cao tháp cũ nhà thờ Hồi chuông tưởng niệm bây giờ còn vang   “Lối gieo vần trong thơ 8 chữ cũng là một thể nghiệm mới lạ của nhà thơ nữ:   Em đợi anh về những chiều thứ bẩy Hiu hắt vòm trời buổi sáng thứ hai Nhạc dạo mơ hồ trong tiếng mưa bay Thành phố ngủ quên những ngày chủ nhật   Cho em xin một chiều vui thứ bẩy Có nhạc phòng trà có lá me bay Tiếng gió reo vui đêm dài xa lộ Nửa cuộc đời còn khoác kín vòng tay   “Và cuối cùng là những vần thơ 5 chữ trong bài Lời Rêu:   Uống cùng nhau một giọt, Ðắng cay nào chia đôi Chung một niềm đơn độc, Riêng môi đời phai phôi.   Say giùm nhau một giọt! Chút nồng thơm cuối đời. Vướng giùm nhau sợi tóc, Ràng buộc trời sinh đôi. (...)   Và người thứ ai, theo tôi, là nhà văn Trần Áng Sơn. Trong bài viết nhan đề “Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng-Người đàn bà đẹp,” họ Trần kể, vào thời điểm tháng 4, 2002, khi ông viết bài đó, trong tay ông “...không có 1 tác phẩm nào, như một tài liệu, để gọi nói có sách, mách có chứng. Nhưng, vì quá yêu ngòi bút của bà, khởi đi từ chi tiết rất xa xăm - bài thơ Lạ Rứa! - do 1 người bạn ở Huế chép tặng 1957- tôi thực hiện cuộc trở về trong sương mù, viết bằng ký ức, cảm xúc. Cũng rất có thể, tôi bị lạc lối, nhưng tấm lòng dành cho bài thơ Lạ Rứa! vẫn như xưa...”[2] Dưới đây là nguyên văn bài thơ “Chi Lạ Rứa” của Nguyễn Thị Hoàng, trong ký ức của nhà văn Trần Áng Sơn:   “Chi lạ rứa, chiều ni tui muốn khóc, Ngó chi tui đồ cỏ mọn, hoa hèn. Nhìn chi tui hình đom đóm đêm đen, Cho tui tủi bên ni bờ cô tịch.   “Tui ao ước có bao giờ tuyệt đích, Tui van xin răng mà cứ làm ngơ. Rồi ngó tui, chi lạ rứa hững hờ, Ghét, yêu, mến, vô duyên và trơ trẽn!   “Tui đã tắt nỗi ngại ngùng bẽn lẽn, Bởi vì răng, ai biết được người hè. Nhưng màu chiều đã rũ bóng lê thê, Ni với nớ, có chi mô gần gũi!   “Chi lạ rứa, răng cứ làm tui tủi? Tàn nhẫn chi với một đứa thương đau! Khối tình câm nên không sắc, không màu, Và vạn thuở chẳng nên câu luyến ái!   “Chi lạ rứa, người cứ làm tui ngại, Biết sông sâu hay cạn giữa tình đời? Bên ni bờ vẫn trong trắng chơi vơi, Mà bên nớ trầm ngâm mô có kể.   “Không muốn khóc, nhưng cứ từng ngấn lệ, Ðọng làn mi ấp ủ mối tâm tình. Bên ni bờ hoa thắm bớt tươi xanh, Mà bên nớ huy hoàng và lộng lẫy.” Nguyễn Thị Hoàng[3] Tuy chỉ với vài bài thơ do hai tác giả Nguyễn Ngọc Chính và Trần Áng Sơn ghi lại, nhưng cũng đã có một số người tự hỏi, nếu không xẩy ra cuộc tình nhiều tai tiếng giữa tác giả Nguyễn Thị Hoàng và câu học trò tên Mai Tiến Thành và (vẫn nếu), họ Hoàng không viết lại thành truyện thì không biết hôm nay, người đọc sẽ có một Nguyễn Thị Hoàng thi sĩ hay, Nguyễn Thị Hoàng văn sĩ? Nhất là khi bà từng nhấn mạnh, với bà, trước sau, căn bản vẫn là thi ca?   Dư luận chung quanh ‘Vòng tay học trò’ và đời thường của nhân vật chính Mặc dù căn cứ vào cuộc phỏng vấn Nguyễn Thị Hoàng dành cho nhà báo Tố Tâm ở tạp chí Ðất Mới, số 4 bộ 2, tháng 4, 1990, Việt Nam thì, cả hai tập thơ mà trang mạng Wikipedia liệt kê trong danh sách tác phẩm đã xuất bản, được bà nói rõ rằng: “...Thơ chưa in thành tập, nhưng rải rác có đăng báo. Khởi đầu năm 1960 ở Bách Khoa và từ 1961-1962 thì ở tạp chí Văn. Nhưng khi những chương đầu tiên của Vòng Tay Học Trò được in ở Bách Khoa thì tiểu thuyết là chính, thơ chỉ còn là tô điểm thế mà.”[4] Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng. (Hình: NAG Trần Cao Lĩnh chụp) Nhưng, có dễ trước sau thi ca vẫn là “cây bài chủ,” hay ngọn hải đăng tâm hồn họ Nguyễn. Nên khi bước qua văn xuôi, ngay tự những trang viết thứ nhất của tiểu thuyết “Vòng Tay Học Trò,” bên cạnh sự hấp dẫn, lôi cuốn của cốt truyện chắt, chiết từ đời thật, tác giả vẫn có những đoạn tả cảnh, tình ắp đầy thi tính như: “...Một tiếng chim hót lên đầu cành thông gần mái nhà. Trâm nhìn ra. Vòm trời xanh mênh mông in hình nét đồi cong thoai thoải, sáng rực nắng chiều. Một đám mây trắng sắp sửa nhô lên sau ngọn đồi thấp nhất. Hình ảnh của những buổi chiều yên tĩnh, cuộc đời cô quạnh, buồn lãng mạn và nên thơ thoáng qua trong trí Trâm. Nàng chợt vừa sợ vừa thích nỗi cô đơn hiện tại (...). “Trâm đứng lên mở rộng cánh cửa kính. Mùi thơm quen thuộc của cỏ khô và đất mới xới, lẫn với mùi dâu chín dưới thung lũng thoảng theo gió bay lên làm Trâm tự nhiên ấm áp trong lòng, tưởng như đang đời đời yên ổn sống trên đất quê hương...” (Trích VTHT, chương 1)[5] Hoặc một đoạn