Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tứ Thư

Tứ thư của Nho gia là bốn cuốn sách dạy con người về cương thường đạo lý. Tứ thư của Diêm Liên Khoa là bốn cuốn sách ghi lại những vết thương của lịch sử Trung Quốc thời hiện đại. Tứ thư của Nho gia là bộ sách mà tất cả các sĩ tử ngày xưa cần phải đọc để làm người. Tứ thư của Diêm Liên Khoa là tiểu thuyết mà người Trung Quốc ngày nay cần phải đọc để trả nợ lịch sử. Diêm Liên Khoa viếtTứ thư để “dâng tặng hàng ngàn hàng vạn trí thức còn sống và đã chết cùng thời kỳ lịch sử bị lãng quên”. Đó là thời kỳ cách mạng Đại nhảy vọt của Trung Quốc cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960. Chuyện xảy ra ở trại cải tạo dành cho các trí thức, được gọi là khu Dục Tân (đào tạo và bồi dưỡng con người mới), nằm ven bờ sông Hoàng Hà. Trại viên của khu Dục Tân khoảng 23.300 người, chín mươi phần trăm là trí thức. Giáo sư, cán bộ, học giả, nhà văn, thầy giáo, bác sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ… dù cho kiến thức chất đầy năm xe, tài cao tám đấu, tất tần tật đều bị đưa đến đây lao động cải tạo, bồi dưỡng để thành con người mới. Và thật kinh khủng, cuộc cách mạng bồi dưỡng đó đã thành công! Trại cải tạo đã làm mới các trí thức. Mới đến mức tất cả đều từ tốt biến thành xấu, cao thượng biến thành thấp hèn; từ con người biến thành kẻ “mất tư cách làm người”. Họ biến thành súc vật? Không, ví như thế thì rất tội cho súc vật. Họ biến thành ác thú? Không, ví như thế thì ác thú sẽ kêu oan. Họ biến thành ma quỷ? Không, ví như thế thì quá bất công với ma quỷ. Họ biến thành những sinh vật kỳ quái, kinh dị đến mức không thể so sánh được với bất cứ sinh loài nào trên thế gian này. Khu Dục Tân được chia lô đánh số gồm 99 khu. Khu thứ 99 có 127 trại viên trí thức cải tạo dưới quyền lãnh đạo tối cao của nhân vật được mệnh danh là Con Trời - bộ đội phục viên. Lao động vất vả, thiếu ăn thiếu mặc, thành tích giả dối, sách vở bị đốt…, các trí thức đều khao khát được trở về nhà. Họ cắt máu tưới cho lúa ngô để tăng năng suất; rình rập người khác phạm tội để bắt bớ, tố cáo nhằm lập công. Trộm cắp, gian dối, so bì, soi mói, đố kỵ, hãm hại… những tiềm năng ác độc trong con người được phát huy tối đa. Mất mùa và thiên tai khiến cái đói trở thành đại nạn. Đói! Đói lay lắt. Đói dữ dội. Đói kiệt cùng. Chết! Chết vì đói. Chết vì rét. Chết vì vừa đói vừa rét. Những người còn lại không đủ sức khiêng người chết đi chôn, đành chất chồng thi thể đông cứng của họ trong một gian nhà. Cuối mùa đông, sau khi ăn hết cả cỏ dại, dây nịt, giày dép…, các trại viên đã tự cứu mình bằng cách ăn thịt những người chết. Giáo sư, giáo viên, bác sĩ, chuyên gia, học giả…; đàn ông, đàn bà; người già, người trẻ… đều nhóm bếp luộc thịt người. Mùi thịt theo khói bốc lên tanh tưởi. Tiếng húp xì xoạp. Có người ăn để đủ sức treo cổ mình lên xà nhà, có người ăn để chờ ngày được trở về nhà. Tổng cộng năm mươi hai xác chết đông cứng, không xác nào còn nguyên vẹn, chỗ nào có thể xẻo ăn được đều bị ăn hết. Không chỉ riêng khu Dục Tân bị đói, mà Bắc Kinh cũng đói, toàn đất nước đều đói. Con Trời đành phát cho mỗi trí thức một túi đậu tương rang, một ngôi sao đỏ bằng sắt để họ có thể trở về nhà mà không bị bắt, cho họ lấy lại những quyển sách còn sót sau vụ đốt sách mà lâu nay anh ta âm thầm phục chế, bảo bọc. Con Trời không ra đi cùng họ. Anh ta đóng một cái giá gỗ lớn