Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ký Ức Lạc Ngân Hà

Editor: Tiểu Lục Đây là một tác phẩm ngôn tình được viết theo một phong cách hoàn toàn mới lạ sự kết hợp giữa ngôn tình lại khoác lên lớp áo khoa học viễn tưởng, nếm thử một lần. Sự kết hợp giữa một cô gái mang gen thuần chủng cùng với một chàng trai mang gen dị chủng. Tại ngã rẽ của tiến hóa, ai mới là quân cờ? Ai mới là kẻ đánh cắp cuộc sống của người khác? "Em yêu anh, là anh sao?" "Là tốt, là xấu; là thiện, là ác; là thực, là giả; là toàn bộ cộng lại chính là anh! em đều yêu, đều muốn có!" "Tôi yêu em, bằng tim, bằng máu, bằng cơ thể, bằng sinh mạng! Bằng im lặng, bằng nước mắt! Bằng duy nhất, bằng tận cùng! Bằng linh hồn phiêu bạt, bằng cái chết vĩnh hằng!" *** Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? Tôi muốn đi đâu? Có người nói, ba câu hỏi mà triết học sự sống cuối cùng đã tự đặt ra này, từ công nguyên thiên niên kỷ của địa cầu cổ xưa đến tinh vân thiên niên kỷ của thời đại hành tinh, vẫn chưa có đáp án. Nếu chỉ dựa trên ý nghĩa chính xác của câu chữ, thì một người bình thường vẫn có thể thoải mái trả lời được ba câu hỏi này, nhưng, đối với một người mặc áo tù nhân, đứng trước vành móng ngựa của tòa án, một tội phạm quân sự như tôi đây, thì không có cách nào trả lời. Bảy ngày trước, trong một bụi cây héo úa thưa thớt lá, tôi tỉnh lại. Tôi mặc một cái váy dài bẩn thỉu, đứng trên cánh đồng hoang vu, ngơ ngác nhìn ra xa, trong đầu trống rỗng, không nghĩ được điều gì. Tôi không biết mình là ai, không biết mình từ đâu đến, càng không biết mình muốn đi đâu. "Này ——" "Có ai không ——" Tôi cố gắng kêu to hết lần này đến lần khác, nhưng ngoại trừ tiếng gió xào xạc thổi qua lùm cây, thì không còn bất kỳ âm thanh nào, giống như trên thế giới này chỉ còn lại một mình tôi. Tôi chọn bừa một phương hướng, ngơ ngác lo sợ đi về phía trước, hy vọng có thể thấy ai đó. Nhưng tôi đi đúng ba ngày ba đêm, vẫn không gặp được một người. Tôi vừa mệt vừa đói, sợ hãi nối tiếp tuyệt vọng, đột nhiên, tôi nhìn thấy ở cách đó không xa, trên sườn núi có một cây táo, thân cây khô héo, cành lá úa vàng, nhưng lại trổ ra nhưng quả táo căng tròn. Tôi lảo đảo đi tới, hái táo xuống, ăn ngấu nghiến. Ăn được nửa quả táo, trên đầu bỗng nhiên truyền đến tiếng nổ rền vang. Theo tiếng nổ nhìn lại, tôi thấy một chiếc phi thuyền đang lơ lửng giữa không trung, có vài tên lính áo giáp vũ trang đầy đủ đang chĩa súng về phía tôi. Trong miệng đang cắn nửa quả táo, trên tay đang cầm một quả táo khác, tôi liền giơ tay lên. Bởi vì tội trộm gene di truyền, tôi bị nhốt vào tù. Nghe nói, cây táo kia là giống táo có nguồn gốc từ địa cầu cổ xưa, gien cực kỳ quý hiếm. Đế quốc Ar (A Nhĩ) đã cố ý mô phỏng môi trường sinh thái giống với địa cầu cổ xưa, biến vệ tinh G9737 thành nơi nghiên cứu gene di truyền, là trọng địa nghiên cứu khoa học của quốc gia, dĩ nhiên canh phòng cực kỳ nghiêm ngặt. Xét thấy "Tang chứng vật chứng rành rành", tôi chỉ có thể nhận tội. Nếu chỉ mang tội trộm gene di truyền, thì hình phạt đại khái chỉ hơn một trăm năm, so với tuổi thọ trung bình của con người lúc bấy giờ là 300 năm, thì cũng chưa được tính là hình phạt quá nghiêm trọng. Nhưng, tôi lại là người không có thân phận. Công dân Đế Quốc Ar khi vừa sinh ra sẽ được tầm soát gene di truyền, sau khi tầm soát mỗi người sẽ được cấp một mã số, mã số này được ghi trên một thẻ chip, thẻ chip này có thể gắn với da thịt, cũng có thể được cài đặt vào thiết bị điện tử cá nhân (0.1) luôn mang theo bên mình. Học tập, làm việc, sinh hoạt, thậm chí di dân sang hành tinh khác, đều phải có thẻ chip chứng minh thân phận này, trên người của tôi lại chẳng có thứ gì có thể chứng minh thân phận. (0.1) Thiết bị điện tử cá nhân (nguyên văn terminal): thiết bị đầu cuối, chức năng như một máy tính có thể làm bất cứ việc gì từ kết nối, cung cấp thông tin, liên lạc v.v..., mình tạm dịch như vậy để dễ hiểu. Toà án ra quyết định buộc tôi đi tầm soát gene di truyền, để tìm cho ra thân phận của tôi. Cuối cùng, máy tính quốc gia cho ra kết quả là: Không tìm thấy người này. Một kẻ không tồn tại ở đất nước Ar, lại đột nhiên xuất hiện bên trong khu vực cấm địa quân sự, chính là trung tâm nghiên cứu khoa học quan trọng của quốc gia, giải thích hợp lý là gì? Thân phận của tôi từ một người không biết là công dân của nước nào liền biến thành một gián điệp nguy hiểm dùng thủ đoạn bí mật lẻn vào cấm địa nghiên cứu. Tội danh trộm gene di truyền liền biến thành tội danh gây nguy hại an toàn quốc gia. "... Căn cứ vào tội trạng, bổn tòa tuyên án, đối với tội đột nhập vào khu căn cứ bí mật quốc gia G9737 của người nữ vô danh này sẽ chấp hành theo hình phạt thứ 777, không kích động tâm lý sợ hãi, không khiến phát sinh bệnh lý, kết thúc sự sống đặc thù..." Tôi phản ứng trong chớp mắt, mới hiểu được kết quả của bản tuyên án, chính là "Tử hình êm ái". Dựa vào sự thật trước mắt, đây rõ ràng là vụ xét xử nhân đạo, đầy tính công bằng và hợp lý, nhưng một kẻ sắp bị đưa đi tử hình như tôi, lại cảm thấy vô cùng oan ức. —————— Quản ngục áp giải tôi đến một căn phòng, không phải là nhà tù tôi đã ngồi mấy ngày nay. Căn phòng có màu vàng nhạt, bốn phía đặt mấy chậu cây xanh, chính giữa là một cái bàn ăn nhỏ, trên bàn bày biện nhiều loại thức ăn nóng hổi, trông cực kỳ ấm áp. Một người đàn ông cao ráo mặc bộ y phục quân y màu trắng, lịch sự đưa tay, tỏ ý mời: "Xin chào, tôi là Bác sĩ Mục (Dr Mu), đây là bữa tối chuẩn bị cho cô, hy vọng cô thích." Tôi không nói tiếng nào, vội ngồi vào bàn, vùi đầu cố sức ăn. Nhạt nhẽo vô vị, tôi căn bản không biết được mùi vị của thức ăn. Nghĩ đến mười mấy tiếng nữa, mình phải chịu hình phạt "Tử hình êm ái", mà hiện tại ngay cả bản thân là ai cũng không biết, tôi không khỏi cảm thấy uất ức, hai hàng nước mắt không kiềm được tuôn rơi. Bác sĩ Mục đi đến, ngồi xuống phía đối diện với tôi. Trong lòng quá mức khó chịu, tôi nhịn không được nói hết ra: "Tôi thật tình là vì quá đói, chỉ muốn ăn hai quả táo, vốn không biết nó quý hiếm như vậy." "Cô biết đó là cây táo, mà không biết nó quý hiếm sao?" Bác sĩ Mục nhếch miệng mang ý cười giễu cợt. Tôi lau nước mắt, không biết phải trả lời thế nào. Suốt mấy ngày xét xử, tôi mới biết quả táo tôi đã ăn vốn không có bán trên thị trường, hiện tại chỉ có loại táo nhân tạo, mà cây của nó có hình dạng khác hoàn toàn với cây táo cổ. Theo ý nghĩa nào đó mà nói, loại táo tôi ăn trộm là một loại sinh vật cổ, nếu không phải là người nghiên cứu cổ sinh vật học thì căn bản không có khả năng nhận biết. Bác sĩ Mục nghiêng người về phía trước, ánh mắc sáng quắc nhìn tôi chằm chằm, "Cô là ai, làm sao có thể lẻn được vào khu căn cứ, mục đích là gì, tôi không quan tâm, tôi đến là muốn cùng cô làm một cuộc trao đổi." Tôi hoang mang hỏi: "Anh là ai?" Hắn mỉm cười, chậm rãi nói: "Bác sĩ Mục, phụ trách nhiệm vụ tử hình cô, bảo đảm toàn bộ quá trình không gây kích thích tâm lý sợ hãi, hay phát sinh bất kỳ bệnh lý nào cho cô." Tôi không khỏi rùng mình một cái, hỏi: "Trao đổi thế nào?" "Tôi giữ mạng cho cô, cô thay bạn gái tôi lấy vị hôn phu của cô ấy." Vị hôn phu của bạn gái hắn, không phải là hắn hay sao? Hắn muốn tôi lấy hắn? Tôi khiếp sợ nhìn Bác sĩ Mục, Bác sĩ Mục khó chịu khẽ nhíu mày. Tôi liền phản ứng kịp, vị hôn phu cũng chưa chắc là bạn trai! Đây không phải là tiết mục điển hình "Bạn gái đã kết hôn, nhưng tân lang không phải là tôi" (0.2) hay sao? (0.2) Một bài hát. "Được! Tôi đồng ý!" từ chỗ chết có được hy vọng, tôi rất sợ hắn đổi ý, nên đồng ý ngay. Bác sĩ Mục nói: "Cô không cần biết một chút gì đó rồi mới quyết định à?" Tôi khổ sở nói: "Tôi có lựa chọn sao? Một bên là đi chết, một bên chỉ là lập gia đình, mặc kệ kẻ tôi sắp lấy là cực kỳ xấu xí, hay vô cùng tàn bạo, ít ra tôi có thể giữ được mạng sống." Bác sĩ Mục phong độ đứng lên, đưa tay. Tôi lễ phép cầm tay hắn, bắt tay, "Hợp tác vui vẻ!" Vừa muốn rút tay lại, Bác sĩ Mục đã dùng lực nắm chặt tay tôi. "Nếu cô dám lừa tôi, tôi sẽ khiến cho cô chết không phải là êm ái nữa." Hắn ánh mắt sắc bén, ngữ khí đe dọa, gần như bóp gãy bàn tay tôi. Tôi cố chịu đau, nỗ lực tỏ thái độ chân thành nhất có thể nhìn hắn, "Cái gọi là hợp tác vui vẻ chính là anh tuân thủ luật chơi, tôi cũng sẽ tuân thủ luật chơi." Bác sĩ Mục sắc mặt hòa nhã trở lại, nhẹ nhàng cầm tay tôi, nói: "Hợp tác vui vẻ!" —————— Sau khi cả đêm đọc xong tài liệu của Bác sĩ Mục để lại, rốt cuộc tôi cũng hiểu rõ tình thế mình sắp phải đối mặt. Bạn gái của Bác sĩ Mục tên Lạc Lan (Lorrain), nàng là công chúa của hoàng thất Anh Tiên (Perseus) thuộc đế quốc Ar. Mấy tháng trước, trong cuộc chiến tranh giành nguồn năng lượng giữa các hành tinh, đế quốc Ar bị bại trận dưới tay liên bang Odin (Áo Đinh), nên đề nghị ngừng chiến. Liên bang Odin đồng ý ngừng chiến, đồng thời cũng đồng ý nhường một hành tinh giàu năng lượng cho đế quốc Ar, với điều kiện Ar phải gả công chúa cho một trong những công tước của liên bang Odin. Đế quốc Ar đã không còn khả năng tái chiến, chỉ có thể chấp nhận "đề nghị hợp lý" chính là "Liên bang và đế quốc hảo hữu trong thời gian tới." Liên bang Odin do bảy khu tự trị cùng với khu hành chính trung ương lập thành nước cộng hòa liên bang, tuy lịch sử kiến quốc chưa được bao lâu, nhưng cũng có uy danh hiển hách về sức mạnh quân đội, kết duyên với đế quốc Ar có bề dày lịch sử lâu đời, cũng coi như là môn đăng hộ đối. Thế nhưng, trong dải ngân hà này, liên bang Odin tồn tại rất đặc thù, toàn bộ ngân hà không ai dám tin tưởng cuộc kết duyên này thật sự là vì "Liên bang và đế quốc hữu hảo trong thời gian tới." Loài người trên địa cầu cổ xưa thời bấy giờ đã nghiên cứu được gene di truyền, sớm đã tạo ra được các loài thực vật mang gene tạp giao, có thể thu hoạch được sản lượng nhiều hơn, chất lượng tốt