Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kinh Doanh Trong Thời Đại 4.0

Nguyên tắc chung để "lột xác" doanh nghiệp "Gián đoạn” hay “chuyển đổi” đang là những chủ đề nóng trong giới kinh doanh, và quả đúng như vậy. Công nghệ kỹ thuật số đã mang lại thay đổi lớn, làm gián đoạn toàn bộ nhiều ngành công nghiệp đồng thời tạo thời cơ cho các công ty như Facebook hay Amazon tăng trưởng kỷ lục. Ai cũng thấy rằng các tập đoàn lâu đời đang phải chật vật, trong khi các công ty mới, nhỏ và linh hoạt hơn vì áp dụng những mô hình kinh doanh mới. Nhưng giữa những thay đổi này, còn một điều cần phải chỉ ra: dù thời đại kỹ thuật số đang và sẽ tiếp tục là thách thức với các ông lớn trong các ngành truyền thống, nhưng cơ hội dành cho họ vẫn rộng mở. Công ty dự báo thời tiết The Weather Company là một ví dụ điển hình. Người dùng đã chuyển từ TV sang di động, nhưng họ không dùng điện thoại đủ lâu để việc quảng cáo trên đó có lợi nhuận. Các lãnh đạo công ty này đã chuyển hướng và tạo ra dịch vụ WeatherFX, dùng dữ liệu giúp các nhà bán lẻ dự đoán thời tiết sẽ ảnh hưởng tới hành vi mua sắm như thế nào. Nhiều công ty khác cũng đang tìm ra giải pháp riêng. Đối mặt với lượng người đọc báo in cùng với doanh thu quảng cáo suy giảm, tờ báo New York Times đã xây dựng mô hình đọc báo trả tiền khá thành công với 2,5 triệu người đăng ký, và tờ nhật báo này dự kiến sẽ thu được 800 triệu đô-la doanh thu từ mảng trực tuyến vào năm 2020. Các công ty xe hơi như Cadillac đang thử nghiệm dịch vụ cho thuê xe hạng sang, còn Sephora và các nhà bán lẻ khác đang tạo ra ứng dụng để cải thiện trải nghiệm mua sắm trong cửa hàng. Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs cũng tạo ra một nền tảng trực tuyến (và còn mời các đối thủ cạnh tranh cùng tham gia). Là một lãnh đạo doanh nghiệp, chắc bạn đã nghĩ về “kỹ thuật số” từ lâu, và chắc bạn đã thử các dự án để “số hóa” hoạt động kinh doanh của mình. Một số dự án có thể đã đơm hoa kết trái. Giống như các giám đốc mà tôi đã tiếp xúc, có lẽ bạn đang muốn chuyển đổi mạnh mẽ hơn nữa. Nhưng làm cách nào? Nếu công ty của bạn thiếu đi tố chất kỹ thuật số và sự linh hoạt vốn là lợi thế của các công ty khởi nghiệp, làm thế nào để bạn tận dụng tất cả những cơ hội của thời đại số? Trong hơn 10 năm, là một giáo sư ở Trường Kinh doanh Harvard, tôi đã nghiên cứu chiến lược kỹ thuật số và tư vấn hàng tá các công ty đang thực hiện chuyển đổi kỹ thuật số (digital transformation). Nhờ đó, tôi đã tận mắt chứng kiến những thành công và thất bại, và tôi nhận ra những lãnh đạo chuyển đổi thành công đã dồn toàn lực vào quyết tâm số hóa. Nói cách khác, họ không tách biệt chiến lược kỹ thuật trong chiến lược tổng quát, mà biến kỹ thuật số thành ưu tiên hàng đầu và làm sao để công nghệ số chạm đến mọi ngóc ngách của doanh nghiệp. Chuyển đổi kỹ thuật số yêu cầu gia cố nền móng nhưng đồng thời xây dựng những cấu trúc mới. Cuốn sách này, qua hàng loạt ví dụ, sẽ dẫn đường cho bạn. Trong sách có các nghiên cứu trường hợp (case study) và những phương pháp tốt nhất (best practices) từ những doanh nghiệp đã hoàn toàn “lột xác”, cùng với các nguyên tắc chung sẽ giúp bạn vạch ra chiến lược số bao trùm và dẫn dắt doanh nghiệp qua quá trình chuyển đổi. CÁC THỬ NGHIỆM SAI LẦM Để tránh khỏi làn sóng gián đoạn của thời đại kỹ thuật số, đồng thời tìm kiếm cơ hội mới, các công ty thường đi theo 3 chiến lược: tạo ra các đơn vị nhỏ, độc lập hoặc các công ty khởi nghiệp trong lòng doanh nghiệp lớn; tiến hành một loạt các thử nghiệm ứng dụng kỹ thuật số; và cuối cùng là áp dụng công nghệ để giảm giá thành và tăng tính hiệu quả. Tuy nhiên, các nỗ lực đó chỉ đạt kết quả hạn chế. Hầu hết các tập đoàn lớn đã mở các đơn vị kỹ thuật số độc lập hoặc có văn phòng ở Silicon Valley, gửi gắm hi vọng đổi mới sáng tạo vào các doanh nhân trẻ. Chẳng hạn, gã khổng lồ viễn thông của Tây Bay Nha Telefónica thành lập đơn vị độc lập như vậy vào tháng 9 năm 2011, mang tên Telefónica Digital. Với trụ sở công ty mẹ đặt ở Madrid, đơn vị kỹ thuật số mới đặt ở London với giám đốc điều hành (CEO) riêng và ngân sách độc lập. Giống phần lớn các công ty viễn thông, Telefónica đã không hưởng lợi từ cuộc cách mạng di động. Thay vào đó, những đối thủ mới như Skype và WhatsApp đang thách thức mọi dịch vụ của họ. Lãnh đạo Telefónica hi vọng đơn vị số này sẽ sáng tạo những ý tưởng mới cho sản phẩm và dịch vụ tương lai của công ty. Với sự mệnh đầy tham vọng, quyền tự do hoạt động độc lập và ngân sách dồi dào, Telefónica Digital bắt đầu sáng tạo. Họ đưa ra nhiều ý tưởng khá mới mẻ đối với một công ty viễn thông thời bấy giờ. Sau khi phát triển thử nghiệm, nhóm này gửi các ý tưởng triển vọng về trụ sở ở Madrid để thực hiện toàn cầu. Tuy nhiên, có nhiều sự phản đối từ lãnh đạo công ty con ở các nước, những người không cảm thấy thuyết phục và cũng không có nguồn lực để thực hiện ý tưởng. Sau 3 năm, Telefónica đóng cửa đơn vị kỹ thuật số ở London và chuyển nó về Madrid. Tạo ra đơn vị độc lập giống như dùng xuồng cao tốc để chuyển hướng con tàu lớn. Thường thì xuồng cao tốc vẫn sẽ chạy, nhưng không có mấy tác động tới con tàu mẹ. Chiến lược thứ hai là khi các công ty làm nhiều thí nghiệm nhỏ hơn – điều khá hợp lý trong bối cảnh kinh doanh thay đổi liên tục và bất trắc. Hành trình này thường bắt đầu với một vài thử nghiệm mang tính ngắn hạn, thường ở phòng marketing, nơi các nhân viên thường xuyên dùng thử các giải pháp mới trên mạng xã hội hoặc di động. Khi sự phấn khởi về kỹ thuật số lan rộng, các dự án nở rộ khắp nơi trong doanh nghiệp. Năm 2012, Kasper Rorsted, CEO của tập đoàn Henkel (Đức) thời đó, nhận ra điều này khi ông yêu cầu một nhóm lãnh đạo cao cấp lập danh sách các dự án kỹ thuật số. Ông khá bất ngờ khi có hơn 150 dự án số riêng rẽ trong tập đoàn. Nhiều dự án bắt đầu là các thí nghiệm nhỏ để giải quyết một bài toán cụ thể trong một phòng ban hay một công ty con. Chẳng lâu sau, có thêm nhiều dự án số mới mọc lên ở khắp nơi trong tập đoàn, mà Rorsted gọi là “hàng trăm bông hoa”.1 Nhận ra các dự án như vậy không tạo ra sự hiệp lực (synergy), các công ty bắt đầu hợp nhất chúng lại. Một nhóm lãnh đạo lên danh sách các dự án số ở các phòng ban, nhãn hàng, đơn vị và khu vực khác nhau, và tìm cách phân chia, hợp nhất. Thông thường, một hội đồng quản lý được lập ra để xét duyệt các dự án số trong tương lai. Ở giai đoạn này, các dự án trước đó chỉ trong khu vực giờ trở thành toàn cầu, và các dự án dành cho một nhãn hàng sẽ phục vụ nhiều thương hiệu. Mỗi giai đoạn trong hành trình này đều có ích, thậm chí rất quan trọng, vào thời điểm đó. Các thử nghiệm giúp công ty khẳng định các ý tưởng mới và khám phá các xu hướng tương lai. Sự nở rộ các ý tưởng, dự án ở các đơn vị kinh doanh là chỉ dấu cho sự hào hứng cùng nhau xây dựng. Sự hợp nhất các dự án cũng cần thiết để phân phối nguồn lực một cách hiệu quả. Tuy nhiên, làm nhiều thí nghiệm mà không có chiến lược và phương hướng sẽ tạo ảo tưởng thành công trong ngắn hạn mà không tạo được thay đổi lâu dài. Các ý tưởng nở rộ nhưng không được hiện thực hóa trên quy mô lớn sẽ gây lãng phí thời gian và nguồn lực. Quan trọng hơn, cách tiếp cận từ dưới lên (bottom-up) như vậy thường mang tính tình thế, ngắn hạn, và không phải là câu trả lời căn bản cho chiến lược mà các doanh nghiệp nên bàn luận. Cách tiếp cận thứ 3 là tận dụng công nghệ để cắt giảm chi phí và tăng tính hiệu quả trong hoạt động. Ví dụ, các ngân hàng đóng cửa phòng giao dịch khi càng nhiều khách hàng dùng dịch vụ trực tuyến và di động. Các cửa hàng bán lẻ giảm diện tích và đóng cửa những địa điểm vắng khách. Các quy trình được số hóa và điều chỉnh để giảm chồng chéo, tăng hiệu quả. Nhiều tác vụ được thiết kế lại để khách hàng tự phục vụ (self-serve), giúp giảm chi phí nhân công. Tăng năng suất và giảm chi phí nên là các mục tiêu trong mọi doanh nghiệp. Nhưng nếu bạn chỉ hướng tới mục tiêu đó, bạn đang chấp nhận sẽ không để công nghệ thay đổi tận gốc doanh nghiệp của mình. Chẳng hạn, nếu chấp nhận như vậy thì các ngân hàng vẫn nên hoạt động như cũ và sẽ không bị ảnh hưởng nhiều từ các công ty công nghệ tài chính (fintech). (Tuy nhiên, thực tế lại không phải vậy. Chẳng hạn, quỹ đầu từ Yu’e Bao do Alibaba sở hữu mới hoạt động 4 năm, là quỹ gom tiền thừa trong tài khoản của khách hàng. Đây đã trở thành quỹ thị trường tiền tệ (money-market fund) lớn nhất thế giới, với 165,6 tỷ đô-la, vượt qua quỹ thị trường tiền tệ 150 tỷ đô-la của JPMorgan). Tóm lại, những cách để hướng tới công nghệ số như trên chỉ mang tính chắp vá, chứ không giải quyết các vấn đề ẩn sâu bên trong. Để thành công, bạn không thể chỉ tạo một đơn vị kỹ thuật số riêng, hoặc tiến hành các thử nghiệm, hoặc chỉ dự định dùng công nghệ để tăng năng suất. Thay vào đó, bạn phải biến kỹ thuật số thành chiến lược cốt lõi. Thay vì coi chiến lược số là nỗ lực riêng biệt, bạn phải để nó bao trùm lên mọi hoạt động, mọi bước đi trong doanh nghiệp của mình. TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC: NGUYÊN TẮC CHUNG ĐỂ ĐỔI MỚI DOANH NGHIỆP Dùng nhiều ví dụ ở nhiều ngành, cuốn sách này sẽ cho bạn các nguyên tắc