hình chữ thập, tự đóng đinh mình trên đó. Máu chảy ròng ròng… Con Trời phóng thích các trại viên, thực chất là trả họ từ nơi đói khát này về nơi đói khát khác. Về phần mình, anh chọn cái chết như chúa Jesus. Chết vì giác ngộ sau bao đêm âm thầm đọc Kinh thánh và sách vở tịch thu được hay chết vì sụp đổ lý tưởng? Có lẽ cả hai. Đề cập đến những chủ đề lớn như lịch sử, sinh mệnh, nhân tính, Tứ thư là bi kịch của người trí thức, là sự phản tư đầy quyết liệt và đau đớn về lịch sử Trung Quốc hiện đại. Đồng thời, Diêm Liên Khoa đã tiếp nối một cách xuất sắc mô-tip “ăn thịt người” trong lịch sử văn học Trung Quốc. Thử thách lương tri của người trí thức bằng những tình huống nghiệt ngã nhất, Diêm Liên Khoa đã khiến người Trung Quốc phải đối mặt với “vết thương” lịch sử một cách trần trụi qua bút thuật vô cùng sáng tạo, vô cùng tàn nhẫn. Mỗi cuốn sách trong Tứ thư được viết theo một thể văn khác nhau: thể Kinh thánh, thể tự bạch, thể báo cáo chính trị và thể chuyện kể dân gian. Rất nhiều câu văn ngắn, cực ngắn, siêu ngắn. Thủ pháp trùng chương điệp cú được rải đều khắp. Nhiều dấu câu không đúng quy phạm ngữ pháp, từ đơn nhiều hơn từ ghép và từ láy, danh từ và tính từ được động từ hóa tạo nên sự khác lạ đầy tính bất trắc. Nhiều câu văn được trích dẫn trực tiếp từ Sáng Thế ký như ẩn dụ về sự tẩy trắng văn minh, trở về thuở hồng hoang mà cách mạng Đại nhảy vọt đã gây ra cho khu Dục Tân nói riêng và cả đất nước Trung Quốc nói chung… Nhân vật của Tứ thư không có tên. Tất cả đều được gọi theo danh phận trước đây: học giả, tôn giáo, giáo sư, bác sĩ, nhà văn, nhạc sĩ, nghệ sĩ, thí nghiệm, pháp luật… Cách gọi này mang tính mỉa mai một cách đau đớn, đồng thời có ý nghĩa khái quát rất cao. Sự khái quát đó hàm ý nỗi bất hạnh lớn này không chỉ xảy ra cho từng/những cá thể mà xảy ra cho cả một lớp người vốn được xem là tinh hoa của xã hội, là rường cột của quốc gia. Số phận của họ bị điều khiển bởi sự phi lý. Phi lý lịch sử đổ ụp xuống cuộc đời họ khiến cho nhân cách, lý tưởng, niềm tin và tất cả những gì cao đẹp thiêng liêng nhất đều sụp đổ. Họ bị đẩy xuống tận cùng của những dối trá, lường gạt, cơ khổ; phải làm những việc không nên làm, sống cuộc đời không nên sống, chết cái chết không đáng chết. So với thời của Tần Thủy Hoàng, sự trừng phạt, hành hạ trí thức của thời cách mạng càng dai dẳng hơn, khắc nghiệt hơn, tàn bạo hơn, khốc liệt hơn.    Giống như Vì nhân dân phục vụ, Kiên ngạnh như thủy, Phong nhã tụng, Đinh Trang mộng… Tứ thư cũng đi thẳng vào đề tài gai góc. Viết để đối thoại, để chuộc lỗi, để ăn năn, để trừng phạt và để sòng phẳng với lịch sử..., một lần nữa, Diêm Liên Khoa đã tỏ rõ sự dũng cảm và chân thành của mình bằng cách chọn “những điều không được phép viết”. Ông cho rằng, “khi bạn chọn điều đó, thì bạn phải chấp nhận vứt bỏ tất cả, kể cả cơ hội được xuất bản tác phẩm”. Chọn điều đó, nghĩa là bạn đang viết cho chính mình, bạn có thể viết bất cứ điều gì mình muốn. “Không viết nổi một tác phẩm lớn là lỗi của nhà văn chứ không phải lỗi của thời đại, đừng lấy những danh nghĩa đẹp đẽ để che đậy trách nhiệm và năng lực của nhà văn”.  