khác, ở chương 2, tác giả ghi lại, những “cảm nhận” về cậu học trò tên Minh, nhân vật sẽ sớm trở thành người yêu của cô giáo Trâm (biến thân của chính tác giả): “...Trâm giấu nụ cười trong bàn tay vừa đưa lên che môi. Bây giờ, bọn học trò chăm chú vào công việc, không nhìn lên nàng nữa. Trâm tự do, dễ chịu, tha hồ nhìn xuống, quan sát từng đứa để ‘trả thù’ bị nhìn lúc mới vào. Vài đôi mắt nhìn ra cửa sổ. Trâm nghĩ, thế nào cũng có thông reo gió thổi. Có đôi mắt nhìn sững vào khoảng không hay trên vách tường trống trải. Có cặp mắt sáng rỡ nhìn lên như vừa bắt gặp một ý tưởng, một hình ảnh thần tiên nào đó đang chiếu vào khoảng tâm hồn u tối. Có cặp mặt đăm đăm nhìn xuống tờ giấy trắng như chờ mong những hàng chữ bỗng nhiên hiện hình theo phép lạ. “Cuối cùng, Trâm nhìn xuống chỗ Minh ngồi. Cậu bé đang lơ đãng chống tay vào má nhìn lên phía nàng. Cây bút xoay tròn tinh nghịch trên mấy ngón tay trắng nhỏ. Nàng mỉm cười thật nhẹ như thầm nhắc, sao em không viết gì đi. Minh mỉm cười yên lặng. Nụ cười nửa đầm ấm bắt gặp vẻ quen thân trong xa lạ, nửa ngại ngùng bối rối muốn lẩn trốn, che giấu chính mình và những ý nghĩ mình trước đôi mắt dò xét và phán đoán của kẻ khác. Rồi đôi mắt Minh cúi xuống. Ngòi bút loay hoay trong tay, bây giờ bị cắn nhẹ giữa hai hàm răng đều và nhỏ. Minh vò một mẩu giấy nhỏ vứt xuống đất, giở trang giấy khác, nhưng không viết gì được. Trâm biết Minh muốn đứng lên, chạy bay ra khỏi phòng, chạy thật xa cái nhìn xoi mói của nàng. Nhưng Trâm cứ nhìn như kẻ đi săn nhìn con thú lúng túng tìm cách thoát thân khỏi cái bẫy của mình...[6] Ðược biết “Vòng Tay Học Trò” của Nguyễn Thị Hoàng trước khi in thành sách, đã được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa, Saigon, 1964. Ngay khi còn ở dạng truyện đăng nhiều kỳ, VTHT cũng đã nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của giới trẻ thời điểm đó. Nhưng mãi tới năm 1966, tiểu thuyết này mới được in ra. Và đó mới là thời điểm “cơn bão VTHT” đạt tới đỉnh điểm cao nhất.   Mời các bạn mượn đọc sách Vòng Tay Học Trò của tác giả Nguyễn Thị Hoàng.
Vị Tu Sĩ Bán Chiếc Ferrari
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Vị Tu Sĩ Bán Chiếc Ferrari của tác giả Robin Sharma: LỜI KHEN TẶNG “Xúc động từ đầu đến cuối, quyển sách này sẽ khiến cuộc sống của bạn hạnh phúc hơn.” – Mark Victor Hansen, đồng tác giả bộ sách Chicken Soup for the Soul “Robin Sharma mang đến một thông điệp quan trọng có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta theo hướng tích cực. Ông đã viết nên một quyển cẩm nang có-một-không-hai để hướng dẫn chúng ta đạt được sự thỏa mãn cá nhân trong thời đại hối hả này.” – Scott DeGarmo, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Success “Robin Sharma đã tạo ra một câu chuyện hết sức lôi cuốn bằng cách kết hợp chặt chẽ các công cụ truyền thống giúp chúng ta thay đổi với triết lý sống đơn giản. Quyển sách thú vị này sẽ thay đổi cuộc đời bạn.” – Elaine St. James, tác giả quyển Simplify Your Life và Inner Simplicity “Quyển sách đã làm sáng tỏ những câu hỏi lớn của cuộc đời.” – Tạp chí Edmonton “Một quyển sách rất đáng đọc… Nó thật sự có thể giúp độc giả đương đầu với cuộc sống khắc nghiệt ngoài kia.” – Báo The Kingston Whig-Standard “Quyển sách tuyệt vời về chủ đề phát triển cá nhân… Nó chứa đựng những thông điệp sâu sắc về các khái niệm chính yếu vốn giúp mang đến sự cân bằng, quyền kiểm soát và tính hiệu quả cao hơn trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.” – Báo Investment Executive “Một phương pháp vừa mạnh mẽ vừa tinh tế để đạt được hạnh phúc và thành công thật sự. Robin Sharma đã nắm bắt được nguồn tri thức thông thái của những thế hệ đi trước và khiến chúng trở nên hoàn toàn phù hợp với thời đại hỗn loạn ngày nay. Tôi mê mẩn đến nỗi không thể đặt quyển sách xuống.” – Joe Tye, tác giả quyển Never Fear, Never Quit “Những nguyên tắc đơn giản để khai mở tiềm năng của con người.” – Báo The Daily News Một câu chuyện tuyệt vời chứa đựng những ý tưởng giản đơn nhưng hiệu quả đến kinh ngạc, nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của bất kỳ ai. Tôi đã giới thiệu quyển sách này đến tất cả các khách hàng của mình.” – George Williams, Chủ tịch Công ty Karat Consulting International *** Tác giả Robin Sharma Robin Sharma là một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực lãnh đạo và thành công cá nhân. Phần