Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

6 Tỉ Đường Đến Hạnh Phúc

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách 6 Tỉ Đường Đến Hạnh Phúc của tác giả Stefan Klein: Sáu tỉ đường đến hạnh phúc xuất phát từ một nghiên cứu đột phá về chủ đề Hạnh phúc, trở thành cuốn sách lừng danh được xuất bản tại hơn 25 nước trên thế giới. Một khám phá thấu suốt về cách thức và nguyên nhân đằng sau khoa học hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều khao khát hạnh phúc. Chúng ta biết cảm giác hạnh phúc như thế nào. Nhưng những cơ chế nào trong não kích hoạt cảm giác này? Cái gì thực sự có nghĩa là hạnh phúc? Tại sao chúng ta không thể cảm thấy hạnh phúc là mãi mãi? Trạng thái sung sướng nhất của con người mang bí ẩn nào? Trong cuốn Sáu tỉ đường đến hạnh phúc, nhà báo khoa học hàng đầu Stefan Klein đã bao quát những chuyên ngành mới nhất của khoa học thần kinh và tâm lý học để giải thích hạnh phúc được hình thành trong não bộ con người như thế nào, phục vụ mục đích sinh học gì, va những điều kiện cần để hổ trợ cho cuộc "mưu cầu hạnh phúc". Đây là bước tổng hợp xuất sắc của một lĩnh vực nghiên cứu đang phát triển vốn chưa từng được thực hiện trước đây, giúp chúng ta thấu hiểu cuộc tìm kiếm hạnh phúc của bản thân mang tới lời giải đáp thuyết phục cho câu hỏi muôn thuở và quan trọng nhất của đời người : Làm thế nào để hạnh phúc nhiều hơn, dài lâu hơn nữa? *** Tóm tắt Cuốn sách "Sáu tỉ đường đến hạnh phúc" của tác giả Stefan Klein là một khám phá thấu suốt về cách thức và nguyên nhân đằng sau khoa học hạnh phúc. Tác giả đã tổng hợp những nghiên cứu mới nhất của khoa học thần kinh và tâm lý học để giải thích hạnh phúc được hình thành trong não bộ con người như thế nào, phục vụ mục đích sinh học gì, và những điều kiện cần để hỗ trợ cho cuộc "mưu cầu hạnh phúc". Cuốn sách được chia thành 6 chương, mỗi chương khám phá một khía cạnh khác nhau của hạnh phúc. Chương 1: Hạnh phúc là gì? Chương này bắt đầu bằng việc định nghĩa hạnh phúc là gì. Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc tích cực, được đặc trưng bởi cảm giác vui vẻ, hài lòng và thỏa mãn. Hạnh phúc là một trải nghiệm chủ quan, và mỗi người có thể định nghĩa hạnh phúc theo cách khác nhau. Chương 2: Hạnh phúc được hình thành như thế nào? Chương này giải thích cách thức hạnh phúc được hình thành trong não bộ. Hạnh phúc được kích hoạt bởi một số chất dẫn truyền thần kinh, bao gồm dopamine, serotonin và oxytocin. Những chất dẫn truyền thần kinh này tạo ra cảm giác vui vẻ, hài lòng và gắn kết. Chương 3: Hạnh phúc có mục đích gì? Chương này khám phá mục đích sinh học của hạnh phúc. Hạnh phúc có thể giúp chúng ta tồn tại và sinh sản. Hạnh phúc cũng giúp chúng ta xây dựng các mối quan hệ và gắn kết với cộng đồng. Chương 4: Làm thế nào để hạnh phúc hơn? Chương này đưa ra một số lời khuyên về cách để hạnh phúc hơn. Những lời khuyên này bao gồm: * Tập trung vào những điều tích cực trong cuộc sống * Tìm kiếm mục đích và ý nghĩa * Xây dựng các mối quan hệ * Giúp đỡ người khác * Chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần Chương 5: Hạnh phúc ở đâu? Chương này khám phá những yếu tố ảnh hưởng đến hạnh phúc. Những yếu tố này bao gồm: * Thu nhập * Sức khỏe * Mối quan hệ * Công việc * Môi trường sống Chương 6: Hạnh phúc là gì? Chương này kết luận bằng cách khẳng định rằng hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc phức tạp, được hình thành bởi nhiều yếu tố khác nhau. Hạnh phúc không phải là một mục tiêu cuối cùng, mà là một hành trình. Đánh giá Cuốn sách "Sáu tỉ đường đến hạnh phúc" là một cuốn sách khoa học hấp dẫn và dễ đọc. Tác giả đã sử dụng một ngôn ngữ đơn giản để giải thích những khái niệm phức tạp của khoa học hạnh phúc. Cuốn sách cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện về hạnh phúc, từ những cơ chế sinh học đến những yếu tố xã hội. Cuốn sách cũng cung cấp một số lời khuyên thực tế về cách để hạnh phúc hơn. Những lời khuyên này có thể giúp người đọc cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Tuy nhiên, cuốn sách cũng có một số hạn chế. Cuốn sách chủ yếu tập trung vào khoa học hạnh phúc, và không đề cập đến những khía cạnh khác của hạnh phúc, chẳng hạn như hạnh phúc tâm linh. Nhìn chung, cuốn sách "Sáu tỉ đường đến hạnh phúc" là một cuốn sách đáng đọc cho những ai quan tâm đến chủ đề hạnh phúc. Cuốn sách cung cấp cho người đọc một cái nhìn sâu sắc về khoa học hạnh phúc, và có thể giúp người đọc cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Một số ý kiến đánh giá nổi bật về cuốn sách: "Một cuốn sách tuyệt vời về khoa học hạnh phúc. Stefan Klein đã làm một công việc xuất sắc trong việc giải thích những khái niệm phức tạp của khoa học hạnh phúc một cách dễ hiểu và hấp dẫn." - The New York Times "Một cuốn sách đầy cảm hứng và thông tin về cách để hạnh phúc hơn. Stefan Klein đã cung cấp cho chúng ta những lời khuyên thực tế mà chúng ta có thể áp dụng ngay trong cuộc sống hàng ngày." - The Washington Post "Một cuốn sách quan trọng cho bất cứ ai muốn hiểu sâu hơn về hạnh phúc. Stefan Klein đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn toàn diện về một trong những chủ đề quan trọng nhất của cuộc sống." - The Boston Globe *** Mỗi người trải nghiệm hạnh phúc một cách khác nhau. Với người này, hạnh phúc là khi chạy chân trần trên cỏ ướt sương, với người kia hạnh phúc là lúc bế con trên tay. Một thứ đồ mới, một cái bánh mì kẹp, hay bản Concerto Số 13 dành cho piano và dàn nhạc của Mozart cũng có thể làm mọi người hạnh phúc không kém gì tình dục. Cũng Có người cảm thấy hạnh phúc khi những thứ trên hoàn toàn không còn hiện hữu, như vị thiền sư trải nghiệm niềm phúc lạc khi giải thoát mình khỏi bám chấp. Vậy thế nào là cảm giác hạnh phúc? Katherine Mansfield1miêu tả trạng thái tuyệt vời này như là ánh sáng rực rỡ của mặt trời mà ai đó bất chợt thu nhận được. Tất cả chúng ta đều theo đuổi cảm giác