Kiên trì với quan điểm sáng tác đó, Tứ thư - tác phẩm mà Diêm Liên Khoa ưng ý nhất, hoàn thành năm 2010 nhưng bị hơn mười nhà xuất bản trong nước từ chối. Năm 2013, Tứ thư được xuất bản ở Đài Loan. Năm 2014, tác phẩm được trao giải thưởng văn học Kafka. Hội đồng trao giải chọn Diêm Liên Khoa bởi vì Tứ thư là đỉnh cao sáng tác của ông, và vì ông là nhà văn “có dũng khí đối mặt với hiện thực” - thứ hiện thực nghiệt ngã và tăm tối mà cả giới trí thức và lịch sử Trung Quốc đều không dám ngoái đầu nhìn lại. *** Diêm Liên Khoa (sinh 1958) là một nhà văn Trung Quốc chuyên viết tiểu thuyết. Các sáng tác tiêu biểu: "Hạ nhật lạc" (夏日落), "Vì nhân dân phục vụ" (为人民服务), "Đinh trang mộng" (丁庄梦). Ông đã xuất bản trên 10 tập truyện ngắn. Thụ hoạt (受活), tập tiểu thuyết xuất bản năm 2004, đoạt rất nhiều giải thưởng của Trung Quốc. Các tác phẩm của ông do mang tính châm biếm cao nên nhiều tác phẩm nổi tiếng vẫn đang bị cấm tại Trung Quốc. Diêm Liên Khoa cũng thừa nhận đã phải tự kiểm duyệt bằng cách viết song song 2 phiên bản của cùng một tác phẩm để tác phẩm đã tự kiểm duyệt có thể xuất bản trong nước, đồng thời giữ phiên bản gốc xuất bản ở nước ngoài. Năm 1984 ông kết hôn cùng Trác Li Sa, năm 1985 sinh con trai Diêm Tung Nguy. Năm 2013 con trai kết hôn, năm 2014 cháu gái chào đời, hiện nay cả gia đình đều sống ở Bắc Kinh. Tác phẩm xuất bản tại Việt nam: Tứ Thư Người Tình Phu Nhân Sư Trưởng Đinh Trang Mộng Nàng Kim Liên Ở Trấn Tây Môn ... Tiểu thuyết "Ngục tình cảm", Nhà xuất bản Văn nghệ Giải phóng quân, 1991 "Nữ thanh niên tri thức cuối cùng", Nhà xuất bản Văn nghệ Bách Hoa,1993 "Vòng sinh tử", Nhà xuất bản Minh Thiên, 1995 "Chào Kim Liên", Nhà xuất bản Văn nghệ Trung Quốc, 1997 "Nhật quang lưu niên",Nhà xuất bản Hoa Thành, 1998, Công ty sự nghiệp xuất bản Liên Kinh (Đài Bắc), 2010 "Kiên ngạnh như thủy", Nhà xuất bản Văn nghệ Trường Giang, 2001; Nhà xuất bản Mạch Điền (Đài Bắc), 2009 "Gà chọi", Nhà xuất bản Văn nghệ Trường Giang, 2001 "Xuyên qua", Nhà xuất bản Văn nghệ Giải phóng quân, 2001 "Hạ nhật lạc", Công ty sự nghiệp xuất bản Liên Kinh (Đài Bắc), 2010 "Thụ hoạt", Nhà xuất bản Văn nghệ Xuân Phong, 2004; Nhà xuất bản Mạch Điền (Đài Bắc), 2007 "Đinh trang mộng", Nhà xuất bản Văn hóa nghệ thuật(Hongkong), 2006; Nhà xuất bản Mạch Điền (Đài Bắc), 2006; Công ty trách nhiệm hữu hạn truyền thông tư nhân Linh Tử (Singapore),2006 Tuyển tập truyện "Chuyện quê nhà", Nhà xuất bản Văn nghệ Bách Hoa, 1992 "Ngụ ngôn hòa bình", Nhà xuất bản Văn nghệ Trường Giang, 1994 "Đi đến thiên đường", Nhà xuất bản Thanh niên Trung Quốc, 1995 "Diêm Liên Khoa văn tập" (5 quyển), Nhà xuất bản Nhân dân Cát Lâm, 1996 "Diêm Liên Khoa tập truyện tự tuyển chọn", Nhà xuất bản Văn nghệ Hà Nam, 1997 "Gia viên hoan lạc", Nhà xuất bản Bắc kinh, 1998 "Động Hoàng Kim", Nhà xuất bản Văn nghệ, 1998 "Sáng tối tròn khuyết: Lại nói về thiên cổ dâm phụ Phan Kim Liên", Nhà xuất bản Văn nghệ Trung Quốc, 1999 "Đi về hướng Đông Nam", Nhà xuất bản Nhà văn, 2000 "Bả Lâu thiên ca", Nhà xuất bản Văn nghệ Bắc Nhạc, 2001 "Ba chày gỗ", Nhà xuất bản Thế giới mới, 2002 "Năm tháng thôn quê", Nhà xuất bản Nhân dân Tân Cương,2002 "Ngày tháng năm",Nhà xuất bản Nhân dân Tân Cương, 2002; Nhà xuất bản Nguyệt San Minh Báo (Hongkong), 2009 "Kho tàng nhà văn đương đại" (Quyển về Diêm Liên Khoa), Nhà xuất bản Văn nghệ Nhân dân, 2003 "Thiên cung đồ", Nhà xuất bản Văn nghệ Giang Tô, 2005 "Chủ nghĩa lãng mạn cách mạng: Truyện ngắn tiêu biểu của Diêm Liên Khoa", Công ty xuất bản Văn nghệ Xuân Phong, 2006 "Mẹ là dòng sông", Nhà xuất bản Văn nghệ đại chúng, 2006 "Giấc mơ của người Dao Câu", Công ty xuất bản Văn nghệ Xuân Phong,2007 "Diêm