chung để đổi mới doanh nghiệp, tận dụng các lợi thế sẵn có và nhìn ra những nguồn lực cần phải phát triển. Có 4 nguyên tắc căn bản: 1. Tái tư duy hướng kinh doanh 2. Tái đánh giá chuỗi giá trị 3. Tái kết nối với khách hàng 4. Tái cấu trúc doanh nghiệp Trong cuốn sách này, tôi sẽ bàn chi tiết các nguyên tắc trên. Bạn sẽ phải đối diện với chúng. Để thành công, bạn không thể bỏ qua nguyên tắc nào. Nhưng bạn sẽ nhận ra từ các nghiên cứu trường hợp rằng có nhiều hướng đi linh hoạt và rộng mở để chuyển đổi doanh nghiệp của mình. Vì biết rằng không có cây đũa thần duy nhất, cuốn sách này sẽ cố gắng đưa ra cách tiếp cận mang tính hệ thống cho việc chuyển đổi kỹ thuật số. Tái tư duy hướng kinh doanh Với những thay đổi chóng mặt của kỷ nguyên kỹ thuật số, bạn cần ngồi lại và suy ngẫm về bản chất của doanh nghiệp mình, tìm hiểu 3 yếu tố: phạm vi, mô hình kinh doanh và môi trường kinh doanh. Khi nghĩ về phạm vi, bạn sẽ phải tự hỏi: “Chúng ta sẽ hoạt động trong lĩnh vực nào?” Như Amazon, khởi đầu là một trang web bán hàng, nhưng giờ không giới hạn ở lĩnh vực bán lẻ. Năm 2017, Amazon dự kiến sẽ kiếm được 3,5 tỷ đô-la tiền quảng cáo, và đồ điện tử như Echo cũng đang tranh giành thị phần. Google cũng đang đầu tư vào xe tự lái, còn Apple, sau hàng thập kỷ là một công ty phần cứng, đang đầu tư mạnh mẽ vào mảng nội dung. Vậy bạn nên đầu tư vào đâu? Trong thời đại kỹ thuật số, các công ty thường rẽ ngang để cạnh tranh, và xác định lại phạm vi kinh doanh là chìa khóa của thành công. Cần phải cân bằng và thận trọng, vừa giữ vị trí sẵn có vừa mở rộng phạm vi kinh doanh. Chương 1 sẽ bàn về phạm vi kinh doanh và cho bạn thấy các quy luật của cuộc chơi đã thay đổi, và phải làm sao để tiếp tục cạnh tranh. Thay đổi công nghệ đòi hỏi xác định lại mô hình kinh doanh, cách bạn tạo ra giá trị và chiếm được vị trí trong chuỗi giá trị. Chẳng hạn, khi iTunes làm nghiêng ngả ngành công nghiệp đĩa hát, khiến doanh thu suy giảm, ngành này đã phải chuyển trọng tâm sang biểu diễn sân khấu làm nguồn thu chính. Ngành xuất bản và báo in, với doanh thu quảng cáo suy giảm, cũng buộc phải xem lại liệu có nên trông chờ một tương lai dựa vào quảng cáo hay không. Chương 2 bàn về các đổi mới sáng tạo mô hình kinh doanh và cách công ty của bạn có thể học hỏi. Khi các mô hình kinh doanh đều thay đổi và cạnh tranh càng gay gắt, có thể bạn sẽ nhận ra khó có thể thành công một mình. Có thể bạn sẽ phải biến thành một nền tảng (platform) nơi bạn phải hợp tác với một môi trường kinh doanh mới – cả đối tác lẫn đối thủ (frenemies). Nhiều công ty đã tạo ra các nền tảng và buộc phải thay đổi cách nhìn về cạnh tranh. Khi ngân hàng đầu tư Goldman Sachs khai trương mảng buôn bán trái phiếu cấu trúc (structured notes), còn có tên SIMON, họ đã làm mọi người kinh ngạc khi mời các đối thủ cùng lên nền tảng đó và bán sản phẩm. Chiến lược này đã khiến Goldman Sachs trở thành nhà phát hành trái phiếu cấu trúc lớn thứ 2 thế giới chỉ sau vài năm. Việc chuyển hướng từ bán sản phẩm sang quản lý một nền tảng cần chiến lược và suy nghĩ rất khác, như sẽ đề cập trong Chương 3. Đánh giá lại chuỗi giá trị Công nghệ kỹ thuật số có thể tăng hiệu quả và năng suất trong chuỗi giá trị của bạn, nhất là khi nhiều mô hình Nghiên cứu & Phát triển (R&D) và đổi mới được ứng dụng. Các công ty như GE, P&G và Siemens đã tận dụng khái niệm “sáng tạo mở” để tiếp cận R&D. Chương 4 sẽ phân tích tại sao và khi nào sáng tạo mở phát huy tác dụng, bạn nên thiết kế mô hình sáng tạo mở trong doanh nghiệp như thế nào, và làm sao để tránh các sai lầm. Công nghệ số đã mở ra kỷ nguyên Công nghiệp 4.0. Các đổi mới như sản xuất vận dụng kỹ thuật số, thực tế ảo và thực tế ảo tăng cường (virtual & augmented reality), công nghệ in 3-D, và chuỗi cung ứng kỹ thuật số đang tăng năng suất doanh nghiệp. Chương 5 sẽ bàn về cách các doanh nghiệp toàn thế giới đang vận dụng công nghệ để tạo lợi thế cạnh tranh. Những công ty mới đang áp dụng công nghệ số để làm gián đoạn chuỗi giá trị sẵn có, đặc biệt là mảng phân phối. Trong làn sóng Internet thời đầu, các công ty mới đã làm chao đảo nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như các đại lý du lịch. Quá trình này vẫn tiếp tục, và giờ đến lượt các đại lý xe hơi và nhà bán lẻ chịu sức ép, khi các nhà sản xuất tự mở các kênh phân phối trực tuyến của riêng mình. Thách thức với các nhà sản xuất là làm sao để phối hợp cả 2 kênh phân phối truyền thống lẫn trực tuyến, làm sao để tạo sức mạnh cộng hưởng, như Chương 6 sẽ đề cập. Tái kết nối với khách hàng Công nghệ số cũng thay đổi cách tìm mua hàng, và tạo điều kiện để thu thập thông tin về toàn bộ quá trình chọn mua hàng, mở ra hàng loạt các hướng tìm kiếm khách hàng mới. Trước khi mua xe, khách hàng sẽ tìm kiếm thông tin trên Google, và đó là cơ hội để các nhà sản xuất xe hơi tìm hiểu thị hiếu đồng thời tác động đến quyết định của họ. Các cảm biến gắn vào máy giặt có thể giúp hãng máy giặt Whirlpool ghi lại cách thức sử dụng của khách hàng, và thậm chí có thể cung cấp thông tin về loại bột giặt cho hãng P&G. Vì người tiêu dùng ngày càng dựa vào đánh giá từ bạn bè trên mạng, bạn có thể theo dõi mạng xã hội xem có thể biến ai thành “người ảnh hưởng” (brand advocates) có khả năng thuyết phục người khác. Chương 7 sẽ thảo luận cách công nghệ số mở ra nhiều hướng tìm kiếm khách hàng mới. Dù marketing kỹ thuật số đã qua nhiều năm phát triển, tỷ lệ người dùng nhấn chuột vào quảng cáo trực tuyến chỉ dưới 1%. Nhãn hàng nào cũng muốn lôi cuốn người tiêu dùng, nhưng người tiêu dùng sẽ không tự nhiên mà tìm hiểu về một bánh xà phòng, một lon nước ngọt hay một chai bia. Giữa vô số thông tin ồn ào trên mạng, làm thế nào để bạn được họ chú ý? Chương 8 sẽ cho thấy câu trả lời không chỉ nằm ở công nghệ và dữ liệu, mà nằm ở việc đưa ra các giá trị độc nhất vô nhị cho khách hàng, như các ví dụ mà Tesco đã làm ở Hàn Quốc, Unilever ở Ấn Độ, và MasterCard ở Singapore. Công nghệ số lẽ ra phải khiến việc đánh giá chiến dịch quảng cáo dễ dàng hơn. Nhưng việc đó vẫn khó khăn do nhiều thách thức, như việc phân bổ kết quả của chiến dịch marketing (attribution). Làm sao để bạn phân tích và tối ưu hóa chi phí tiếp thị? Chương 9 sẽ nói về các nghiên cứu giúp các công ty trong công đoạn quan trọng này. Tái cấu trúc doanh nghiệp Đưa doanh nghiệp qua chặng đường chuyển đổi kỹ thuật số không phải chuyện nhỏ. Khi vừa củng cố thế mạnh hiện tại, vừa xây dựng cho tương lai, bạn sẽ phải quản lý đồng thời 2 doanh nghiệp. Vì vậy, doanh thu và lợi nhuận sẽ giảm trong giai đoạn chuyển đổi, trước khi có thể tăng lên, và điều đó có thể làm một CEO tự tin nhất phải nao núng. Chương 10 sẽ bàn về thách thức khi chuyển đổi kỹ thuật số và nêu những ví dụ các công ty như Adobe đã trải qua quá trình này thành công. Nếu vậy, làm sao để chuẩn bị doanh nghiệp của bạn cho việc đổi mới sáng tạo? Như tôi đã nói trong phần trước, tạo ra một nhóm khởi nghiệp riêng biệt bên trong một doanh nghiệp truyền thống giống như dùng xuồng cao tốc để chuyển hướng con tàu mẹ. Do vậy thay vì dùng xuồng cao tốc, bạn hãy tạo ra một nơi neo đậu cho các dự án mới mà chúng ta đang gọi là xuồng cao tốc này, để rồi tận dụng sức mạnh của con tàu mẹ mà dần dần lái nó theo hướng khác. Chương 11 sẽ giải thích thêm. Dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, và máy học (machine learning) đã tự động hóa nhiều việc làm, thay đổi hoàn toàn các kỹ năng mà nhân lực của doanh nghiệp cần có. Công nghệ đã khiến việc quản lý nhân lực bớt tính chủ quan và phụ thuộc nhiều hơn vào dữ liệu. Các phương pháp mới để tuyển dụng, quản lý người tài đang được áp dụng. Chương 12 nói về các chủ đề này và mô tả cách mà Knack, một công ty ở San Francisco, Mỹ, dùng trò chơi trên di động để tuyển nhân tài. Mỗi trò chơi 10 phút cho Knack hàng ngàn kiểu dữ liệu về cách các ứng viên xử lý thông tin, đối phó với thử thách và học hỏi từ sai lầm. Sự sáng tạo này đã giúp Knack có được nhiều người ủng hộ và nhiều khách hàng lớn như AXA, BCG, Nestlé và Citigroup. Sau đây cuốn sách sẽ bàn về 4 nguyên tắc lớn của chuyển đổi kỹ thuật số được minh họa trong hình 1-1. Mỗi chương sẽ đi sâu vào 3 chủ đề nhỏ, nêu ra các cách thức tối ưu, và giải đáp những câu hỏi đặt ra ở trên. *** Phạm vi kinh doanh Năm 1960, Theodore Levitt, giáo sư Trường Kinh doanh Harvard, đăng bài viết gây tranh cãi trên Harvard Business Review, trong đó ông tranh luận rằng các công ty quá chú trọng vào sản phẩm mà không phải vào nhu cầu của khách hàng. Để giúp các nhà quản lý tránh điều này, ông đặt câu hỏi “Các bạn thực sự đang trong ngành kinh doanh nào?”1 Năm thập kỷ sau, câu hỏi căn bản đó càng trở nên quan trọng, khi các công ty chuyển từ sản phẩm sang nền tảng và ranh giới giữa các lĩnh vực ngày càng mờ nhạt. Nhưng ngay cả khi đa số doanh nghiệp đang cố gắng lấy khách hàng làm gốc, vẫn có nhiều giám đốc cao cấp từ các tập đoàn như General Motors hay Walmart chỉ nhìn vào sản phẩm để xác định mục tiêu hay lĩnh vực kinh doanh. Hãy cùng tìm hiểu xem Amazon đã vận dụng lời khuyên của Levitt như thế nào. AMAZON KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC NÀO? Khi Amazon mới khai trương website, vào tháng 7 năm 1995, nhà sáng lập Jeff Bezos muốn dùng Internet để bán sách với giá rẻ. Ông lập ra một hiệu sách ảo, với chi phí cố định thấp và nhiều đầu sách hơn so với một cửa hàng truyền thống. Khái niệm đó trở nên phổ biến, và Bezos nhận ra khách mua những mặt hàng khác cũng sẽ thích hình thức này. Ông bán thêm đĩa nhạc, đồ điện tử, đồ chơi, phần mềm, đồ gia dụng và nhiều mặt hàng khác. Giá cạnh tranh, chủng loại đa dạng và sự tiện dụng của Amazon thách thức các nhà bán lẻ truyền thống như Best Buy, Toys “R” Us, và Walmart. Năm năm sau, Amazon mở cửa trang web và mời các bên thứ 3 lên bán hàng, với điều kiện họ trả Amazon khoản phí nhỏ. Đôi bên cùng có lợi: hàng hóa trở nên đa dạng hơn mà Amazon không tốn một xu, còn các bên thứ 3 hưởng lợi từ lượng khách sẵn có trên Amazon. Việc mở cửa cho các bên thứ 3 biến Amazon từ nhà bán lẻ trực tuyến thành một nền tảng trực tuyến, buộc Amazon phải xây dựng những cái mới đồng thời phải mời gọi, hướng dẫn và quản trị mạng lưới người bán sao cho trải nghiệm của khách hàng vẫn được đảm bảo. Và phải cạnh tranh với một loạt đối thủ mới bao gồm eBay, Craigslist và các công ty khác. Các nhà bán lẻ trực tuyến khác, như Flipkart ở Ấn Độ, cũng đang chuyển đổi tương tự và nhận ra rằng chuyển từ mô hình bán lẻ sang mô hình chợ điện tử đòi hỏi thay đổi lớn về hoạt động cũng như nguồn lực.2 Sự ra đời của dịch vụ iTunes vào năm 2001 cho phép người dùng tải về nhạc kỹ thuật số thay vì mua đĩa CD từ cửa hàng. Nhận ra xu hướng này, Amazon ra mắt dịch vụ video theo yêu cầu, ban đầu với tên Unbox sau đổi thành Amazon Instant Video, gần một năm trước dịch vụ xem phim trực tuyến của Netflix. Amazon đã theo sát nhu cầu của người dùng và chuyển từ kinh doanh đĩa CD, DVD sang xem phim trực tuyến, và phải phát triển nguồn lực mới, cạnh tranh với các đối thủ mới như Apple hay Netflix. Năm 2011, hợp tác với công ty Warner Brothers, Amazon thành lập Amazon Studios chuyên sản xuất phim, và bỗng nhiên trở thành đối thủ của Hollywood. Vì lý do gì mà Amazon, ban đầu là nhà bán lẻ, lại đi theo hướng này? Bởi vì nội dung phim giúp Amazon biến người xem thành người mua hàng. Năm 2016 tại một hội thảo công nghệ gần Los Angeles, Jeff Bezos nói: “Nếu chúng tôi đạt giải Quả cầu vàng, chúng tôi sẽ bán được nhiều giày hơn”.3 Theo như Bezos, phim của Amazon Studios cũng khiến nhiều người đăng ký gói Prime gia hạn dịch vụ hơn, và “tỷ lệ dùng thử rồi đăng ký hẳn gói Prime cũng cao hơn ở những khách hàng có xem phim trực tuyến”.4 Ra mắt năm 2015, Prime miễn phí giao hàng trong vòng 2 ngày, với chi phí của gói ban đầu là 79 đô-la/năm sau tăng lên 99 đô-la/năm. Tới năm 2017, Amazon đã có gần 75 triệu người dùng Prime trên toàn thế giới.5 Phí đăng ký không chỉ mang về cho Amazon 7,5 tỷ đô-la mỗi năm, mà người dùng Prime còn là những người mua sắm nhiều gấp đôi.6 Các phim của Amazon vừa khiến người dùng trung thành hơn với Prime, vừa lôi cuốn khách hàng mới. Năm 2015, Giám đốc tài chính (CFO) của Amazon, Tom Szkutak, khen ngợi khoản đầu tư 1,3 tỷ đô-la của Amazon vào làm phim đã góp phần quan trọng trong việc thu hút khách hàng mới đến với dịch vụ của Amazon, bao gồm Prime.7 Năm 2017, Amazon chi 4,5 tỷ đô-la để làm phim mang thương hiệu riêng.8 Nhưng phạm vi kinh doanh của Amazon không dừng lại ở bán lẻ và làm phim. Năm 2007, Amazon tung ra thiết bị đọc sách Kindle, gần 3 năm trước iPad. Đến lúc này, Amazon, khởi đầu nhờ bán lẻ, đã xâm nhập lĩnh vực sản xuất thiết bị. Kindle được thiết kế để giúp bán sách điện tử (ebook) khi mà người đọc chuyển từ sách giấy sang sách kỹ thuật số. Phải nói rằng, chiến lược của Amazon cho Kindle khác so với chiến lược của Apple cho iPad. Apple nhận doanh thu hầu hết từ thiết bị, còn Amazon coi Kindle như “dao cạo”, bán với giá thấp (thậm chí không lãi) để kiếm nhiều tiền hơn nhờ bán sách điện tử, tức “lưỡi dao” (mô hình kinh doanh còn được gọi là “lưỡi và dao cạo”). Khi người dùng ngày càng dành nhiều thời gian trước màn hình di động, Amazon tung ra điện thoại Fire vào tháng 7 năm 2014. Fire không được ưa chuộng, nhưng liệu bước đi vào thị trường này có phải sai lầm? Cũng có thể. Nhưng kịch bản thành công nếu xảy ra sẽ đem lại lợi nhuận khổng lồ. Gần đây hơn, Amazon tung ra các thiết bị khác như nút bấm Amazon Dash, cho phép người dùng mua hàng từ hơn một trăm thương hiệu, và Echo, trợ lý ảo nhận biết giọng nói, có thể chơi nhạc trực tuyến, tìm kiếm thông tin, và tất nhiên đặt hàng từ trên Amazon một cách thuận tiện.9 Echo được tung ra vào tháng 11 năm 2014, và trong 2 năm đã bán được gần 11 triệu chiếc ở Mỹ, còn các lập trình viên đã tạo ra hơn 12.000 ứng dụng hay còn gọi là “kỹ năng” cho thiết bị này. Giọng nói ngày càng trở thành phương thức giao tiếp với thiết bị, và về mặt này, Amazon đã ở vị thế chắc chắn nhờ vào Echo. Amazon cũng thành lập mảng kinh doanh quảng cáo, cạnh tranh trực tiếp với Google. Với số lượng người dùng khổng lồ, Amazon biết thói quen tìm kiếm và mua hàng của họ, và dùng kho tàng dữ liệu phong phú đó để đặt quảng cáo có tác động nhiều nhất với người dùng. Trong khi Google chỉ biết người dùng có ý định mua hàng, Amazon biết được người đó có thực sự mua hay không, một thông tin hữu ích cho nhà sản xuất, những người đang chi ngày càng nhiều ngân sách quảng cáo trực tuyến trên Amazon. Sự thay đổi đó đã mang lại cho Amazon 3,5 tỷ đô-la doanh thu quảng cáo trong năm 2017.10Nhưng một mục tiêu lớn hơn với Amazon là thay thế Google làm cỗ máy tìm kiếm sản phẩm, sao cho người mua hàng sẽ bắt đầu tìm kiếm trên Amazon, chứ không phải trên Google. Như vậy, Amazon sẽ phải chi ít tiền hơn cho quảng cáo trên Google, và Amazon cũng sẽ kiểm soát thị trường nhiều hơn. Tháng 10 năm 2015, thăm dò 2.000 người tiêu dùng Mỹ cho thấy 44% trong số họ tìm trực tiếp trên Amazon, so với 34% dùng các trang tìm kiếm như Google hay Yahoo.11 Eric Schmidt, chủ tịch điều hành của Google, thừa nhận xu hướng này. “Mọi người không nghĩ Amazon là cỗ máy tìm kiếm”, Schmidt nói, “nhưng khi tìm mua thứ gì đó, thường là bạn lên tìm trên Amazon”.12 Có lẽ gây tranh cãi hơn cả là quyết định của Jeff Bezos tiến vào thị trường điện toán đám mây, với dịch vụ Amazon Web Services (AWS). Bỗng nhiên Amazon có hàng loạt đối thủ cạnh tranh khác, như IBM. Một nhà bán lẻ đang làm gì trong mảng điện toán đám mây? AWS giúp Amazon dễ dàng tăng quy mô hoạt động để đáp ứng tăng trưởng sau này, cho phép Amazon học hỏi từ các công ty thương mại điện tử khác cũng trên nền tảng AWS. Nó cũng cho phép Amazon biến các máy chủ web nhàn rỗi thành doanh thu. Như vậy , AWS vừa là cách để Amazon xây dựng tiềm lực công nghệ để trở thành gã khổng lồ trên Internet, đồng thời kiếm lời từ tiềm lực này.   Mời các bạn đón đọc Kinh Doanh Trong Thời Đại 4.0 của tác giả Sunil Gupta.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

OKRs - Hiểu Đúng, Làm Đúng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách OKRs - Hiểu Đúng, Làm Đúng của tác giả Mai Xuân Đạt. Đặc điểm của “OKRs, Hiểu đúng, làm đúng”: - “Hướng dẫn thực hành OKRs”; Giải tỏa các hiểu nhầm về OKRs và giúp thực hiện thành công OKRs ngay từ đầu. - Cuốn sách dành cho bất kì cá nhân, tổ chức, đội nhóm, doanh nghiệp từ vừa và nhỏ đang loay hoay tìm ra cách quản trị hiệu quả để vươn đến sự phát triển vượt trội trong tương lai. - Được viết từ một chuyên gia, Founder của cộng đồng VNOK, cộng đồng OKRs đầu tiên tại Việt Nam; Founder VNOKRs Công cụ OKRs phù hợp với Doanh nghiệp Việt Nam – Mr. Mai Xuân Đạt. - Đọc “OKRs, Hiểu đúng, làm đúng” sẽ giúp “hiểu đúng” về phương pháp quản trị OKRs, và tiến đến “làm đúng” để đạt tới hiệu quả tốt nhất cho sự phát triển của doanh nghiệp, tổ chức ở Việt Nam.   TRÍCH ĐOẠN HAY TRONG SÁCH Thực ra tôi đã biết đến OKRs từ khoảng năm 2015, 2016. Là một tín đồ của Google, gần như tôi tìm hiểu hết những gì Google làm, đã từng và sẽ làm. Khi nhắc đến Google, người ta luôn nói tới OKRs như một trong những lí do quan trọng nhất giải thích cho sự phát triển thần kì của Google. Tôi đã thử OKRs vào năm 2018, cho một công ty nhỏ mới mở của mình. Chúng tôi đã đặt ra các Mục tiêu và Kết quả chính cho 2 quý. Nhưng rồi tôi thấy OKRs quá đơn giản và không mang lại chút kết quả nào, nên tôi đã từ bỏ. Đáng lẽ, tôi đã không đọc Measure What Matter, vì ấn tượng không tốt đối với OKRs khi triển khai không thấy hiệu quả. Nhưng thật may mắn, một trong những thành viên quan trọng của công ty là Nguyễn Ngọc Hưng, Trưởng phòng Marketing chiến lược, đã đọc cuốn sách này và yêu cầu một cuộc họp cấp cap để giải thích về OKRs. Trong vòng 2 tiếng trình bày, Hưng đã chia sẻ những điều tôi chưa từng biết về OKRs, về tính trong suốt của OKRs, về cách tạo ra các bộ OKRs, về việc OKRs thuộc về cá nhân… Tất cả những điều thú vị đó, đến từ Measure What Matter, cuốn sách có ấn bản tiếng Việt vào quý III năm 2019 (sau khi tôi áp dụng OKRs thất bại lần đầu). Và thế là tôi đã ngấu nghiến OKRs trong suốt 2 tuần ở nhà. Trở lại công ty sau khi đã chắc chắn hiểu về OKRs, tôi biết rằng mình đã có cách để điều hành công việc. Và tuyên ngôn lúc