lớn các tác phẩm của ông đều lọt vào danh sách những quyển sách bán chạy nhất trên toàn cầu, trong đó tác phẩm kinh điển The Monk Who Sold His Ferrari (Vi tu sĩ bán chiếc Ferrari) đã được xuất bản ở hơn 75 quốc gia, giúp hàng triệu người tạo dựng được cuộc sống phi thường. Công việc của ông được đánh giá cao bởi những nghệ sĩ nổi tiếng, các giám đốc điều hành, các ngôi sao nhạc rock, các doanh nhân hàng đầu và cả giới hoàng tộc. Ngoài vai trò là một diễn giả sáng giá, Robin còn là một huấn luyện viên rất được kính trọng bởi các doanh nhân xuất sắc trên thế giới, những người luôn sẵn sàng tạo nên sự khác biệt trong mọi việc họ làm. Robin Sharma là giám đốc điều hành của Công ty Sharma Leadership International Inc., một doanh nghiệp đứng đầu trong lĩnh vực huấn luyện và đào tạo, giúp các cá nhân và tổ chức vươn đến tầm cỡ thế giới. Các khách hàng của công ty bao gồm Nike, BP, General Electric, NASA, FedEx, IBM và Microsoft. *** TÓM TẮT Cuốn sách “Vị tu sĩ bán chiếc Ferrari” kể về câu chuyện của Julian Mantle, một luật sư thành đạt nhưng lại cảm thấy cuộc sống của mình vô nghĩa và trống rỗng. Trong một lần tranh tụng, Julian đột quỵ và suýt chết. Sau khi được cứu sống, anh quyết định từ bỏ tất cả những gì mình đang có, bao gồm căn biệt thự, chiếc Ferrari và công việc danh giá, để đến Ấn Độ tìm kiếm sự giác ngộ. Tại đây, Julian gặp gỡ Yogi Raman, một nhà hiền triết và được dạy về bảy đức tính của Hệ thống Sivana: Làm chủ tâm trí: Tập trung vào những suy nghĩ tích cực và loại bỏ những suy nghĩ tiêu cực. Sống hiện tại: Tập trung vào giây phút hiện tại và tận hưởng từng khoảnh khắc. Làm chủ cơ thể: Tập thể dục thường xuyên và ăn uống lành mạnh. Làm chủ cảm xúc: Kiểm soát cảm xúc của mình và tránh để chúng chi phối. Làm chủ các mối quan hệ: Xây dựng những mối quan hệ lành mạnh và có ý nghĩa. Làm chủ mục tiêu: Xác định mục tiêu của mình và lập kế hoạch để đạt được chúng. Dưới sự hướng dẫn của Yogi Raman, Julian đã bắt đầu thay đổi cuộc sống của mình. Anh tập trung vào việc phát triển bản thân và tìm thấy ý nghĩa cuộc sống. Sau nhiều năm tu luyện, Julian đã trở thành một người hoàn toàn mới, một người hạnh phúc và viên mãn. REVIEW “Vị tu sĩ bán chiếc Ferrari” là một cuốn sách truyền cảm hứng và đầy ý nghĩa. Cuốn sách chứa đựng những bài học quý giá giúp chúng ta thay đổi cuộc sống của mình theo hướng tích cực. Dưới đây là một số bài học nổi bật từ cuốn sách: Tâm trí là một công cụ mạnh mẽ: Chúng ta có thể sử dụng tâm trí của mình để tạo ra những suy nghĩ tích cực, những cảm xúc tích cực và những hành động tích cực. Hiện tại là món quà: Chúng ta nên sống trọn vẹn từng khoảnh khắc và tận hưởng từng giây phút. Sức khỏe là nền tảng của thành công: Chúng ta cần chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần của mình để có thể đạt được thành công trong cuộc sống. Mối quan hệ là điều quan trọng nhất: Chúng ta nên xây dựng những mối quan hệ lành mạnh và có ý nghĩa. Mục tiêu là động lực của thành công: Chúng ta cần xác định mục tiêu của mình và lập kế hoạch để đạt được chúng. Cuốn sách được viết theo thể loại tiểu thuyết, với lối kể chuyện hấp dẫn và lôi cuốn. Các nhân vật trong truyện được xây dựng chân thực và gần gũi, giúp người đọc dễ dàng đồng cảm và học hỏi từ họ. “Vị tu sĩ bán chiếc Ferrari” là một cuốn sách đáng đọc cho bất kỳ ai muốn thay đổi cuộc sống của mình. Cuốn sách sẽ giúp bạn tìm thấy ý nghĩa cuộc sống và sống một cuộc đời hạnh phúc, viên mãn hơn. Đánh giá cá nhân Tôi đánh giá cuốn sách “Vị tu sĩ bán chiếc Ferrari” 5/5 sao. Cuốn sách là một nguồn cảm hứng tuyệt vời giúp tôi thay đổi cuộc sống của mình theo hướng tích cực. Tôi đã học được rất nhiều bài học quý giá từ cuốn sách, bao gồm: Tầm quan trọng của việc phát triển bản thân: Tôi nhận ra rằng nếu muốn thay đổi cuộc sống của mình, tôi cần phải thay đổi bản thân. Tôi bắt đầu tập trung vào việc phát triển những phẩm chất tích cực, như sự tự tin, lòng quyết tâm và tinh thần cầu tiến. Sức mạnh của suy nghĩ tích cực: Tôi nhận ra rằng suy nghĩ của tôi có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của tôi theo cách tích cực hoặc tiêu cực. Tôi bắt đầu tập trung vào những suy nghĩ tích cực và loại bỏ những suy nghĩ tiêu cực. Tầm quan trọng của việc sống hiện tại: Tôi nhận ra rằng tôi đang lãng phí quá nhiều thời gian để suy nghĩ về quá khứ hoặc lo lắng về tương lai. Tôi bắt đầu tập trung vào giây phút hiện tại và tận hưởng từng khoảnh khắc. Tôi rất biết ơn tác giả Robin Sharma đã viết ra cuốn sách “Vị tu sĩ bán chiếc Ferrari”. Cuốn sách đã giúp tôi thay đổi cuộc sống của mình theo hướng tích cực và tôi tin rằng nó cũng có thể giúp bạn. Mời các bạn mượn đọc sách Vị Tu Sĩ Bán Chiếc Ferrari của tác giả Robin Sharma.
6 Tỉ Đường Đến Hạnh Phúc
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách 6 Tỉ Đường Đến Hạnh Phúc của tác giả Stefan Klein: Sáu tỉ đường đến hạnh phúc xuất phát từ một nghiên cứu đột phá về chủ đề Hạnh phúc, trở thành cuốn sách lừng danh được xuất bản tại hơn 25 nước trên thế giới. Một khám phá thấu suốt về cách thức và nguyên nhân đằng sau khoa học hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều khao khát hạnh phúc. Chúng ta biết cảm giác hạnh phúc như thế nào. Nhưng những cơ chế nào trong não kích hoạt cảm giác này? Cái gì thực sự có nghĩa là hạnh phúc? Tại sao chúng ta không thể cảm thấy hạnh phúc là mãi mãi? Trạng thái sung sướng nhất của con người mang bí ẩn nào? Trong cuốn Sáu tỉ đường đến hạnh phúc, nhà báo khoa học hàng đầu Stefan Klein đã bao quát những chuyên ngành mới nhất của khoa học thần kinh và tâm lý học để giải thích hạnh phúc được hình thành trong não bộ con người như thế nào, phục vụ mục đích sinh học gì, va những điều kiện cần để hổ trợ cho cuộc "mưu cầu hạnh phúc". Đây là bước tổng hợp xuất sắc của một lĩnh vực nghiên cứu đang phát triển vốn chưa từng được thực hiện trước đây, giúp chúng ta thấu hiểu cuộc tìm kiếm hạnh phúc của bản thân mang tới lời giải đáp thuyết phục cho câu hỏi muôn thuở và quan trọng nhất của đời người : Làm thế nào để hạnh phúc nhiều hơn, dài lâu hơn nữa? *** Tóm tắt Cuốn sách "Sáu tỉ đường đến hạnh phúc" của tác giả Stefan Klein là một khám phá thấu suốt về cách thức và nguyên nhân đằng sau khoa học hạnh phúc. Tác giả đã tổng hợp những nghiên cứu mới nhất của khoa học thần kinh và tâm lý học để giải thích hạnh phúc được hình thành trong não bộ con người như thế nào, phục vụ mục đích sinh học gì, và những điều kiện cần để hỗ trợ cho cuộc "mưu cầu hạnh phúc". Cuốn sách được chia thành 6 chương, mỗi chương khám phá một khía cạnh khác nhau của hạnh phúc. Chương 1: Hạnh phúc là gì? Chương này bắt đầu bằng việc định nghĩa hạnh phúc là gì. Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc tích cực, được đặc trưng bởi cảm giác vui vẻ, hài lòng và thỏa mãn. Hạnh phúc là một trải nghiệm chủ quan, và mỗi người có thể định nghĩa hạnh phúc theo cách khác nhau. Chương 2: Hạnh phúc được hình thành như thế nào? Chương này giải thích cách thức hạnh phúc được hình thành trong não bộ. Hạnh phúc được kích hoạt bởi một số chất dẫn truyền thần kinh, bao gồm dopamine, serotonin và oxytocin. Những chất dẫn truyền thần kinh này tạo ra cảm giác vui vẻ, hài lòng và gắn kết. Chương 3: Hạnh phúc có mục đích gì? Chương này khám phá mục đích sinh học của hạnh phúc. Hạnh phúc có thể giúp chúng ta tồn tại và sinh sản. Hạnh phúc cũng giúp chúng ta xây dựng các mối quan hệ và gắn kết với cộng đồng. Chương 4: Làm thế nào để hạnh phúc hơn? Chương này đưa ra một số lời khuyên về cách để hạnh phúc hơn. Những lời khuyên này bao gồm: * Tập trung vào những điều tích cực trong cuộc sống * Tìm kiếm mục đích và ý nghĩa * Xây dựng các mối quan hệ * Giúp đỡ người khác * Chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần Chương 5: Hạnh phúc ở đâu? Chương này khám phá những yếu tố ảnh hưởng đến hạnh phúc. Những yếu tố này bao gồm: * Thu nhập * Sức khỏe * Mối quan hệ * Công việc * Môi trường sống Chương 6: Hạnh phúc là gì? Chương này kết luận bằng cách khẳng định rằng hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc phức tạp, được hình thành bởi nhiều yếu tố khác nhau. Hạnh phúc không phải là một mục tiêu cuối cùng, mà là một hành trình. Đánh giá Cuốn sách "Sáu tỉ đường đến hạnh phúc" là một cuốn sách khoa học hấp dẫn và dễ đọc. Tác giả đã sử dụng một ngôn ngữ đơn giản để giải thích những khái niệm phức tạp của khoa học hạnh phúc. Cuốn sách cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện về hạnh phúc, từ những cơ chế sinh học đến những yếu tố xã hội. Cuốn sách cũng cung cấp một số lời khuyên thực tế về cách để hạnh phúc hơn. Những lời khuyên này có thể giúp người đọc cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Tuy nhiên, cuốn sách cũng có một số hạn