Liên Khoa văn tập" (12 quyển), Nhà xuất bản Nhật báo Nhân dân; Nhà xuất bản Nhân dân Vân Nam, Nhà xuất bản Nhân dân Thiên Tân,2007 "Tuyển tập tác phẩm của Diêm Liên Khoa" (17 quyển) "Khu cấm số 4", "Thiên công đồ", Công ty xuất bản Vạn Quyển, 2009 "Đi về hướng Đông Nam", Công ty xuất bản Vạn Quyển, 2009 "Tuyển tập truyện của Diêm Liên Khoa", Tân địa văn hóa (Đài Bắc), 2010 "Tỉnh giấc đào viên", Hoàng Sơn thư xã,2010 "Phù dung kĩ nữ: Biên niên truyện vừa của Diên Liên Khoa (1988-1990)", tập 1, Nhà xuất bản văn nghệ Triết Giang, 2011 "Trung thổ hoàn hương: Biên niên truyện vừa của Diêm Liên Khoa (1991-1993)"(tập 2),Nhà xuất bản Văn nghệ Triết Giang, 2011 "Dãy núi Bả Lâu: Biên niên truyện vừa của Diêm Liên Khoa (1993-1996)"(Tập 3) Nhà xuất bản Văn nghệ Triết Giang, 2011 "Tỉnh giấc đào viên: Biên niên truyện vừa của Diêm Liên Khoa (1996-2009)"(tập 4), Nhà xuất bản Văn nghệ Triết Giang, 2011 "Tuyển tập truyện ngắn Diêm Liên Khoa", Nhà xuất bản Nhân dân Vân Nam,2013 "Diêm Liên Khoa đen trắng" – bốn truyện vừa (4 quyển), Nhà xuất bản Văn học Nhân dân, 2014; Nhị ngư Văn hóa (Đài Bắc), 2014 "Vì nhân dân phục vụ" (Người tình của phu nhân sư trường); Nhà xuất bản Mạch Điền (Đài Bắc), 2005; Công ty trách nhiệm hữu hạn truyền thông tư nhân Linh Tử (Singapore), 2005; Nhà xuất bản Văn hóa Nghệ thuật (Hongkong),2005 "Phong nhã tụng",Nhà xuất bản Mạch Điền (Đài Bắc), 2008; Tập đoàn xuất bản Phượng Hoàng, 2008 "Tứ thư", Nhà xuất bản Mạch Điền (Đài Bắc), 2011; Nhà xuất bản Minh Báo (Hongkong),2011 "Tạc liệt chí", Nhà xuất bản Văn nghệ Thượng Hải, 2013; Nhà xuất bản Mạch Điền (Đài Bắc), 2013 "Nhật tức" (Mặt trời đã tắt), Nhà xuất bản Mạch Điền (Đài Bắc),2015 Tùy bút, tản văn "Xiềng xích xám xịt", Nhà xuất bản Văn nghệ Bách Hoa, 1999 "Về nhà", Nhà xuất bản Giải phóng quân, 2002 "Đôi đũa hồng của bà đồng: Ghi chép đối thoại giữa nhà văn và tiến sĩ văn học" (viết chung cùng Lương Hồng), Nhà xuất bản Văn nghệ Xuân Phong,2002 "Vượt qua mọi biên giới: Tản văn Diêm Liên Khoa", Nhà xuất bản Văn nghệ Trường Giang,2005 "Đất vàng và cỏ xanh: Tản văn tình thân của Diêm Liên Khoa", Nhà xuất bản Hoa Thành, 2008 "Kĩ xảo và linh hồn: Ghi chép đọc sách của Diêm Liên Khoa",Nhà xuất bản Hoa Thành,2008 "Phân chia và hợp lại: Diễn giảng văn học của Diêm Liên Khoa", Nhà xuất bản Hoa Thành, 2008 Tản văn Diêm Liên Khoa", Nhà xuất bản Văn nghệ Triết Giang, 2009 "Tôi và cha chú", Ấn khắc văn học (Đài Bắc), 2009; Nhà xuất bản Nhân dân Vân Nam, 2009 "Hiện thực của tôi, chủ nghĩa của tôi: Ghi chép đối thoại văn học của Diêm Liên Khoa"(viết chung cùng Trương Học Hân); Nhà xuất bản văn học Nhân dân Trung Quốc,2011 "Hãy đợi đấy", Trung tâm xuất bản phương Đông,2011 "Phát hiện tiểu thuyết", Nhà xuất bản Đại học Nam Khai, 2011; Ấn khắc văn học (Đài Bắc),2011 "Nhà số 711", Nhà xuất bản Nhân dân Giang Tô, 2012; Nhà xuất bản Liên Kinh (Đài Bắc), 2012 Tản mạn: Tập diễn giảng ở nước ngoài của Diêm Liên Khoa, Nhà xuất bản Trung Tín, 2012 "Tản văn Diêm Liên Khoa", Nhà xuất bản Nhân dân Vân Nam, 2013 "Khó nhất của sáng tác là hồ đồ", Nhà xuất bản Nhân dân Trung Quốc, 2013 "Những bài giảng ở hải ngoại", Nhà xuất bản Văn học Nhân dân Trung Quốc, 2013 "Ba dòng sông của hai người", "Cảm niệm", Nhị Ngư văn hóa (Đài Bắc), Nhà xuất bản Văn học Nhân dân, 2013, 2014 "Đi trên con đường của người khác: Ghi chép ngữ tứ của Diêm Liên Khoa", Nhà xuất bản Nhân dân Thượng Hải, 2014 "Hắc bạch Diêm Liên Khoa" – Bốn quyển tản văn (4 quyển), Nhà xuất bản Văn học Nhân dân, 2014 "Trầm mặc và hổn hển: Văn học Trung Quốc như tôi đã trải qua", Ấn khắc (Đài Bắc), 2014 "12 tháng của hai thế hệ" (viết chung với Tưởng Phương Châu), Ấn khắc (Đài Bắc), 2015 Mời các bạn đón đọc Tứ Thư của tác giả Diêm Liên Khoa.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Chưa Bao Giờ Thấy Biển - Jean-Marie Gustave Le Clézio