này của công ty là “Hoặc là OKRs, hoặc không là gì cả”. Đúng thật chúng tôi đã phải vật lộn với OKRs trong 2 quý đầu bằng sự quyết tâm sống còn: “Hoặc áp dụng thành công OKRs, hoặc sẽ phải đóng cửa công ty”. Chỉ đến quý thứ ba thực hành OKRs, chúng tôi mới bắt đầu ổn. Trong thời gian đó, bản thân tôi cũng đã tìm hiểu thêm về OKRs từ rất nhiều chuyên gia khác, trong đó nổi bật có: Paul R.Niven và Ben Lamorte, đồng tác giả của cuốn sách Objective & Key Results” rất nổi tiếng được xuất bản cuối 2016; Felipe Castro, một diễn giả - nhà tư vấn – nhà huấn luyện OKRs. Kết hợp giữa “Kinh thánh OKRs” của John Doerr và những tư tưởng khác từ Paul R.Niven và Ben Lamorte, Felipe Castro, tôi đã khắc phục được một số vấn đề cản trở việc áp dụng OKRs từ đội ngũ nhân viên của mình. Tổ chức của bạn sẽ thất bại với OKRs nếu tồn tại những quản lí xấu tính, hay áp đặt, thiếu tin tưởng ở nhân viên. Vì OKRs là sự hợp tác nên mình bạch và lắng nghe là những yếu tố bắt buộc cần có. Andy Grove, người sáng lập OKRs từng nói “Các công ty tồi bị phá hủy bởi khủng hoảng, các công ty tốt tồn tại được trong khủng hoảng, còn các công ty tuyệt vời tiến bộ ngay trong khủng hoảng. KPIs đôi khi được gọi là số liệu sức khỏe, vì chúng giúp bạn theo dõi sức khỏe tổng thể của tổ chức. Giống như các chỉ số sức khỏe của bạn, chúng cần được theo dõi. Và nếu mọi thứ đang ở ngưỡng an toàn, bạn chỉ cần tiếp tục sống một cách bình thản như mọi ngày. Và nếu có chỉ số chạm ngưỡng an toàn, bạn sẽ cần hành động. OKRs thì khác, OKRs giống như bạn tham gia một khóa huấn luyện GYM. Bạn có các chỉ số phân tích cơ thể, và sau đó bạn có các chỉ số mục tiêu cần đạt được: lượng mỡ trong cơ thể, lượng cơ, nhịp tim, sự cân đối giữa các phần của cơ thể… Sau mỗi thời gian tập GYM cùng huấn luyện viên, bạn đo lại chỉ số cơ thể mình để biết rằng mọi thứ có đang đi đúng hướng hay không và bạn nên điều chỉnh như thế nào. Và nếu bạn đã quen với việc tập GYM, ngay cả khi đã đạt được các chỉ số cân bằng đáng mơ ước, bạn sẽ vẫn tiếp tục, bởi bạn biết bản thân mình còn có thể tốt hơn nữa. Sau khi giảm mỡ, bạn sẽ khiến cơ thể săn chắc hơn hoặc một số bộ phận nở nang hơn chứ? OKRs là như vậy, nếu một mục tiêu nào đó lặp đi lặp lại và đi ngang nghĩ là chúng ta cần xem xét thúc đẩy mục tiêu đó trong chu kì tiếp theo. OKRs không chỉ đo hiệu suất cho thấy sức khỏe của tổ chức, OKRs thúc đẩy cả tổ chức đi lên không ngừng nghỉ, thậm chí là đi rất xa (với OKRs tham vọng). THÔNG TIN TÁC GIẢ: “MAI XUÂN ĐẠT” Nhà huấn luyện OKRs – Founder VNOKRs Công cụ OKRs phù hợp với Doanh nghiệp Việt Nam. Founder VNOK, cộng đồng OKRs đầu tiên tại Việt Nam. Đồng thời là CEO SEONGON, RedMonsters, các Agency uy tín trong lĩnh vực Digital, Google Marketing, Content Marketing… *** Tóm tắt Cuốn sách OKRs, Hiểu Đúng, Làm Đúng của tác giả Mai Xuân Đạt là một hướng dẫn thực hành OKRs, giải tỏa các hiểu nhầm về OKRs và giúp thực hiện thành công OKRs ngay từ đầu. Cuốn sách được chia thành 4 phần: Phần 1: Giới thiệu về OKRs Phần 2: Lập OKRs Phần 3: Theo dõi và đánh giá OKRs Phần 4: Những vấn đề thường gặp khi áp dụng OKRs Đánh giá Cuốn sách OKRs, Hiểu Đúng, Làm Đúng được đánh giá cao về tính thực tiễn và dễ hiểu. Cuốn sách cung cấp cho người đọc những kiến thức và kỹ năng cần thiết để áp dụng OKRs thành công trong tổ chức, doanh nghiệp. Một số điểm mạnh của cuốn sách: Cuốn sách được viết bởi một chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực OKRs. Cuốn sách cung cấp thông tin đầy đủ và chi tiết về OKRs. Cuốn sách được trình bày một cách rõ ràng, dễ hiểu. Một số ý kiến ​​đánh giá của độc giả: "Cuốn sách rất hay và hữu ích. Tôi đã áp dụng OKRs theo hướng dẫn trong sách và đã đạt được những kết quả tích cực." "Cuốn sách giúp tôi hiểu rõ hơn về OKRs và cách áp dụng nó trong thực tế." "Cuốn sách rất dễ hiểu và dễ áp dụng. Tôi khuyên bạn nên đọc cuốn sách này nếu bạn muốn áp dụng OKRs." Kết luận Cuốn sách OKRs, Hiểu Đúng, Làm Đúng là một tài nguyên giá trị cho bất kỳ ai muốn áp dụng OKRs trong tổ chức, doanh nghiệp. Mời các bạn mượn đọc sách OKRs - Hiểu Đúng, Làm Đúng của tác giả Mai Xuân Đạt.
OKRs - Nguyên Lý Và Thực Tiễn
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách OKRs - Nguyên Lý Và Thực Tiễn của tác giả Paul R. Niven & Ben Lamorte.   Tóm tắt Cuốn sách OKRs - Nguyên Lý Và Thực Tiễn của tác giả Paul R. Niven & Ben Lamorte là một cuốn sách hướng dẫn chi tiết về cách áp dụng phương pháp OKRs trong doanh nghiệp. Cuốn sách được viết bởi hai chuyên gia hàng đầu về OKRs, với hơn 40 năm kinh nghiệm tư vấn và đào tạo cho các doanh nghiệp trên toàn thế giới. Review Trong phần giới thiệu, Mai Xuân Đạt, tác giả cuốn sách OKRs - Hiểu đúng, làm đúng và là người sáng lập cộng đồng VNOKRs, đã chia sẻ những trải nghiệm của mình khi áp dụng OKRs trong doanh nghiệp. Anh đã từng thất bại trong lần thử nghiệm đầu tiên, nhưng sau đó đã thành công khi áp dụng phương pháp OKRs theo cách thực tế hơn. Mai Xuân Đạt đánh giá cao cuốn sách OKRs - Nguyên Lý Và Thực Tiễn của Paul R. Niven & Ben Lamorte. Anh cho rằng cuốn sách này cung cấp một cái nhìn toàn diện về OKRs, từ các nguyên lý cơ bản đến các phương pháp thực hành thực tế. Cuốn sách cũng được viết dưới dạng câu chuyện, giúp người đọc dễ hiểu và dễ áp dụng. Ưu điểm Cuốn sách cung cấp một cái nhìn toàn diện về OKRs, từ các nguyên lý cơ bản đến các phương pháp thực hành thực tế. Cuốn sách được viết dưới dạng câu chuyện, giúp người đọc dễ hiểu và dễ áp dụng. Cuốn sách được viết bởi hai chuyên gia hàng đầu về OKRs, với hơn 40 năm kinh nghiệm tư vấn và đào tạo cho các doanh nghiệp trên toàn thế giới. Nhược điểm Cuốn sách có thể hơi khó hiểu đối với những người chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực quản trị. Một số thuật ngữ trong cuốn sách có thể còn lạ lẫm với người đọc Việt Nam. Kết luận Cuốn sách OKRs - Nguyên Lý Và Thực Tiễn là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những người muốn hiểu rõ hơn về OKRs và áp dụng phương pháp này hiệu quả. Cuốn sách phù hợp với các nhà quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp, nhân viên kinh doanh và những người quan tâm đến phương pháp OKRs.   *** OKRs MƠ MỘNG VÀ THỰC TẾ MAI XUÂN ĐẠT – VNOKRs Nhà sáng lập cộng đồng VNOKRs Tác giả cuốn sách OKRs – Hiểu đúng, làm đúng Mùa hè năm 2018, tôi bắt đầu áp dụng OKRs cho một trong những công ty nhỏ với 10 nhân sự của mình, cẩn trọng thử nghiệm trước khi quyết định ứng dụng rộng rãi phương pháp này cho tất cả công ty mà tôi sở hữu. Khi đó, những gì tôi có chỉ là một tập tài liệu khoảng 12-13 trang A4, được dịch từ trang web reWork của Google, nơi họ chia sẻ cách họ làm việc, bao gồm cả OKRs. OKRs trông khá đơn giản! Chúng tôi áp dụng việc họp hằng tuần, kiểm tra tiến độ công việc và tiến trình của các Kết quả then chốt cũng như Mục tiêu. Mọi công việc đều được hoàn thành đúng tiến độ, nhưng Mục tiêu vẫn rất xa xôi. Đây là bộ OKRs của một trong các dự án của chúng tôi (và đã sai rất nhiều!). a1 a2 Nhiều tuần, rồi nhiều tháng trôi qua, công việc cứ hoàn thành còn mục tiêu ngày càng xa. Tôi bắt đầu cảm thấy OKRs không hữu ích chút nào. Sau nửa năm, chúng tôi ngừng ứng dụng phương pháp này. “Chỉ là Mục tiêu và các Kết quả then chốt, OKRs đơn giản và không giúp ích được gì.” Một năm sau, tôi tình cờ đọc được cuốn Measure what matters (Làm điều quan trọng) của John Doerr – người đã mang OKRs đến với thế giới, từ Intel. Đáng lẽ tôi không đọc vì tôi ấn tượng không tốt với OKRs. Tuy nhiên, sau rất nhiều chuỗi sự kiện xảy ra, tôi đã đọc nó! Bằng tài kể chuyện của mình, John Doerr đã sáng tạo ra một thế giới đầy mơ mộng, đẹp đẽ và cuốn hút. Qua những câu chuyện mà ông kể về các doanh nghiệp, tổ chức đã ứng dụng OKRs, tôi hiểu rằng mình đã vội vàng và không hiểu đúng ở lần ứng dụng đầu tiên. OKRs rất sâu sắc và mạnh mẽ. Nhưng mơ mộng và đẹp đẽ, không đồng nghĩa với việc tôi sẽ thành công nếu muốn ứng dụng OKRs một lần nữa. Hàng tá câu hỏi cần giải đáp, vô số phân vân và lo ngại. Tôi vẫn không hiểu mình đã sai ở đâu. Điều đó khiến tôi chùn bước. Và khi tôi tìm được Paul Niven và Ben Lamorte, cùng Felipe Castro, tôi tìm được khía cạnh Thực tế của OKRs. Điều này không có nghĩa tôi cho rằng OKRs mà John Doerr chia sẻ là không thực tế, nhưng OKRs của Paul Niven, Ben Lamorte hay Felipe Castro gần hơn với những gì mà bản thân tôi (hay các doanh nghiệp Việt Nam nói chung) thường làm. Vào lúc đó, cuốn sách này chưa có mặt tại Việt Nam. Tôi tìm được OKRs “kiểu Paul – Ben” qua website okrs.com do Ben Lamorte thành lập. Những gì tôi đọc được qua trang web này là cách mà họ nhìn nhận về OKRs, khoa học và thực tế nhất có thể. Tôi hiểu rằng tôi đã làm sai như thế nào và tại sao các Kết quả then chốt của tôi hoàn thành nhưng Mục tiêu thì vẫn mãi xa vời. Tôi thực sự nhận ra mình đã sai! (Ngoài ra, tôi còn học được thêm một điều quan trọng từ Felipe Castro, đó là quan điểm về việc theo dõi tiến độ định kỳ và check-in.) Tôi bắt tay vào làm lại ngay lập tức và không ngần ngại đưa OKRs vào công ty lớn nhất mà tôi sở hữu. Chúng tôi đã biến những hiểu biết của mình thành một công cụ là VNOKRs Tool, điều đó giúp hơn 100 nhân sự rời rạc thành một tập thể nhất quán với các nguyên tắc OKRs theo cách thực hiện thực tế nhất. Chúng tôi đã thành công sau hai chu kỳ (sáu tháng). Giờ đây, tôi biết chắc rằng mình làm chủ được OKRs. Tôi chia sẻ những hiểu biết mà tôi thu nhận được từ Paul Niven, Ben Lamorte (và tất nhiên là cả Felipe Castro) với nhiều chủ doanh nghiệp Việt Nam trong cộng đồng VNOKRs (OKRs Việt Nam) do tôi thành lập, điều đáng mừng là mọi người hiểu rất nhanh về OKRs và áp dụng tốt. Khi Mơ mộng kết hợp với Thực tế, chúng ta sẽ thực hiện được. Tôi mừng vì đã tìm ra Paul Niven và Ben Lamorte. Khi cầm cuốn sách này trên tay và đọc đầy đủ những gì Paul Niven cùng Ben Lamorte viết ra, một lần nữa, tôi dâng trào niềm hạnh phúc, cảm giác giống như được nhìn thấy công đoạn làm ra món ăn ngon mà mình yêu thích! Những gì tôi đã đọc được trước đó trên website okrs.com, là kết quả từ những phân tích về nguyên lý của các hoạt động trong tổ chức, công ty. Cuốn sách này đào sâu và bàn về khoa học quản trị, thông qua những câu chuyện thú vị, làm hiện ra một thế giới rộng lớn ẩn chứa đằng sau các vấn đề “đau đầu” của doanh nghiệp. Nếu chưa có nhiều trải nghiệm trong việc quản lý công ty và quản lý nhóm, bạn sẽ hơi khó lĩnh hội được nội dung của cuốn sách. Và các thuật ngữ cũng có thể khó hiểu một chút bởi theo tôi, chúng còn xa lạ tại Việt Nam. Nhưng tôi chắc chắn đây là cuốn sách “gối đầu giường” nên có, nếu bạn muốn theo đổi sự nghiệp quản trị nghiêm túc và lâu dài. Hãy đọc đi đọc lại cho tới khi hiểu được toàn bộ những gì mà Paul Niven cùng Ben Lamorte đã viết và hành trình quản trị của bạn sẽ trở nên vô cùng thú vị. Xin trân trọng giới thiệu. *** TẠI SAO CHÚNG TÔI VIẾT CUỐN SÁCH NÀY B ất kỳ công ty nào bắt tay vào triển khai OKRs sẽ sớm nhận ra sau khi công việc bắt đầu, OKRs không chỉ là một “dự án đo lường”. Mục tiêu cuối cùng là cải thiện hiệu suất thông qua xác định các mục tiêu và kết quả then chốt được làm mới thường xuyên nhằm đảm bảo sự nhanh nhạy trong thế giới kinh doanh, nơi tốc độ đang ngày càng thay đổi nhanh chóng. Tuy nhiên, để đạt được thành công với OKRs, có rất nhiều quy trình và nhiệm vụ phải được thực hiện liền mạch. Có được sự hỗ trợ nhiệt tình từ các CEO, xác định nơi triển khai OKRs, nắm vững những sắc thái của OKRs hiệu quả, kết nối OKRs trong toàn công ty, báo cáo kết quả, nắm bắt những kiến thức quan trọng và đưa phương pháp luận vào văn hóa của tổ chức chỉ là một vài yêu cầu của một quá trình triển khai hiệu quả. Khi chúng tôi viết điều này, các phương pháp thực hành tiêu chuẩn và quy trình đã được chứng minh của OKRs vẫn còn khá non trẻ. Đây là một ngành học mới nổi và trong khi việc thực thi nó đang phát triển hằng ngày, cũng như các nhà tư vấn, nhà cung cấp phần mềm vẫn đang nỗ lực lấp đầy lỗ hổng kiến thức, thì chưa hề có hướng dẫn cụ thể về cách thực hiện cho các tổ chức đang lo lắng triển khai OKRs để tránh rơi vào những cạm bẫy tiềm tàng có thể làm hỏng việc này hoặc bất kỳ nỗ lực thay đổi nào khác. Cuốn sách này là câu trả lời của chúng tôi cho thách thức đó. Nó được viết để lấp đầy khoảng trống đang tồn tại giữa kiến thức và thực hành. Các tổ chức muốn đạt được những lợi ích của OKRs trước tiên cần nhận thức rõ ràng – và được trang bị thích hợp để vượt qua – các thách thức liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ trọng yếu này. Dựa trên những kinh nghiệm tư vấn OKRs toàn cầu của chúng tôi, cũng như các nghiên cứu sâu rộng mà chúng tôi đã tiến hành, những trang sách này sẽ đóng vai trò là một hướng dẫn toàn diện cho bạn trên toàn bộ phạm vi OKRs. Chúng tôi tin rằng các công cụ và kỹ thuật được đề cập trong cuốn sách sẽ thúc đẩy thành công của những người đang tham gia OKRs và thu hút thêm nhiều CEO khởi chạy các chương trình OKRs trong tổ chức của họ. Trước khi phác thảo cấu trúc của cuốn sách, hãy để chúng tôi chia sẻ với bạn về nền tảng và kinh nghiệm của mình. CHÚNG TÔI BẮT ĐẦU VỚI OKRs NHƯ THẾ NÀO? Ben “Khi đi bộ đường dài cùng gia đình, bạn chỉ cần bước đi và thưởng ngoạn phong cảnh, nhưng khi làm việc, bạn cần hiểu rõ về đích đến. Nếu không, bạn đang lãng phí thời gian của mình và của tất cả những người làm việc với bạn.” Những lời nói này đã thay đổi cuộc sống của Ben. Nguồn gốc của những lời khôn ngoan đó đến từ Jeff Walker, cựu CFO của Oracle. Walker đã chia sẻ lời khuyên này với Ben trong một cuộc trò chuyện cá nhân và sau đó mở rộng thành nguyên tắc trong một bài phát biểu mà ông gửi cho một nhóm chuyên gia hoạch định ở Palo Alto vào năm 2011. Trong buổi nói chuyện, Walker đã giải thích về các mục tiêu và kết quả then chốt (OKRs). Ông đã thảo luận về cách các doanh nghiệp phải phác thảo tương lai mà họ mong muốn dưới dạng các mục tiêu – những tuyên bố định tính và đầy khát vọng được thiết kế để đưa tổ chức tiến lên theo một hướng mong muốn. Sau đó, mỗi mục tiêu được chuyển thành một tập hợp các kết quả then chốt có thể đo lường. Nếu mục tiêu hỏi: “Điều chúng ta muốn làm là gì?”, kết quả then chốt sẽ hỏi: “Làm thế nào để biết liệu chúng tôi đã đạt được mục tiêu của mình?”. Ben ngay lập tức bị thu hút bởi sức mạnh tiềm tàng của OKRs và cảm thấy công cụ này sẽ trở nên quan trọng đối với công việc của anh, nhưng tại thời điểm đó, anh không biết nó sẽ biểu hiện như thế nào. Anh đã sớm tìm ra. Ben được một tổ chức mời hỗ trợ trong một dự án KPI (Chỉ số đo lường hiệu suất). Anh nhận nhiệm vụ và háo hức chờ đợi tài liệu chiến lược được CEO của công ty cung cấp. Khi đến nơi, Ben cảm thấy choáng ngợp. Các tài liệu và trang trình bày chiến lược chứa đầy những ý tưởng và mục đích tốt, nhưng chúng có sự pha trộn khó hiểu giữa các trụ cột chính yếu (ưu tiên của công ty), giá trị cốt lõi và số liệu kinh doanh. Ben vật lộn với cách tiếp cận dự án cho đến lúc về phòng khách sạn vào buổi đêm trước khi gặp CEO và CFO, anh mới chợt nhớ lại lời khuyên của Jeff Walker. Với suy nghĩ đó, Ben đã cô đọng tài liệu chiến lược thành một trang giấy duy nhất, chuyển những trụ cột chính yếu thành các mục tiêu và ấn định kết quả then chốt cho từng mục tiêu. Ngày hôm sau, anh sử dụng khung tổ chức của OKRs này để trình bày hiểu biết của mình về chiến lược của tổ chức. Sau phần trình bày đó, các CEO đều im lặng và yêu cầu một chút thời gian riêng. Ben rời khỏi phòng, tin chắc mình đã hiểu sai chiến lược và sẽ nhanh chóng được đưa đến sân bay để đáp chuyến bay tiếp theo về nhà. Với Ben, hai phút ở hành lang lúc đó tưởng chừng như hai giờ, nhưng khi được gọi trở lại phòng và nhìn thấy nụ cười của CEO, anh đã cảm thấy nhẹ nhõm: “Chúng tôi muốn anh tạo ra kiểu tài liệu như thế này cho mọi đơn vị và bộ phận kinh doanh trong công ty.” Sau khi giúp gần 50 nhóm trong công ty phác thảo và tinh chỉnh lại OKRs, đồng thời chứng kiến họ thành công với phương pháp này, Ben biết anh đã tìm thấy sứ mệnh của mình. Và cuốn sách này là kết quả sau hàng trăm giờ huấn luyện đội ngũ và quản lý của Ben. Paul Paul từng làm việc trong lĩnh vực đo lường hiệu suất và thực thi chiến lược gần hai thập kỷ. Anh biết đến các ý tưởng này thông qua sự tương tác với một công ty đang tìm cách cải thiện hiệu suất của họ. Đối với trường hợp của Paul, công ty đang hoạt động trong một ngành thay đổi mạnh mẽ cùng những đối thủ cạnh tranh nổi lên nhanh chóng và khách hàng yêu cầu phải cải thiện dịch vụ mà không được tăng giá. Một chiến lược mới được tạo ra: một chiến lược nếu được thực hiện hiệu quả sẽ mang lại các bộ kỹ năng chiến lược nâng cao cho toàn công ty, xem xét việc chỉnh sửa toàn bộ quy trình kinh doanh chính, mang đến giá trị cho khách hàng và tạo ra kết quả tài chính đột phá. Nhưng họ có thể thực hiện điều đó không? Chìa khóa là xác định các biện pháp họ sẽ sử dụng để tự chịu trách nhiệm cho mỗi mục tiêu của chiến lược. Sẽ mất thời gian, nhưng bằng cách tập trung vào bộ tiêu chuẩn cốt lõi để tìm hiểu về những gì hiệu quả và không hiệu quả của chiến lược, cuối cùng công ty đã thực hiện được những cam kết của mình với khách hàng, nhân viên và các cổ đông. Thực tế, khoảnh khắc “Aha” đến với Paul dưới dạng các khảo sát nhân viên được thực hiện trước và sau khi phát triển, cũng như sử dụng biện pháp đo lường chiến lược. Trước đó, chỉ một tỷ lệ nhỏ nhân viên nói rằng họ hiểu về chiến lược của công ty và cách họ có thể đóng góp. Tuy nhiên, sau khi sử dụng phương pháp đo lường chiến lược, tỷ lệ này đã tăng gần gấp năm lần đối với phần lớn nhân viên. Giống như Ben, Paul nhận thấy giá trị của việc áp dụng phương pháp đo lường đối với chiến lược và đặt ra mục tiêu giúp các tổ chức khai thác sức mạnh đó. Một số độc giả có thể quen thuộc với Paul qua công việc và các cuốn sách của anh về Thẻ điểm cân bằng (Balance Scorecard), một phương pháp phổ biến nhằm chuyển chiến lược thành các mục tiêu, tiêu chuẩn, chỉ tiêu và sáng kiến chiến lược, sử dụng bốn quan điểm khác biệt có liên quan về hiệu suất: tài chính, khách hàng, quy trình nội bộ và học tập và phát triển. Mô hình này đã được nhiều tổ chức trên toàn cầu chấp nhận và mặc dù không thể nghi ngờ hiệu quả của nó, nhiều công ty vẫn phải vật lộn với việc triển