Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Tỉ Sáu

Khi cả nhân loại đang đứng trước nguy cơ nòi giống bị diệt vong... Khi người đàn ông hoàn hảo với kho "hạt giống" khổng lồ xuất hiện... Liệu anh ta sẽ là báu vật quốc gia?... Hay sẽ là nạn nhân?... Cuốn tiểu thuyết về xã hội đương đại Trung Quốc với những tình tiết giả tưởng đầy kịch tính và giọng văn hài hước, châm biếm một lần nữa khẳng định Trương Hiền Lượng xứng đáng là một trong số 100 nhà văn có ảnh hưởng lớn đến thế kỉ XX do tạp chí Time bầu chọn. *** Review Phương Thảo: Sáu Tỉ Đường Đến Hạnh Phúc là một cuốn sách viết vềnhững khía cạnh của hạnh phúc dưới góc nhìn của một nhà khoa học. Hạnh phúc không chỉ là cảm xúc trong mỗi chúng ta mà nó còn được nghiên cứu bởi khoa học. Đây là một quyển sách rất hay được viết một cách rất kỹ lưỡng, logic và bài bản bởi một nhà khoa học. Người ta thường nghĩ hạnh phúc là một điều gì đó lớn lao, khó có được nhưng sau khi đọc xong sách ta sẽ hiểu khác. 6 tỷ đường tới hạnh phúc, giống như tên của cuốn sách, với 6 tỷ người, mỗi người sẽ có một hạnh phúc riêng, không ai giống ai. Con đường hạnh phúc ta đang đi, nó có nhiều ngã rẽ lắm, và thế nào là hạnh phúc thì chỉ có mỗi ng mới cảm nhận được. Nhiều lúc chúng ta cứ mãi đi tìm hạnh phúc, cứ quẩn quanh, ước nguyện hạnh phúc của người khác, mà lại quên đi mất đi những điều hạnh phúc nhỏ ngay bên cạnh mình. Hạnh phúc hay không chính là ở mình mà thôi. Tác giả đã dành rất nhiều thời gian, tâm huyết phân tích não bộ, hành vi, giải thích các thí nghiệm, nghiên cứu khoa học, cho đến dẫn chứng cụ thể rõ ràng các quan điểm của triết học và các tôn giáo khác nhau để đưa ra những niềm tin và quan niệm về hạnh phúc, cách để con người cảm thấy hạnh phúc. Đọc xong cuốn sách mình càng trân trong những điều nhỏ bé xung quanh mình vì sẽ một ngày bạn nhận ra nó chính là những điều hạnh phúc mà bạn khó có thể có lại được khi đã mất đi. *** Nếu bạn là một người đánh giá cao hạnh phúc và đang vật vã đi tìm nó, cuốn sách này là dành cho bạn. Nếu bạn đang rất hạnh phúc rồi, hãy vẫn cứ đọc nó – vì cuốn sách này sẽ khẳng định lại rất nhiều lựa chọn trong cuộc đời bạn. Stenfan Klein là một trong những nhà báo khoa học có ảnh hưởng nhất ở châu Âu. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “The Science of Happiness” (Sáu tỉ đường đến hạnh phúc) được dịch ra hàng chục ngôn ngữ trên thế giới.   “Sáu tỉ đường đến hạnh phúc” là một cuốn thuộc dạng khoa học thường thức – loại sách khá phổ biến ở phương Tây. Trong những cuốn sách này, các vấn đề khoa học được diễn đạt lại một cách gần gũi và dễ hiểu để ai cũng có thể tiếp cận. Điểm khác biệt rõ rệt giữa cuốn sách này và các cuốn self-help hay súp gà cho tâm hồn khác là tất cả các kết luận ở đây đều dựa trên các bằng chứng, các nghiên cứu… nói chung là rất khách quan, khoa học nhưng vẫn không mất đi sự lãng mạn và nhạy cảm. Cuốn sách sẽ mang tới cho độc giả rất nhiều hiểu biết về cách bộ não chúng ta hoạt động, vì sao những cảm xúc tích cực lại quan trọng đến thế trong đời sống của mỗi người. Không chỉ thế, Stephan Klein còn đề cập và “giải phẫu” mọi vấn đề cơ bản nhất của đời sống con người: ham muốn, khoái cảm, tình yêu, tình bạn, đam mê, bất hạnh, thăng hoa… đồng thời giới thiệu một chiến lược khoa học để đi tới hạnh phúc. Nếu bạn là một người đánh giá cao hạnh phúc và đang vật vã đi tìm nó, cuốn sách này là dành cho bạn. Nếu bạn đang rất hạnh phúc rồi, hãy vẫn cứ đọc nó – vì cuốn sách này sẽ khẳng định lại rất nhiều lựa chọn trong cuộc đời bạn, xoá đi các băn khoăn về việc tại sao chúng ta phản ứng với mọi sự như vậy, và làm thế nào