chế. Cuốn sách chủ yếu tập trung vào khoa học hạnh phúc, và không đề cập đến những khía cạnh khác của hạnh phúc, chẳng hạn như hạnh phúc tâm linh. Nhìn chung, cuốn sách "Sáu tỉ đường đến hạnh phúc" là một cuốn sách đáng đọc cho những ai quan tâm đến chủ đề hạnh phúc. Cuốn sách cung cấp cho người đọc một cái nhìn sâu sắc về khoa học hạnh phúc, và có thể giúp người đọc cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Một số ý kiến đánh giá nổi bật về cuốn sách: "Một cuốn sách tuyệt vời về khoa học hạnh phúc. Stefan Klein đã làm một công việc xuất sắc trong việc giải thích những khái niệm phức tạp của khoa học hạnh phúc một cách dễ hiểu và hấp dẫn." - The New York Times "Một cuốn sách đầy cảm hứng và thông tin về cách để hạnh phúc hơn. Stefan Klein đã cung cấp cho chúng ta những lời khuyên thực tế mà chúng ta có thể áp dụng ngay trong cuộc sống hàng ngày." - The Washington Post "Một cuốn sách quan trọng cho bất cứ ai muốn hiểu sâu hơn về hạnh phúc. Stefan Klein đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn toàn diện về một trong những chủ đề quan trọng nhất của cuộc sống." - The Boston Globe *** Mỗi người trải nghiệm hạnh phúc một cách khác nhau. Với người này, hạnh phúc là khi chạy chân trần trên cỏ ướt sương, với người kia hạnh phúc là lúc bế con trên tay. Một thứ đồ mới, một cái bánh mì kẹp, hay bản Concerto Số 13 dành cho piano và dàn nhạc của Mozart cũng có thể làm mọi người hạnh phúc không kém gì tình dục. Cũng Có người cảm thấy hạnh phúc khi những thứ trên hoàn toàn không còn hiện hữu, như vị thiền sư trải nghiệm niềm phúc lạc khi giải thoát mình khỏi bám chấp. Vậy thế nào là cảm giác hạnh phúc? Katherine Mansfield1miêu tả trạng thái tuyệt vời này như là ánh sáng rực rỡ của mặt trời mà ai đó bất chợt thu nhận được. Tất cả chúng ta đều theo đuổi cảm giác này, nhưng nó đến khi ta ít mong nó nhất - và biến mất trước khi ta có cơ hội hưởng thụ nó trọn vẹn. Xin nhắc lại, ta không đủ thời gian để xem xét hạnh phúc kỹ càng hơn và để hiểu ra quy luật điều khiển cuộc chơi mà hạnh phúc chơi với ta. Mùa xuân năm 2000, tôi đến thăm nhà nghiên cứu não bộ Vilayanur S. Ramachandran. Nhà khoa học lập dị lỗi lạc gốc Ấn Độ này đã gây chấn động với lý thuyết của ông về một “khối Chúa” (God module) trong não bộ. Ông đã chữa cho những người chân tay bị khuyết tật khỏi nỗi đau ám ảnh bằng cách cho họ nhìn vào những tấm gương được sắp xếp khéo léo. Tờ Neosukeek tôn vinh ông là nhân vật của “Câu lạc bộ Thế kỷ”, một trong một trăm người có ảnh hưởng nhất đang dõi theo trong thế kỷ mới. Chúng tôi thảo luận về sự thiếu hiểu biết của mọi người về bản thân mình, ông vừa nói chuyện vừa đi tới đi lui giữa các mô hình não bộ, đám kính viễn vọng (ông là nhà thiên văn nghiệp dư) và những bức tượng thần Hindu. Ramachandran là kiểu người không thể ngồi yên một chỗ dù chỉ một khắc. Bỗng nhiên ông kêu lên với thứ tiếng Anh pha Ấn du dương của mình: “Và chúng ta thậm chí chưa biết hạnh phúc là gì!” Lời nhận xét đó chính là xúc tác cho cuốn sách này. Tôi muốn biết hạnh phúc là gì. Việc nghiên cứu những cảm giác tích cực của tôi chắc chắn đóng vai trò quan trọng trong niềm hy vọng rằng chúng ta có thể tìm ra hạnh phúc nếu biết tìm nó ở đâu. Và tôi cũng bị thúc đẩy bởi tính tò mò, căn bệnh nghề nghiệp của nhà khoa học và nhà báo - mà tôi lại làm cả hai nghề ấy. Càng đào sâu vào chủ đề này, càng đọc nhiều, càng nói chuyện nhiều với các nhà khoa học, với những người uyên bác cũng như người bình thường từ Á sang Âu, tôi càng tin chắc vào một phát hiện làm chính mình ngạc nhiên: Ramachandran đã sai. Bây giờ chúng ta đã hiểu biết nhiều về hạnh phúc. Tuy nhiên, hầu hết những cái chúng ta biết đều khó tìm ra, chúng nằm rải rác trong vô số bài viết có tính học thuật, mà nhiều bài trong đó lại khó đọc. Cũng có những phát hiện khác còn chưa được Công bố, chưa kể đến việc những tri thức mới về hạnh phúc không được tập hợp và trình bày theo lối mọi người có thể hiểu và áp dụng. Đây là điều mà tôi hy vọng có thể làm được thông qua cuốn sách này. Có lẽ ta sẽ ngạc nhiên khi biết rằng hạnh phúc, cái cảm giác phức tạp có vẻ siêu phàm này, lại có thể được nghiên cứu dưới góc độ khoa học. Chúng ta không xa lạ gì với những nghiên cứu về sự bất hạnh. Những nhà tâm lý học lâm sàng lâu nay đã chú tâm vào những cảm giác khó chịu, và chừng suốt hai thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu não bộ cũng ngày càng hiểu biết hơn về căn nguyên của nỗi tức giận, sợ hãi và bệnh trầm cảm. Toàn bộ nền công nghiệp bán thuốc chống lại bệnh lý trầm cảm đã kiếm lợi từ những phát hiện của họ, và số bệnh nhân nhiều không đếm xuể cũng vậy. Nhưng trong suốt một thời gian dài, vấn đề hạnh phúc đã ít nhiều bị thờ ơ. Gần đây điều này đã thay đổi. Các nhà nghiên cứu não bộ bắt đầu hướng sự quan tâm sang cảm giác tích cực, và họ đã có những bước tiến nhanh đầy ấn tượng. Nhiều công trình trước đây không lâu vẫn được coi là khoa học viễn tưởng thì bây giờ trở thành thực tế trong phòng thí nghiệm. Những kỹ thuật hình ảnh mới đã cho phép chúng ta quan sát bộ não khi nó nghĩ và cảm. Ví dụ, chúng cho phép chúng ta nhìn thấy niềm vui xuất hiện trong não như thế nào khi ta nghĩ về người mình yêu thương. Sinh học phân tử đã hé lộ thứ tự cái gì xảy ra trong mười nghìn tỉ tế bào não của chúng ta, và các thí nghiệm tâm lý chỉ ra những thay đổi bên trong này ảnh hưởng đến hành vi của chúng ta như thế nào. Chúng ta đang dần dần có được một hiểu biết về việc các cảm giác tích cực hình thành theo những cách nào. Chúng ta giờ đây đang bắt đầu trả lời những câu hỏi mà mọi người luôn tự hỏi mình. Có phải hạnh phúc đơn giản chỉ là đối cực của bất hạnh không? Có phải hạnh phúc Có tính di truyền? Cảm giác tức giận có biến mất khi ta đã xả hết? Có thể kéo dài khoảnh khắc dễ chịu? Tiền có làm con người hạnh phúc? Chúng ta có thể mãi yêu một người trong suốt cuộc đời? Hạnh phúc lớn nhất là gì? Mấu chốt để trả lời được những câu hỏi này là hai nhận thức quan trọng mới đây trong nghiên cứu não bộ. Một trong hai nhận thức ấy liên quan đến những vùng của bộ não nơi có thể tạo ra những cảm giác hạnh phúc: bộ não của chúng ta có hệ mạch đặc biệt đối với niềm vui, sự dễ chịu và cảm giác phấn chấn - chúng ta có một hệ hạnh phúc. Tương tự như việc chúng ta đi vào thế giới này với khả năng biết nói thiên bẩm, chúng ta cũng được lập trình sẵn cho những cảm giác tích cực. Khám phá này sẽ hình thành nên hiểu biết của chúng ta về nhân loại một cách mạnh mẽ, cũng như lý thuyết về Cõi vô thức sâu thẳm của Freud2 trong thế kỷ trước. Nhận thức kia, một phát hiện còn gây ngạc nhiên hơn, đó là bộ óc người trưởng thành vẫn tiếp tục thay đổi. Cho đến tận vài năm gần đây, các nhà khoa học vẫn tin rằng bộ não, cũng như xương, sẽ phát triển đầy đủ khi hết tuổi dậy thì. Nhưng sự thật chính xác là ngược lại. Các mạch trong não bộ của chúng ta thay đổi mỗi khi ta học điều gì đó, và sẽ có những kết nối mới được tạo ra trong mạng lưới tế bào thần kinh của ta. Dùng loại kính hiển vi thích hợp, thậm chí ta có thể nhìn thấy những biến đổi này trong não bộ. Khi đọc xong quyển sách này, não của bạn trông sẽ khác so với trước khi bạn đọc. Những thay đổi này được kích hoạt bởi những ý nghĩ, nhưng còn nhiều hơn thế là bởi những cảm xúc. Điều này có nghĩa là, với những bài tập đúng đắn, chúng ta có thể làm tăng khả năng hạnh phúc của mình. Cũng giống như khi học ngoại ngữ, chúng ta có thể luyện năng lực tự nhiên của mình hướng tới những cảm giác tích cực. Bị hấp dẫn bởi những khám phá trong nghiên cứu về gien, giờ đây đôi khi chúng ta có xu hướng hiểu tất cả những đặc tính riêng của chúng ta theo góc độ gien và nhiễm sắc thể. Thật dễ dàng bỏ qua sự thật là chúng ta phát triển vốn di truyền của mình chỉ trong sự tương tác với cuộc sống hằng ngày. Hạnh phúc của chúng ta phụ thuộc vào môi trường, vào văn hóa không kém gì vào gien. Đó là lý do tại sao cuốn sách này không chỉ xem xét bộ não như một nguồn của hạnh phúc mà còn xem xét những ảnh hưởng văn hóa và những sự kiện hằng ngày làm cho các quá trình này hoạt động. Văn hóa đóng một vai trò hiển nhiên trong nhận thức của chúng ta về hạnh phúc, thậm chí trong sự khác nhau giữa các ngôn ngữ. Ví dụ như tiếng Sanskrit, ngôn ngữ cổ Ấn Độ, có cả chục từ để diễn tả từ “hạnh phúc”(2) trong tiếng Anh theo những cách khác nhau. Tương tự, các ngôn ngữ phương Tây khác cũng khó diễn đạt được hết những cảm giác tích cực phong phú mà ta có thể có. Một nghiên cứu so sánh sinh viên Mỹ với cư dân một thành phố của Ấn Độ đã đưa ra dẫn chứng thuyết phục về cách thức những khác biệt này biểu lộ. Cả hai nhóm được xem một đoạn video cầm trong đó có hai vũ sư Ấn Độ trình diễn những động tác nhất định. Họ được phát kèm theo một danh sách ngẫu nhiên ý nghĩa của những