khai cũng như tối đa hóa lợi ích của mô hình thẻ điểm cân bằng. Một trong những vấn đề chính mà các tổ chức nêu ra là mức độ phức tạp của mô hình ngày càng gia tăng. Sự phân loại của mô hình thẻ điểm đã tăng lên trong nhiều năm qua kể từ khi nó được phát kiến vào những năm 1990, nhiều chuyên gia cũng đã đưa ra các sơ đồ ngày càng phức tạp, bổ sung nhiều phần thay đổi vào thứ ban đầu được coi là cách tiếp cận dễ-áp-dụng để đo lường chiến lược của tổ chức. Kết quả cuối cùng là, đối với nhiều tổ chức, bất chấp các lợi ích của nó, Thẻ điểm cân bằng có vẻ quá cồng kềnh để triển khai cho toàn bộ tổ chức, bao gồm những đội nhóm mong mỏi các phương pháp đơn giản nhưng mạnh mẽ nhằm đảm bảo công việc của họ tập trung vào những gì quan trọng nhất, dẫn đến việc thực hiện chiến lược của công ty. Rồi OKRs xuất hiện. Paul đang tìm kiếm một hệ thống “nhẹ hơn” nhưng vẫn mang lại lợi ích thực sự cho khách hàng, những người muốn tận dụng tối đa giá trị từ các chiến lược của mình. Anh đã khám phá ra OKRs thông qua các nghiên cứu của mình và nhanh chóng biết được công việc mà Ben đang làm trong lĩnh vực này. Cả hai đã gặp gỡ và gắn kết với nhau vì mong muốn giúp các tổ chức cải thiện hiệu suất, đồng thời tin tưởng rằng OKRs, dù đơn giản, nhưng có thể mang lại giá trị vượt trội cho bất kỳ công ty nào muốn cải thiện sự tập trung, thúc đẩy sự liên kết và nâng cao tính gắn kết. Họ bắt đầu cùng nhau làm việc với khách hàng từ năm 2015. CUỐN SÁCH NÀY ĐƯỢC TỔ CHỨC NHƯ THẾ NÀO? Cuốn sách bao gồm bảy chương. Sáu chương đầu tiên sẽ hướng dẫn bạn triển khai OKRs theo trình tự thời gian, chương cuối cùng giới thiệu một số tổ chức toàn cầu đang hưởng lợi từ OKRs. Trong chương mở đầu, chúng tôi chia sẻ về lịch sử của OKRs, tiếp theo là các định nghĩa và ví dụ về cả mục tiêu lẫn kết quả then chốt. Các tổ chức hiện đại đang phải đối mặt với nhiều thách thức cốt tử mà OKRs rất phù hợp để vượt qua. Các chương sau sẽ khám phá một số chủ đề quan trọng. Chương 1 kết thúc với cái nhìn tổng quan về nhiều lợi ích của OKRs. Để triển khai OKRs, bạn phải đảm bảo tổ chức của mình đã sẵn sàng bắt tay vào hành trình phía trước. Chương 2 khám phá cách thức tạo ra và sử dụng OKRs. Câu hỏi đầu tiên được đặt ra là: “Tại sao bạn triển khai OKRs?”. Chủ đề tài trợ điều hành sẽ được thảo luận, bao gồm cả cách giành được tài trợ. Các cân nhắc về nơi phát triển OKRs sẽ được trình bày, tiếp theo là một kế hoạch toàn diện để phát triển OKRs. Chương này kết thúc bằng việc xác định bối cảnh chiến lược cho OKRs bằng cách sử dụng sứ mệnh, tầm nhìn và chiến lược. Để OKRs mang lại lợi ích, chúng phải được dự thảo cẩn thận và sở hữu một số đặc trưng riêng. Chương 3 phác thảo cách tạo ra OKRs hiệu quả. Các kết quả then chốt được kiểm tra, sau đó thảo luận về các chỉ số sức khỏe và chấm điểm OKRs. Chương này kết thúc bằng phần đánh giá về quy trình CRAFT (Create – tạo ra, Refine – tinh chỉnh, Align – liên kết, Finalize – hoàn tất và Transmit – chuyển giao) để tạo ra OKRs. OKRs phải được tạo ra trong toàn tổ chức để thúc đẩy sự gắn kết, tinh thần trách nhiệm và sự tập trung. Chúng tôi gọi đây là “Kết nối OKRs” và nó là chủ đề của Chương 4. Các quy trình và mẹo kết nối OKRs theo cả chiều ngang lẫn chiều dọc trong tổ chức sẽ được khám phá. Để đạt được lợi ích tối đa từ OKRs, chúng phải được giám sát thường xuyên cả trong và sau khi kết thúc mỗi chu kỳ. Chương 5 khám phá chu kỳ đánh giá OKRs và cách phần mềm có thể giúp OKRs thành công. Chu kỳ xem xét OKRs bao gồm ba cơ chế chính, mỗi cơ chế được thảo luận bao gồm: các cuộc họp vào thứ Hai, kiểm tra giữa quý và đánh giá hằng quý. Nửa sau của chương nghiên cứu việc sử dụng phần mềm trong triển khai và quản trị OKRs. Để đảm bảo sự thành công lâu dài của OKRs, chúng phải được ăn sâu vào văn hóa của tổ chức. Chương 6 nghiên cứu về cách làm cho OKRs trở nên bền vững. Nhiều công ty coi OKRs là một “dự án”, nhưng đó là một quan niệm sai lầm. Chương này mở đầu bằng cuộc tranh luận tại sao bạn nên coi OKRs như một quá trình liên tục. Bất kỳ công ty nào sử dụng OKRs đều phải xác định xem có nên liên kết chúng với việc đánh giá hiệu suất và/hoặc lương thưởng không. Các liên kết tiềm năng như vậy với ưu-nhược điểm và những khuyến nghị cũng được khám phá chi tiết trong chương này. Chương này kết thúc với 10 vấn đề hàng đầu cần cân nhắc trước, trong và sau khi tạo ra OKRs, đồng thời phân tích cách thức cũng như có nên mời các chuyên gia tư vấn hay không. Chương 7 chia sẻ về câu chuyện của sáu tổ chức toàn cầu đang sử dụng OKRs để đạt lợi thế lớn. Các tổ chức được mô tả sơ lược trong chương này là: Zalando, Flipkart, Sears Holdings, TaxSlayer, GoNoodle và CareerBuilder. Chúng tôi tin rằng bạn sẽ vừa thưởng thức vừa học hỏi từ những tấm gương của các tổ chức đặc biệt và sáng tạo này. Các công ty ở bất kỳ giai đoạn phát triển OKRs nào cũng sẽ được hưởng lợi từ những lời khuyên trong cuốn sách. Tất nhiên, những nỗ lực khởi động OKRs sẽ thu được lợi ích từ các công cụ và kỹ thuật chi tiết từ thiết kế ban đầu đến việc tạo ra một hệ thống quản lý mạnh mẽ. Những tổ chức đang sử dụng OKRs cũng sẽ được hưởng lợi từ việc xem xét các chủ đề được trình bày ở đây. Các quy trình và bài tập được biên soạn có thể đóng vai trò như một điểm kiểm tra hoặc đánh giá chương trình để đảm bảo nó đang hoạt động với hiệu quả cao nhất. Và đối với bất kỳ ai đang sử dụng một định dạng khác của hệ thống quản lý chiến lược, chúng tôi mời bạn cân nhắc về nhiều lợi thế mà OKRs cung cấp. Dù bạn đang ở đâu trên hành trình OKRs của mình, chúng tôi cảm ơn bạn vì đã cho phép chúng tôi được làm hướng dẫn viên của bạn. PAUL R. NIVEN VÀ BEN LAMORTE San Diego và San Anselmo, California, tháng 5 năm 2016 Mời các bạn mượn đọc sách OKRs - Nguyên Lý Và Thực Tiễn của tác giả Paul R. Niven & Ben Lamorte.
OKRs - Bí Mật Của Tăng Trưởng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách  OKRs - Bí Mật Của Tăng Trưởng của tác giả Christina Wodtke. “Kẻ thù lớn nhất của thành công là sự sao nhãng. Nếu học được cách tập trung, chúng ta sẽ tạo ra những thành quả lớn hơn so với phần còn lại của thế giới.” Mai Xuân Đạt CEO SEO Ngon và iTrain, người sáng lập Cộng đồng OKRs Việt Nam Tôi sinh ra đã là một người khởi nghiệp. Gần 15 năm với nhiều ý tưởng khởi nghiệp khác nhau, tôi luôn tự hỏi: “Điều gì khiến công việc yêu thích của mình trở nên mệt mỏi đến thế?” Tôi yêu khởi nghiệp, tôi thích những ý tưởng thú vị và ý nghĩa. Đối với tôi, mọi công việc đều bắt đầu bằng sự hứng khởi, cứ như mình sắp làm được một điều gì đó có ích cho xã hội. Nhưng rồi mọi thứ lại đi vào vòng lặp oan nghiệt: hứng khởi – xông xáo thực hiện – phát triển – mệt mỏi – chán nản – muốn bỏ cuộc – chật vật xoay sở. Nhưng hiếm khi tôi bỏ cuộc, trừ khi… hết tiền. Câu chuyện về Hanna và Jack của TeaBee thật quen thuộc, giống như tôi đang nhìn vào tấm gương thời gian, hồi tưởng lại những gì từng trải qua. Tôi nhìn thấy sự hào hứng của mình và đội ngũ nho nhỏ khi bắt đầu một công ty, song những rắc rối bắt đầu xuất hiện. Chúng ta phải chọn lựa như thế nào giữa những hoài bão thuở ban đầu và phương án ứng phó nhanh với tình hình khó khăn hiện tại? Chúng ta chọn giá trị mà mình tin tưởng hay cố gắng cứu vãn các con số tài chính đang tệ đi từng ngày? Có những lựa chọn khiến bản thân chúng ta chán nản vì phải từ bỏ niềm tin, khiến công ty tan đàn xẻ nghé vì mọi người không còn tin tưởng vào những điều tốt đẹp – những lý do kéo tất cả cùng chung tay xây dựng ước mơ từ những ngày đầu. Có lẽ điều mà mỗi nhà sáng lập của công ty khởi nghiệp đều thắc mắc sau khi đã thất bại chính là: “Chúng ta đã làm gì sai chứ, tất cả đều nỗ lực hết mình mà?” TeaBee, công ty giả tưởng của Christina Wodtke trong cuốn sách này, đã tìm ra trả lời cho câu hỏi đó: “Tất cả đều nỗ lực hết mình, nhưng không cùng một hướng.” Hanna phụ trách hoạt động kinh doanh để công ty tồn tại, cô muốn tập trung vào các nhà phân phối lớn. Còn Jack thì muốn cung cấp các loại trà hảo hạng đến từng nhà hàng. Jack không làm những gì đã cam kết vì “điều quan trọng” của anh không giống Hanna, dù rằng Jack là Chủ tịch công ty. Nghe có quen không? Ai cũng làm điều quan trọng, nhưng những điều quan trọng ấy lại do mỗi người tự định nghĩa. Tôi đã từng trải qua điều đó, tôi yêu quý các thành viên trong công ty của mình và tôi biết mọi người đều nỗ lực, đều cố gắng. Nhưng có lúc nhân viên kỹ thuật tỉ mẩn thực hiện từng phần trong dự án đang triển khai, còn nhân viên kinh doanh lại ra sức kiếm thêm hợp đồng mới, trong khi tôi – CEO – lại phải vật lộn xây dựng quy trình, tổ chức hoạt động sao cho hợp lý. Tất cả chúng tôi đều cố gắng, nhưng như những hướng vecto trong toán học, càng cố gắng bao nhiêu, chúng tôi lại càng xa rời nhau. Kết quả chung nhận lại luôn là con số không tròn trình. Hanna và Jack, may mắn vì có Jim – nhà đầu tư thiên thần tài trí, có Raphael – người đồng hành đầy kinh nghiệm khởi nghiệp và thấu hiểu OKRs. Câu chuyện về TeaBee đã đột ngột chuyển hướng từ nỗi đau sang những kết quả tích cực chỉ trong một tuần, rồi sau đó thu về trái ngọt sau một năm. Nghe đẹp đẽ làm sao, thậm