hơn. Dần dần, nghiên cứu gene thực vật bắt đầu chuyển sang động vật, thậm chí cả con người, nhưng do đụng phải vấn đề về pháp luật và đạo đức, nên việc nghiên cứu cực kỳ hạn chế. Theo thời gian, môi trường sống của địa cầu càng chuyển biến xấu, nguồn năng lượng cạn kiệt, loài người không thể không di cư đến các hành tinh khác. Trong thời khắc sinh tử tồn vong, nghiên cứu gene di truyền được tạo cơ hội mở rộng phạm vi, loài người có thể có được khí lực cường tráng hơn, sức khỏe dồi dào hơn, cơ hội sinh tồn nhiều hơn, gene của bản thân coi như đã được cải tạo triệt để. Ở thời đại địa cầu cổ xưa, phổ biến nhất là trang điểm làm đẹp; còn ở thời đại các hành tinh này, phổ biến nhất chính là cải tạo gene di truyền. Loài người lúc mới bắt đầu có chút nửa tin nửa ngờ nhưng càng về sau càng chấp nhận rộng rãi, các loại cơ cấu tu sửa gene cũng nhân cơ hội đó mà sinh sôi, khuyến khích mọi người chỉnh sửa gene từ lúc vừa sinh ra, có thể có được khuôn mặt đẹp, sức khỏe tốt, năng lượng dồi dào, thậm chí sống thọ hơn. Theo thời gian thoi đưa, các loại gene tu sửa giao tạp trộn lẫn, đời đầu sinh ra đời sau, đời sau sinh ra đời sau nữa, vấn đề tiềm tàng bên trong gene dần dần hiện rõ, loài người phát hiện gene được chỉnh sửa càng tăng cơ hội sinh tồn bao nhiêu, thì song song đó cũng sẽ càng mang lại sự hủy hoại bấy nhiêu —— tính ổn định của gene trở nên kém hơn, một người thân thể cường tráng, khỏe mạnh, không bệnh không đau đột nhiên bởi vì gene hỗn tạp mà sinh bệnh kỳ lạ; tỷ lệ giới tính giảm sút, sinh sản đời sau càng trở nên khó khăn. Loài người bắt đầu hoài niệm gene tự nhiên thuần khiết xưa kia, nên chính phủ các tinh quốc bắt đầu tiết chế nghiêm khắc, ban hành pháp lệnh, cấm giải phẫu chỉnh sửa gene di truyền. Bởi vì đã dung hợp những loại gene khác thường nên có những người có được những sức mạnh dị thường, bọn họ bị gọi là "Người mang gien dị chủng", và ngày càng bị kỳ thị nghiêm trọng. Nhất là những tộc người có hình dáng bên ngoài khác với người bình thường, bị khinh miệt là "Dị chủng", bọn họ căn bản không được loài người đối xử tốt, chỉ có thể được làm những công việc nguy hiểm nhất, hèn hạ nhất. Hơn 600 năm trước, một nhóm người không thể chịu được cái gọi là "Dị chủng", nên đã đứng lên phản kháng, bọn họ tuyên bố độc lập, thành lập chính phủ và quân đội của riêng mình, đó chính là khu hành chính trung ương liên bang Odin. Sau này, cuộc chiến phản kháng giữa các hành tinh trở thành xu thế, hơn 200 năm chiến tranh hỗn loạn, lại có thêm bảy đội quân dị chủng lớn nữa ra đời. Bởi vì đều là "dị chủng", lợi ích căn bản như nhau, nên khu hành chính liên bang đệ nhất đảm nhận chấp chính, cử ra một tuyệt thế kinh tài, gọi là Chấp Chính Quan, thủ lĩnh của bảy đội quân phản kháng tuyên thệ phục tùng chỉ huy thống nhất của Chấp Chính Quan, bảy khu tự trị cùng với khu hành chính trung ương tập hợp lại thành liên bang Odin, từ đó một đất nước "dị chủng" lớn mạnh ra đời. Trong hơn một trăm tinh quốc lớn nhỏ thuộc vũ trụ này, liên bang Odin thần bí, cường thế, không chỉ ảnh hưởng đến vận mệnh của toàn bộ các tinh quốc còn lại, mà còn ảnh hưởng tới thái độ đối đãi với các "Dị chủng", để bọn họ chí ít cũng duy trì được sự tôn trọng bên ngoài. Ngược lại, đế quốc Ar là một đất nước có bề dày lịch sử lâu đời, huyết mạch hoàng thất Anh Tiên bắt nguồn từ tộc người Đông phương trên địa cầu cổ xưa, trong giai đoạn thật dài khai thác các hành tinh, bởi vì bảo thủ và kiêu ngạo, nên bọn họ may mắn bảo tồn được gene di truyền thuần khiết. Bởi vì khan hiếm loại gene "thuần chủng tự nhiên, không ô nhiễm" này, nên toàn bộ các hành tinh đều hoan nghênh hôn phối với họ. Căn cứ vào phân tích của các chuyên gia thuộc đế quốc Ar, liên bang Odin "cầu hôn" với công chúa Ar, dĩ nhiên không phải là anh hùng muốn lấy mỹ nhân, mà hoàn toàn là vì gene của công chúa, bọn họ muốn thông qua nghiên cứu gene của công chúa để tu bổ lại gene của chính mình. Cho dù là gì, thì một phụ nữ người bình thường cũng không bao giờ muốn lấy "dị chủng", đừng nói chi đến chuyện phải làm vật thí nghiệm cho bọn quái nhân đó mổ xẻ, nhóm công chúa đế quốc Ar đã nghĩ hết mọi cách trốn tránh, có điều, công chúa Lạc Lan dịu dàng nết na kia chẳng may bị chọn trúng. Một công chúa bất hạnh nhưng lại quá may mắn chính là có được một người đàn ông tốt, nguyện vì nàng đánh đổi tất cả, bày mưu tính kế, giúp nàng thoát khỏi bất hạnh, mà tôi... cũng coi như có được chút phước đức của nàng! Dù gì đi nữa, thì làm một gốc cây táo được chăm sóc nghiên cứu, còn hơn là bị tử hình nhân đạo! —————— Sáng sớm, gác ngục đưa tôi đến phòng hành hình. Các bác sĩ mang khẩu trang bảo hộ, mặc y phục trắng, tất cả đã sẵn sàng, đang chờ đợi tôi. Tôi nhìn các loại dụng cụ hành hình bằng kim loại lạnh lẽo lóe sáng, trong lòng tràn ngập lo lắng sợ hãi. Dưới nhiều cặp mắt nhìn chăm chú như vậy, Bác sĩ Mục có cách cứu tôi sao? Gác ngục ra ý bảo tôi nằm lên giường hành hình. Cái chết ở ngay trước mắt, nhưng tôi còn nhiều thứ chưa hiểu rõ, cũng không thể cam lòng... Tôi cầu khẩn nhìn về phía Bác sĩ Mục, nằm xuống đây rồi, rốt cuộc là kết thúc, hay được tái sinh? Khẩu trang bảo hộ lạnh như băng che giấu khuôn mặt của hắn, cũng che đi nét mặt của hắn, thời khắc này, hắn giống như tử thần trong truyền thuyết gặt lấy sinh mạng của con người không chút lưu tình. "Nhờ cô phối hợp giúp, như vậy mọi người mới có thể hợp tác vui vẻ." Bác sĩ Mục nói còn cố tình nhấn mạnh bốn chữ "Hợp tác vui vẻ". Tôi từ từ trấn tĩnh lại, nằm thẳng người trên giường, nhìn chằm chằm lên nóc nhà có màu xanh da trời. Nghe nói, người sắp chết sẽ nhớ đến những chuyện của bản thân lúc còn sống, đối với tôi, trí nhớ của cả đời tôi chỉ vỏn vẹn có bảy ngày, trong lúc đang chờ đợi cái chết, trong đầu tôi vẫn vang lên tiếng chất vấn của quan tòa. "Cô là ai?" "Làm sao cô có thể lẻn vào được căn cứ G9737?" "Cô có đồng phạm không?" "..." Sau khi sau gáy có cảm giác đau giống như bị muỗi đốt, tôi hoàn toàn mất đi ý thức. ————·————·———— Mở mắt bừng tỉnh một lần nữa, tôi đã là công chúa Lạc Lan, đang ở trên phi thuyền đi đến liên bang Odin, Bác sĩ Mục là bác sĩ quân y theo hộ tống. Nghe nói, bởi vì công chúa Lạc Lan quá sợ hãi phải xuất giá, nàng đã dùng cách ấu trĩ nhất chính là tự hủy dung nhan của mình để phản kháng, hoàng đế Ar liền sai người đánh nàng ngất xỉu, sau đó trực tiếp đưa nàng lên phi thuyền. Dù sao đường đi vẫn còn xa, trước khi đến liên bang Odin, các bác sĩ sẽ chữa trị gương mặt cho nàng. Hiện tại, giải phẫu thẫm mỹ có thể làm cho tôi biến thành công chúa Lạc Lan một cách dễ dàng, nhưng Bác sĩ Mục không thích tôi và người yêu của hắn có cùng gương mặt, nên để tôi giữ lại gương mặt của mình. Bên ngoài thì tuyên bố Lạc Lan bởi vì quá đau khổ nên đã quyết tâm thay đổi khuôn mặt, phẫu thuật thẩm mỹ thành gương mặt giống như của tôi hiện giờ. Có thể thoải mái dùng gương mặt của mình giả mạo công chúa, tôi rất vui mừng. Dù sao, tôi cũng đã mất đi trí nhớ, mất luôn thân phận, bề ngoài này chính là cái duy nhất liên hệ với tôi của trước kia. "Công chúa Lạc Lan bây giờ ở đâu?" Tôi tò mò hỏi. Bác sĩ Mục nhìn tôi chằm chằm tỏ ý cảnh cáo, "Cô chính là công chúa Lạc Lan, còn chuyện... cô ấy là ai, không phải là vấn đề cô quan tâm." Tôi là công chúa Lạc Lan, tôi là công chúa Lạc Lan... Tôi im lặng tự thôi miên chính mình. Đột nhiên, tôi nghĩ đến một chuyện. Công chúa Lạc Lan có bộ gene tự nhiên thuần khiết hiếm gặp, tôi lại là người không rõ lai lịch, chỉ cần làm một cuộc kiểm tra gene đơn giản sẽ phát hiện ra ngay. Mọi người đều biết liên bang Odin bởi vì bộ gene của công chúa mới đi cầu hôn nàng, cho dù tôi có nghĩ ra tất cả biện pháp kéo dài thời gian, cũng không thể kéo dài được lâu. Tôi cẩn thận hỏi: "Liên bang Odin chính là muốn nghiên cứu bộ gene của công chúa, nếu bọn họ phát hiện tôi là kẻ giả mạo, sẽ xử lý tôi thế nào?" "Gene của cô là thuần chủng, hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của bọn họ." Bác sĩ Mục ánh mắt kỳ quái, dường như cũng thật buồn bực, "Chỉ cần cô không làm gì sai, sẽ không ai nghi ngờ, nếu bọn họ cố ý kiểm tra xem cô và hoàng thất có quan hệ huyết thống hay không, thì cô vĩnh viễn vẫn là công chúa Lạc Lan." Tôi khiếp sợ nhìn hắn, hoàn toàn không ngờ bộ gene của mình cũng là gene thuần chủng, vô cùng hiếm gặp. "Nhìn qua cô thật sự hoàn toàn chẳng có chút hiểu biết gì về mình." Bác sĩ Mục cười tự giễu, "Nếu không phải gene của cô đặc biệt, tôi làm sao mạo hiểm cứu cô?" Đúng vậy! Nếu không phải gene của tôi đặc biệt, Bác sĩ Mục căn bản không nhất định phải chọn tôi, với thủ đoạn của hắn. Muốn tìm một cô gái giả mạo công chúa dễ như trở bàn tay. Bác sĩ Mục nói: "Tôi đã giữ được mạng sống cho cô." Tôi trịnh trọng bước về phía hắn hành lễ, "Cám ơn anh, ân nhân cứu mạng, tôi sẽ thực hiện đúng lời hứa của mình." ————— Tôi mang tâm trạng không tốt, trốn suốt ở trong phòng, mỗi ngày chỉ đồng ý gặp bác sĩ Mục. Nhờ sự giúp đỡ của hắn, tôi bắt đầu học trở thành một công chúa. May mắn sao Lạc Lan là một công chúa có địa vị thấp. Lúc nàng bảy tuổi, cha nàng đã qua đời, mẹ nàng cũng mất do bệnh truyền nhiễm khi nàng mới trưởng thành, hoàng đế đương thời vốn là hoàng thúc của nàng nhưng đối với nàng không chút quan tâm, nàng cũng rất ít khi xuất đầu lộ diện, chỉ thích cuộc sống lặng lẽ làm bạn với sách, ngoại trừ những tỳ nữ thân cận hầu hạ nàng, thì người ngoài ấn tượng đối với nàng cũng mơ mơ hồ hồ. Bởi vì hành động kháng hôn quá ngây thơ của Lạc Lan, hoàng đế thúc thúc sợ nàng lại làm loạn gây xấu mặt, nên không cho các tỳ nữ thân cận cùng nàng lên phi thuyền, những người hộ tống hiện thời hoàn toàn là người xa lạ, căn bản không thật sự quan tâm tới nàng. Bác sĩ Mục nói: "Chỉ cần biểu hiện của cô không thái quá, sẽ không bị