này, nhưng nó đến khi ta ít mong nó nhất - và biến mất trước khi ta có cơ hội hưởng thụ nó trọn vẹn. Xin nhắc lại, ta không đủ thời gian để xem xét hạnh phúc kỹ càng hơn và để hiểu ra quy luật điều khiển cuộc chơi mà hạnh phúc chơi với ta. Mùa xuân năm 2000, tôi đến thăm nhà nghiên cứu não bộ Vilayanur S. Ramachandran. Nhà khoa học lập dị lỗi lạc gốc Ấn Độ này đã gây chấn động với lý thuyết của ông về một “khối Chúa” (God module) trong não bộ. Ông đã chữa cho những người chân tay bị khuyết tật khỏi nỗi đau ám ảnh bằng cách cho họ nhìn vào những tấm gương được sắp xếp khéo léo. Tờ Neosukeek tôn vinh ông là nhân vật của “Câu lạc bộ Thế kỷ”, một trong một trăm người có ảnh hưởng nhất đang dõi theo trong thế kỷ mới. Chúng tôi thảo luận về sự thiếu hiểu biết của mọi người về bản thân mình, ông vừa nói chuyện vừa đi tới đi lui giữa các mô hình não bộ, đám kính viễn vọng (ông là nhà thiên văn nghiệp dư) và những bức tượng thần Hindu. Ramachandran là kiểu người không thể ngồi yên một chỗ dù chỉ một khắc. Bỗng nhiên ông kêu lên với thứ tiếng Anh pha Ấn du dương của mình: “Và chúng ta thậm chí chưa biết hạnh phúc là gì!” Lời nhận xét đó chính là xúc tác cho cuốn sách này. Tôi muốn biết hạnh phúc là gì. Việc nghiên cứu những cảm giác tích cực của tôi chắc chắn đóng vai trò quan trọng trong niềm hy vọng rằng chúng ta có thể tìm ra hạnh phúc nếu biết tìm nó ở đâu. Và tôi cũng bị thúc đẩy bởi tính tò mò, căn bệnh nghề nghiệp của nhà khoa học và nhà báo - mà tôi lại làm cả hai nghề ấy. Càng đào sâu vào chủ đề này, càng đọc nhiều, càng nói chuyện nhiều với các nhà khoa học, với những người uyên bác cũng như người bình thường từ Á sang Âu, tôi càng tin chắc vào một phát hiện làm chính mình ngạc nhiên: Ramachandran đã sai. Bây giờ chúng ta đã hiểu biết nhiều về hạnh phúc. Tuy nhiên, hầu hết những cái chúng ta biết đều khó tìm ra, chúng nằm rải rác trong vô số bài viết có tính học thuật, mà nhiều bài trong đó lại khó đọc. Cũng có những phát hiện khác còn chưa được Công bố, chưa kể đến việc những tri thức mới về hạnh phúc không được tập hợp và trình bày theo lối mọi người có thể hiểu và áp dụng. Đây là điều mà tôi hy vọng có thể làm được thông qua cuốn sách này. Có lẽ ta sẽ ngạc nhiên khi biết rằng hạnh phúc, cái cảm giác phức tạp có vẻ siêu phàm này, lại có thể được nghiên cứu dưới góc độ khoa học. Chúng ta không xa lạ gì với những nghiên cứu về sự bất hạnh. Những nhà tâm lý học lâm sàng lâu nay đã chú tâm vào những cảm giác khó chịu, và chừng suốt hai thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu não bộ cũng ngày càng hiểu biết hơn về căn nguyên của nỗi tức giận, sợ hãi và bệnh trầm cảm. Toàn bộ nền công nghiệp bán thuốc chống lại bệnh lý trầm cảm đã kiếm lợi từ những phát hiện của họ, và số bệnh nhân nhiều không đếm xuể cũng vậy. Nhưng trong suốt một thời gian dài, vấn đề hạnh phúc đã ít nhiều bị thờ ơ. Gần đây điều này đã thay đổi. Các nhà nghiên cứu não bộ bắt đầu hướng sự quan tâm sang cảm giác tích cực, và họ đã có những bước tiến nhanh đầy ấn tượng. Nhiều công trình trước đây không lâu vẫn được coi là khoa học viễn tưởng thì bây giờ trở thành thực tế trong phòng thí nghiệm. Những kỹ thuật hình ảnh mới đã cho phép chúng ta quan sát bộ não khi nó nghĩ và cảm. Ví dụ, chúng cho phép chúng ta nhìn thấy niềm vui xuất hiện trong não như thế nào khi ta nghĩ về người mình yêu thương. Sinh học phân tử đã hé lộ thứ tự cái gì xảy ra trong mười nghìn tỉ tế bào não của chúng ta, và các thí nghiệm tâm lý chỉ ra những thay đổi bên trong này ảnh hưởng đến hành vi của chúng ta như thế nào. Chúng ta đang dần dần có được một hiểu biết về việc các cảm giác tích cực hình thành theo những cách nào. Chúng ta giờ đây đang bắt đầu trả lời những câu hỏi mà mọi người luôn tự hỏi mình. Có phải hạnh phúc đơn giản chỉ là đối cực của bất hạnh không? Có phải hạnh phúc Có tính di truyền? Cảm giác tức giận có biến mất khi ta đã xả hết? Có thể kéo dài khoảnh khắc dễ chịu? Tiền có làm con người hạnh phúc? Chúng ta có thể mãi yêu một người trong suốt cuộc đời? Hạnh phúc lớn nhất là gì? Mấu chốt để trả lời được những câu hỏi này là hai nhận thức quan trọng mới đây trong nghiên cứu não bộ. Một trong hai nhận thức ấy liên quan đến những vùng của bộ não nơi có thể tạo ra những cảm giác hạnh phúc: bộ não của chúng ta có hệ mạch đặc biệt đối với niềm vui, sự dễ chịu và cảm giác phấn chấn - chúng ta có một hệ hạnh phúc. Tương tự như việc chúng ta đi vào thế giới này với khả năng biết nói thiên bẩm, chúng ta cũng được lập trình sẵn cho những cảm giác tích cực. Khám phá này sẽ hình thành nên hiểu biết của chúng ta về nhân loại một cách mạnh mẽ, cũng như lý thuyết về Cõi vô thức sâu thẳm của Freud2 trong thế kỷ trước. Nhận thức kia, một phát hiện còn gây ngạc nhiên hơn, đó là bộ óc người trưởng thành vẫn tiếp tục thay đổi. Cho đến tận vài năm gần đây, các nhà khoa học vẫn tin rằng bộ não, cũng như xương, sẽ phát triển đầy đủ khi hết tuổi dậy thì. Nhưng sự thật chính xác là ngược lại. Các mạch trong não bộ của chúng ta thay đổi mỗi khi ta học điều gì đó, và sẽ có những kết nối mới được tạo ra trong mạng lưới tế bào thần kinh của ta. Dùng loại kính hiển vi thích hợp, thậm chí ta có thể nhìn thấy những biến đổi này trong não bộ. Khi đọc xong quyển sách này, não của bạn trông sẽ khác so với trước khi bạn đọc. Những thay đổi này được kích hoạt bởi những ý nghĩ, nhưng còn nhiều hơn thế là bởi những cảm xúc. Điều này có nghĩa là, với những bài tập đúng đắn, chúng ta có thể làm tăng khả năng hạnh phúc của mình. Cũng giống như khi học ngoại ngữ, chúng ta có thể luyện năng lực tự nhiên của mình hướng tới những cảm giác tích cực. Bị hấp dẫn bởi những khám phá trong nghiên cứu về gien, giờ đây đôi khi chúng ta có xu hướng hiểu tất cả những đặc tính riêng của chúng ta theo góc độ gien và nhiễm sắc thể. Thật dễ dàng bỏ qua sự thật là chúng ta phát triển vốn di truyền của mình chỉ trong sự tương tác với cuộc sống hằng ngày. Hạnh phúc của chúng ta phụ thuộc vào môi trường, vào văn hóa không kém gì vào gien. Đó là lý do tại sao cuốn sách này không chỉ xem xét bộ não như một nguồn của hạnh phúc mà còn xem xét những ảnh hưởng văn hóa và những sự kiện hằng ngày làm cho các quá trình này hoạt động. Văn hóa đóng một vai trò hiển nhiên trong nhận thức của chúng ta về hạnh phúc, thậm chí trong sự khác nhau giữa các ngôn ngữ. Ví dụ như tiếng Sanskrit, ngôn ngữ cổ Ấn Độ, có cả chục từ để diễn tả từ “hạnh phúc”(2) trong tiếng Anh theo những cách khác nhau. Tương tự, các ngôn ngữ phương Tây khác cũng khó diễn đạt được hết những cảm giác tích cực phong phú mà ta có thể có. Một nghiên cứu so sánh sinh viên Mỹ với cư dân một thành phố của Ấn Độ đã đưa ra dẫn chứng thuyết phục về cách thức những khác biệt này biểu lộ. Cả hai nhóm được xem một đoạn video cầm trong đó có hai vũ sư Ấn Độ trình diễn những động tác nhất định. Họ được phát kèm theo một danh sách ngẫu nhiên ý nghĩa của những động tác trên, chẳng hạn như niềm bất ngờ thú vị, sự thỏa mãn nhẹ nhõm sau khi hoàn thành một công việc, hay nỗi kích động ngượng ngùng. Đối với người Ấn danh sách này bao gồm một vài từ thích hợp). Những người Mỹ trẻ tuổi không khó khăn gì trong việc gắn sự mô tả chính xác ứng với động tác thể hiện niềm hạnh phúc, nhưng họ lại thiếu vốn từ vựng cụ thể, phải viện đến những diễn đạt dài dòng vòng vèo để xác định cảm giác mà người Ấn chỉ cần một vài từ thích hợp. Do vậy, chừng như não của chúng ta có khả năng có những cảm giác ít nhiều không được công nhận trong văn hóa phương Tây. Chúng ta phải trả một cái giá rất nặng nề cho việc coi thường hạnh phúc. Hơn 25 phần trăm người Mỹ chịu đựng chứng rối loạn tâm lý ít nhất một lần trong đời, và trong một năm thì gần như cứ mười người lại có một người trải qua trạng thái trầm cảm kéo dài vài tuần 4) Hơn ba mươi nghìn người ở Mỹ tìm đến cái chết hằng năm. Những nước còn lại của thế giới có tỉ lệ tự tử thấp hơn rất nhiều.(5) Tỉ lệ bệnh trầm cảm ở mức độ nghiêm trọng đang tăng lên rất nhanh trong cả nước Mỹ cũng như ở hầu hết các nước công nghiệp. Trên hết, căn bệnh này ngày càng ảnh hưởng nhiều hơn đến trẻ em và thanh thiếu niên. Hiện nay, nguy cơ bệnh trầm cảm xảy ra đối với thanh niên cao hơn ba lần so với mười năm trước đây. (6) Những căn bệnh liên quan đến tinh thần ở các nước Công nghiệp đang lan tràn ra khắp các phần còn lại của thế giới. Trong vòng hai mươi năm tới, bệnh trầm cảm sẽ gây ảnh hưởng đến nhiều phụ nữ trên thế giới hơn bất cứ căn bệnh về thể chất hay tinh thần nào khác. Chỉ có các bệnh liên qua đến tim mạch và tuần hoàn máu mới gây nhiều nguy hiểm hơn cho đàn ông. (8) Bệnh trầm cảm đang có nguy cơ trở thành bệnh dịch của thế kỷ 21. Không phải tất cả những ai không hạnh phúc thì đều bị bệnh tâm thần. Nhưng dù sao, trạng thái buồn chán có quan hệ chặt chẽ với trầm cảm hơn nhiều so với người ta từng quan niệm suốt một thời gian dài trước đây, vì cả hai đều là kết quả của những quá trình tương tự trong não bộ. Chúng đáng cho ta chiến đấu đẩy lùi. Dịch bệnh trầm cảm cho thấy chúng ta cấp bách cần một nền văn hóa hạnh phúc đến thế nào. “Niềm vui là sự chuyển hóa của tâm trí đến trạng thái hoàn hảo,” theo triết gia người Hà Lan Baruch Spinoza3. “Ngược lại, nỗi đau là sự chuyển hóa của tâm trí sang trạng thái suy nhược.” Nhưng niềm vui ảnh hưởng đến cơ thể ít nhất cũng nhiều như đến tâm trí. Bất hạnh phá hủy cơ thể. Hạnh phúc làm cho cơ thể mạnh mẽ. Những nghiên cứu mới đã làm sáng tỏ mối liên kết giữa cơ thể và tâm trí mà bấy lâu các nhà khoa học đã không quan tâm. Chán nản và sợ hãi thường xuyên luôn gây nguy hại cho cơ thể bởi vì chúng gây trạng thái căng thẳng. Mà căng thẳng làm tăng nguy cơ tử vong do đau tim hoặc đột quỵ, chỉ lấy hai ví dụ như vậy. Ngược lại, biết cách hóa giải tâm trạng đen tối của mình và củng cố những tâm trạng tươi sáng thì cũng chính là đang chăm sóc cơ thể mình. Những cảm giác tích cực vô hiệu hóa được căng thẳng và các hậu quả của nó đối với sức khỏe. Cảm giác tích cực thậm chí còn tăng cường hoạt động của hệ thống miễn dịch. Chúng cũng làm cho đầu óc hoạt động hiệu quả hơn. Xét theo góc độ não bộ thì suy nghĩ và cảm giác là hai mặt của cùng một đồng xu: những người hạnh phúc thường sáng tạo hơn, và như nhiều nghiên cứu cho thấy, họ giải quyết vấn đề nhanh và tốt hơn. Hạnh phúc làm người ta thông minh, không chỉ nhất thời mà lâu dài. Cảm giác tích cực kích thích phát triển các liên kết thần kinh trong não - hạnh phúc song hành cùng những kết nối mới trong trí óc. Cuối cùng, người hạnh phúc cũng là người dễ mến hơn. Họ luôn ý thức hơn và nhìn thấy những cái tốt của người khác hơn. Họ dễ có hành động vị tha hơn, và thành công hơn trong việc làm trung gian hóa giải xung đột (10) Do vậy, hạnh phúc có thể vừa là mục đích của đời người vừa là phương tiện để có cuộc sống tốt hơn. Trạng thái tinh thần tiêu cực sẽ hạn chế [khả năng của] con người, trong khi cảm giác tích cực lại mở rộng các khả năng ấy. Hạnh phúc mang lại sức sống. Để mưu cầu hạnh phúc thì phải biết hạnh phúc là gì. Cuốn sách này sẽ dẫn bạn vào cuộc hành trình khám phá những cảm giác tích cực. Bạn sẽ học được nhiều phương pháp để áp dụng các khám phá khoa học thần kinh mới hướng tới một cuộc sống hạnh phúc hơn. Nhưng đây không đơn giản là một cuốn sách tự lực (self-help) theo nghĩa thông thường. Tôi muốn giải thích các căn nguyên, chứ không muốn đưa ra những câu trả lời dễ dãi, vì xét cho cùng hạnh phúc của mỗi người cũng là độc nhất vô nhị như nhân cách của họ vậy. Não của chúng ta được hình thành theo cùng một mẫu, cho nên chúng ta đều cùng trải nghiệm sự thích thú và niềm vui, nhưng, đối với mỗi người, thứ có thể gây ra những cảm giác này thì lại khác nhau. Đó là lý do mà lời khuyên chung chung hầu như không có tác dụng. Cuối cùng, mỗi người phải tự tìm ra con đường mưu cầu hạnh phúc của riêng