chí thật hoang đường – với kinh nghiệm của nhiều nhà khởi nghiệp, giải quyết mớ rắc rối trong một tuần là quá hoang đường. Nhưng tôi lại thấy bản thân trong câu chuyện ấy! Tuy không may mắn như TeaBee, nhưng những rắc rối mà tôi gặp phải (tương tự như Hanna và Jack) cũng cần tới sáu tháng mới có thể xử lý trọn vẹn. Và tôi biết chắc chắn rằng, điều đó có được nhờ OKRs. Dù TeaBee là câu chuyện tưởng tượng, nhưng Christina Wodtke không hề phóng đại sức mạnh của OKRs. OKRs thực ra rất đơn giản, nhưng sức mạnh của nó lại luôn làm chúng ta phải giật mình. Không có gì khó hiểu khi nói: “Sao nhãng là kẻ thù của thành công”. Mỗi ngày có bao nhiêu thứ chúng ta định nghĩa là “quan trọng”, theo cách này hay cách khác, tất cả chúng làm ta sao nhãng. Làm thế nào để khắc phục điều đó? Mỗi chúng ta, dù là kẻ thất bại hay người thành công, đều có mục tiêu của riêng mình. Vậy nên, nếu mục tiêu của mỗi người đều hướng đến hỗ trợ hoàn thành mục tiêu chung của công ty, kết quả sẽ thế nào? “Trong toán học, nếu các véc-tơ chĩa theo nhiều hướng khác nhau, khi cộng lại, giá trị sẽ bằng không. Nếu anh có thể kéo mọi người đi cùng một hướng, anh sẽ có giá trị cực đại.” – Andy Grove, cha đẻ của OKRs Thật may, OKRs có thể khiến chúng ta cùng nhìn về một hướng! Cuốn sách này, theo tôi, không hẳn là cuốn cẩm nang về OKRs. OKRs không có công thức chung, chuẩn chỉnh cho tất cả mọi người. OKRs là một khung làm việc. Dù có thể áp dụng với hầu hết mọi công ty, mọi loại hình tổ chức, không nhất thiết phải là công ty công nghệ hay sáng tạo, nhưng OKRs không có cách áp dụng duy nhất phù hợp cho tất cả. Theo những gì tôi biết, OKRs chỉ tồn tại những nguyên tắc và phương pháp “thực hành tốt nhất” (best practices). Christina Wodtke đã nói những điều cô tin tưởng về OKRs từ trải nghiệm thực tế của mình. Theo tôi, đó là điều giá trị nhất của cuốn sách: mang tới những điều thực tế xuất phát từ niềm tin thực sự. Bạn sẽ tìm được những triết lý cốt lõi của OKRs trong cuốn sách này: sự tập trung, theo dõi tiến trình, tính minh bạch, quy trình thống nhất của OKRs… Nếu công ty bạn giống TeaBee, bạn và cộng sự giống Hanna và Jack, có lẽ bạn sẽ nhanh chóng thấu hiểu OKRs và mạnh dạn ứng dụng để tìm thấy con đường phát triển vượt bậc như TeaBee. Còn nếu không, tôi cho rằng bạn vẫn sẽ tìm được nguồn cảm hứng tuyệt vời từ cuốn sách, từ những quan niệm về mục tiêu và con người của Christina Wodtke. Và quan trọng hơn, bạn tìm thấy thứ có thể giúp bạn và công ty của mình tập trung và thành công: OKRs. Cảm ơn Alpha Books đã mang tới cuốn sách này. Tôi cho rằng cuốn sách sẽ nhận được sự đồng cảm của phần đông công ty, nhất là các công ty khởi nghiệp của Việt Nam. *** Tóm tắt Cuốn sách OKRs - Bí Mật Của Tăng Trưởng của tác giả Christina Wodtke là một câu chuyện kể về Hanna và Jack, hai nhà sáng lập của công ty khởi nghiệp TeaBee. Sau khi nhận được tối hậu thư từ nhà đầu tư, họ đã áp dụng phương pháp OKRs để vực dậy công ty. Review Mai Xuân Đạt, CEO SEO Ngon và iTrain, người sáng lập Cộng đồng OKRs Việt Nam, đã chia sẻ những suy nghĩ của mình về cuốn sách như sau: Câu chuyện về Hanna và Jack rất quen thuộc với những người khởi nghiệp. Mọi người đều nỗ lực hết mình, nhưng không cùng một hướng, dẫn đến sự sao nhãng và thất bại. OKRs là một khung làm việc giúp mọi người cùng nhìn về một hướng, tập trung vào những mục tiêu quan trọng nhất. Cuốn sách không phải là một cẩm nang về OKRs, nhưng nó cung cấp những triết lý cốt lõi của OKRs, giúp người đọc hiểu rõ về phương pháp này và áp dụng hiệu quả. Ưu điểm Cuốn sách được viết dưới dạng câu chuyện, dễ hiểu và hấp dẫn. Tác giả chia sẻ những kinh nghiệm thực tế của mình về OKRs, giúp người đọc hiểu rõ hơn về phương pháp này. Cuốn sách cung cấp những thông tin hữu ích cho những người khởi nghiệp và các doanh nghiệp muốn áp dụng OKRs. Nhược điểm Cuốn sách không đi sâu vào các chi tiết kỹ thuật của OKRs. Kết luận Cuốn sách OKRs - Bí Mật Của Tăng Trưởng là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những người muốn hiểu rõ hơn về OKRs và áp dụng phương pháp này hiệu quả. *** VỀ TÁC GIẢ Là người đứng đầu Công ty Tư vấn Wodtke, Christina Wodtke hướng dẫn các công ty cách biến kiến thức thành hành động và giảng dạy cho rất nhiều doanh nhân tương lai tại Đại học Nghệ thuật California và Trường Đạo tạo liên tục Stanford thuộc Đại học Stanford. Christina từng phụ trách các chiến dịch tái thiết kế và gọi vốn từ sản phẩm ban đầu của các công ty như LinkedIn, Myspace, Zynga, Yahoo!, Hot Studio và eGreetings. Cô sáng lập hai công ty hỗ trợ các công ty khởi nghiệp, một về tư vấn, một về sản xuất và Boxes and Arrows – một tạp chí điện tử chuyên về thiết kế; đồng sáng lập Học viện Cấu trúc Thông tin (Information Architecture Institute). Cô là diễn giả nổi tiếng, diễn thuyết tại các hội nghị, trường đại học, công ty và trình bày quan điểm trên các diễn đàn xã hội, thường xuyên nhất là trên Eleganthack.com. Mời các bạn mượn đọc sách OKRs - Bí Mật Của Tăng Trưởng của tác giả Christina Wodtke.
Luận Ngữ Và Bàn Tính
Tóm tắt "Luận Ngữ và Bàn tính" là cuốn sách viết về triết lý kinh doanh của Shibusawa Eiichi, nhà kinh doanh vĩ đại của Nhật Bản. Cuốn sách được chia thành hai phần chính: Phần I: Luận Ngữ và Kinh doanh Trong phần này, Shibusawa Eiichi trình bày triết lý kinh doanh của mình dựa trên tư tưởng của Khổng Tử, đặc biệt là cuốn Luận Ngữ. Ông cho rằng kinh doanh là một hoạt động mang tính đạo đức, và người kinh doanh cần phải có những phẩm chất đạo đức như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Phần II: Bàn tính và Kinh doanh Trong phần này, Shibusawa Eiichi trình bày những nguyên tắc kinh doanh căn bản, dựa trên nền tảng của khoa học và thực tiễn. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của tính hợp lý, hiệu quả và tính minh bạch trong kinh doanh. Review "Luận Ngữ và Bàn tính" là một cuốn sách có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn. Cuốn sách đã góp phần định hình nên triết lý kinh doanh của Nhật Bản, và vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay. Ưu điểm Cuốn sách có nội dung phong phú và toàn diện, bao gồm cả khía cạnh đạo đức và thực tiễn của kinh doanh. Cuốn sách được viết bằng một phong cách súc tích và dễ hiểu, phù hợp với nhiều đối tượng độc giả. Cuốn sách cung cấp cho người đọc những bài học kinh nghiệm quý giá về kinh doanh. Nhược điểm Cuốn sách có một số phần hơi khô khan và mang tính lý luận cao. Kết luận "Luận Ngữ và Bàn tính" là một cuốn sách đáng đọc cho những ai quan tâm đến kinh doanh và muốn tìm hiểu về triết lý kinh doanh của Nhật Bản. *** Được xưng tụng là “thủy tổ - nhà lãnh đạo tối cao của chủ nghĩa tư bản Nhật Bản”, “một trong 12 người lập ra nước Nhật”, “nhà lãnh đạo cao quý và vị tha”, Shibusawa Eiichi chính là nhân vật đã đặt nền móng cho sự khuếch trương kinh tế thời Minh Trị, kết hợp một cách nhuần nhuyễn luân lý đạo đức vào hoạt động kinh doanh ở Nhật Bản, và là nguồn cảm hứng cho những thế hệ doanh nhân Nhật Bản ngày nay. Peter Drucker - một nhà tư vấn về quản trị kinh tế tư nhân, tác giả của nhiều đầu sách bán chạy về kinh doanh - nói về Shibusawa như sau: “Bản thân Shibusawa, trong suốt gần 50 năm, đã hoạt động như một 'trung tâm phát triển quản trị' một cách không chính thức và không được trả công. Ông đã tư vấn và hướng dẫn hàng trăm công chức, doanh nhân và nhà quản trị trẻ. Ông đã tổ chức một cách không mệt mỏi những chương trình đào tạo và câu lạc bộ quản trị, chủ xướng các khóa huấn luyện, hội thảo và nhóm thảo luận đủ các loại hình”. Đó là lý do khiến Tsuchiya Takao - một nhà kinh tế học chuyên nghiên cứu về Shibusawa Eiichi - cho rằng, nếu so sánh với những người sáng lập những công ty hàng đầu Nhật Bản như Iwasaki Yatarō của Mitsubishi, Matsushita Kōnosuke của Panasonic, Morita Akio của Sony, Honda Sōichirō của Honda Motor, Shibusawa lại ít được biết tới. Mặc dù ở Nhật Bản có hàng loạt tượng đồng của ông được dựng lên để vinh danh, cũng như ông được xưng tụng là cha đẻ của triết lý kinh doanh hiện đại Nhật Bản. "Luận ngữ và bàn tính" là cuốn sách mà trong đó Shibusawa Eiichi viết lại tôn chỉ cho suốt cuộc đời kinh doanh của mình: một tôn chỉ tràn đầy tính nhân văn và nề nếp đạo đức Á Đông. Tôn chỉ kinh doanh của Eiichi tìm cách điều hòa, kết hợp nhuần nhuyễn tư tưởng và triết lý của "Luận ngữ" (cuốn sách hàng đầu về tu dưỡng đạo đức và hoàn thiện bản thân của phương Đông) với chiếc Bàn tính (vật dụng không thể thiếu của doanh nhân). Từ xưa đến nay nhiều người luôn có một quan niệm rằng những người kinh doanh, buôn bán để làm giàu đều là phường gian dối, trí trá. Thế nhưng với những trải nghiệm trong mấy chục năm dấn thân theo nghiệp kinh doanh, Shibusawa khẳng định rằng người làm kinh doanh cần phải có đạo đức và người có đạo đức có thể làm giàu, và sự giàu sang đạt được nhờ có nền tảng đạo đức sẽ bền vững hơn. Triết lý kinh doanh của Shibusawa Eiichi là: - Kinh doanh phải vì sự phồn vinh thịnh vượng của quốc gia chứ không nên chỉ vì sự giàu sang phú quý của bản thân. - Kinh doanh phải gắn liền với đạo đức, với nhân nghĩa, với chữ tín… thì hoạt động kinh doanh mới ổn định, sự giàu sang đạt được mới vững bền. - Kinh doanh mang lại tiền tài của cải rồi tiền tài của cải đó phải phục vụ cho ý nghĩa nhân sinh, cho các hoạt động công cộng nhằm mang lại lợi ích cho đông đảo quần chúng nhân dân. P/S 1: Mỗi cuốn sách một số phận, và cuốn sách này không ngoại lệ, kể từ khi được đề xuất cho đến khi thành hình hài đã trải qua không ít thăng trầm. Trải qua tất cả, cuối cùng cuốn sách cũng được xuất bản. Những kỷ niệm trong quá trình dịch, những cung bậc cảm xúc khi làm cuốn sách này xin giữ lại cho riêng tôi và tôi sẽ cất giữ nó cẩn thận ở một góc trong lòng. Sau tất cả tôi xin nhận phần lỗi về mình nếu bản dịch còn nhiều thiếu sót và sai lầm không đáng có. Với kiến văn còn hạn chế vậy mà dám bạo gan dám dấn thân vào một địa hạt vô cùng khó khăn, tôi mong rằng độc giả sẽ thể tất cho những vấn đề còn chưa chu toàn trong bản dịch.   