phát hiện. Cho dù có người để ý đến lời nói và hành động của cô không giống với trước kia, thì cũng có thể lấy cớ vì quá kích động, dẫn đến tính tình thay đổi, tạm thời che giấu." Tôi khiêm tốn lắng nghe, tỏ vẻ hiểu được. Một tháng sau, quá trình học của tôi được bác sĩ Mục chấp nhận, xem như thành công trở thành công chúa. Bác sĩ Mục không còn đốc thúc tôi học tập nữa, thời gian rảnh rỗi của tôi đột nhiên tăng lên. Tôi cảm thấy nên nhân cơ hội này suy nghĩ nghiêm túc việc làm thế nào để đối phó với vận mệnh tương lai, nhưng trí nhớ thì trống rỗng, cái gì cũng không nghĩ ra được. Trước mắt tôi hiện lên một màn hình ảo chứa các tư liệu của liên bang Odin, tôi vô thức vẽ lên vô số dấu "?" Mỗi người đều dựa vào trí nhớ và kinh nghiệm, mới có thể đưa ra được hướng đi cho tương lai —— Tìm kiếm những gì mình thích, trốn tránh những thứ mình ghét; đến gần ấm áp, xa rời tổn thương. Nhưng tôi là một người không có trí nhớ, cũng chẳng có tình cảm. Tôi không biết mình thích gì, cũng chẳng biết mình ghét gì; không biết mình yêu ai, cũng chẳng biết ai yêu mình. Một kẻ không có quá khứ, vậy làm sao lựa chọn con đường tương lai? Đang miên man suy nghĩ, đột nhiên có tiếng còi báo động vang lên, thuyền trưởng lập tức thông báo với mọi người: "Chúng ta bị hải tặc (0.3) tấn công, chuẩn bị chiến đấu! Các nhân viên không phụ trách chiến đấu lưu ý giữ bình tĩnh, ngồi đúng vị trí của mình bên trong khoan thuyền, đeo dây an toàn cẩn thận, đừng nên đi lại." (0.3) Nguyên Tinh tặc: là nhóm cướp chuyên cướp các phi thuyền đi lại trong vũ trụ, tương tự như hải tặc Hải tặc? Gặp chuyện không may sao? Tôi vừa suy nghĩ, vừa rất nhanh ngồi vào ghế, thắt đai an toàn thật cẩn thận. Phi thuyền vẫn đi tới vững vàng, không có một chút xóc nảy, xem ra chỉ là cuộc chiến đấu nhỏ. Một giờ sau, cửa khoang thuyền mở ra, tướng quân có quân hàm cao nhất trên phi thuyền Joseph (Ước Sắt) tướng quân đi đến, "Công chúa!" Tôi cởi bỏ đai an toàn, đứng lên, lễ phép chào hỏi: "Tướng quân." Tướng Joseph vẻ mặt nghiêm trang nói: "Hải tặc đã chạy thoát, nhưng bác sĩ Mục của đội chữa thương trong lúc đang cứu người, không may gặp nạn." "Những người khác thế nào?" "Những người khác đều an toàn." Sau khi Joseph tướng quân cúi chào hành lễ xong, liền vội vàng rời khỏi. Tôi đứng im lặng một lúc lâu. Bác sĩ Mục đã dẫn theo công chúa Lạc Lan rời khỏi đây, hắn biết rõ cho dù là ở đế quốc Ar hay là ở liên bang Odin, thì cũng có rất nhiều ánh mắt dòm ngó, địa điểm biến mất tốt nhất chính là con đường trung gian giữa hai bên, nơi cả hai đều có thế lực yếu. Từ nay về sau, vũ trụ lại có thêm một cặp đôi yêu đương ngọt ngào, mà tôi... Là Lạc Lan công chúa. Ánh mắt của tôi hướng ra ngoài cửa sổ. Trong biển vũ trụ này, có hàng nhìn hàng vạn ngôi sao đang lấp lánh. Tôi không biết tinh cầu nào mình đã đi qua, cũng không biết tinh cầu nào mình sẽ đi tới. Nhưng, một ngày kia, tôi hy vọng mình có thể giống như công chúa và bác sĩ Mục, cho dù là biển vũ trụ bao la, cho dù là hàng nghìn hàng vạn sao trời, vẫn có thể biết được rõ hướng đi của mình. Mời các bạn đón đọc Ký Ức Lạc Ngân Hà của tác giả Đồng Hoa.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Dì Ghẻ
Dì ghẻ" là một danh từ cực kì có tính đánh sâu vào mỗi khi nhắc đến. Ai ai cũng sẽ xuất hiện cảm giác chán ghét khi nhắc đến từ này. "Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng". Mọi người ngầm hiểu điều đó, mặc dù không thích nhưng thật sự chẳng mấy ai có thể nói nên lời chê trách. Cái khó, cái khổ của người làm dì ghẻ cũng không phải ai cũng hiểu...  Cuộc sống gia đình của hai đứa trẻ phải ở với mẹ kế sẽ được câu chuyện khắc hoạ lại, đồng thời còn mang đến những trải nghiệm cuộc sống chân thật nhất, những tâm tính, phản ứng, đậm chất tâm lý xã hội, cho nên không tránh khỏi những tình tiết có hơi hướng bạo lực và kích thích. Hi vọng Dì Ghẻ sẽ mang lại cho bạn đọc một cảm nhận chân thực nhất về xã hội. *** Ba ngày hôm sau, Nam lúc này đã tỉnh lại. Ký ức kinh hoàng ngày hôm đó vẫn in sâu vào trong đầu của nó. Lúc mở mắt ra nó đã giật mình hoảng sợ bởi không biết mình đang ở đâu. Khi ấy chú Đại phải lập tức trấn an Nam, đến nay sau mấy ngày Nam phần nào cũng đã ổn định trở lại. Mấy ngày qua nó im lặng không nói gì, cho ăn là ăn, ăn xong lại quay mặt vào tường không muốn nói chuyện với ai cả. Đột nhiên hôm nay nó nhìn chú Đại hỏi một câu khiến chú Đại bất ngờ: - - Bố cháu đâu rồi ạ…? Câu hỏi khiến chú Đại lúng túng, nhưng có vẻ như Nam nó khác với những đứa trẻ khác. Trong khi chú Đại chưa biết trả lời ra sao nó đã nói tiếp: - - Có phải bố cháu chết rồi không..? Một lời nói lạnh lùng phát ra từ miệng một đứa trẻ 16 tuổi với anh mắt nhìn thẳng vào mặt người đối diện khiến chú Đại rùng mình. Chú Đại chỉ biết gật đầu: - - Đúng vậy….Chú...chú...xin…. Nam lặng người một hồi rồi nó ngẩng mặt lên hỏi tiếp, lúc này mắt nó đã rưng rưng nhưng không có giọt lệ nào chảy ra cả: - - Vậy….vậy còn em gái cháu…? Chú Đại nhìn Nam nói: - - Bé Hạnh vẫn an toàn, hiện nó đang ở với cô Thúy, biết cháu sẽ lo cho em nên chú có nhắn cô Thúy chiều nay sẽ đưa Hạnh đến. Còn chuyện bố cháu, thật sự chú xin lỗi….Nhưng cháu đừng lo, chú sẽ thay bố nuôi…. Nam nhìn chú Đại ngắt lời: - - Cháu biết, cháu biết bố cháu vì sao mà chết…..Cháu cũng nhìn thấy bố cháu lúc đó...Chú không có lỗi…. Có vẻ như lúc này đã quá sức chịu đựng đối với một thằng nhóc, hoặc có thể sau khi biết em gái vẫn an toàn thì nó mới được giải tỏa. Chú Đại nhìn nó chảy nước mắt, chú Đại nói: - - Không phải kìm nén nữa, chú hiểu cảm giác của cháu bây giờ như thế nào….Bởi những ngày qua chú cũng thế….Cứ khóc đi, khóc to vào…. Lập tức Nam ngồi trên giường òa khóc, nó khóc nức nở, nó khóc to như chưa bao giờ nó phải chịu một nỗi đau lớn như vậy. Đây là lần thứ hai nó trải qua cảm giác này từ ngày ông ngoại mất. Không, nỗi đau này có gì đó khác hẳn, nỗi đau này còn đau hơn nỗi đau nó mất đi ông ngoại nhiều lần…...Bởi vì nó biết bố nó vì cứu nó mà chết. Chú Đại ôm nó vào lòng rồi cũng ứa nước mắt, chú Đại cố gắng an ủi: - - Không sao, không sao…..Bố cháu nói đây là điều bố cháu có thể làm được duy nhất cho cháu. Bố cháu cảm thấy hạnh phúc khi cháu còn sống….Cháu phải trân trọng điều này. Sau này tất cả sẽ ổn thôi….Còn chú ở đây hai đứa sẽ không phải lo gì cả. Chú sẽ thay bố mẹ chăm sóc cho hai đứa. Nước mắt giàn dụa, nỗi đau mất đi người thân nó thực sự khiến con người ta trở nên yếu đuối. Nhưng khi con người rơi vào hoàn cảnh ấy thì lại càng phải mạnh mẽ. Đầu giờ chiều, Nam đột nhiên thao hết băng trên người ra. Chú Đại thấy thế định ngăn lại thì nó nói: - - Mấy chỗ này có bị sao nữa đâu, chỉ có….. Nhìn xuống ngón tay út nó thoáng buồn, nhưng rối nó nói tiếp: - - Chẳng phái chú bảo lát nữa cô giáo sẽ đưa em cháu vào đây sao...Cháu không thể để nó lo lắng khi nhìn cháu toàn thân băng bó thế này được. Nhìn chú Đại nó hỏi: - - Vậy bà ngoại có biết chuyện của cháu, với bố cháu không ạ..? Chú Đại lắc đầu: - - Không ai biết cả, có chăng chỉ có bác Dung….Nhưng chú cũng nói với bác Dung rồi….Chú sợ bà ngoại sẽ lo lắng, bà vẫn nghĩ hai anh em cháu lên bệnh viện thăm bố. Nam vội đáp: - - Đúng rồi chú đừng nói cho bà cháu biết, bà mà biết là chết đấy. Chú cứ bảo mọi người cháu bị tai nạn là được. Nam khiến chú Đại đi hết từ bất ngờ này sang bất ngờ khác, một thằng nhóc vừa phải trải qua nhiều chuyện kinh hoàng như thế vậy tại sao nó lại có thể bản lĩnh đến vậy. Dường như nó chỉ biết lo cho người khác, đột nhiên chú Đại lại thấy hình ảnh ông Tuấn ở trong Nam ngay lúc này. Nó giống hệt bố nó, cũng chỉ biết lo lắng cho anh em mà quên đi bản thân mình phải hứng chịu những gì. Chú Đại bỗng mỉm cười: - - Được, vậy coi như đây là bí mật của chú cháu mình. Nam gật đầu đồng ý, chiều hôm ấy cô Thúy dẫn bé Hạnh vào bệnh viện thăm Nam, không chỉ có cô Thúy và Hạnh, cả cô bạn gái thân nhất của Nam là Trang cũng đến. Nam mặt vẫn còn hơi bầm, cơ thể vẫn hơi đau nhưng nó cố tỏ ra bình thường khi bé Hạnh vừa mở cửa phòng ra đã lao vào anh như hai anh em lâu ngày không găp: - - Anh Nam …..anh Nam ơi…...Sao anh không đến đón em…? Cú ôm từ con bé khá mạnh khiến Nam cảm thấy đau nhói nhưng nó cười tươi rồi gõ nhẹ vào đầu em nói: - - Không thấy anh bị ốm đây à…? Đồ ngốc này…. Cô Thúy nhìn chú Đại hỏi: - - Mấy hôm nay Nam không đi học, suýt chút nữa là tôi phải ra nhà thông báo rồi ấy. May cho anh là gọi điện kịp thời…. Chú Đại khẽ cười: - - Cảm ơn cô, tôi không muốn bà ngoại của hai đứa lo lắng….Hiện giờ bà nghĩ cả hai đứa vẫn đang đi với tôi. Làm phiền cô giáo rồi….Cảm ơn cô mấy ngày vừa qua, con bé không làm phiền cô chứ…? Cô Thúy nói: - - Nó dễ thương lắm, lại ngoan nữa….Nhưng hay hỏi anh, tôi cứ phải nịnh là anh Nam đi học thêm sắp về nó mới chịu. Có con bé ở cùng mấy ngày qua tôi lại thấy thoải mái. Mà anh bảo Nam vào viện vì lý do gì vậy..? Chú Đại ấp úng vì không biết nói dối thế nào trước phụ nữ, Nam tinh ý bèn nói: - - Dạ thưa cô, mấy hôm trước em bị tai nạn…..Cô nhìn xem, giờ em bị mất một ngón tay út rồi...Hì hì. Vừa nói Nam vừa giơ tay lên khoe để cứu chú Đại, cô Thúy với Trang tròn mắt ra nhìn. Trang xót xa vội cầm tay Nam hỏi: - - Có đau không..? Mà sao lại mất cả một ngón tay….. Vừa nói cô bé vừa trực khóc, bé Hạnh cũng cầm tay anh nhìn nhìn, nó thổi thổi như cách bà ngoại hay làm mỗi khi nó bị thương ở đâu đó. Nam mỉm cười: - - Giờ hết đau rồi, tai nạn mà…..Cũng may mà có chú Đại đưa đi kịp thời. Tuy còn vài chuyện chưa rõ, còn những nghi ngờ muốn hỏi nhưng cô Thúy thấy hai chú cháu dường như cũng không muốn nói thêm nên cô Thúy chỉ trách: - - Bị như thế này mà vẫn còn cười được thì cô chịu em rồi. Nam nhìn chú Đại nói: - - Cháu có thể ra viện được rồi chú ạ….