Daniel hầu như ko nói chuyện với ai và cũng ko có bạn bè. Người ta thấy nó thường mơ mộng với đôi mắt mở to. Nó có dáng vẻ như đến từ nơi khác. Đáng lẽ nên gọi nó là thuyền trưởng Sinbad, bởi nó đọc nhiều những chuyện phiêu lưu ấy, và đó là cuốn sách duy nhất nó thuộc nằm lòng: mắt nó sáng rỡ chỉ khi nói chuyện về biển cả và việc du hành. Nhưng, nó chưa bao giờ nhìn thấy biển. Rồi một ngày tháng mười một, chẳng bảo ai, nó ra đi và không bao giờ trở lại… *** Jean-Marie Gustave Le Clézio, một trong những nhà văn lọt vào danh sách để xét giải Nobel văn học năm 1999, đã thành danh từ khá sớm. Những năm 60 của văn học Pháp là những năm khó khăn với các cuộc tìm tòi thí nghiệm, những quan niệm mới và những khuynh hướng mới. Chính vào thời kỳ ấy, cụ thể là vào năm 1963, “một chàng trai trẻ, cao lớn, đẹp trai, có mái tóc vàng”, ít nói, đã "trình làng" với cuốn tiểu thuyết Biên bản (Le Procès - verbal), in tại Gallimard, một nhà xuất bản lớn hàng đầu, có uy tín ở Pháp. Cuốn tiểu thuyết lập tức thu hút sự chú ý của bạn đọc cũng như giới phê bình không những vì nó đoạt giải thưởng Renaudot, mà chủ yếu vì nó đã đặt ra nhiều vấn đề lý thú cho thể loại tiểu thuyết dường như đang ngắc ngoải. Thế là, mặc dầu anh còn quá trẻ (23 tuổi) để thành tên tuổi, người ta vẫn cứ “xếp hạng” và anh “có chỗ” trong làng văn Pháp đương đại đang khá là nhốn nháo. Tính đến nay, cầm bút được hơn 30 năm, Le Clézio đã có 47 đầu sách gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận và dịch thuật, trong đó có 4 cuốn viết chung. Ðó là chưa kể đến rất nhiều bài viết ông đăng trên các tạp chí, các báo... và hoạt động giảng dạy của ông ở các trường đại học tại Pháp, Mỹ, Mexique, Thái Lan.   Bảo vệ xuất sắc khoá luận cao học về H.Michaux vào năm 1964, sau đó Le Clézio bảo vệ luận án tiến sĩ về Lautréamont. Le Clézio và những tác phẩm của ông đã là đề tài nghiên cứu của 21 cuốn sách và 29 luận án cao học và tiến sĩ (riêng ở Nice, thành phố quê hương ông có 7 luận án). Năm ông 49 tuổi (1989) tạp chí Sud đã ra số chuyên san về sự nghiệp sáng tác của ông. Năm 1994, tạp chí Lire mở cuộc điều tra xã hội học với câu hỏi “Ai là nhà văn Pháp ngữ lớn nhất trong số hiện đang còn sống?” đã có 13% độc giả trả lời đó là Le Clézio.   Cùng một số nhà văn khác, Le Clézio đã làm cho bức tranh toàn cảnh của văn học Pháp thế kỷ XX đỡ màu ảm đạm: “Suốt cả thế kỷ, người ta nói đến “cái chết của văn học”, bị giết bởi báo chí, điện ảnh, truyền hình, những trò giải trí đại chúng v.v… Vậy mà, nó không chết. Người ta viết và công bố nhiều hơn. Thành công của những tác phẩm cách tân, những tác phẩm hay và có giá trị (chúng đa dạng biết bao) của Claude Simon hay Marguerite Duras, của Jean-Marie Gustave Le Clézio hay Georges Perec đã làm cho chúng ta trở nên lạc quan”.   