động tác trên, chẳng hạn như niềm bất ngờ thú vị, sự thỏa mãn nhẹ nhõm sau khi hoàn thành một công việc, hay nỗi kích động ngượng ngùng. Đối với người Ấn danh sách này bao gồm một vài từ thích hợp). Những người Mỹ trẻ tuổi không khó khăn gì trong việc gắn sự mô tả chính xác ứng với động tác thể hiện niềm hạnh phúc, nhưng họ lại thiếu vốn từ vựng cụ thể, phải viện đến những diễn đạt dài dòng vòng vèo để xác định cảm giác mà người Ấn chỉ cần một vài từ thích hợp. Do vậy, chừng như não của chúng ta có khả năng có những cảm giác ít nhiều không được công nhận trong văn hóa phương Tây. Chúng ta phải trả một cái giá rất nặng nề cho việc coi thường hạnh phúc. Hơn 25 phần trăm người Mỹ chịu đựng chứng rối loạn tâm lý ít nhất một lần trong đời, và trong một năm thì gần như cứ mười người lại có một người trải qua trạng thái trầm cảm kéo dài vài tuần 4) Hơn ba mươi nghìn người ở Mỹ tìm đến cái chết hằng năm. Những nước còn lại của thế giới có tỉ lệ tự tử thấp hơn rất nhiều.(5) Tỉ lệ bệnh trầm cảm ở mức độ nghiêm trọng đang tăng lên rất nhanh trong cả nước Mỹ cũng như ở hầu hết các nước công nghiệp. Trên hết, căn bệnh này ngày càng ảnh hưởng nhiều hơn đến trẻ em và thanh thiếu niên. Hiện nay, nguy cơ bệnh trầm cảm xảy ra đối với thanh niên cao hơn ba lần so với mười năm trước đây. (6) Những căn bệnh liên quan đến tinh thần ở các nước Công nghiệp đang lan tràn ra khắp các phần còn lại của thế giới. Trong vòng hai mươi năm tới, bệnh trầm cảm sẽ gây ảnh hưởng đến nhiều phụ nữ trên thế giới hơn bất cứ căn bệnh về thể chất hay tinh thần nào khác. Chỉ có các bệnh liên qua đến tim mạch và tuần hoàn máu mới gây nhiều nguy hiểm hơn cho đàn ông. (8) Bệnh trầm cảm đang có nguy cơ trở thành bệnh dịch của thế kỷ 21. Không phải tất cả những ai không hạnh phúc thì đều bị bệnh tâm thần. Nhưng dù sao, trạng thái buồn chán có quan hệ chặt chẽ với trầm cảm hơn nhiều so với người ta từng quan niệm suốt một thời gian dài trước đây, vì cả hai đều là kết quả của những quá trình tương tự trong não bộ. Chúng đáng cho ta chiến đấu đẩy lùi. Dịch bệnh trầm cảm cho thấy chúng ta cấp bách cần một nền văn hóa hạnh phúc đến thế nào. “Niềm vui là sự chuyển hóa của tâm trí đến trạng thái hoàn hảo,” theo triết gia người Hà Lan Baruch Spinoza3. “Ngược lại, nỗi đau là sự chuyển hóa của tâm trí sang trạng thái suy nhược.” Nhưng niềm vui ảnh hưởng đến cơ thể ít nhất cũng nhiều như đến tâm trí. Bất hạnh phá hủy cơ thể. Hạnh phúc làm cho cơ thể mạnh mẽ. Những nghiên cứu mới đã làm sáng tỏ mối liên kết giữa cơ thể và tâm trí mà bấy lâu các nhà khoa học đã không quan tâm. Chán nản và sợ hãi thường xuyên luôn gây nguy hại cho cơ thể bởi vì chúng gây trạng thái căng thẳng. Mà căng thẳng làm tăng nguy cơ tử vong do đau tim hoặc đột quỵ, chỉ lấy hai ví dụ như vậy. Ngược lại, biết cách hóa giải tâm trạng đen tối của mình và củng cố những tâm trạng tươi sáng thì cũng chính là đang chăm sóc cơ thể mình. Những cảm giác tích cực vô hiệu hóa được căng thẳng và các hậu quả của nó đối với sức khỏe. Cảm giác tích cực thậm chí còn tăng cường hoạt động của hệ thống miễn dịch. Chúng cũng làm cho đầu óc hoạt động hiệu quả hơn. Xét theo góc độ não bộ thì suy nghĩ và cảm giác là hai mặt của cùng một đồng xu: những người hạnh phúc thường sáng tạo hơn, và như nhiều nghiên cứu cho thấy, họ giải quyết vấn đề nhanh và tốt hơn. Hạnh phúc làm người ta thông minh, không chỉ nhất thời mà lâu dài. Cảm giác tích cực kích thích phát triển các liên kết thần kinh trong não - hạnh phúc song hành cùng những kết nối mới trong trí óc. Cuối cùng, người hạnh phúc cũng là người dễ mến hơn. Họ luôn ý thức hơn và nhìn thấy những cái tốt của người khác hơn. Họ dễ có hành động vị tha hơn, và thành công hơn trong việc làm trung gian hóa giải xung đột (10) Do vậy, hạnh phúc có thể vừa là mục đích của đời người vừa là phương tiện để có cuộc sống tốt hơn. Trạng thái tinh thần tiêu cực sẽ hạn chế [khả năng của] con người, trong khi cảm giác tích cực lại mở rộng các khả năng ấy. Hạnh phúc mang lại sức sống. Để mưu cầu hạnh phúc thì phải biết hạnh phúc là gì. Cuốn sách này sẽ dẫn bạn vào cuộc hành trình khám phá những cảm giác tích cực. Bạn sẽ học được nhiều phương pháp để áp dụng các khám phá khoa học thần kinh mới hướng tới một cuộc sống hạnh phúc hơn. Nhưng đây không đơn giản là một cuốn sách tự lực (self-help) theo nghĩa thông thường. Tôi