Lời Bình Một tác phẩm quan trọng sắp được ra mắt!!! Thật vui quá!!! Người dịch Nguyễn Mạnh Sơn và Nhà sách Nhã Nam đang làm một việc tuyệt vời!!! Trước đó TS. Nguyen Luong Hai Khoi đã cho ra mắt cuốn sách mở đường giới thiệu về Shibusawa đến độc giả Việt Nam qua tác phẩm dịch hết sức công phu VŨ DẠ ĐÀM. Đây có thể là một ấn phẩm quan trọng nhất của năm nay! Và ý nghĩa của nó sẽ dần thấm vào xã hội Việt Nam nhiều năm sau nữa!!! Mong lắm thay!!! TS. Nguyễn Đức Thành -------------------------------------- SHIBUSAWA EIICHI: HIỆN THÂN TINH THẦN DOANH NGHIỆP NHẬT BẢN Trần Văn Thọ - Giáo sư Đại học Waseda, Tokyo Trong khoảng 150 năm phát triển kinh tế, Nhật Bản đã sản sinh ra nhiều nhà doanh nghiệp vĩ đại. Nói đúng hơn, không có họ thì Nhật không có một nền công nghiệp hiện đại như ngày nay. Những người sáng lập Toyota, Honda, Sony, Matsushita, Canon, v.v... đều là những nhà doanh nghiệp được người Nhật truyền tụng mãi với lòng tự hào. Nhưng vượt lên trên tất cả những người nầy có lẽ là Shibusawa Eiichi (1840-1931). Ông hội tụ tất cả – mọi đức tính, mọi tố chất của một nhà lãnh đạo. Và hơn thế nữa, sống trong buổi giao thời của hai chế độ, sống trong giai đoạn đất nước đứng trước nguy cơ bị Tây phương xâm chiếm, thái độ và hành động của một kẻ sĩ thức thời ở ông đã góp phần quyết định vào sự thành công của Minh Trị duy tân. Và về đạo đức trong kinh doanh, như ta sẽ thấy sơ lược dưới đây, và thấy chi tiết trong sách này, cũng như các cuốn sách mà nhà nghiên cứu Nhật Bản Nguyễn Lương Hải Khôi đã dịch, cổ kim Đông Tây có ai hơn Shibusawa? Câu chuyện Shibusawa còn đáng kể mãi là vì nó phản ảnh một tấm gương sáng của người lãnh đạo chính trị trong chế độ mới, vì lợi ích quốc gia đã cầu hiền từ những người của chế độ cũ. Nếu không thì tài năng của Shibusawa đã bị mai một và có thể người Nhật đã không có một đất nước như ngày nay. Sinh ra vào giai đoạn cuối của thời đại Edo trong một gia đình trồng dâu nuôi tằm tại Saitama, một tỉnh giáp Edo (tên cũ của Tokyo) về phía bắc, Shibusawa lúc nhỏ đã rất thông minh, ham học. Ông được Tokugawa Yoshinobu, tướng quân cuối cùng của thời Edo, tuyển vào cung để dạy cho công tử học. Sau công tử của tướng quân được gửi sang Pháp du học và Shibusawa cũng được gửi theo để dạy kèm. Trong lúc ở Pháp, Shibusawa khám phá nhiều điều mới lạ của một xã hội tiên tiến. Đặc biệt ông quan tâm đến tổ chức và hoạt động của công ty, của hệ thống ngân hàng. Thế rồi ông vừa làm công việc dạy kèm vừa vùi đầu vào việc nghiên cứu, ghi chép các vấn đề này. Khi Shibusawa về nước (1868) thì chế độ tướng quân đã sụp đổ, thay vào đó là chính quyền mới được lập ra chung quanh Minh Trị Thiên Hoàng, và tướng quân cuối cùng đã về ở ẩn tại Shizuoka, một tỉnh ở vùng núi Phú Sĩ. Shibusawa cũng theo chủ về ở Shizuoka. Về ở ẩn nhưng ông vẫn băn khoăn về vận mệnh đất nước, nhất là ông nghiên cứu và tập hợp tư liệu về việc xây dựng và tổ chức một nền kinh tế tiên tiến, nhưng bây giờ lại không được thi thố tài năng. Ông suy nghĩ nhiều về phương cách truyền bá sự hiểu biết của mình mong góp phần biến cải xã hội. Ông bèn lập ra Sở giảng dạy thương pháp (luật về thương mại) tại nơi ở của mình với mong muốn giúp những doanh nhân vừa ra đời trong thời đại mới hiểu biết về cách tổ chức một công ty hiện đại. Cùng lúc đó, chính quyền Minh Trị đương bắt tay vào việc xây dựng đất nước dưới các khẩu hiệu “phú quốc cường binh”, “quyết theo kịp phương Tây”, v.v.. và nhận ra rằng họ đương thiếu một chuyên gia am hiểu các vấn đề tài chánh, ngân hàng,… Họ chuẩn bị gửi người đi du học nhưng được thông tin về Shibusawa, họ đã quyết định mời ông tham gia chính quyền và cho giữ ngay một chức vụ quan trọng trong Bộ Tài chánh. Với cương vị và uy tín nầy, Shibusawa đã thi thố được hết tài năng của mình. Năm 1872, ông thiết lập hệ thống ngân hàng hiện đại, trong đó lập các ngân hàng tiên tiến và kiểu mẫu, sau đó trở thành điển hình cho một loạt các ngân hàng công và tư hình thành trong giai đoạn 1877-1880. Trong các thập niên 1880 và 1890, Shibusawa còn lập ra hàng chục công ty hiện đại trong các lãnh vực kéo sợi, dệt vải, đóng tàu, hàng hải, bảo hiểm, đường sắt, v.v.. Rất nhiều công ty hàng đầu của Nhật hiện nay thuộc nhiều lãnh vực khác nhau đã bắt nguồn từ công lao xây dựng của Shibusawa. Để nâng cao địa vị của giới doanh nhân, ông còn khởi xướng lập Phòng thương mại Nhật Bản và nhiều đoàn thể kinh tế khác. Thật không ngoa khi có nhiều nhà phân tích đã gọi Shibusawa là ông tổ của chủ nghĩa tư bản Nhật Bản. Shibusawa còn là một trong những người đầu tiên hô hào đạo đức trong kinh doanh, chủ trương nhà kinh doanh phải là người yêu nước và có hoài bão đem năng lực cải tiến xã hội, góp phần vào việc xây dựng đất nước và làm cho đồng bào mình được no ấm. Những công ty ông lập ra sau khi hoạt động đã lên quỹ đạo, ông rút lui nhường lại cho người trẻ để có thì giờ lập những công ty khác hoặc làm những việc khác, vì ông thấy trong một đất nước non trẻ còn quá nhiều lãnh vực cần ông phát huy năng lực. Ông có trên dưới 10 người con nhưng không hề áp đặt những công ty, những tổ chức do ông sáng lập phải nhận con ông vào trong ban lãnh đạo. Ông chủ trương con cháu ông phải tự lập, tự mình học hỏi, trau dồi và nếu xứng đáng thì xã hội sẽ trọng dụng. Shibusawa bỏ công sức cho giáo dục và làm từ thiện. Ông đã tham gia sáng lập nhiều trường đại học, kêu gọi đóng góp vô vị lợi từ các công ty. Đại học Hitotsubashi, nơi tôi học ngày xưa, bắt đầu bằng một cơ sở giáo dục do ông sáng lập thời đầu Minh Trị (Sở giảng dạy thương pháp nói trên). Tên tuổi của Shibusawa Eiichi được truyền tụng mãi ở Nhật Bản, chiếm một vị trí lớn trong sách giáo khoa cho học sinh các cấp. Ông là một trong những nhân vật lãnh đạo vĩ đại của thời Minh Trị và có thể nói ông là nhà doanh nghiệp vĩ đại nhất của Nhật xét từ mọi phương diện tài năng, đức độ, và mức độ ảnh hưởng đến quá trình đưa nước Nhật thành một cường quốc kinh tế. Tôi có một kỷ niệm đẹp với người cháu đích tôn 4 đời của Shibusawa Eiichi, đó là Shibusawa Masahide (1925-). Ông cố nội (tằng tổ phụ) của Masahide là Shibusawa Eiichi và ông cố ngoại là Iwasaki Yataro (ông tổ sáng lập tập đoàn Mitsubishi). Từ đầu thập niên 1990, tôi có quan hệ khá thân thiết với ông Shibusawa Masahide, lúc đó ông là Giám đốc Quỹ Kỷ niệm Shibusawa Eiichi, đồng thời là hiệu trưởng trường Nữ học quán Tokyo (Tokyo Jogakkan). Khi tôi vận động các giới ở Nhật để thành lập Trung tâm Kinh tế châu Á Thái bình dương (VAPEC) tại Việt Nam (năm 1993), ông Masahide có tham gia vào ban cố vấn. Một kỷ niệm rất đẹp là như thế này: Năm 1993 cuốn sách (bằng tiếng Nhật) của tôi (xuất bản năm 1992) được Giải thưởng Châu Á Thái bình dương (do Nhật báo Mainichi và Viện nghiên cứu Á châu tổ chức). Tôi đã dùng tiền thưởng đó tặng cho trường trung học phổ thông (Cấp 3) ở Hội An để làm quỹ học bổng cho học sinh nghèo. Thật ra ở bậc trung học cơ sở (Cấp 2) tôi học ở trường khác, một trường ở huyện Điện Bàn (Quảng Nam). Lẽ ra tiền học bổng nên chia hai để tặng cho cả hai trường, nhưng nghĩ là số tiền không lớn nên chỉ dành cho một nơi, còn nơi khác sẽ cố gắng tìm một quỹ khác. Sau đó ít lâu, trong một buổi ăn trưa trò chuyện với ông bà Shibusawa Masahide, tôi vui miệng kể chuyện học bổng nói trên và tâm sự là nếu có số tiền lớn hơn tôi đã giúp cả trường cấp 2 nữa. Ông Masahide nói ngay: “Vậy để tôi giúp số tiền bằng tiền giải thưởng cuốn sách để anh lập quỹ học bổng cho Trường cấp 2”. Tôi rất ngạc nhiên vì sự phản ứng rất nhanh và rất tự nhiên của ông Masahide. Thế là cả hai trường đều có quỹ học bổng. Qua câu chuyện này, tôi muốn nói đến tinh thần vì công ích, vì xã hội đã thấm vào máu thịt của con cháu Shibusawa Eiichi. Có nhiều định nghĩa về tinh thần doanh nghiệp (entrepreneurship) nhưng theo tôi, một tố chất quan trọng trong tinh thần doanh nghiệp là văn hóa, là đạo đức kinh doanh, là lòng yêu nước, là tinh thần phụng sự xã hội. Ở Việt Nam ta hiện nay rất cần những nhà doanh nghiệp có những tố chất như Shibusawa Eiichi. Tokyo, mùa anh đào năm 2019 Sách Khai Minh trân trọng giới thiệu bạn đọc ! Mời các bạn mượn đọc sách Luận Ngữ Và Bàn Tính của tác giả Shibusawa Eiichi & Nguyễn Mạnh Sơn (dịch).