để đời sống của mình tích cực, hạnh phúc và khoẻ mạnh hơn nữa. Và điều quan trọng nhất, dựa trên những gợi ý dày đặc trong cuốn sách, mỗi độc giả sẽ có thể tìm được cách xây dựng một con đường mới để đến hạnh phúc của chính mình. Sáu tỉ đường đến hạnh phúc được xuất bản vào năm 2002, lúc đó, dân số thế giới chỉ có khoảng 6 tỉ người, và đây là một số khám phá và một số lời khuyên có thể khiến những độc giả tương lai của cuốn sách chú ý: – “Chúng ta cố tình lờ đi sự thật rằng, mặc dù có rất nhiều khác biệt giữa người với người, con người ta vẫn có nhiều điểm chung với nhau hơn là những khác biệt, ở cả khía cạnh sinh học lẫn trong tâm tính. Chúng ta thường có xu hướng coi hạnh phúc như là một niềm thích thú mà không cần có lịch sử, không phải trả giá, không phải một quá trình. Và điều này là phi thực tế”.   – “Chúng ta có thể kiểm soát cảm xúc một cách gián tiếp bằng cách đối xử tốt với chính mình – thông qua việc thay đổi môi trường sống hoặc suy nghĩ, hay bằng cách nhớ lại những hoàn cảnh dễ chịu”. – “Con vật phải hành động theo mệnh lệnh của cảm xúc, còn chúng ta thì không. Chúng ta có thể quyết định không tuân theo cảm giác, điều này cho phép ta có nhiều lựa chọn hơn để phản ứng hợp lý” – “Chỉ khi ý thức được cảm xúc của mình thì ta mới có thể tự do quyết định xem có theo nó hay không: hiểu được cái cảm giác của mình cho chúng ta sự linh hoạt. – “Chỉ khi ý thức được cơn thịnh nộ của mình thì ta mới có thể triệt được cơn rung trong cổ họng và quyết định nói năng một cách bình tĩnh – việc này thường đem lại hiệu quả hơn là để cho cơn thịnh nộ bùng nổ. Không muốn để cho hai đầu gối run lẩy bẩy tước đoạt mất của ta một trải nghiệm mới, ta có thể kiềm chế những cảm giác rụt rè và sợ hãi. Lũ chó sẽ không dám nhảy bungee ngay cả nếu chúng có thể nhảy; cảm xúc sợ hãi vô thức đã ngăn chúng lại – chúng là nô lệ của cảm xúc đó”. – “Khi tập luyện việc tự kiểm soát, ta sẽ có một tác động kép lên não bộ. Thứ nhất, chúng ta ít có khả năng phản ứng tiêu cực lúc ban đầu, bởi vì kết nối giữa kích thích và phản ứng cảm xúc tương ứng bị yếu đi. Thứ hai, chúng ta tăng cường được khả năng (đặc biệt là của thuỳ trước trán) kiềm chế những cảm xúc đó, nếu sau cùng chúng vẫn bùng lên. Cũng giống như những thành tựu khác, việc kiểm soát cảm xúc một cách có ý thức cần được luyện tập. Và luyện tập, đến lượt nó, lại làm thay đổi cấu trúc não bộ – với kết quả rằng, theo thời gian, chúng ta học được cách xử lý những cảm giác của mình dễ dàng hơn”. – “Hạnh phúc có được là do hành động đúng. Aristotle viết: ‘Hạnh phúc là kết quả của một hành động’. Hạnh phúc không phải là một món quà ngẫu nhiên hay thần thánh; nó được trao cho người biết cách sử dụng tối ưu các khả năng sẵn có để đạt được”. – “Bí quyết thực sự của đường đến hạnh phúc là quyết tâm, nỗ lực và thời gian, Đạt Lai Lạt Ma đã giảng giải như vậy.” Mời các bạn đón đọc Một Tỉ Sáu của tác giả Trương Hiền Lượng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giây Thứ 12 - Sunness
Một ngày nọ, người vợ đang mang thai sáu tháng của cảnh sát hình sự Triệu Diệc Thần là Hồ Gia Anh gọi điện thoại đến báo án. Cuộc gọi tiến hành đến giây thứ mười một thì đột nhiên kết thúc, Hồ Gia Anh cũng mất tích từ lúc đó. Trong quá trình điều tra, Triệu Diệc Thần phát hiện tất cả những giấy tờ chứng minh thân phận của vợ mình đều là giả, manh mối cũng vì thế mà đứt đoạn. Chín năm sau, anh nhận được một cuộc gọi kì lạ, sau đó không lâu hòm thư trước nhà lại nhận được hai tấm ảnh, trong ảnh là là người vợ đã mất tích nhiều năm của anh và một cô bé có gương mặt rất giống anh. Anh lần theo cuộc gọi đó mà