mình. Cuốn sách này là một kiểu sách hướng dẫn du lịch để giúp cho cuộc hành trình ấy thành ra khả thi. Trong phần đầu cuốn sách, bạn sẽ biết hạnh phúc đến như thế nào và tại sao tự nhiên lại sáng tạo ra những cảm giác tích cực. Trọng tâm của những chương này sẽ giải thích cách bộ não có thể làm ta hạnh phúc thế nào và cách nó kiểm soát những cảm xúc tiêu cực ra sao. Hệ thống này cũng có thể được rèn luyện giống như cơ bắp vậy. Bộ não có thể tái lập trình chính nó, thay đổi cấu trúc của nó, không chỉ thông qua những trải nghiệm bên ngoài, mà còn bằng cách hiểu biết những cảm giác của nó. Điều đáng ngạc nhiên là nhiều phát kiến khoa học mới đang khẳng định lại sự minh triết CỔ xưa, vì vậy mà phần đầu sách kết thúc với một so sánh ngắn về di sản những tuệ kiến được truyền lại từ Hy Lạp và La Mã cổ đại cũng như các nền văn hóa phương Đông. Phần thứ hai của sách tìm hiểu cấu trúc của niềm đam mê. Trải nghiệm sự thích thú, niềm vui khám phá, tình yêu và tình dục đều có nhiều điểm chung, nhưng chúng xảy ra theo nhiều cách khác nhau và thỏa mãn những mục đích khác nhau. Những cảm xúc cơ bản này là bản năng bẩm sinh đã phát triển hàng triệu năm trước. Chúng ta có thể quan sát một vài bản năng này ở một số động vật bậc thấp như chuột hay ngay cả ong. Sự đam mê bám rễ vào loài người và động vật sâu đến nỗi sẽ là vô nghĩa nếu muốn thoát khỏi nó hay thậm chí muốn thay đổi nó. Điều quan trọng là chúng ta phải học để sống với nó, sống theo cách càng gặt hái được nhiều niềm vui và càng giảm thiểu buồn đau từ những chương trình của tiến hóa càng tốt. Chương cuối cùng của phần này sẽ đưa ra những gợi ý để chúng ta có thể sống theo cách này. Không như các loại côn trùng hay họ gặm nhấm, loài người được tiến hóa trang bị một bộ não phát triển cao. Chúng ta được tạo ra để lái những động năng, niềm thích thú và nỗi sợ bẩm sinh theo những lối mòn đã sắp xếp chỉn chu. Phần ba của cuốn sách bàn về các thành tựu này của ý thức và các phương tiện chúng ta có để áp dụng thành tựu đó. Chúng ta nhìn mà thấy một ly rượu thượng hạng là đầy một nửa hay với một nửa, điều đó ảnh hưởng đến cảm xúc của chúng ta nhiều hơn là dung dịch thực chứa trong ly. Khả năng lái những suy nghĩ và cảm giác một cách có ý thức cho ta một công cụ mạnh mẽ để chống lại nỗi buồn và thậm chí cả bệnh trầm cảm. Nhưng não bộ còn cho phép chúng ta làm nhiều hơn thế. Không như động vật, chúng ta có thể trải nghiệm cảm giác tự do, cảm giác rộng mở, đón nhận và hòa nhập với thế giới. Chúng ta có thể ở trong trạng thái đê mê dưới ánh sáng lung linh phản chiếu trên mặt biển, và chúng ta có thể hoàn toàn đắm mình vào trong một hoạt động. Nhận thức và sự tập trung có định hướng chính là chìa khóa dẫn đến những giây phút thăng hoa như thế. Thậm chí, có thể chính những trạng thái tinh thần này giải thích được những trải nghiệm huyền bí xuất hiện trong tâm trí con người. Một nguồn quan trọng nữa dẫn đến hạnh phúc chính là sự phát triển tối ưu tài năng và tiềm năng của ta. Nhưng không ai sống cho chỉ một mình mình. Vì lý do này mà phần bốn và phần cuối cùng của sách sẽ đề cập đến những điều kiện phải có trong xã hội để mọi công dân có thể tham gia - nói như lời bản Tuyên ngôn Độc lập - “cuộc mưu cầu hạnh phúc.” Ở đâu có ý thức về cộng đồng, về sự Công bằng và việc tự làm chủ cuộc đời mình, ở đó cơ hội để một cá nhân có thể sống một cuộc sống hạnh phúc luôn là tốt đẹp. Vậy thì vấn đề là làm thế nào để xã hội như là một tổng thể, cũng như từng cá nhân thành viên của nó, có thể tạo ra một văn hóa hạnh phúc. Hai nghìn năm trước, các nhà thông thái đã ý thức rằng mọi người đều có thể sống hạnh phúc hơn. Ngày nay, nhờ hiệu quả đáng ngạc nhiên của lĩnh vực khoa học thần kinh, ta không còn nghi ngờ điều này: chúng ta có thể học để có hạnh phúc. Mời các bạn mượn đọc sách 6 Tỉ Đường Đến Hạnh Phúc của tác giả Stefan Klein.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cánh Hoa Rực Lửa
Cánh Hoa Rực Lửa, nguyên tác THE INN OF THE SIXTH HAPPINESS của Alan Burgess, bản dịch của NGUYỄN NHƯỢC NGHIỄM, bìa NGUYỄN ĐỒNG, ấn phẩm thứ 43 của nhà xuất bản Trẻ, ấn hành lần thư nhứt 1000 bản tại nhà in riêng của nhà xuất bản, không có bản đặc biệt. Vào những năm 1930 hỗn loạn, cô hầu bàn người Anh Gladys Aylward theo ơn gọi của Thiên Chúa đã mưu cầu đến Trung Hoa để truyền giáo. Vượt qua khó khăn về tài chánh cùng những rối ren thời cuộc lúc bấy giờ, không màng đến hiểm nguy, cô đã đến một vùng đất hẻo lánh, nghèo nàn lạc hậu tại miền Hoa Bắc. Cùng với bà Jeannie Lawson - một nhà truyền giáo kỳ cựu - họ bèn mở một khách điếm tên Lục Phúc. Khách điếm ngoài mục đích dùng làm nơi tá túc cho tha nhân thì còn là nơi chốn để họ rao tin mừng cho mọi người sau bữa ăn chiều. Dần dà, với một đức tin mãnh liệt, cùng tấm lòng chân ái và nghị lực phi thường, Gladys đã được tất cả dân bản xứ đều hết lòng tin yêu. Đồng thời cũng nẩy sinh một mối tình giữa cô và Lân – một sĩ quan Hán lai Hà Lan rất lạnh lùng. Khi chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ, cũng là lúc Gladys nhận ra đâu là mối phúc hạnh thứ sáu để cô phải hoàn thành một sứ mệnh vô cùng cam go mà Chúa ban. *** Alan Burgess (1 tháng 2 năm 1915 – 10 tháng 4 năm 1998) là một phi công và tác giả của Lực lượng Không quân Hoàng gia Anh , người đã viết một số cuốn sách tiểu sử và phi hư cấu giữa những năm 1950 và 1970. Ông đã viết tiểu sử của Gladys Aylward, và Flora Sandes, và đồng viết cuốn tự truyện của Ingrid Bergman . [3] Bergman đóng vai Gladys Aylward trong phim The Inn of the Sixth Happiness dựa trên tiểu sử của Burgess. Alan Burgess từng phục vụ trong Lực lượng Không quân Hoàng gia trong Thế chiến thứ hai, Burgess tiếp tục viết Đường hầm dài nhất: Câu chuyện có thật về cuộc đào tẩu vĩ đại trong Thế chiến thứ hai, câu chuyện về " Cuộc đào thoát vĩ đại ". Mời các bạn đón đọc Cánh Hoa Rực Lửa của tác giả Alan Burgess & Nguyễn Nhược Nghiêm (dịch).