Thói quen của các ngòi bút phê bình nghiên cứu hay dẫn chúng ta đến việc “xếp loại” “sắp đặt” các nhà văn ngồi chỗ này, chỗ kia... hoặc thuộc trường phái này, khuynh hướng nọ... Đối với Le Clézio và các sáng tác của ông, việc này quả là không dễ dàng (có thể nói là không thể). Bởi vì, hình như ông thuộc về nhiều trường phái và hình như cũng chẳng thuộc về khuynh hướng nào cả.   Cuốn tiếu thuyết đầu tay xuất hiện khi ông còn rất trẻ đã khiến người ta xếp ông vào “chủ nghĩa hiện thực mới”. Có lẽ đó là một cách nói để làm rõ vấn đề và để đối sánh với các khuynh hướng “Tiểu thuyết Mới” “Phê bình mới” đang rất rầm rộ lúc đương thời. Vậy thì “Chủ nghĩa hiện thực mới” của Le Clézio không phải như chủ nghĩa hiện thực thời Balzac. Muốn hiểu cho rõ ngọn ngành vấn đề này, ta không thể nói trong phạm vi một hoặc vài trang giấy. Để tham khảo, chúng tôi chỉ xin nêu ở đây ý kiến của các tác giả trong cuốn Văn học Pháp từ 1945 đến 1968. Khi viết về Le Clézio họ đã dùng một cái tít lạ thường “Cách viết địa chấn học” (Une écriture sismographique). Đó là cách viết tuân theo quy luật tự nhiên, ghi theo kiểu máy đo độ rung của trái đất, ghi lại “những độ rung nhỏ nhất của những điều nhạy cảm, đem lại sự sống náo nhiệt của thế giới”. Bởi vì theo Le Clézio, thế giới vô cũng sống động. Trong tiểu luận Thế giới sống động ông đã viết: “Đây chính là điều cần phải làm: đi về nông thôn, như một họa sĩ đi vào ngày chủ nhật, cùng với một tờ giấy lớn và bút chì. Hãy chọn một nơi thanh vắng, một thung lũng xung quanh là đồi núi, ngồi trên mỏm đá và ngắm nhìn thật lâu xung quanh mình. Và rồi, khi đã nhìn thật kỹ, cầm lấy giấy, và miêu tả bằng chữ những gì ta đã thấy”. Đó là đoạn mở đầu tác phẩm. Đọc tiếp những câu cuối, ta có cảm giác như là “nghệ thuật thơ ca” của Le Clézio, một quan niệm thật giản dị: “Đó. Thế giới sống động như thế, trong những tiếng động nhỏ xíu, những cú trượt, tiếng rả rích của dòng nước. Trong những lùm cây, trong hang động, trong đám cây cối chằng chịt, rối rắm, thế giới hát ca, cùng ánh sáng hoặc bóng tối, nó sống một cuộc sống nổ tung, không ngừng nghỉ, đầy tai biến và chết chóc. Cần phải sống cùng nó, như thế, hàng ngày, nằm áp má xuống đất, tai nghe ngóng, sẵn sàng lắng nghe tất cả những tiếng ồn ào và tất cả những tiếng thì thầm. Dây thần kinh cắm sâu vào đất như rễ cây và tự nuôi dưỡng bằng sức mạnh quật khởi khó mà hiểu nổi; cần phải uống thật lâu ở suối nguồn của sự sống và cái chết, rồi sẽ trở thành vô địch không ai thắng nổi”.   Xét về mặt nội dung các tiểu thuyết của Le Clézio đều có thể kể được, có nhân vật, cùng với các “phụ tùng” của nó: Adam Polo trong cuốn Biên bản (1963), Franois Besson trong Cơn hồng thủy (Le déluge, 1966), cô gái Lalla trong tiểu thuyết Sa mạc (Désert, 1980), tác phẩm đoạt Giải Lớn Paul Morand, Alexis trong Người tìm vàng (Le chercheur d'or, 1997) v.v... Có vẻ như những lời tuyên ngôn hùng hồn của N. Sarraute trong tác phẩm nổi tiếng Thời đại hoài nghi cùng các quan điểm cách tân táo bạo của Tiểu thuyết Mới hầu như chẳng thấy có khúc xạ nào qua sáng tác của Le Clézio.   Chính bản thân ông từng kể lại: “Khi tôi đưa bản thảo tiểu thuyết đầu tay của tôi đến Nhà xuất bản Gallimard, tôi đã nói rõ rằng tôi không có quan hệ gì với Tiểu thuyết Mới”. Thế nhưng, không phải hoàn toàn không có những điểm tương đồng nào đó giữa ông và các nhà Tiểu thuyết Mới. Thậm chí người ta còn tìm thấy sự tiếp nhận những tư tưởng từ Roland Barthes trong Lời tựa cho cuốn sách thứ hai của ông có tên là Cơn Sốt.   