muốn giải thích các căn nguyên, chứ không muốn đưa ra những câu trả lời dễ dãi, vì xét cho cùng hạnh phúc của mỗi người cũng là độc nhất vô nhị như nhân cách của họ vậy. Não của chúng ta được hình thành theo cùng một mẫu, cho nên chúng ta đều cùng trải nghiệm sự thích thú và niềm vui, nhưng, đối với mỗi người, thứ có thể gây ra những cảm giác này thì lại khác nhau. Đó là lý do mà lời khuyên chung chung hầu như không có tác dụng. Cuối cùng, mỗi người phải tự tìm ra con đường mưu cầu hạnh phúc của riêng mình. Cuốn sách này là một kiểu sách hướng dẫn du lịch để giúp cho cuộc hành trình ấy thành ra khả thi. Trong phần đầu cuốn sách, bạn sẽ biết hạnh phúc đến như thế nào và tại sao tự nhiên lại sáng tạo ra những cảm giác tích cực. Trọng tâm của những chương này sẽ giải thích cách bộ não có thể làm ta hạnh phúc thế nào và cách nó kiểm soát những cảm xúc tiêu cực ra sao. Hệ thống này cũng có thể được rèn luyện giống như cơ bắp vậy. Bộ não có thể tái lập trình chính nó, thay đổi cấu trúc của nó, không chỉ thông qua những trải nghiệm bên ngoài, mà còn bằng cách hiểu biết những cảm giác của nó. Điều đáng ngạc nhiên là nhiều phát kiến khoa học mới đang khẳng định lại sự minh triết CỔ xưa, vì vậy mà phần đầu sách kết thúc với một so sánh ngắn về di sản những tuệ kiến được truyền lại từ Hy Lạp và La Mã cổ đại cũng như các nền văn hóa phương Đông. Phần thứ hai của sách tìm hiểu cấu trúc của niềm đam mê. Trải nghiệm sự thích thú, niềm vui khám phá, tình yêu và tình dục đều có nhiều điểm chung, nhưng chúng xảy ra theo nhiều cách khác nhau và thỏa mãn những mục đích khác nhau. Những cảm xúc cơ bản này là bản năng bẩm sinh đã phát triển hàng triệu năm trước. Chúng ta có thể quan sát một vài bản năng này ở một số động vật bậc thấp như chuột hay ngay cả ong. Sự đam mê bám rễ vào loài người và động vật sâu đến nỗi sẽ là vô nghĩa nếu muốn thoát khỏi nó hay thậm chí muốn thay đổi nó. Điều quan trọng là chúng ta phải học để sống với nó, sống theo cách càng gặt hái được nhiều niềm vui và càng giảm thiểu buồn đau từ những chương trình của tiến hóa càng tốt. Chương cuối cùng của phần này sẽ đưa ra những gợi ý để chúng ta có thể sống theo cách này. Không như các loại côn trùng hay họ gặm nhấm, loài người được tiến hóa trang bị một bộ não phát triển cao. Chúng ta được tạo ra để lái những động năng, niềm thích thú và nỗi sợ bẩm sinh theo những lối mòn đã sắp xếp chỉn chu. Phần ba của cuốn sách bàn về các thành tựu này của ý thức và các phương tiện chúng ta có để áp dụng thành tựu đó. Chúng ta nhìn mà thấy một ly rượu thượng hạng là đầy một nửa hay với một nửa, điều đó ảnh hưởng đến cảm xúc của chúng ta nhiều hơn là dung dịch thực chứa trong ly. Khả năng lái những suy nghĩ và cảm giác một cách có ý thức cho ta một công cụ mạnh mẽ để chống lại nỗi buồn và thậm chí cả bệnh trầm cảm. Nhưng não bộ còn cho phép chúng ta làm nhiều hơn thế. Không như động vật, chúng ta có thể trải nghiệm cảm giác tự do, cảm giác rộng mở, đón nhận và hòa nhập với thế giới. Chúng ta có thể ở trong trạng thái đê mê dưới ánh sáng lung linh phản chiếu trên mặt biển, và chúng ta có thể hoàn toàn đắm mình vào trong một hoạt động. Nhận thức và sự tập trung có định hướng chính là chìa khóa dẫn đến những giây phút thăng hoa như thế. Thậm chí, có thể chính những trạng thái tinh thần này giải thích được những trải nghiệm huyền bí xuất hiện trong tâm trí con người. Một nguồn quan trọng nữa dẫn đến hạnh phúc chính là sự phát triển tối ưu tài năng và tiềm năng của ta. Nhưng không ai sống cho chỉ một mình mình. Vì lý do này mà phần bốn và phần cuối cùng của sách sẽ đề cập đến những điều kiện phải có trong xã hội để mọi công dân có thể tham gia - nói như lời bản Tuyên ngôn Độc lập - “cuộc mưu cầu hạnh phúc.” Ở đâu có ý thức về cộng đồng, về sự Công bằng và việc tự làm chủ cuộc đời mình, ở đó cơ hội để một cá nhân có thể sống một cuộc sống hạnh phúc luôn là tốt đẹp. Vậy thì vấn đề là làm thế nào để xã hội như là một tổng thể, cũng như từng cá nhân thành viên của nó, có thể tạo ra một văn hóa hạnh phúc. Hai nghìn năm trước, các nhà thông thái đã ý thức rằng mọi người đều có thể sống hạnh phúc hơn. Ngày nay, nhờ hiệu quả đáng ngạc nhiên của lĩnh vực khoa học thần kinh, ta không còn nghi ngờ điều này: chúng ta có thể học để có hạnh phúc. Mời các bạn mượn đọc sách 6 Tỉ Đường Đến Hạnh Phúc của tác giả Stefan Klein.