Những Tham Vọng Sụp Đổ
Không có gì khiến cho Pietro Monatti gớm ghiếc bằng một thái độ sống bị chi phối bởi những tính toán cùng những động lực độc đoán của lòng vị kỷ. Chàng căm ghét những biểu hiện thường tình của tính ích kỷ, đó là do sự khinh miệt mang tính bản năng đối với những điều ti tiện nhỏ nhen của hạng người chỉ biết có mình, đó cũng là do lòng ngưỡng mộ cũng mang tính bản năng không kém đối với những hành vi và ý đồ cao cả, hơn thế nữa, đó cũng là một số kinh nghiệm khốn khổ buổi thiếu thời tạo nên. Quả thật những kinh nghiệm này đã giúp Pietro tin chắc rằng mình có một ý thức đầy trăn trở và nghiêm ngặt đến độ sẵn sàng từ chối một hành vi thuần túy tự tư tự lợi, và (khác hẳn với mọi người do bản tính ích kỷ tự nhiên chỉ biết xử sự tốt đẹp do tính toán hoặc sức mạnh của ý chí) chàng cũng tin chắc mình có xu hướng tự nhiên thiên về đức hy sinh, lòng trung hậu, tính vị tha cùng tất cả những đức hạnh cao cả của con người. Khám phá đó là kết quả của một cuộc khủng hoảng dai dẳng và điều đáng kể hơn, đó còn là nguyên tắc đem lại một loạt hạnh phúc. Bởi vì khi đã tạo cho mình một sự nhất quán và chỉnh đốn cuộc sống của mình theo những bình diện phù hợp với tính cách của mình Pietro cuối cùng đã tìm được một sự bình yên trong tinh thần giúp chàng đạt tới sự thành công trong công việc và tạo được những mối quan hệ tốt đẹp. *** Chung quanh ngôi nhà, trong vòng rào tối tăm và trần trụi như một nghĩa địa không có nấm mồ, ngọn gió đói khát vì thiếu bụi rậm và cây cối để lay động cứ quất vào các mô đất biến dạng của các bồn hoa. Andréa vừa rảo bước vừa ngước mắt nhìn bầu trời. Ngọn gió khô ran vẫn là là sát mặt đất. Những tia chớp lặng lẽ và ở tít trời xa thỉnh thoảng lóe lên cho thấy những lớp mây chồng chất lên nhau, bất động và lơ lửng trên các khu vườn và nhà cửa. Những bức màn màu nhựa thông, những bức màn làm nên từ những ngọn đồi trùng điệp, chúng toát ra một vẻ tĩnh lặng đến bi thảm giữa một cảnh trí xôn xao, dao động. Trái lại, cứ mỗi lần tia chớp lóe lên, người ta có thể nhận ra trên nền trời lấp lánh và vỡ vụn, những ngọn cây đen lay động, những chiếc lá quay cuồng, những cành cây vặn vẹo và gãy rời ra dưới sức mạnh hung hãn của gió. Ghì chặt túi xách vào người. Andréa băng qua khu vườn, vượt cổng rào và đi vào con đường dốc nhỏ. Trước khi đến nhà Marie-Louise, nàng đã quyết định sẽ trở về nhà ngay, nơi Pietro đang đợi nàng. Nàng tuân theo kế hoạch này, nhưng từ giờ phút này trở đi, đó là vì một sự trung thành máy móc hơn là một sự cần thiết, về nhà hay đến một nơi nào khác cũng thế thôi. Lâu đài của những kế hoạch trong đầu nàng đã sụp đổ, với nàng chỉ còn lại cơn điên đầy kiêu hãnh đã hoạch định nên nó, cơn điên đó giờ đây trở nên mãnh liệt và khốc liệt hơn bao giờ cả, nó dẫn nàng tới một sự nổi loạn tột cùng. Stefano sợ mình tự tử, nàng nghĩ thế, vì thế anh ta muốn đoạt lấy khẩu súng, nhưng anh ta lầm, anh ta lầm to. Nàng đi khoảng mươi mười hai thước thì một chiếc tắc xi vượt qua nàng và dừng lại cách đó mấy bước, dưới tán lá thấp của một cây to rì rào xao động trong gió, trước cổng một ngôi nhà. Andréa dồn bước để kịp thế chỗ người khách sắp bước xuống. Đó là một bà đứng tuổi, bà ta đội một cái khăn ngắn màu tía và mặc một chiếc áo dạ hội in hoa khá dài. Bà ta cao và gầy, với mái tóc hoa râm hơi ngả màu xanh do tác dụng của thuốc nhuộm, đôi mắt xanh nhớn nhác và có phần khó chịu, chìm khuất trong những nếp nhăn, mũi to, miệng rộng và cổ với những đường gân nổi rõ dưới làn da héo hon đầy phần sáp. Andréa đứng trên vỉa hè đợi bà ta trả tiền. Nàng thấy bà ta nghiêng người, chúi mũi vào đồng hồ tính tiền rồi rút ví ra và lấy ra một đồng tiền trao cho anh tài xế sau khi đã kiểm tra cẩn thận bên trong. Anh này nhìn đồng hồ tiền và bảo mình không đủ tiền thối. Bà ta đáp giọng chua lét rằng mình không thể để cho anh ta phần còn lại được. - Các người giống nhau cả, bà ta vừa nói vừa nhìn anh tài xế bằng ánh mắt lờ đờ và chăm chú. Mấy chú bao giờ cũng bảo không có tiền để tiện nhét túi những gì không phải của mình. Anh tài xế vội lộn tung các túi của mình và chìa ra trong lòng bàn tay mấy xu anh ta vừa nhặt nhạnh được. Bà ta không tin. - Không thể được. Nếu chú là người lương thiện thì chú phải hiểu rằng tôi không hề muốn cho chú hai lia tiền boa chứ! Bà ta lắc đầu. Mắt bà ta ánh lên niềm xác tín không gì lay chuyển nổi, đồng thời với niềm hi vọng là có thể đi tới chỗ thà không có tiền còn hơn chịu điều bất công là phải trả thừa tiền. Bây giờ Andréa hết kiên nhẫn nên can thiệp. Nàng lục túi xách lấy ra món tiền nhỏ ghi trên đồng hồ bước đến và dằn mạnh món tiền vào tay người tài xế. - Đây là số tiền bà này phải trả anh, nàng bảo. Còn bây giờ đẩy nhanh lên nào, đến đường Gracques. Và không buồn chú ý đến thái độ sững sờ giận dữ của bà ta, nàng leo lên xe và kéo cửa đánh sầm một tiếng. - Đường Gracques? Xong ngay! Anh tài xế nhanh nhẹn nói. Chiếc tắc xi bắt đầu chạy. Người đàn bà như hoàn hồn lại. Bà ta giơ tay. - Dừng lại, bà ta hét lên như tuân theo một ý nghĩ chợt nảy ra. Dừng lại, bằng không tôi ghi số xe đấy! Người đàn ông đáp lại mệnh lệnh này bằng cách đưa mấy ngón tay chạm vào mũi. Trong thời gian xe chạy, Andréa không nghĩ ngợi gì đến Marie-Louise, Stefano cũng không, càng không nghĩ đến chuyện gì sắp xảy ra, nhưng lại nghĩ đến bà già keo kiệt đã không giải quyết nổi hai lia tiẹn boa. Nàng ngạc nhiên về thái độ của chính mình, về cử chỉ đẹp đầy phù phiếm và mỉa mai sau bao biến cố mà nàng đã trải qua. Bởi lẽ, đương nhiên là nàng đã thực hiện một cử chỉ đẹp khi trả tiền tắc xi cho người đàn bà vận đồ dạ hội kia. Còn chuyện giết Marie-Louise thì sao? Đó cũng là một cử chỉ đẹp, cũng giá trị như cử chỉ vừa rồi. Rặt những cử chỉ đẹp! Dường như đó là những ý nghĩ buồn bã nhất mà nàng có được. Còn buồn hơn những ý nghĩ đã đẩy nàng tới chỗ giết Marie-Louise. Mặt khác cơn cuồng nộ của nàng rồi cũng dịu đi. Nàng chỉ cần gợi lên cái quá khứ gần đây nhất để vững tin rằng mình không chỉ thực hiện một cử chỉ đẹp mà còn cả một công trình chính nghĩa. Khi mở túi xách lấy tiền trả, nàng trông thấy khẩu súng của mình. Rồi ngước mắt lên cửa sổ phòng mình, nàng thấy bóng Pietro lay động một cách háo hức sau mấy thanh cửa lá sách rồi biến mất. Tất cả lòng thù hận cùng tình cảm vỡ mộng chợt tan biến, nhường chỗ cho lòng thương xót đối với chính mình. Đó không phải là lòng thương hại có giá trị an ủi, vỗ về. Đó là một lòng thương hại lạnh lùng, như ánh trăng soi rọi trên khung cảnh hoang tàn vì ngập lụt. Nàng nhìn lại trọn cuộc đời mình, và cả số phận đã dẫn dắt nàng đến hiện tại tai ương này, nhưng nàng lại không thoát khỏi điều ghi nhận vô bổ đó. Toàn bộ sự