Trong một cuộc phỏng vấn P.Lhoste có nói với Le Clézio về những từ được lặp đi lặp lại trong các tác phẩm của ông. Nhà văn đồng ý với nhận định đó và cho rằng đó “là những điểm mốc” để có thể khẳng định là mỗi người đều có một “huyền thoại cá nhân” (mythologie personelle). Ðề cập đến vấn đề này có thể Le Clézio có liên hệ gì đó với khái “huyền thoại cá nhân” (mythe personnel) của Ch.Mauron, nhà phê bình phân tâm học đã nhấn mạnh đến việc nghiên cứu quá trình vô thức trong sáng tạo của nhà văn.   Cũng trong cuộc nói chuyện ấy, Le Clézio đã gợi lên sự hàn gắn giữa nhà văn và thầy phù thủy. Cả hai đều có một “thao tác ma thuật”, có một “mã” (code) và những ký hiệu để “hành nghề”, tất nhiên là những ký hiệu khác nhau, thầy phù thuỷ với những ký hiệu của cây lá, của rắn... nhà văn với “những ký hiệu chính xác của từ ngữ gắn bó với các hình ảnh đặc biệt sẽ cho phép độc giả thực hiện thao tác có tính chuyển đổi thành một hiện thực khác, cao hơn”. Nghe đến những “ký hiệu”, đến “mã”, chúng ta có cảm giác như lại sắp bước sang một lĩnh vực khác…   Là một người đọc rất nhiều, ngay từ đầu Le Clézio đã quan tâm đến những vấn đề thuộc lý luận văn học. Ở Lời tựa với hình thức như một bức thư nho nhỏ gửi đến bạn đọc trong tiểu thuyết Biên bản, nhà văn đã dành nhiều dòng cho độc giả, một nhân tố tạo thành quan trọng được chú ý đặc biệt ở văn học thế kỷ XX với tư cách là người tiếp nhận. Ngay cách viết Lời tựa với hình thức hoàn toàn như một bức thư gửi đến bạn đọc có lẽ cũng là một cách để nói rõ thêm quan điểm này của nhà văn.   Như vậy có thể thấy một quan niệm mở của Le Clézio, chấp nhận cùng lúc mọi lối biểu hiện của thực tiễn sáng tác văn học đa dạng và phong phú. Đó là xét về mặt lý luận, còn trong sáng tác, nhà văn đã thể hiện điều đó, trước hết trong tiểu thuyết. Về mặt hình thức được trình bày trên trang giấy, bản thân các tiểu thuyết của ông không phải toàn các con chữ bình thường theo lối viết xưa nay. Văn bản được gài xen vào đủ thứ: từ các bức họa, các công thức toán, lý, hoá, các con số, các đoạn thơ, nhật ký, các mẩu quảng cáo, các mẩu báo chí (có khi được in ở giữa những trang đầu hoặc cuối), có cả những đoạn chữ bị xóa vẫn còn nguyên dấu gạch chéo X… Với cách đó, dường như ông đã thu hẹp lại khoảng cách giữa hư cấu và hiện thực. Hiện thực tràn vào trang giấy bằng của bản thân nó, chứ không phải bởi uy quyền tối cao và độc đoán của nhà văn. Các sáng tác của Clézio vào những năm đầu thể hiện rõ điều này; Biên bản (1963), Cơn hồng thủy (1966), Những người khổng lồ (Les géants, 1973)... Thậm chí có những đoạn tác giả còn để nguyên tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc xen lẫn giữa toàn bộ văn bản bằng tiếng Pháp. Những tiếng vọng đến từ xa được thể hiện thành nhiều con chữ trên mặt giấy: i i i i i i i i i i i…, woou woou woou…, hom! hom!, hom!, hom!, hom!, v.v…   Ðọc tiểu thuyết của Le Clézio chúng ta thấy ông một mặt vẫn ràng buộc với tiểu thuyết truyền thống qua những đặc điểm cơ bản nhất, mặt khác, ông đã tạo ra một lối của riêng mình. Điều đó được thể hiện không chỉ ở việc làm “vỡ tung" văn bản, thay đổi hình thức trình bày của nó, mà chủ yếu là “việc xâm nhập các thể loại trong tác phẩm” của ông, Trong tiểu thuyết của ông có cả thơ, có tiểu luận, có sử thi, huyền thoại cả cổ tích. ... Mời các bạn đón đọc Người Chưa Bao Giờ Thấy Biển của tác giả Jean-Marie Gustave Le Clézio.