Ở đây chán lắm, để cháu đưa em về bà ngoại. Chú Đại hơi lưỡng lự, tuy nhiên về cơ bản Nam cũng không bị thương nặng. Hơn nữa cũng đã 4 ngày trôi qua, nếu không đưa hai anh em về bà ngoại sẽ lo lắng. Bằng chứng là ngày hôm qua bác Dung đã gọi điện cho chú Đại hỏi han rồi. Chú Đại cũng muốn nhanh chóng làm đám tang cho ông Tuấn, khi mà mọi chuyện vừa trôi qua còn quá nhiều việc phải lo thì xác ông Tuấn lúc này đang được bảo quản trong kho lạnh của một lưu giữ tử thi. Mấy hôm nay nghe ngóng thông tin thì dường như phía công an cũng chưa hoặc không phát hiện được gì cả. Suy cho cùng tất cả những kẻ có liên quan đều đã chết banh xác sau vụ nổ. Chú Đại cũng cần phải tổ chức tang lễ cho anh của mình. Vậy là chú Đại đồng ý, Nam được xuất viện, hai anh em được chú Đại chở về nhà bà ngoại, trên xe Nam khẽ hỏi: - - Liệu sau này….? Chú Đại đáp: - - Đừng lo, mọi chuyện xong hết rồi…..Cái chính là mọi người sẽ chấp nhận chuyện này thế nào thôi. Nam im lặng. nó nhìn bé Hạnh, con bé vẫn chưa biết rằng bố nó đã chết. Đột nhiên Nam nhớ tới mụ Hường: - - Vậy còn, bà Dì Ghẻ thì sao ạ…? Chú Đại im lặng một lát rồi đáp: - - Bà ấy trốn rồi, sẽ không bao giờ quay lại nữa đâu. Chú Đại và Nam không còn cách nào khác ngoài chuyện nói dối bà ngoại, bà ngoại chỉ biết Nam bị tai nạn nhẹ, nhưng đau xót nhất vẫn là ngón tay út của Nam. Ba ngày tiếp theo chú Đại đến thông báo cho bà ngoại việc ông Tuấn mất, lý do đó là vết thương lần trước tái phát, rách ra không qua khỏi. Bà ngoại nhìn hai đứa cháu buồn bã bởi từ nay thì cả hai đứa đã thật sự trở thành trẻ mồ côi. Đám tang ông Tuấn được tổ chức long trọng, ngày hôm đó tất cả những anh em của ông Tuấn đều mặc đồ đen xếp hàng ngay ngắn để tưởng nhớ người đàn anh đáng kính lần cuối cùng. Nam cả ngày hôm đó không khóc, bởi nó đã khóc quá nhiều trước đó rồi. Từ những bà cô bên đằng nội đến những người bạn của mụ Hường trước đây không có cảm tình với anh em nó đều nói nó là thằng nhóc máu lạnh. Bé Hạnh lại một lần nữa kéo tay anh hỏi: - - Bố đi đâu rồi hả anh..? Nam nắm tay em mỉm cười rồi khẽ đáp: - - Bố hôm nay đi gặp ông ngoại rồi em ạ…. Bé Hạnh hỏi tiếp: - - Vậy bao giờ bố về…? Câu hỏi của Hạnh khiến mắt Nam ướt đẫm, nhưng nó hít một hơi dài thật sâu rồi trả lời em gái: - - Khi nào em lớn bố sẽ về…… Cô Thúy cũng có mặt trong đám tang, nhìn những người đến dự, nhìn anh em xã hội của ông Tuấn đến viếng, nhìn chú Đại, cô chợt nhớ đến cái hôm chú Đại chở Hạnh đến nhà cô gửi, rồi nhớ đến hôm Nam ở trong bệnh viện….Cả vụ nổ gây xôn xao dư luận những ngày qua. Cô Thúy biết mọi chuyện không như lời chú Đại nói….Vẫn như vậy, cuộc sống của chú Đại vẫn là một ẩn số lớn đối với cô giáo. Cũng từ sau hôm đó, chú Đại không liên lạc gì với cô nữa. Ngay lúc này đây tuy đứng cách nhau chỉ tầm vài mét nhưng khoảng cách giữa hai người chưa bao giờ lại xa đến thế. Cái thế giới mà cả hai đang sống dường như khác nhau một cách đối nghịch, sau khi làm lễ thắp nhang cho bố Nam, cô Thúy quay mặt đi ngang qua chú Đại lúc này đang đứng cạnh linh cữu đáp lễ mọi người. Mặt đối mặt nhưng dường như ánh mắt của họ không hề chạm nhau. Có lẽ cả hai đều hiểu: Cuộc sống của người này sẽ tốt hơn khi không có người kia. Sau tất cả mọi chuyện, cái mà hai người giữ lại cho nhau chỉ là hai bức thư không có lời đáp. Mỗi người mang một cung bậc cảm xúc khác nhau, đứng bên này Nam cũng nhận ra điều không bình thường giữa hai người lớn. Nó nói với chú Đại: - - Chú có biết khi cháu kể chú thích cô giáo bố cháu vui thế nào không..? Chú Đại quay sang nhìn Nam rồi gật đầu đáp: - - Thằng quỷ….Sao mày dám kể … Nam hướng mắt nhìn theo cô Thúy, chú Đại khẽ nói: - - Long, đứng đây thay anh...Anh phải đi có chút việc. Anh không để anh Tuấn phải thất vọng được. Long gật đầu, đúng là một tình huống trớ trêu chỉ có thể xảy ra bởi những con người không bình thường. Nhưng đâu có sao, bởi nếu bỏ qua cơ hội thì đó mới là điều đáng tiếc. Mọi người đều nói sai thì sửa nhưng trong cuộc sống có những sai lầm khi bạn nhận ra và muốn sửa sai thì đã không còn cơ hội. Có những thứ thiêng liêng xung quanh mà bạn chưa từng trân trọng để rồi khi mất đi bạn mới khóc thì đã quá muộn, Nước mắt hay lời xin lỗi không thể giúp bạn lấy lại bất cứ một thứ gì cả, nó chỉ khiến bạn cảm thấy đau đớn hơn mà thôi. Thay vì khóc lóc, đau buồn hãy sống làm sao cho bản thân cảm thấy sự tồn tại của mình có ý nghĩa. Vài tháng sau, theo như kế hoạch từ trước, chú Đại xin phép đón bé Hạnh lên Hà Nội để chăm sóc. Chú muốn đón cả ba bà cháu đi nhưng Nam và bà ngoại muốn ở lại để còn hương khói cho ông ngoại. Bản thân Nam cũng bị bà ngoại “ đuổi “ vì lo cho tương lai của cháu nhưng nó nhất quyết không chịu. Nó nói để bé Hạnh ở với chú Đại còn nó sẽ ở đây chăm sóc bà ngoại. Chú Đại dặn nó phải canh chừng cô Thúy giúp chú. Lần này nó không buồn khi phải xa em gái nữa, bởi sau tất cả nó biết chú Đại sẽ chăm sóc bé Hạnh rất tốt. Con bé sẽ được vui vẻ, chỉ một thời gian ngắn mà Nam đã thay đổi rất nhiều, sau đám tang của bố, Nam chững chạc hơn, ra dáng đàn ông mặc dù năm nay nó chỉ bước qua tuổi 17. Một ngày được nghỉ, Nam chở Trang ra thăm mộ của bố. Khi nó đến đã thấy một người đàn ông ăn mặc lôi thôi, đội cái mũ rộng vành đứng trước mộ bố nó, trên tay cầm một bó hoa trắng đặt xuống dưới mộ. Nam tiến lại gần thì lập tức người đó quay lại. Nam lễ phép: - - Cháu chào chú….Chú là bạn của bố cháu phải không ạ…? Người này không trả lời, khẽ lấy tay kéo cái mũ xuống hắn đi qua Nam. Nam có cảm giác dường như đã thấy người này ở đâu rồi, khuôn mặt đen xì, dáng người, dáng đi hình như Nam đã nhìn thấy ở đâu. Nhưng có một điều khiến nãy giờ Nam thấy lạnh cứng người đó là vừa rồi chỉ nhìn qua ánh mắt sắc lẹm, lạnh lùng của người đó Nam thấy như bị áp đảo. Nơi ngón tay út bị cắn bỗng nhiên có cảm giác nhói mặc dù vết thương đã lành từ lâu. Trang thấy bạn đứng yên bèn đi lại lay người hỏi: - - Cậu làm sao đấy..? Người kia là người quen à..? Nam ấp úng: - - Ơ...ơ….không sao….Tớ cũng không rõ, chắc là bạn của bố. Hai bạn trẻ đặt hoa, nhổ cỏ xung quanh mộ. Đứng ở một góc khuất kẻ đội mũ rộng vành kia vẫn đang quan sát hai đứa, hắn sụp hẳn cái mũ xuống rồi quay đi, miệng khẽ nói: - - Đại ca, thằng bé quả thật rất giống anh…...Vậy là em lại phải sống thêm một khoảng thời gian nữa rồi. - ------Kết Thúc------- Cảm ơn các bạn đã theo dõi bộ truyện dài nhất của mình cho tới thời điểm hiện tại. Có thể kết không hay, không được như mong muốn của mọi người nhưng một lần nữa cảm ơn tất cả đã ủng hộ mình cho đến lúc này. Hẹn gặp lại các bạn trong những bộ truyện khác. Thanks All My Friends Mời các bạn đón đọc Dì Ghẻ của tác giả Trường Lê.
T Mất Tích
Không hài lòng với những Chinatown - Phố Tàu và Paris 11 tháng 8,  hai tiểu thuyết nổi bật của văn học Việt Nam năm 2005, chỉ một tháng sau, Thuận trở lại với những thay đổi đáng kể trong giọng văn và đề tài. T mất tích đẩy xa hơn, một bước rất dài, ngưỡng cửa của bất an và hoang vắn của con người hiện đại, trong các xã hội hiện đại. Con  người trong T mất tích không còn mang thân phận của kẻ tha hương bơ vơ trong một bối cảnh xa lạ, mà lâm vào một tình thế khác, không kém phần tuyệt vọng: bị kết án biến mất, nhân vật của Thuận thậm chí không còn chỗ đứng dưới chân, quá khứ nhạt nhoà và tương lai đơn giản là không tồn tại. Với cuốn tiểu thuyết mới, Thuận tiếp tục khẳng định sức viết dồi dào và khả năng chạm đến những ngõ ngách đặc biệt của cuộc sống hiện đại chúng ta. "...T là ai? Chắc hẳn trước hết là cái tôi. Cái tôi sau khi tràn ngập từng trang, trong những đoạn văn dài hàng trang không ngắt dòng ở ba tiểu thuyết trước, đã phải gánh chịu hậu quả của chính sự tràn đầy đó: nó không trụ nổi lại trên trang giấy. Nó phải chấp nhận số phận mờ ảo hiện diện sau những nhân vật khác. T, điều này quan trọng hơn rất nhiều, còn là Thuận, là nhà văn. Nhà văn Thuận đang tiến hành một thao tác, một thao tác quan trọng với một dải văn chương cá nhân...". *** T mất tích của nhà văn Thuận là một trong những tác phẩm đáng chú ý của văn học Việt Nam đương đại. Khi hai từ “mất tích” xuất hiện trong nhan đề một cuốn tiểu thuyết dễ khiến ta nghĩ rằng đó là một cuốn trinh thám. Chẳng hạn, nếu bắt gặp một cuốn tiểu thuyết có tên là Sherlock Holmes mất tích, thì bạn còn mong đợi gì hơn ngoài việc người ta truy tìm vị thám tử lừng danh như thế nào, tại sao anh ấy lại mất tích, và một câu hỏi hết sức kinh điển: thủ phạm là ai? Thế nhưng, không phải bất kỳ sự mất tích nào cũng dẫn đến một câu chuyện trinh thám. Nhà văn đương đại nổi tiếng Nhật Bản Haruki Murakami bắt đầu cuốn Biên niên ký chim vặn dây cót bằng sự mất tích của một con mèo, rồi từ cuộc tìm kiếm mang tính chất trinh thám ban đầu, dần dần đưa người đọc bước vào cuộc phiêu lưu mang tính chất siêu thực trong thế giới tiểu thuyết của mình. Tương tự, Hãy chăm sóc mẹ Shin Kyung-Sook (vừa đoạt giải Man Asian 2011) mở ra với sự mất tích của một người mẹ, nhưng hơn ba trăm trang sách không để trả lời câu hỏi mẹ đang ở đâu, mà thông qua cuộc tìm kiếm và góp nhặt ký ức của những đứa con về mẹ, cho ta biết bà là ai. Tiểu thuyết luôn cần có một ngòi nổ để bắt đầu, và các nhân vật mất tích là một trong những ngòi nổ như vậy. Nhân vật mất tích có thể hoàn toàn mờ nhạt (như con mèo), hoặc không trực tiếp xuất hiện nhưng lại được tô đậm rõ nét thông qua những nhân vật khác (như người mẹ). Cuốn tiểu thuyết đó cũng có thể là trinh thám (Sherlock Holmes mất tích), hoặc siêu thực (Biên niên ký chim vặn dây cót), hoặc không siêu thực mà cũng chẳng trinh thám (Hãy chăm sóc mẹ). Nhưng nếu không có một nhân vật nào đấy tình nguyện mất tích, thì thế giới sẽ vẫn trôi lăn theo cái vòng tuần hoàn của nó, còn người đọc thì chẳng thể có được những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời như trên. Ở đây, T