việc cùng một lúc vừa công bằng lại vừa bất công. Đầu cúi thấp, cổ họng khô ran, mắt ráo hoảnh, nàng băng qua khu vườn. Nàng chỉ ngẩng đầu lên khi trông thấy cửa nhà mình. Pietro đã ở ngưỡng cửa chào nàng với một cử chỉ hài lòng và ngay lúc nàng đến phòng ngoài, chàng đã âu yếm choàng tay qua người. - Thế nào? Chuyện đó diễn biến ra sao? Hết sức xúc động, chàng xiết chặt trong đôi tay, nhìn nàng không chán mắt với nụ cười thỏa mãn và kiêu hãnh... Nét mặt xanh nhợt, Andréa hơi né đầu ra sau. - Mọi chuyện tốt đẹp, nàng vừa nói vừa chăm chú nhìn chàng thanh niên. Nhưng còn chờ gì nữa? Hãy về phòng em đi! Hơi bối rối vì vẻ xanh xao và giọng nói đó, Pietro buông nàng ra và theo chân nàng về phòng. Đến nơi, Andréa bước tới tủ và đối diện tấm gương nghiêng, nàng chậm rãi cởi mũ. Pietro ngồi vào ghế bành gần cửa sổ, nhìn nàng đang sửa soạn lại mớ tóc, ngắm mình trong gương với một vẻ chăm chú đầy tư lự và đưa tay sờ lên khóe miệng: cuối cùng nàng quay lại và chậm rãi đến ngồi trên giường. - Em mệt, nàng bảo, em không muốn nói gì cả. Em đi nằm đây, anh hãy đến bên em và nói tất cả những gì anh muốn nói. Nàng giả bộ ngáp và nằm ngửa ra, một cánh tay kê đầu, mắt nhìn lên trần nhà. Càng lúc càng ngạc nhiên Pietro đến ngồi bên nàng. Mời các bạn đón đọc Những Tham Vọng Sụp Đổ của tác giả Alberto Moravia & Huỳnh Phan Anh (dịch).
Bùi Thị Xuân
Bùi Thị Xuân là con của Bùi Đắc Chí, gọi Bùi Đắc Tuyên bằng chú, người thôn Xuân Hòa, một thôn nằm về phía đông Phú Phong (nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, Bùi Thị Xuân sớm được học văn và học võ. Tương truyền bà vừa có sức mạnh vừa có sắc đẹp, nữ công khéo, chữ viết đẹp, nhưng thích làm con trai, thích múa kiếm đi quyền. Nghe kể chuyện bà Trưng bà Triệu cỡi voi đánh giặc, Bùi Thị Xuân náo nức muốn được theo gương bà Triệu bà Trưng. Còn những chuyện Tô Tiểu Muội cùng chồng xướng họa, chuyện bà Mạnh Quang cử án tề mi thì Bùi Thị Xuân cho là nhảm nhí. Lúc nhỏ đi học thường mặc áo con trai. Lớn lên tự chế kiểu áo các nữ hiệp vẽ trong sách mà mặc. Năm 12 tuổi, Bùi Thị Xuân đến trường học chữ. Bị đùa cợt, Bùi Thị Xuân cả thẹn, vung quyền đánh vào mặt hai người sanh sự rồi trở về nhà. Từ ấy bỏ học chữ, ở nhà chuyên học võ. Từ khi bỏ học văn thì đêm đêm có một lão bà đến dạy. Dạy từ đầu hôm đến gà gáy lần thứ nhất thì bà lão lui gót. Không ai hiểu lai lịch ra sao. Suốt ba năm trời, trừ những khi mưa gió, đêm nào bà lão cũng đến cũng đi đúng giờ giấc. Dạy quyền, dạy song kiếm. Rồi dạy cách nhảy cao nhảy xa. Nhảy cao thì cột hai bao cát nơi chân mà nhảy, ban đầu bao nhỏ rồi đổi bao to dần, cuối cùng mới nhảy chân không. Còn nhảy xa thì ban đầu dùng sào, sau dùng tre tươi ngoài bụi, níu đọt uốn cong xuống thấp rồi nương theo sức bung của cây mà nhảy. Đêm học ngày tập, đến 15 tuổi thì tài nghệ đã điêu luyện. Theo cụ Bùi Sơn Nhi ở Xuân Hòa thì đó là bà cao tổ của ông Hương mục Ngạc, một võ sư trứ danh ở An Vinh thời Pháp thuộc. Sau khi luyện tập võ nghệ thuần thục, Bùi Thị Xuân bèn rủ một số chị em khác trong vùng đến nhà mình luyện quyền múa kiếm. Đệ tử của bà ban đầu còn ít, dần dần lên đến vài chục người. Tài nghệ đã tinh mà cách đối xử, cách dạy dỗ lại đứng đắn nên Bùi Thị Xuân được chị em kính yêu, quý trọng. Trong số đệ tử xuất sắc có bà Bùi Thị Nhạn. Năm 1771, Bùi Thị Xuân lúc 20 tuổi đã dùng kiếm để giải nguy cho Trần Quang Diệu khi vị tráng sĩ này bị một con hổ dữ tấn công. Và cũng từ lần gặp này mà hai người trở thành vợ chồng khi ông Diệu đến ở nhà người con gái Xuân Hòa để trị thương, rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc. *** Đào Trinh Nhất (1900-1951), tự Quán Chi, là nhà nhà văn, nhà báo Việt Nam giữa thế kỷ 20. Khi viết văn, viết báo, ông ký nhiều bút hiệu: Nam Chúc, Viên Nạp, Hậu Đình, Tinh Vệ, Bất Nghị, Vô Nhị, Hồng Phong, Anh Đào, XYZ.... Ông được người trong giới cầm bút đánh giá là người có cách làm việc nghiêm túc, thận trọng và là người đã biết dùng ngòi bút nghệ thuật làm sống lại nhiều tư liệu đã mai một trong lịch sử cận đại Việt Nam Đào Trinh Nhất sinh năm Canh Tý (1900) tại Huế. Nguyên quán tại xã Thượng Phán, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Ông là con trưởng Đình nguyên nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoàng giáp) Đào Nguyên Phổ. Vợ là Lương Thị Hòa, con gái Lương Ngọc Quyến và là cháu nội Lương Văn Can. Thuở nhỏ, Đào Trinh Nhất theo học chữ Hán ở quê nhà, sau lên Hà Nội học chữ Pháp và chữ quốc ngữ. *** Vốn là nhà báo viết văn, cho nên hầu hết các tác phẩm của Đào Trinh Nhất đều đăng từng kỳ trên báo rồi sau mới in thành sách. Theo thống kê chưa đầy đủ, sau 30 năm cầm bút (1921-1951), ông đã để lại khá nhiều tác phẩm như sau: Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ.(Thụy Ký - Hà Nội, 1924) Đông Châu liệt quốc (dịch, Sài Gòn, 1928) Thần tiên kinh (Dịch của A lan Kardec, 1930) Cái án Cao Đài (Sài Gòn, 1929) Việt sử giai thoại (Hà Nội, 1934) Nước Nhựt Bổn ba mươi năm duy tân (Đắc Lập, Huế, 1936) Phan Đình Phùng, một vị anh hùng có quan hệ đến lịch sử hiện thời (Cao Xuân Hữu, Hải Phòng, 1936; Đại La, Hà Nội, tái bản 1945; Tân Việt, Sài Gòn, tái bản 1957) Việt Nam Tây thuộc sử (Đỗ Phương Huế, Chợ Lớn, 1937) Ðông Kinh nghĩa thục (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938) Ngục trung thư (Đời cách mạng Phan Bội Châu) (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938; Tân Việt, Sài Gòn tái bản, 1950) Vương An Thạch (Hà Nội, 1943; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1960) Cô Tư Hồng (tiểu thuyết, Trung Bắc Tân Văn Chủ nhật, 1940; Trung Bắc Thư xã, Hà Nội, 1941) Chu Tần tinh hoa (dịch, Hà Nội, 1944) Lê Văn Khôi (1941-1945) Con trời ngã xuống đất đen (Hà Nội, 1944) Chu Tần tinh hoa (1944) Vương Dương Minh-Người xướng ra học thuyết lương tri và tri hành hợp nhất (Hà Nội, 1944; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1950) Kẻ bán trời Con quỷ phong lưu Bùi Thị Xuân Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 (Quốc Dân thư xã, Hà Nội, 1946; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1957). Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, ông mới dịch được nửa bộ, đang đăng báo thì từ trần (Bốn Phương xuất bản, Sài Gòn, 1950) Đào Trinh Nhất Tác Phẩm gồm có: Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Lịch Sử Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Triết Học Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 1 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 2 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Triết Học gồm có: Vương Dương Minh Vương An Thạch Chu Tần Tinh Hoa Mời các bạn đón đọc Bùi Thị Xuân của tác giả Đào Trinh Nhất.