Người Thầy Thuốc - Thanh Châu
Thanh Châu (1912-2007), tên thật là Ngô Hoan, là nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Ông là tác giả truyện ngắn "Hoa ti gôn" (1937), là truyện đã làm "khơi dậy men thơ cho T.T.Kh sáng tác bài thơ nổi tiếng: Hai sắc hoa ti gôn". Người thầy thuốc là tập truyện ngắn của ông được đăng trên Phổ thông bán nguỵệt san xuất bản năm 1938. Mời các bạn đón đọc Người Thầy Thuốc của tác giả Thanh Châu.
Cuộc Sống Trêu Chó Chọc Mèo Của Nhị Nữu - Tử Ngưng Yêu
AudioBook Cuộc Sống Trêu Chó Chọc Mèo Của Nhị Nữu   Bản giới thiệu vắn tắt của Thiên Lôi Lôi thần: “Làm đại tỷ có sảng khoái lắm không?” Sói ta: “Sảng khoái” Lôi thần: “Trêu chọc trai đẹp có thích không?” Sói ta: “Thích ~” Lôi thần: “Trêu chọc con ta có thích không?” Sói ta: “Đương nhiên thích ~~” Lôi thần: “……… Ta đánh chết ngươi!!!!!!!!” Sói ta hấp hối: “Ngươi… Cho dù ngươi có đánh ta thành ngốc, lão nương cũng sẽ không buông tha con của ngươi!” Lôi thần cười gằn: “Ta đây sẽ thỏa nguyện cho ngươi!” Đoạn này giải thích nguyên nhân vì sao nhân vật nữ bất hạnh biến thành kẻ ngốc nên mới phải chịu áp bức. Sau khi chết đi sống lại, cô khôi phục trí nhớ, cảm thấy vô cùng xấu hổ và đau đớn. Đấm ngực dậm chân – – Làm một nữ nhân xuyên không – – lại bị biến thành như vậy – – cũng quá dọa người!!! Do đó cô bắt đầu hăng hái tiến lên phía trước, tuyệt địa phản công trả thù! *** Bản giới thiệu vắn tắt của Động vật: Lúc trước, ta là một con sói uy phong lẫm lẫm! Có một ngày, bất hạnh … mất trí nhớ! Sau đó, có người nói cho ta biết …. Ngươi chỉ là một con cún con # Vì thế, ta cũng rất happy trải qua cuộc sống của một con chó nhỏ = = Mãi cho đến một ngày kia! Ta đột nhiên nhớ lại tất cả mọi chuyện!!!!!!! Ta vô cùng phẫn nộ, nhiệt huyết cứ tuôn trào trong thân thể, chạy rần rần đến mức không thể ức chế nổi. Ta ngửa đầu rống giận: “Ta là sói!!! Sói!!! Sói!!!” Lại phát hiện…. Mẹ ơi ~~~~~ Chung quanh vì sao lại xuất hiện áp khí của dã thú mạnh mẽ cỡ đó a. Được rồi, ta là cún, ta là cún, ta là cún……. T=T Mời các bạn đón đọc Cuộc Sống Trêu Chó Chọc Mèo Của Nhị Nữu của tác giả Tử Ngưng Yêu.
Tuyển Tập Erich Maria Remarque
Erich Maria Remarque (22 tháng 6, 1898 – 25 tháng 9, 1970), tên khai sinh Erich Paul Remark, là nhà văn người Đức, được biết đến nhiều nhất với tác phẩm Phía Tây không có gì lạ. Ông sinh ra trong một gia đình thuộc giai cấp lao động ở thành phố Osnabrück, Đức. Cha của ông là Peter Franz Remark, còn mẹ là Anna Maria Một số tác phẩm của ông đã được dịch tại Việt Nam: Phía Tây Không Có Gì Lạ Bia Mộ Đen và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh Ba Người Bạn Khải Hoàn Môn Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết Trong ebook này gồm có: Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết Phía Tây Không Có Gì Lạ Mời các bạn đón đọc Tuyển Tập Erich Maria Remarque.