mất tích lại là một nhan đề nửa rõ ràng nửa không rõ ràng. T là ai? T, hiển nhiên không phải là tên của một vị thám tử lừng danh, cũng không phải tên của diễn viên, ca sĩ nổi tiếng nào cả. T có thể là một con mèo, cũng có thể một người mẹ. Nhưng chắc chắn một điều, T chính là viết tắt của Thuận, tên tác giả. Người đọc có quyền đoán định: phải chăng T chính là Thuận? Sự việc chưa rõ ràng trở nên rõ ràng hơn khi đến trang 57 có một đoạn như sau: “Tôi chưa bao giờ đọc đúng tên T. Những cái dấu trong tiếng Việt nghe nói rất rắc rối mà tên của T ghi trong hộ chiếu gốc thì gồm những hai dấu, cái trên cái dưới, lâu ngày tôi đã quên rằng chúng dành cho chữ U hay chữ A hay mỗi chữ một dấu.” Vậy là ngay từ nhan đề, ta đã có thể thấy được sự hài hước vốn là điều quen thuộc trong văn chương của Thuận. Nếu T là Thuận, chị tuyên bố với độc giả ngay từ đầu rằng tôi – tác giả, sẽ hoàn toàn mất tích trong tác phẩm này. Điều đó đồng nghĩa với việc chị đã thẳng thừng bác bỏ luận điểm trên. Tiểu thuyết chẳng cần tới bất cứ cái ngòi nổ quái quỷ nào cả, mà không ai khác, nhà văn chính là nhân vật quan trọng nhất trong việc hình thành một cuốn tiểu thuyết. Trong một tác phẩm, nhà văn có thể hoàn toàn “mất tích” từ đầu đến cuối, thay vào đó sẽ là anh A chị B hay một “tôi” nào đó kể tiếp câu chuyện. Nếu T không là Thuận, chị phủ lên độc giả một bức màn khơi gợi sự tò mò: T, thực ra là ai, và T mất tích có phải là một cuốn tiểu thuyết trinh thám hay không? Ngay từ trang đầu tiên, Thuận đã đặt người đọc vào trong một không gian hết sức trinh thám: đồn cảnh sát. “T mất tích… trong một buổi tối, tôi phải qua hai cuộc thẩm vấn”. “Tôi” không ai khác chính là chồng của T, một phụ nữ Việt Nam lấy chồng và sinh sống tại Pháp. Như vậy, T chỉ là một con người bình thường, bình thường đến độ sẽ chẳng ai biết cô mất tích nếu chồng cô không gọi điện báo cảnh sát. Lý do là vì cô không có gia đình lẫn bạn thân ở Pháp, đám cưới cũng không ai hay biết. Mà thực tế là cũng chẳng có cái đám cưới nào được tổ chức, hai vợ chồng chỉ đơn giản nắm tay nhau đến tòa thị chính ký giấy kết hôn rồi đi ăn nhà hàng. Từ cái không gian trinh thám đó, ta cũng bắt gặp một nhân vật hết sức trinh thám: đại úy Delon. Nhưng đại úy Delon không phải là Sherlock Holmes của tác phẩm, mà nhiệm vụ ấy sẽ được đặt lên vai của “tôi”, nhân vật chính. Trước hết, ta có thể dễ dàng thấy được chồng của cô T vốn có sẵn máu thám tử trong người. Hãy chú ý đến những suy luận hết sức logic của anh ta về từng vấn đề xung quanh, từ sự mất tích của T cho đến việc đại úy Delon tìm cách do thám mình như thế nào. Hai lần điển hình là khi Delon gọi điện đến cơ quan dò hỏi người bạn đồng nghiệp Paul và khi Delon nói chuyện với vợ chồng ông gác cổng nơi “tôi” ở. Cũng dễ hiểu vì khi T mất tích thì chồng cô nhanh chóng trở thành nghi can số một. Thế nên, “tôi” quyết định tự mình đi tìm vợ, thay vì trông chờ vào những nỗ lực không mấy khả quan của cảnh sát Pháp. Cuộc tìm kiếm T mất tích dẫn người đọc đi qua ba cuộc ngoại tình hết sức dữ dội mà thực tế đều bắt nguồn từ những suy luận đầy tính thám tử của “tôi”. Nhân tiện, ngoại tình vốn là một chủ đề ưa thích của Thuận, và sẽ còn bùng nổ hơn ở cuốn tiểu thuyết kế tiếp của chị, Vân Vy. Ở T mất tích, ngoại tình, hay cụ thể hơn là tình dục, trở thành một nỗi ám ảnh thường trực đối với nhân vật chính. Anh có thể dễ dàng nhận ra mối quan hệ mẹ con bất chính của vợ sếp với đứa con nuôi, hoặc chỉ cần quan sát cô y tá cũng đoán được cô ả đã mây mưa với bố mình như thế nào. Giọng văn hóm hỉnh cùng lối viết chắc tay của Thuận khiến cho việc ngoại tình cũng trở nên hết sức thú vị. Nhưng căn nguyên do đâu người chồng lại có những suy nghĩ như vậy, đầu tiên phải nghĩ đến người vợ. T, tuy mất tích nhưng cũng được miêu tả đủ cho người đọc hình dung về một tính cách: “T không lãng mạn”, “tính kín đáo quá mức của T làm tôi ngần ngại”. Một người chồng Pháp lấy phải cô vợ Việt như vậy mà không ly dị không ngoại tình thì quả là có sức chịu đựng, chịu đựng đến mức dửng dưng. Sự dửng dưng của anh chồng Pháp không chỉ giới hạn ở đó. Anh không nhảy vào tám chuyện với đồng nghiệp, anh chẳng buồn quan tâm đến chuyện chia chác tài sản mà bố để lại, và xem chuyện của chị hàng xóm chỉ “như cơm bữa trên một nửa trái đất”. Cuối cùng, sau tất cả những dửng dưng, anh cũng đành buông xuôi trước sự mất tích của người vợ. Sự mất tích của T hóa ra lại là một ẩn dụ, ẩn dụ cho cái sự dửng dưng và buông xuôi của con người. Người chồng Pháp có thể tiếp tục dửng dưng nhưng người vợ Việt thì đã đủ mỏi mệt. Cuộc sống như một vở kịch mà các nhân vật vô cùng lạc lõng giữa sân khấu. “Thử nhìn xung quanh, có ai dám thay đổi điều gì?” T mất tích hóa ra lại là sự dũng cảm, muốn phá vỡ cái dửng dưng đó… T mất tích dẫu có những yếu tố trinh thám rất Trần Dần (Thuận là con dâu Trần Dần, vợ Trần Trọng Vũ) nhưng không phải là sách trinh thám. T mất tích rất gần với Biên niên ký chim vặn dây cót của Murakami, từ giọng văn rất Tây (Thuận đang sinh sống tại Pháp) cho đến nỗi cô đơn của con người hiện đại, cụ thể hơn là xã hội tư bản phương Tây. Nhưng gần không có nghĩa là giống, ta hoàn toàn có quyền tự hào về một tác giả người Việt viết tiểu thuyết chắc tay và đầy bản lĩnh, ngay từ cách đặt nhan đề cho tác phẩm của mình. Còn một điều hài hước nữa, chính người đọc cũng bắt đầu vào một cuộc tìm kiếm. Ban đầu, ta đọc tiểu thuyết để đi tìm lời giải T là ai. Trải qua từng trang sách, ta cứ đoán già đoán non, T là Thuận hay T không phải là Thuận. Cuối cùng, T vẫn còn là một ẩn số. *** Câu chuyện bắt đầu ngay bằng sự vắng mặt của T. Tôi, một người đàn ông Pháp một chiều bỗng không thấy người vợ Việt Nam (T) trở về nhà. Sau khi báo cảnh sát, tìm kiếm ở một người quen biết, và tin rằng vợ mình không về nước, cũng chẳng có người thân nào để đến, ông quyết định: T mất tích. Cuộc sống biến động với sự kiện đó. Đã bao năm, một cuộc sống lặng lẽ trôi đi và họ chưa hề có một lần nào nhìn bản chất thực của nó. Cả hai người đều có rất ít người quen, sống giữa chốn đô thị mà không khác gì nơi hoang đảo. Họ không còn liên lạc nào với cha mẹ, họ hàng. Đều đặn ngày nào cũng như ngày nào, đến nơi làm việc, về nhà vào tối mịt, đón con rồi ăn tối, ngủ trên hai chiếc giường đơn trong phòng ngủ, chung hay riêng tùy lúc. T đi đâu, phải chăng sự ra đi đó là để dứt khỏi cái nhịp điệu buồn tẻ kia. Hay đó là sự lạc lõng của một bản thể, đi vào cõi hư ảo, tìm sự giải thoát cho kiếp sống ngột ngạt? Vào vai một nhân vật đàn ông khá nhuyễn, nhà văn Thuận mang đến T mất tích như một món ăn tinh thần lý thú mà văn đàn Việt Nam bấy nay chưa có. *** T mất tích. Cảnh sát, sau bốn mươi tám tiếng đúng qui định hình sự, đã khẳng định như vậy và tung kế hoạch truy tìm trên phạm vi toàn quốc. Ngay trước đó, trong một buổi tối, tôi phải qua hai cuộc thẩm vấn, cuộc đầu tiên vào sáu giờ là của thanh tra phó đồn cảnh sát địa phương, cuộc thứ hai một tiếng rưỡi sau là của thanh tra trưởng đồn cảnh sát địa phương. Tôi tỏ ra bình tĩnh và kiên nhẫn, các lời khai có lẽ khớp nhau nên sau đó, người ta hứa để cho tôi yên. Thực ra cũng không thể khác được, các câu hỏi của cả hai thanh tra khá đơn giản và tôi đã nói sự thật một cách mạch lạc, họ có vẻ tin lời tôi và chưa một lúc nào tỏ ý muốn vặn vẹo hay đánh bẫy. Nhìn chung, các vị ấy có tác phong nhã nhặn, thậm chí lịch thiệp, bằng chứng đầu tiên là cả hai đều gọi tôi đến vào những giờ ít ảnh hưởng tới công việc của tôi và lần nào cũng tự tay mang cho tôi một tách cà phê nóng kèm đường viên đựng trong một hộp nhỏ, lấy từ góc bếp chỉ dành cho nhân viên trong đồn. Biên bản của các cuộc thẩm vấn ghi theo lời tường trình của tôi, dường như cả dấu phẩy cũng không khác nhau, tôi cảm giác đã học thuộc ngay sau khi ra khỏi đồn cảnh sát, giờ đây vẫn có khả năng nhắc lại không mấy khó khăn: T thường rời công sở  lúc 5h15, đến mẫu giáo đón Hanah con gái của chúng tôi lúc 6h kém 5 vì đúng 6h là trường đóng cửa, nội qui được hiệu trưởng thông báo ngay từ buổi họp phụ huynh đầu tiên. Hôm kia khoảng 7h tối, khi tôi đang còn ở văn phòng thì cảnh sát gọi điện yêu cầu tôi đến gặp gấp, lý do là Hanah không có ai đến đón nên đã bị đưa ra đồn và đang ngồi đợi người thân. Lúc tôi tới nơi, Hanah vừa được một nữ cảnh sát cho ăn tối, tôi trình chứng minh thư và kí vào giấy nhận con, chúng tôi về tới nhà chừng 8h30, cho đến lúc đi ngủ cũng không có một tin tức nào của T. Tôi đã gọi điện báo cho công an, cũng là nơi đã giữ Hanah lúc nãy. Hôm sau, tôi tự đưa Hanah đến mẫu giáo và tới văn phòng muộn mười lăm phút, buổi chiều xin phép nghỉ sớm một tiếng. Ngay trong ngày, tôi tranh thủ gọi điện đến chỗ làm việc của T, thường trực và hai đồng nghiệp cùng phòng đều khẳng định nhìn thấy T ra khỏi cơ quan lúc 5h10 chiều hôm trước. Vợ tôi không có cả gia đình lẫn bạn thân ở Pháp. Người duy nhất mà T đôi khi gặp gỡ là chị Xuân, cùng theo học lớp tiếng Pháp ở một tổ chức Thiên chúa giáo khi cả hai mới đặt chân đến Paris. Trong danh bạ điện thoại Paris, tôi tìm được số của chị Xuân. Chị Xuân đang vội đi làm và trả lời ngắn gọn từ nửa năm nay không nhận được điện thoại của T. Rất ít khả năng là T về Sài Gòn thăm gia đình. Một chuyến đi xa như vậy, dù thế nào đi nữa, cô ấy cũng phải báo cho tôi một câu. Tôi cũng trao đổi với ngân hàng và được biết từ đợt trả tiền nhà lần cuối, tài khoản của chúng tôi không có thất thoát quan trọng, người phụ trách ngân hàng còn nhiệt tình gửi qua fax bản kê những món chi tiêu được trả bằng séc và các Visa ba tuần qua. Sau đó tôi đã kiểm tra cặn kẽ, không thấy có dấu hiệu đặc biệt, nói chung là những khoản nhỏ dưới một trăm euro, chủ yếu là tiền đi chợ và tiêu vặt trong nhà. Mời các bạn đón đọc T Mất Tích của tác giả Thuận.