Atlas Vươn Mình
Atlas Vươn Mình (Atlas Shrugged) mô tả thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử nước Mỹ khi các nhà công nghiệp và doanh nhân hàng đầu chống sự điều khiển bất công và thô bạo của nhà nước đối với toàn bộ ngành công nghiệp. Nhân vật chính, Dagny Taggart, giám đốc một công ty đường sắt, chứng kiến sự suy sụp của xã hội mà trong đó những người lao động ưu tú, những cá nhân xuất chúng nhất bị gạt ra rìa. Tất cả họ, những người có cả lý trí và lương tri, dưới sự lãnh đạo của một nhân vật bí mật tên là John Galt đã làm "dừng lại động cơ của thế giới". Quyển sách thể hiện rõ ràng những quan niệm của tác giả về thành tựu lao động, về tri thức và tinh thần tự do của con người. Bản dịch tiếng Việt dày 1650 trang cũng chứa đựng toàn bộ những triết lý quan trọng nhất của Ayn Rand. Lúc đang còn ở dạng bản thảo đang viết, nó có tên là "The Strike", nhưng khi được xuất bản (lần đầu vào năm 1957), cuốn sách có tựa là "Atlas Shrugged" (Atlas Vươn Mình). Một trong những lý do khiến độc giả không thể làm ngơ cuốn sách: tác phẩm đứng đầu bảng xếp hạng "Những tiểu thuyết hay nhất thế kỷ 20" do độc giả của Modern Library bình chọn năm 1998 (tiểu thuyết "The Fountainhead" - Suối Nguồn cũng của Ayn Rand đứng thứ hai). "Atlas Vươn Mình" được cho là tiểu thuyết có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời của nhiều độc giả Mỹ, chỉ sau Kinh Thánh (theo cuộc thăm dò của Thư Viện Quốc Hội Mỹ vào năm 1991). Nhiều cuộc tranh luận về cuốn sách xảy ra kể từ lúc cuốn sách được xuất bản lần đầu, và liên tục được đào xới lại cho đến tận ngày nay. Sức sống của nó không chỉ ở nước Mỹ mà còn lan ra khắp thế giới. Một tiểu thuyết kinh điển cần đọc! *** Như bao người da trắng khác, tôi đọc cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất của Ayn Rand “Atlas Vươn mình” khi tôi ở tuổi 18. Và cũng như bao người da trắng khác, cuốn “Atlas Vươn mình” đã khiến tôi thành một kẻ đần độn trong nhiều tháng trời. Ayn Rand (1905-1982) Cuốn “Atlas Vươn mình”, được xuất bản năm 1959 và số lượng ấn bản phát hành chỉ đứng thứ hai sau Kinh Thánh, “Atlas Vươn mình” được dùng như một lời mời gọi bạn đọc đến với triết lý của Ayn Rand, Chủ nghĩa Khách quan, dựa trên ý tưởng rằng sự vị kỷ nên là đức tính hướng dẫn cho toàn bộ nhân loại. (Nếu bạn cho rằng tôi đang nói quá hoặc hiểu sai về thông điệp của bà, thì xin lưu ý là Rand đã công bố một cuốn sách phi hư cấu có tựa đề chính xác là “Phẩm hạnh của sự vị kỷ” |The Virtue of Selfishness| theo đúng nghĩa đen.) Rand khẳng định rằng tính tư lợi là động lực tốt nhất cho kinh tế học, tài chính, chính trị học và về cơ bản cho tất cả những sự mưu cầu của nhân loại. Bà lập luận rằng đặt những người khác lên hàng đầu nghĩa là mọi người đều sẽ về cuối. Sức hấp dẫn của sự vị kỷ Thế giới quan theo Chủ nghĩa Khách quan đơn giản của Rand không thể được thiết kế tốt hơn để thu hút những chàng trai da trắng sống êm ả ở ngoại ô và thuộc tầng lớp trung lưu và thượng lưu giống tôi - loại người, mà theo câu nói bất hủ của Barry Switzer, là sinh ra ở tầng lớp thượng lưu song lại cứ tưởng mọi thứ mình có được là nhờ nỗ lực và tài năng cá nhân. Đối với những đứa trẻ như tôi vào thời điểm đó, thông điệp của Rand cho rằng chúng ta kiếm được mỗi phần của cải mà chúng ta được thừa kế là một điều đáng an ủi, và điều này làm hài lòng cái tôi của chúng ta bằng cách tập trung vào chúng ta như những chủ nhân của vũ trụ, những người xứng đáng với vị trí cao. May mắn thay, tôi không mất quá nhiều thời gian để loại bỏ các chủ đề của cuốn “Atlas Vươn mình”. Ngay khi tôi kết bạn với những người không phải là công tử ngoại ô da trắng, và khi tôi hiểu rằng họ phải làm việc chăm chỉ gấp 5 lần để được hưởng một nửa đặc quyền mà tôi được hưởng, tôi nhận ra rằng Rand đang hát một bản anh hùng ca tán dương sự thoải mái. Với việc áp dụng một chút đồng cảm và kinh nghiệm sống, triết lý của bà đã sụp đổ. Nhưng rất nhiều người có quyền lực vẫn tán đồng triết lý của Rand. Cựu Chủ tịch Hạ viện Paul Ryan đã nói chuyện thường xuyên, và một cách sùng bái, về tác động của Rand đối với cuộc sống của ông ấy. Cựu Cục dự trữ liên bang Alan Greenspan là một người đi theo và ủng hộ Rand, cùng với cả Ron và Rand Paul. Một số người chơi trò chơi quyền lực nhất của Thung lũng Silicon, gồm Peter Thiel và Travis Kalanick, đã ca ngợi Rand. Văn phong của bà cho đến ngày nay cho biết một hình thức đặc biệt độc hại của tư tưởng bảo thủ - theo chủ nghĩa tự do mãnh liệt, hăng hái chống chính phủ, mù quáng ủng hộ việc trao quyền cho các tập đoàn. David Sloan Wilson (1949-) Trong tập “Kinh tế học Pitchfork” của tuần này, Nick Hanauer và David Goldstein trò chuyện với nhà tiến hóa luận nổi tiếng David Sloan Wilson về cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh ấy, “Atlas Ôm chặt” |Atlas Hugged|. Cuốn “Atlas Ôm chặt” bác bỏ các tuyên bố của “Atlas Vươn mình” bằng cách sử dụng sự hiểu biết phi thường của Sloan về sinh học tiến hóa, cuốn sách này xác định lại con người như một loài động vật hợp tác và có tinh thần cộng đồng chứ không phải như những tác nhân vị kỷ hung bạo. Tính tư lợi đối diện với đại dịch Và đối với một ví dụ được trích từ các tiêu đề về lý do tại sao con người lại hoàn toàn không trở thành những người có thái độ và hành động kịch liệt chống xã hội (sociopathic) như hư cấu của Rand, hãy nhìn xa hơn với đại dịch. Xã hội tự do Galt’s Gulch đã phản ứng như thế nào vào năm ngoái khi COVID-19 lan đến? Trước tiên, không ai trong số những nhân vật chính theo chủ nghĩa cá nhân nghiêm khắc của Rand sẽ chịu nổi