Pháo Hiệu Đỏ
Tác phẩm Pháo Hiệu Đỏ khắc họa tinh thần chiến đấu của những người lính Liên Xô trong cuộc chiến tranh Vệ quốc, thông qua một trận đánh chiếm trường học với quân Đức. Cuốn Pháo Hiệu Đỏ này gồm hai truyện vừa: Pháo hiệu đỏ Gia đình đại úy Đôrôkhin *** Lời tác giả Các bạn thân mến! Cuốn truyện vừa nhỏ bé này đã được viết vào lúc nghỉ ngơi giữa các trận đánh hồi cuối năm 1942: thời kỳ gian khổ của cuộc chiến tranh mà đất nước chúng tôi đã tiến hành để chống chủ nghĩa phát-xít Đức. Tôi đã phục vụ trong một sư đoàn đã tham gia phòng thủ Moskva, về sau sư đoàn ấy đã tham gia cuộc phản công của quân đội chúng tôi đánh đuổi bọn xâm lược Hitler. Trong truyện vừa này, tôi cố kể lại về chủ nghĩa anh hùng của những người lính Xô-viết đã chiến đấu trên những phòng tuyến ngoại thành Moskva. So với hồi bấy giờ thì trong truyện vừa này không có điều gì đặc biệt và khác thường cả, truyện này chỉ nêu lên việc xảy ra bình thường ngoài mặt trận. Trong những ngày ác liệt này, chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Xô-viết ở ngoài tiền tuyến cũng như ở hậu phương là một biểu hiện chung của mọi người và ở khắp nơi; hồi đó, chiến công là tiêu chuẩn trong tư cách con người. Nhân dân Xô-viết thuộc mọi lứa tuổi, mọi nghề nghiệp đều đứng lên chiến đấu chống quân thù. Đảng cộng sản đã đoàn kết toàn dân – và chúng tôi đã chiến thắng! Tôi vô cùng sung sướng là cuốn sách này của tôi sẽ được các bạn đọc, tôi hy vọng như thế. Chúng tôi, những người Xô-viết, hiểu rất rõ thế nào là chiến tranh, chúng tôi nhớ lại mọi điều: những trận ném bom thường xảy ra, những đám cháy của thành thị, tình trạng tâm thần căng thẳng tột độ, những hy sinh, những mất mát họ hàng thân thích… Và vì thế, hỡi các bạn thân mến, chúng tôi rất khâm phục tinh thần dũng cảm của các bạn! Nhân loại sẽ không bao giờ quên chiến công huy hoàng của các bạn, những người Việt Nam gan dạ, tự hào và tha thiết yêu tự do. Còn kẻ thù của các bạn, kẻ thù độc ác trong nhiều năm ngập ngụa trong những tội ác đẫm máu, thì nhất định sẽ bị đánh bại. Cũng như chủ nghĩa phát-xít Đức đã bị đánh bại – điều đó thì không còn nghi ngờ gì nữa. Cuối cùng thì thắng lợi bao giờ cũng thuộc về chính nghĩa, tự do và dũng cảm. Hỡi các chiến sĩ Việt Nam, chúng tôi hết lòng ủng hộ các bạn! Georgy Beryozko *** Đúng 17 giờ 30, trung úy Gorbunov dẫn quân mở đợt tấn công, và để chấp hành mệnh lệnh, trung úy vừa chiến đấu, vừa lao vút đến rìa phía đông của làng. Một bộ phận những xạ thủ của anh đã nằm trong những chiến hào phủ băng mà bọn Đức bỏ lại. Gorbunov vừa bắn tiểu liên vừa chạy đến ngôi trường đen sẫm. Ngọn lửa chập chờn chiếu sáng gian phòng trống, ngổn ngang những gạch vỡ. Gorbunov dừng lại và ngừng bắn. Anh nghe ở phía sau lưng có tiếng chân nện thình thịch và hơi thở hồng hộc của những người đang chiến thắng. Các chiến sĩ dùng báng súng mở toang những cánh cửa và lần lượt chiếm lớp này đến lớp khác. Tiếng hô “xung phong” đã ngừng bặt, và trung úy cất cao giọng khản đặc ra lệnh bắn ba phát pháo hiệu trắng. Theo mệnh lệnh đã quy định thì đó là dấu hiệu chiến thắng của anh. Những chiếc pháo hiệu bay vút lên bầu trời, và bây giờ thì chính Gorbunov phải chờ tín hiệu. Pháo hiệu đỏ ở hướng tây-nam sẽ phải báo cho anh biết về cuộc tấn công chung đã bắt đầu. Gorbunov nhận được lệnh yểm hộ cuộc tấn công của nhóm quân chủ lực có nhiệm vụ đánh chiếm, còn sau đó thì sẽ hợp nhất với nhóm đó để tiêu diệt quân thù. Mệnh lệnh rõ ràng và ngắn gọn, như mọi mệnh lệnh xuất sắc khác. Các chiến sĩ bố trí trong trường học. Họ nạp lại đạn, làm huyên náo, ăn tuyết – một sự khích động lớn đang nung nấu trong lòng họ. Sức mạnh đáng sợ của lòng căm thù dữ dội đã làm cho họ vùng lên, và chỉ vừa mới đây thôi, họ đã chạy trên lũy đất băng giá được những ánh lửa chói lòa bùng lên soi sáng. Nảy sinh từ ý chí muốn sống, sức mạnh đó đã làm tiêu biến nỗi lo sợ chết, và giờ đây sức mạnh đó vẫn đang tìm lối thoát. Tròng trắng của những cặp mắt dữ tợn ánh ngời lên trên những khuôn mặt đen sạm và tím lại vì băng giá. Hơi tỏa ra từ những cái mồm mở rộng, bay lơ lửng trên đầu. Gorbunov đứng giữa lớp vừa thét vừa ra lệnh. Qua lỗ thủng to tướng trên tường do đạn đại bác đã xuyên qua, nom thấy rõ mảnh trời trăng dày đặc sương mù. Những viên đạn sáng rực vút bay trong không trung màu lam nhạt. Gorbunov đi đến gần lỗ thủng, áp mình vào tường và nhìn ra ngoài. Ở phía trước, khoảng chừng một trăm rưởi thước, bọn Đức đang ở trên bờ cao của dòng mương xói phân cách làng với trường học. Chúng ẩn nấp trong những ngôi nhà gỗ đen ngòm, phủ đầy tuyết; ở hầm nhà thì chúng đặt những khẩu đại liên. Những nòng súng không nom thấy từ đó chĩa thẳng đến trường học và các chiến hào… Đằng sau ngôi nhà đó, mờ mờ hiện lên một dải rừng xanh phủ tuyết, giống như một đám mây đen sa xuống. Ở phía ấy, trong lòng sâu của đám mây đen kia, đáng lẽ phải lóe sáng lên ánh chớp của mũi tấn công chủ lực, nhưng dải rừng lúc đó thật là yên tĩnh và bí ẩn. Thỉnh thoảng những chiếc pháo sáng treo lơ lửng trên hàng tiền duyên tuyến phòng ngự của địch. Ánh sáng không sinh khí tỏa xuống mương xói, và Gorbunov nom thấy rõ rệt ở đáy mương xói một thành giếng phủ đầy băng, những lối mòn in hằn trên tuyết, những xác chết đã biến dạng tựa hồ như những vết mực nhòe. Ở đằng xa trên chân trời, một cái ấp đang cháy. Ngọn lửa vàng khè, hầu như bất động, le lói sáng trong màn đêm sâu thẳm và giá lạnh của tiết tháng giêng. Gorbunov vuốt mặt, sờ thấy trên má một thỏi băng con. Anh rứt nó đi và cảm thấy ran rát đau. Té ra là khi tấn công, anh bị xây xát mặt mà không biết. Anh lấy lòng bàn tay thu nhặt tuyết có lẫn cả gạch và áp vào má. Tuyết nhanh chóng tan ra. Trung úy nhìn bàn tay vấy bẩn nước đen đen, nghĩ rằng cần phải băng má lại, nhưng ngay lập tức, anh đã quên bẵng điều đó. - Trung úy đâu? – một giọng khản đặc thét lên trong bóng tối. Gorbunov nhận ra Medvedovsky, tiểu đội trưởng. - Có chuyện gì thế hở? – trung úy thét lên và chỉ đến bây giờ anh mới nhận thấy là mình luôn mồm thét to, mặc dù chẳng cần phải thét nữa. - Báo cáo đồng chí trung úy, các chiến sĩ hỏi, cớ sao bọn ác ôn kia được ngồi trong nhà sưởi ấm, còn chúng ta thì giẫm chân trong băng giá. - Củng cố vị trí rồi chứ? – cố kìm mình, trung úy hỏi khẽ. - Báo cáo có! – tiểu đội trưởng gào to. - Việc gì anh phải thét lên thế? – Gorbunov nói. - Tôi không thét ạ! – tiểu đội trưởng gào to. - Củng cố rồi, thế là được! – Gorbunov đáp. Anh cảm thấy nóng và dựng những vành tai của chiếc mũ lông lên. Khí phách hiên ngang vừa vui vẻ vừa dữ dội lạ lùng vẫn còn sôi nổi trong tâm hồn anh. Trong giây lát, một ý nghĩ điên rồ thoáng hiện trong óc trung úy: không chờ tín hiệu, cứ dẫn quân tấn công đánh chiếm làng mà không cần sự chi viện của ai cả. Một cảm giác tinh nghịch đã thôi thúc anh, giống như cảm giác của con bạc gặp vận đỏ đang đặt món tiền cái tăng gấp đôi. Nhưng mệnh lệnh là mệnh lệnh, không lôi thôi gì cả; và hơn nữa với lực lượng nhỏ bé mà anh hiện có trong tay thì cuộc tấn công vào một vị trí đã được củng cố chắc chắn sẽ thất bại thảm hại. - Hãy quan sát, – trung úy nói. – Có lẽ là chúng ta sẽ sưởi ấm cho đến tảng sáng. Các chiến sĩ túm tụm lại. Trong góc, những chiếc áo dài ngụy trang của họ ánh lên màu trăng trắng. Sau giờ phút căng thẳng đến kiệt lực của trận tấn công, giờ đây mọi người đều muốn ăn và hút. Họ gặm lương khô, và những ánh lửa thuốc lá lập lòe trong bóng tối. - Nó xông vào tớ, – Lugovykh thét to, anh ta là một nông dân mặt chữ điền, râu ria xồm xoàm, quê ở Ngoại Ural, – nhưng chính cu cậu thì lại sợ quá nên khẩu súng trường run rẩy trong tay. Tất nhiên là tớ chẳng bỏ lỡ cơ hội… - Tớ lễ phép bảo nó: “Đồ chó đẻ, đầu hàng đi!” còn nó thì đưa tay lấy lựu đạn. Tớ liền nói: “Tùy ngài thôi…” Dvoeglazov không nói hết câu và nhún vai. - Cậu bắn chứ? – Lugovykh thét to. - Nếu kẻ thù không hàng thì người ta diệt nó, – Dvoeglazov nói. - Đúng thế! – Kochesov gào lên. – Tớ cũng làm như thế. Kochesov quê ở Baku, anh là một người xà ích có đôi vai rộng, vạm vỡ như ông hộ pháp, anh thở hồng hộc và chậm rãi đảo qua đảo lại cặp mắt tròn, tựa hồ như cặp mắt người say rượu. Vừa ngắt lời nhau vừa tranh nhau nói, các chiến sĩ kể lại trận đánh mà họ đã chiến đấu rất giỏi. Họ cảm thấy sung sướng vì họ còn sống và được thấy quân thù tháo chạy khỏi họ. Sự gần gũi của đồng đội giờ đây đã đem lại cho họ nỗi lòng khoan khoái rõ rệt. Việc cùng nhau chịu đựng nguy nan và cùng nhau vui hưởng thắng lợi đã xóa bỏ mọi điều không thích nhau giữa người này với người khác mà trong những hoàn cảnh khác thì có thể xảy ra. Vì bị kích động nhiều nên họ chửi rủa và đùa cợt lẫn nhau. Gorbunov gọi trung sĩ Rumyantsev đến chỗ mình. Một vệt xám rời khỏi tường và bò trên sàn. Trung sĩ đứng sau lưng Gorbunov. Ngoái lại, trung úy thấy khuôn mặt sạm đen với cái mũi hếch và đôi mắt ti hí tươi cười. - Cảm ơn, trung sĩ, – Gorbunov nói. – Anh không bị thương chứ? - Còn sống! – với một vẻ ngạc nhiên vui vẻ, Rumyantsev trả lời. Gorbunov mỉm cười nhìn trung sĩ. Chính anh ta, Rumyantsev, người đầu tiên len lén bò đến hầm súng máy, liệng vào đấy một quả lựu đạn, và khi bọn Đức sống sót chạy thục mạng, thì anh đã hét to đến nỗi mọi người đều nghe được: “Nào, các cậu ơi! Bọn phát-xít trong tay chúng ta rồi!” - Còn sống, – Gorbunov lặp lại, tỏ vẻ tán đồng, dường như chính điều đó là công lao chủ yếu của cá nhân trung sĩ. – Cừ lắm! Rumyantsev thích người chỉ huy của mình. Giờ đây anh đặc biệt khoái trá thấy nét mặt trông nghiêng của trung úy với gò má cao, cái mũi to và đôi môi mỏng. Trong sự nghiệp đầy nguy hiểm lớn lao ấy mà họ cùng nhau thực hiện, đời sống của mỗi người tùy thuộc không những vào sự khéo léo hay may mắn của cá nhân, mà còn vào điều những người khác đã xử sự và hành động như thế nào. Sau trận đánh thắng lợi, Rumyantsev cảm thấy một niềm tin vô hạn đối với trung úy. Anh cho là cái may mắn riêng của mình trong một chừng mực nào đó cũng là nhờ những hành động khéo léo của người chỉ huy. Anh lúng túng lặng thinh, không tìm được lời diễn đạt lòng biết ơn và khâm phục của anh. - Còn sống! – anh nhắc lại một lần nữa với giọng biết ơn. Trung úy giao cho một người chỉ huy cấp dưới của anh theo dõi xem ở hướng tây-nam pháo hiệu đỏ có xuất hiện không. Anh bảo Rumyantsev đi theo và ra đi xem xét trường học. Bước ra cửa thì hai người gặp Masha Ryzhova. - Chào đồng chí trung úy! – Masha nói khẽ, giọng hầu như là trẻ con. – Có gì mới không ạ? - Không, – Gorbunov nói. - Khó khăn lắm mới lần đến chỗ đồng chí được, – Masha nói. - Cô ta thì dù khó khăn đến mấy đi nữa, bao giờ cũng vẫn lần đến được cả! – Rumyantsev nói to. Cô gái thở dài, cất mũ và lắc đầu giũ làn tóc rối. Dưới ánh trăng lờ mờ, Gorbunov thấy khuôn mặt tròn trĩnh của cô với đôi mắt sâu trong bóng màu lam đẹp một cách lạ lùng. Cũng như mọi người trong đơn vị, anh tự hào về người nữ y tá của mình. Nhưng Masha là một cô gái trẻ măng, nên Gorbunov cho rằng anh có thể hỏi cô những điều mà không bao giờ anh hỏi người đàn ông. - Thế nào, chị đi đến đây có sợ không? – anh niềm nở nói. - Mọi người đều hỏi tôi như thế, – Masha nói. – Khoảng không quanh tôi thì rộng và nhiều, tôi chỉ chiếm một chỗ không lớn lắm ở trong đó. Thế thì vì sao đạn lại cứ phải nhất thiết trúng vào tôi? - Viên đạn là đồ ngốc, – trung úy âu yếm nói. - Đúng thế, – Rumyantsev bật cười. - Tôi chỉ phải băng cho ba người, – Masha nói. – Thiệt hại chỉ có thế thôi. - Ivanovsky thế nào? – trung úy hỏi. - Sẽ khỏi thôi, – Masha đáp. - Tội nghiệp, anh chàng thật không may, – Gorbunov nói. Chính trị viên Ivanovsky bị thương lúc mới bắt đầu tấn công. - Mệt kinh khủng, – Masha phàn nàn. - Thế thì chị hãy nghỉ đi, – trung úy nói. Gorbunov và Rumyantsev lần theo cầu thang bằng đá có tay vịn bị sập xuống, leo lên tầng hai. Trong gian phòng mà họ bước vào, có lẽ trước đây là thư viện của nhà trường. Sách nằm hàng đống trong góc, phủ đầy tuyết từ ngoài trời bay vào, Những tờ giấy bị xé ra nổi lên lờ mờ màu lam nhạt trên nền nhà đen thẫm. Gorbunov cúi xuống nhặt một quyển sách, Anh đọc trên trang bìa: – “Gogol. Taras Bulba”. Trung úy nhặt một quyển sách khác: “Jules Verne. Tám vạn dặm dưới nước”. - Sách hay đấy, – anh nói với Rumyantsev, rồi lấy tay áo phủi lớp sương muối trên bìa và để sách lại chỗ cũ. Trong khung cửa sổ hình chữ nhật tràn ngập ánh trăng, hai chiến sĩ đã đặt khẩu súng liên thanh. Chiếc bàn dài trắng xóa lạ thường vì bị phủ lớp sương muối. Gorbunov nói chuyện với các chiến sĩ, rồi đi tiếp. Trong một lớp học bên cạnh còn giữ được hai tấm các tông treo trên tường, trên đó có dán những tranh vẽ của học sinh. Trên một mẩu giấy con, có những chiếc phi cơ kỳ lạ đang bay; những bông hoa với tràng cân đối hướng về phía người xem. Những con người với những cặp chân quẹo đứng bên cạnh những ngôi nhà bé tí, đẹp đẽ, và mặt trời tua tủa những gai, hệt như một con nhím, chiếu sáng họ từ trên bầu trời quang mây. Sương muối bám trên những nếp cong của tờ giấy, trên những góc gãy của tấm các tông. - Thật giống hệt như cháu Lena nhà tôi đấy, – Rumyantsev thốt lên. – Con gái của tôi, cũng là nữ họa sĩ cơ đấy. - Chúng nó vẽ tuyệt thật! – Gorbunov nói tin tưởng. Anh đã hai mươi bốn tuổi, chưa vợ. Nhưng đứng trước những tranh vẽ mà trên đó có ghi tên họ của các tác giả theo đủ mọi hướng “Vitya Pogorelov, lớp II”, “Zoya Surovtseva, lớp I”, “Dusya Pyatakova, lớp I”, “S. G. Lukashin, lớp II”, “Nina Volkova, lớp II”, trung úy cảm thấy nếu anh không phải là bố của những đứa bé ấy, thì cũng là người anh cả của chúng. Anh khâm phục chúng, với tư cách một người bà con gần gũi nhất. Và với tư cách là một người bà con, anh cảm thấy rất hài lòng với ý nghĩ là chính anh cùng với các chiến sĩ của mình đã trả lại trường học cho bé Nina Volkova. Bọn Đức đã đuổi các em đi khỏi nơi này, đã phá phách thư viện và làm bẩn các lớp học, – còn trung úy, trong khi đánh đuổi bọn Đức đi, anh đã làm một công việc thật là thiêng liêng. Anh đã làm cho chính nghĩa được thắng lợi. Ý nghĩ đó nảy ra sau trận đánh, dường như là một phần thưởng vì đã trải qua những trận thử thách đầy gian khổ. Chính ngay trong trận chiến đấu, trong tiếng nổ ầm ầm của kim loại, trong đám khói thuốc súng thơm thơm, trong hoạt động căng thẳng đến tột độ, anh cảm thấy hình như chỉ có những cái gì đang diễn ra chung quanh mới có ý nghĩa mà thôi. Khi tiếng súng tiếng đạn đã ắng lặng thì tất cả những điều gì đã bị lãng quên giờ đây lại lơ mơ hiện ra trong trí nhớ, lần lượt điều nọ nối đuôi điều kia, dường như trở lại với cuộc sống, cuộc sống một lần nữa đã giữ gìn được. Gorbunov nhớ lại rằng anh làm nghề khí tượng và tốt nghiệp trường đại học một thời gian không lâu trước chiến tranh, rằng mẹ anh, Natalia Sergeevna Gorbunova, đang ở Saratov, rằng chị anh đã lấy chồng và em anh đi bộ đội. Anh buồn nhớ những đồng chí đã hy sinh trong chiến đấu và hỏi xem quân bưu đã đưa thư đến chưa. Anh thấy đói và phái người đi hỏi xem bao giờ thì người ta sẽ đưa cơm nước đến. Ý thức về ý nghĩa cao cả và tính chất chính nghĩa của cuộc chiến đấu mà anh đang tham gia, đã đem lại cho lòng anh một niềm kiêu hãnh tràn đầy. Cũng như mọi quân nhân khác, trung úy không đánh giá cao những người đàn ông ở lại hậu phương, nhưng thỉnh thoảng anh cũng thương hại nghĩ đến họ. Những người đó thì không bao giờ được biết nỗi hân hoan mà hiện giờ Gorbunov đang cảm thấy khi nhìn vào những tấm các tông của học sinh. Gorbunov đứng ngắm tranh vẽ trong vài giây, rồi nhanh nhẹn bước đi, dường như có một sức mạnh kỳ diệu nâng anh lên. Anh đi qua những chốn quê hương thân mến mới giành giật lại được trong tay quân cướp nước bằng một trận chiến đấu ác liệt. Anh cảm thấy mình là người bảo vệ cho những người yếu đuối – cho Gogol, Jules Verne, Nina Volkova, những người sẽ trở lại đây, theo sau các chiến sĩ của anh. Anh là một người đem lại hạnh phúc. Đi qua dãy hành lang ngổn ngang những bàn học, Gorbunov bước vào gian phòng có treo những giá trống không trên tường. Anh là người giải phóng, và ngọn gió chiến thắng đã thổi xốc anh tiến lên. Trung úy lấy chân đá mạnh vào cái ống của chiếc mặt nạ Đức đề phòng hơi độc, cái ống ấy chạm vào tường kêu loảng xoảng. Trong lớp rơm trải trên sàn, thấy lấp lánh sáng những vỏ đồ hộp. Cửa phòng bên cạnh đã đóng chặt, và trung úy mở toang cửa ra. Gian phòng ở góc tràn ngập ánh sáng xanh lam. Ngay đối diện cửa, một người cao, có râu, mặc áo vét-tông đen, đứng áp sát tường. Đầu của người đó ngoẹo ra sau, mặt ngửa lên, và hai mắt sợ hãi sáng lên nhìn chằm chằm những người đang đi vào. Gorbunov suýt nữa thì kêu lên: “Anh làm gì ở đây thế?”, nhưng nghẹn lời và nghiến chặt quai hàm. Hai chân không giày của người đó lơ lửng trên sàn. Một cái khung ảnh bằng gỗ dán có đường chạm trổ, nằm gọn trong bàn tay duỗi nắm chặt, chắc là nó bị giật ra trong giây phút giãy giụa cuối cùng của người đó để tìm chỗ bấu víu. Một sợi dây điện mảnh choàng qua cổ, chạy thẳng lên trần nhà. Các cửa sổ đều không có kính, và tuyết phủ lên tấm vải trải giường nhàu nát, lên bàn, lên áo của người bị xử giảo. Gorbunov và Rumyantsev tháo dây thòng lọng cho cái thi hài nặng nề, cứng đờ như một tấm gỗ, rồi khiêng đặt lên giường. - Chắc là thầy giáo… – Rumyantsev thốt lên. - Vâng, – trung úy nói. Trời bỗng sáng bật hẳn lên. Ngọn lửa xanh nhạt của chiếc đèn dù Đức chiếu sáng gian phòng. Tròng trắng lồi ra của cặp mắt đùng đục như thủy tinh trên mặt cụ già, lấp lánh lên, dường như trong giây lát sức sống đã sáng lên. Trong chiếc khung gỗ dán mà cụ giáo viên không muốn rời ra, có tấm ảnh một cô bé đeo hai chiếc nơ trên mái tóc. - Đồ quỷ sứ! – trung sĩ cau có lầu bầu. Hai người đi ra và lặng thinh bước xuống bậc cầu thang. - Chắc là cháu gái của cụ, – trung sĩ phỏng đoán. Gorbunov hình dung thấy cụ giáo viên già vùng vẫy đôi tay, quào bấu trên tường cố giữ cho thân hình không rơi vào cõi chết. - Có thể là thế, – trung úy nói lạnh lùng. Anh cảm thấy nghẹn lời, khó nói về cụ già bị hành hạ. Trong trận đánh gần đây, Gorbunov đã tự tay mình bắn chết một tên lính phát-xít. Nhớ lại điều đó, anh thấy nhẹ nhõm hơn trong lòng. Anh đi đến gần người quan sát đang đứng cạnh lỗ thủng ở tường. Chẳng hiểu vì sao Gorbunov cảm thấy là hình như ngay bây giờ anh sẽ ra lệnh tấn công. Anh khát khao được trả thù ngay lập tức, trả thù một cách đầy đủ. - Báo cáo đồng chí trung úy, không có pháo hiệu đỏ, – người quan sát báo cáo. - Anh xem kỹ rồi chứ? – Gorbunov hỏi. Và cả hai người nhìn về hướng tây-nam, về phía dải rừng xa xăm, phủ đầy tuyết, dải rừng bí ẩn và đen sẫm, giống như một đám mây dông. Mời các bạn đón đọc Pháo Hiệu Đỏ của tác giả Georgy Beryozko.