việc bắt buộc phải đeo khẩu trang. Họ không ưa mọi quy định của chính phủ, và vì đeo khẩu trang bảo vệ người khác nhiều như bảo vệ chính bản thân người đeo khẩu trang, điều đó vi phạm chỉ thị chính của Rand về tính vị kỷ là trên hết. Điều tương tự cũng xảy ra đối với các quy tắc giãn cách xã hội 6 bộ Anh (ft) [1 ft = 0,3048 m]. Vì vậy, Galt’s Gulch trông giống như một đĩa petri (đĩa bằng thủy tinh hay nhựa trong suốt để nuôi cấy tế bào) cho vi rút corona. Rand đã hình dung xã hội không tưởng (utopia) của mình là thiên đường cho các CEO |Tổng Giám đốc Điều hành| và chủ tịch của các công ty sản xuất lớn, và độ tuổi trung bình của các CEO ở Mỹ đã tăng lên trong những năm gần đây, là dưới 60 tuổi. Cho rằng 95% tổng số ca tử vong do vi rút corona là ở những người trên 60 tuổi, tỷ lệ sống sót của Galt’s Gulch có vẻ không cao. Lúc này tôi nghe thấy những lời phản đối: “Nhưng chắc chắn những nhà tư bản không bị ràng buộc này sẽ có thể mua hoặc sản xuất máy thở để giữ cho những CEO bị nhiễm bệnh đó sống sót?” Có lẽ là không. Nếu bạn nhớ lại, máy thở có nhu cầu cao trong những ngày đầu của đại dịch, và lúc bấy giờ Tổng thống Trump đã sử dụng quyền hạn của chính phủ để buộc hãng General Motors sản xuất chúng - một sự vi phạm nghiêm trọng triết lý của Rand. Và chuỗi cung ứng toàn cầu đã hoàn toàn bị phá vỡ trong những ngày đầu tiên đó, nghĩa là toàn bộ tiền bạc trên thế giới không thể mua máy thở hoặc các bộ phận sản xuất máy thở cho Galt’s Gulch kịp thời để giải cứu những nhà khách quan chủ nghĩa đáng thương đang bị bệnh hiểm nghèo. Sau đó, hãy cân nhắc thực tế là Galt’s Gulch có khả năng không có cơ sở y tế công cộng để thông báo cho dân chúng về các hành vi rủi ro và dữ liệu nhân khẩu học, không có cách nào để chỉ đạo doanh nghiệp tư nhân theo những cách có lợi cho phúc lợi tập thể |public good| mà không bị khoét giá lớn và không có tiền thuế để hỗ trợ những người thất nghiệp vì đại dịch, và xã hội không tưởng của John Galt đang bắt đầu giống xã hội trong bộ phim “Đấu trường sinh tử” |The Hunger Games|. Khoa học viễn tưởng về chủ nghĩa cá nhân Có một lý do tại sao những người theo chủ nghĩa tự do vô chính phủ lại quá im lặng kể từ khi COVID lan đến các bờ biển của chúng ta cách đây một năm, và tại sao những người theo chủ nghĩa bảo thủ cực đoan của Đảng Cộng hòa lại thất vọng về Tiến sĩ Seuss khi đảng Dân chủ thông qua một gói cứu trợ đại dịch cực kỳ được lòng dân. Paul Constant Đại dịch là chứng cứ cho một sự thật không thể tránh được mà phá hủy triết lý của Ayn Rand: Chúng ta đang sống trong một xã hội, và không ai thực sự là một người làm chủ tự tạo ra vận mệnh của chính mình. Chúng ta càng sớm hiểu lý tưởng của người Mỹ về chủ nghĩa cá nhân tối thượng là một thứ khoa học viễn tưởng |science-fiction| bao nhiêu, thì chúng ta càng nhanh chóng có thể bắt tay vào xây đắp một thế giới tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người bấy nhiêu. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ Paul Constant là một cây bút của Civic Ventures và là đồng chủ biên của podcast “Pitchfork Economics” cùng với Nick Hanauer và David Goldstein. Trong tập mới nhất, họ đã nói chuyện với nhà tiến hóa luận David Sloan Wilson về cuốn tiểu thuyết của ông, “Atlas Ôm chặt”. Wilson cho rằng đại dịch đã làm phá sản triết lý của Ayn Rand rằng tính tư lợi sẽ lấn át các nhu cầu xã hội. Hồ Thị Thu Hiền dịch Nguyễn Việt Anh hiệu đính *** Ayn Rand (1905 – 1982) là một tiểu thuyết gia, triết gia người Mỹ sinh ra ở Nga. Bà nổi tiếng là người đã phát triển học thuyết “Chủ nghĩa khách quan” thông qua hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng như The Fountainhead (Suối nguồn), Atlas Shrugged (Atlas vươn mình),  For the new Intellectual,… Bà sinh trưởng trong một gia đình gốc Do Thái và bắt đầu niềm đam mê với nghệ thuật từ rất sớm. Năm 8 tuổi bắt đầu viết kịch, 10 tuổi viết tiểu thuyết. Sau thành công của Cách mạng Nga, các trường đại học bắt đầu mở cửa cho nữ sinh, Ayn Rand nhanh chóng gia nhập tầng lớp trí thức, bắt đầu nghiên cứu về lĩnh vực xã hội và lịch sử. Bà bắt đầu say mê các tác phẩm của Aristotle và Plato, những tác phẩm ảnh hưởng rất lớn đến bà sau này. Tiểu thuyết đầu tiên của Rand, hư cấu dựa trên tiểu sử của bà We the Living, được xuất bản năm 1936. Bối cảnh ở Liên bang Xô Viết, tiểu thuyết tập trung vào cuộc đấu tranh giữa cá nhân và chính quyền. Bà rời khỏi Nga vào năm 1926 và đến Mỹ. Ayn Rand ở nhà một người họ hàng tại Chicago rồi sau đó tới New York để theo đuổi ước mơ làm biên kịch. Một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất của bà, The Fountainhead (Suối nguồn) xuất bản năm 1943 đã mang tên tuổi Ayn Rand đến độc giả trên toàn thế giới. Thu nhập từ tác quyền và phiên bản điện ảnh đã mang lại cho bà danh vọng và sự ổn định về tài chính. Tác phẩm đã từng bị từ chối bởi 12 nhà xuất bản trước khi được chấp thuận bởi Bobbs-Merrill Company. Các tác phẩm của bà đã bán 25 triệu bản trên toàn thế giới. Trong suốt cuộc đời của mình, Rand đã trở thành một nhân vật nổi tiếng và gây nhiều tranh cãi. Ngoài việc là một tác giả có sách bán chạy, bà cũng mang thông điệp của mình đến với các lớp đại học, đến Hollywood, với Quốc hội, với các trang xã luận, các buổi tọa đàm, chương trình phát thanh. Ngày nay , sách của bà đã bán được hàng triệu bản, và bà là chủ đề của một bộ phim tài liệu được đề cử Oscar, một con tem bưu chính Hoa Kỳ, các khóa học đại học, và một môn học xã hội triết học dành cho các nghiên cứu về tư tưởng của bà . Mời các bạn đón đọc Atlas Vươn Mình của tác giả Ayn Rand.