Made in Vietnam
Lời bạt của Đoàn Cầm Thi: Bạn muốn viết văn ? Nếu viết tình yêu, tựa đề nhất định phải bắt đầu bằng “Chuyện tình kể” như­ hai nhà văn đ­ương thời danh tiếng nhất Việt Nam. Đừng nên coi thường chữ “kể”, nó cho ngư­ời ta dốc bầu tâm sự như­ dốc n­ước khỏi chai. Kỷ niệm ơi kỷ niệm, có ngư­ời Việt nào không tôn thờ kỷ niệm ? Ngay trong cái tựa đó, tùy thẩm mỹ mà sẽ thêm “trong nắng chiều” “lúc mư­a khuya” mộng mơ Tự lực văn đoàn, hoặc “trư­ớc bình minh” “buổi ban mai” hồn nhiên hiện thực xã hội chủ nghĩa. Sau đó, bạn sẽ chia nhân vật thành hai tuyến thiện và ác, đương nhiên nhân vật tốt phải là tấm gương cho độc giả soi vào. Còn nếu muốn tỏ ra sắc sảo hơn, bạn có thể làm như­ nhà văn nam danh tiếng : ác tí ti thiện tí ti. Hãy để cho nhân vật nữ bị em chồng hiếp, bố chồng nhìn trộm khi tắm, đừng kể lể gì về những khoái cảm hay giận dữ của cô ta, mà cho cô thốt lên lời đức hạnh : “Khổ chứ. Nhục lắm. Như­ng thương lắm”. Sẽ có nhà phê bình ví cô với Đức mẹ đồng trinh cho mà xem ! Cho đến năm 2001, mọi cuộc tranh luận sôi nổi nhất của văn học Việt, chính thống hay không chính thống, đều luẩn quẩn ở cái Tâm : cả ngư­ời đọc lẫn ngư­ời viết ai cũng lo nó không cạnh tranh nổi môn luân lý học. Cuộc bút chiến Trí thức/Phản trí thức vư­ợt trùng dương, sau một hồi náo nhiệt, cũng bị cái Tâm cho xí xóa hòa cả làng. Về câu chữ, chỗ nào cần thư­ơng cảm ắt phải có nư­ớc mắt, lá mà rơi thì đ­ương nhiên phải xào xạc. Nhịp điệu thì lúc nhặt lúc khoan, lên xuống tuỳ cảm hứng. Đôi lúc nên xen kẽ vài đoạn thơ, gọi nôm na là “tiếng nói vô thức”. Bạn cũng cần có vài xen kiếm hiệp cho thêm ly kỳ, kiểu c­ưỡi ngựa bắn súng hay công an đuổi bắt tù v­ượt ngục, hay cả hai. Nếu có chút ngoại lai nữa thì tuyệt : Tây bắc này, Cali này, hứng lên có thể cho cô gái Mèo khóc ở Ba lê hoa lệ. Cuối cùng xin đừng quên những câu giầu tính suy t­ư như­ “Tình yêu đấy là một hung thần” hay “Về bản chất đàn bà đứng về phía trật tự… Không có trật tự nào dung được tình yêu to lớn”. Bí quyết là làm thế nào cho ngư­ời đọc phải cảm thấy ở tận cùng văn bạn là nỗi cô đơn, sự trải đời, khả năng yêu th­ương và đau đớn, là con ngư­ời viết hoa ! Họ phải sờ đư­ợc cả nếp nhàu trên mặt bạn ! Họ phải nhìn bạn như­ tín đồ thiên chúa giáo nhìn Giê-su chịu nạn ấy chứ ! Cứ viết như­ thế đi, nếu không thành công, bạn sẽ chẳng thất bại. Như­ng nếu bạn lại bảo : “Rằng hay thì thật là hay…” ? Viết một tiểu thuyết không kết không mở không cao trào-xung đột-mâu thuẫn, không thắt nút-mở nút, một tiểu thuyết không ch­ương đoạn, không dấu xuống hàng, ý này vắt sang ý kia, tiết kiệm chấm phẩy và các mỹ từ, thán từ cùng các câu trau chuốt. Tạo cho tiểu thuyết một nhịp điệu gồ ghề. Tránh cho ng­ười đọc các đoạn tả cảnh tả tình, phân tích tâm lý nhân vật vừa dông dài vừa vô nghĩa. Tha cho họ những xúc động, ngợi ca. Viết tình yêu mà không cần phải trữ tình. Kể một Việt Nam đ­ương đại mà không nhất thiết phải lôi ra các vết th­ương chiến tranh, chế độ toàn trị, quan liêu tham nhũng, đói nghèo hay suy đồi đạo đức. Made in Vietnam của Thuận là một thử nghiệm như­ thế. Nó sẵn sàng lặp lại, từ hai lần trả lời không khác nhau một dấu chấm dấu phẩy của giám đốc Nguyễn Đức L­ương, từ hai mư­ơi người bạn trai cùng tên Khánh của nhân vật nữ chính, từ các buồng tắm giống nhau như­ những giọt n­ước của ngư­ời dân thủ đô thời mở cửa, từ cái phải làm phải ăn phải mặc, ng­ười phải gặp trong bảy ngày tết Nguyên đán. Made in Vietnam là cái nhàn nhạt của xã hội Việt Nam hôm nay, ở đó thời gian cứ trôi đi mà chẳng ai nói “Tại sao thế ?”, chẳng ai hỏi “Phải chăng ta đang yêu cái mà tám m­ươi triệu ngư­ời khác đang yêu, sống cuộc sống mà tám m­ươi triệu ng­ười khác đang sống ?”. Và tr­ước hết, nó cùng ng­ười đọc kiếm tìm một thẩm mỹ mới, một nhận thức mới về văn học. *** Cuối cùng Hà Nội cũng đến được năm 2000. Đêm mồng một tháng một một phụ nữ trẻ Hà Nội tên là Trần Minh Phượng lên giường ngủ từ chín giờ tối, sớm hơn thói quen đúng một tiếng, để chuẩn bị cho buổi đi làm lần đầu tiên trong đời vào sáng hôm sau, để trở thành một cán bộ công nhân viên nhà nước. Kĩ sư canh nông Nguyễn Thanh Bình, chồng của Phượng, không thể xem vô tuyến trong lúc vợ ngủ đã ngồi đánh xi cả năm đôi giầy màu đen cỡ bốn mươi ba. Đêm hôm ấy, giám đốc Nguyễn Đức Lương hoà giải với vợ bằng cách quay lại phòng riêng của hai vợ chồng sau ba đêm ngủ trên đi-văng phòng làm việc. Cũng đêm hôm ấy, nhiều người Việt Nam nhớ lại bài trả lời phỏng vấn các nhà báo Mỹ của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, hai mươi năm trước, về tương lai của chủ nghĩa xã hội có khẳng định câu trả lời sẽ là năm 2000. Hai mươi năm đã qua, Hà Nội không còn là thành phố của thế hệ những người nói tiếng Pháp còn nhanh hơn tiếng Việt. Hai mươi năm đã qua, Hà Nội cũng không bỡ ngỡ nhiều khi bước vào năm cuối của thiên niên kỉ. Bởi vì thực ra năm 2000 của Hà Nội đã bắt đầu từ hai mươi năm trước, từ một nụ cười chiến thắng đại diện cho ba triệu nụ cười của thủ đô, cho sáu mươi triệu người dân Việt. Năm 2000 Hà Nội đếm được hai mươi nghìn khoảng không gian khép kín, khoảng nào cũng nép dưới gậm cầu thang, cũng giới thiệu giải pháp tối ưu biến nhà kho thành văn phòng. Hai mươi nghìn gậm cầu thang là hai mươi nghìn chuyện cơm bữa của thành phố nơi dân cư rất ư giản dị, coi trang trí nội thất là điều xa xỉ. Giữa khu phố cổ hay vùng mới mở rộng, đâu đâu cũng bắt gặp những diện tích mười mét vuông sáng bán phở, ngày cho thuê băng hình, tối cà phê giải khát. Hà Nội năm 2000 của năm triệu sinh mạng sùng sục sống vứt qua một bên những gì không thuộc nhu cầu ăn, uống, ngủ, nghỉ sau hai mươi năm phấn đấu cho năm triệu con người mới xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy mười mét vuông phòng làm việc của Tâm Sự Bạn Gái trực thuộc tòa soạn báo Phụ Nữ đến năm 2000 càng thấy không cần dấu đi gốc gác nhà kho của mình. Đổi mới trên nguyên tắc tôn trọng hoàn toàn cái đã có. Chiếc cửa sổ xanh duy nhất nhện nhởn nhơ chăng mạng, hai cánh cửa chỉ còn lại một ô kính, mấy tờ giấy báo dán trên khung gỗ cũng đã ngả màu xanh, mỗi khi gặp gió hớn hở vẫy đám vữa túm năm tụm ba trên trần nhà, rồi cả bọn quay ra cùng lớp bụi trong phòng làm đủ hai mươi vòng khiêu vũ. Trên tường, năm chục cô gái trong áo may ô đỏ, quần đùi đỏ, ngắn hơn quần đùi đàn ông, đi guốc đỏ, nở năm mươi nụ cười, tạo nên một cuộc thi hoa hậu được tổ chức kiểu Hà Nội. Người ngồi, kẻ đứng, người nghiêng phải, kẻ nghiêng trái, động tác duy nhất được tập luyện trước là hếch mông, góc bốn mươi lăm độ làm chuẩn. Đấng nam nhi nào trông thấy cảnh này mà chẳng thốt lên vài tiếng thở dài. Đi về đâu hỡi em, mọi trò thi cử đều phù du, sao không nhìn gương các hoa hậu đi trước. Các ứng cử viên phái nữ phớt lờ. Cả năm chục cô chẳng ai bảo ai cứ cong người mãi, chúm chím mãi chẳng hướng về ai mà hướng về đống bàn ghế, thư từ, sách báo ba ngày một lần được xếp lại trong một trật tự hết sức mất lịch sự. Tâm Sự Bạn Gái chắc phải rất ý tứ mới có thể tâm sự được trong một không gian như vậy. Bốn giờ chiều, căn phòng tanh bành như sau phiên chợ. Bốn giờ chiều, chiếc bóng đèn sáu mươi oát tự động bật sáng rồi khép nép đứng trong một góc, thành thử ánh sáng chỉ rón rén đến hai phần ba căn phòng là dừng lại, giống y hệt lần nguyệt thực lâu nhất trong lịch sử Hà Nội. Phần không được chiếu sáng âm thầm giấu đi những thành quả của nền kinh tế kế hoạch sẽ được nhà nước tổng kết tháng 5 năm 2000: bộ máy vi tính, chiếc quạt điện, cái siêu đun nước cùng phích và bộ ấm chén uống chè. Cứ thế từ bao lâu không rõ, Tâm Sự Bạn Gái, người và đồ vật, chen chúc trong phòng làm việc cựu nhà kho, chiều cao chỉ cao hơn người Hà Nội bảy xăng-ti-mét. Chiếc cửa sổ để thông thống hai mươi tư giờ một ngày cũng không đủ khả năng tắm rửa lũ không khí lúc nào cũng nặng mùi giấy mốc nhưng không biết chạy đi đâu, trong phòng thì ngột ngạt còn bên ngoài là hai quán bia hơi, hàng ngày cho vào lò thiêu hoàn vũ vài chục xác động vật từ thú rừng đến gia súc, không con nào rõ thời điểm qua đời. Đầu năm một nghìn chín trăm tám mươi có một phụ nữ tên là Trần Thị Lan đến tòa soạn xin việc. Sau mười chín năm ngồi lại trong phòng Tâm Sự Bạn Gái, cô đã trở thành người đàn bà kín đáo nhất tòa soạn, quyến rũ nhất làng báo, lộng lẫy như trên sân khấu. Một hôm cô đến phòng tổ chức tự nguyện xin thôi việc để vào Sài Gòn. Ngày làm việc cuối cùng cô đến tòa soạn, giấu mình trong chiếc áo măng tô mùa đông màu cà phê. Vào đến căn phòng quen thuộc cô mới trút bỏ áo khoác để lộ chiếc may ô đỏ, chiếc quần đùi đỏ và đôi guốc cao gót đỏ, giống hệt như năm mươi cô gái đang dự thi hoa hậu trên tường. Cả ngày hôm ấy cô không đi ra khỏi phòng cũng không ai vào phòng cô, mà nói chung đã từ lâu không ai vào phòng cô cả. Ngày cuối cùng cô đã ngồi lại tâm sự đủ tám tiếng với Tâm Sự Bạn Gái không một lỗi văn phạm, không một lần tẩy xóa, rồi ra đi không một lời từ biệt. Không một ai nghe nói về cô nữa. Tâm Sự Bạn Gái phải đóng cửa chín tháng trời. Cho đến một ngày cuối năm một nghìn chín trăm chín mươi chín, có một phụ nữ trẻ đến tòa soạn xin việc. Cô chính là Phượng, ba mươi hai tuổi, đã có gia đình, đã có một con. Cô nghĩ tâm sự với bạn gái còn hơn ngồi tâm sự một mình nên rất vui vẻ nhận việc, lại còn cho rằng cô may mắn. Ngày thứ hai năm 2000 cô bắt đầu đến làm việc trong căn phòng ẩm ướt, cả sàn nhà cả bốn bức tường méo mó, cả năm mươi cô gái, năm mươi nụ cười đều sũng nước. Cô đành phải chọn một chiếc ghế đẩu nguyên vẹn để cho cả hai chân lên, còn cổ và đầu co vào cái khăn quàng cổ to xụ. Cô để cửa mở cho hơi nước bay bớt ra ngoài, ai đi qua cũng vô tình nhìn vào tận bên trong, nhìn vào tận cuộc thi hoa hậu đã từ lâu nổi tiếng trong tòa soạn. Ba ngày sau khuôn mặt và cơ thể cô chia các đồng nghiệp thành ba nhóm ý kiến khác nhau. Nhóm thứ nhất bảo cô tầm thường vô vị. Nhóm thứ hai cho là cô cực kì hấp dẫn vì cô luôn giấu mình dưới một vài thứ gì đó, ví dụ như hơi nước, ví dụ như chiếc khăn len to quá cỡ, chiếc áo choàng quá dài. Nhóm thứ ba gồm những người thích phụ nữ tươi trẻ thì không ưa cô, lại còn ví cô với con gà trúng mưa. Sáng sớm ngày thứ ba trưởng phòng biên tập gọi điện giục Tâm Sự Bạn Gái gấp rút bài vở cho báo Tết. Phượng trả lời tết năm nay hay tết năm sau. Cả một núi thư cao hơn đầu cô cái nọ dính vào cái kia vì ẩm, cái nào cũng dài hai trang. Tổng biên tập thuộc về nhóm ý kiến thứ hai nên đề nghị cô đi ăn trưa cùng ở quán cơm bụi Trần Hưng Đạo, nhưng nói thêm chỉ được ăn trong năm phút thôi. Không khí chạy sô của toàn xã hội đã bẩy tung cả những kẻ ù lì nhất. Những ai còn đủ hai chân đều thấy nên sử dụng chúng một cách triệt để, như thể bao nhiêu may mắn, tài lộc nằm cả ở cung di. Năm phút ăn trưa cùng tổng biên tập đủ để Phượng hiểu là các đồng nghiệp của cô cũng lao đi các cơ sở, nào ai nỡ câu nệ chuyên môn. Năm phút ăn trưa tổng biên tập cũng gợi ý cho cô mỗi nghề có một phép màu nhiệm riêng, ví dụ như cô có thể vừa tâm sự bạn gái, vừa là nhà báo đa năng. Báo chí ngày nay như cơm bình dân, mỗi nhà báo là một đầu bếp trái nghề, bí quyết giữ khách duy nhất là giá rẻ và nêm nhạt ai ăn cũng được, nếu cần mặn có thể xin thêm chén nước mắm. Mỗi bài báo là một món nẫu sẵn đã có công thức khỏi tính toán canh chừng, hôm trước còn thừa hôm sau có thể cho vào đun lại, còn bốc nổi hơi tức là còn xơi được. Phương châm chung là càng tiết kiệm, càng đỡ mất công, càng lợi.    Mời các bạn đón đọc Made in Vietnam của tác giả Thuận.