tìm đến nhà của một người xa lạ, đợi chờ anh ngoài một khoản di sản lớn thì còn có tin vợ mình đã qua đời từ năm ngoái, và một cô con gái mắc chứng trầm cảm mà mất khả năng ngôn ngữ... Trong 9 năm đằng đẵng đó, đã xảy ra chuyện gì? Ngoài ra, bí mật trong quá khứ nào được người vợ xinh đẹp, thông minh chôn giấu? Đứa trẻ đó... vì sao? *** Trích dẫn hay: “Trên đời này chỉ có tự vệ và lương thiện là không cần có lí do.” "Nếu chưa từng trải qua đêm tối, sẽ không bất chấp tất cả mà lao về phía nguồn sáng." “Đừng lấy sai lầm của người khác làm lí do phạm sai của mình.”  *** Đầu năm 1987, cơn rét đổ xuống phía nam, đụng độ với luồng khí nóng từ duyên hải tràn vào, tạo thành thời tiết hồi Nam ở các thành phố miền Nam. Trời chưa sáng Hứa Hàm đã mở mắt, hất mở tấm chăn ẩm mốc, lay ông lão bên cạnh thức dậy. Ông chính là ông lạo đã cõng cô vào trong thành phố xin ăn khi cô bị con chó mực cắn bị thương, ông họ Mã, các ăn mày khác đều gọi ông là Già Mã. Lúc đó Lão Mã nhân lúc Hứa Hàm còn chút hơi tàn, suốt ngày đưa cô đến những nơi đông người để xin ăn. Có một lần gặp phải cảnh sát, các sinh viên trên phố bắt đầu bỏ chạy tán loạn, Già Mã cũng chạy, gói ghém đồ đạc rồi chạy, chỉ bọ lại đứa "cháu nội" sống sờ sờ là Hứa Hàm. Hứa Hàm nằm yên bất động trên mặt đất, cô không động nổi. Có người đạp qua người cô, có bàn dẫm lên cánh tay cô, nhưng vẫn chưa đạp chết cô. Cô thoi thóp với hơi thở cuối cùng đó, mở to mắt, nhìn bày trời trong xanh và con người màu đen. Sau đó cảnh sát đã đi xa, đám sinh viên đã chạy sạch, Già Mã quay trở lại. "Nhóc còn, vẫn còn thở à?" Ông ngồi xuống bên cạnh cô, trong tay cầm một miếng bánh, vừa đánh giá dáng vẻ bán sống bán chết của cô, vừa há to miệng ngấu nghiến bánh. Vụn nhân trong bánh rơi, đập lên mặt Hứa Hàm, lại rơi xuống mặt đường trải nhựa. Hứa Hàm không rên lấy một tiếng. Già Mã nuốt xong cái bánh, nhặt chỗ vụn nhân đậu xanh lớn có nhỏ có, nhét vào trong miệng đang hé mở của Hứa Hàm. Từ đó về sau, mỗi lần ông mua bánh về, đều chia cho cô một mẩu nhỏ. Ông thích ăn bánh có nhân, nhân bắp cải. ... Mời các bạn đón đọc Giây Thứ 12 của tác giả Sunness.
Đoạn Tình - Hồ Biểu Chánh
Một trong những yếu tố làm nên sự thành công của Đoạn Tình chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Thuần là chủ một hãng xe lớn ở Sài Gòn, anh ta lập hãng xe là vì thất chí trước hoàn cảnh xã hội và có vợ sớm vì muốn sống trong hạnh phúc gia đình. Tuy đã từng học ở nước ngoài nhưng Thuần không thích lối sống kim tiền của bạn bè. Hòa là vợ Thuần tánh hay ghen, thường làm phật ý chồng. Vân là bạn học và rất thân thiết của Hòa. Vì đã bị hồi hôn nên Vân nhứt quyết không lấy chồng và thích làm chuyện xã hội. Nhân một chuyến lên Sài Gòn thăm bạn, Vân gặp Thuần. Hai người thấy mình có những suy nghĩ rất hợp với nhau. Nhưng Thuần vì hạnh phúc gia đình nên tìm đủ mọi cách tránh gặp Vân để khỏi gây rắc rối tình cảm. Câu chuyện xảy ra chung quanh ba nhân vật nầy và sau cùng đưa đến việc đoạn tình? *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Đoạn Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Đóa Hoa Tàn - Hồ Biểu Chánh
Tình Sâu Tiết Sạch Cách một tháng sau, thím biện Yến có trở về ở đậu trong xóm mà mướn thợ xây mả cho chồng. Người ta hỏi thăm thì thím nói Hải Đường làm quan Bác vật tại sở Tạo Tác Sài Gòn. Làm mả xong rồi thì thím đi nữa, nói rằng lên Sài Gòn ở với con. Từ ấy cho tới hai năm sau, Hải Đường và thím biện Yến không có trở về trong làng nữa, mà cũng không có gởi thơ cho ai hết, nên không ai biết còn ở Sài Gòn hay là đã dời đi chỗ nào khác. Một buổi trưa, lính trạm đi phát thơ, cũng ghé nhà ông Bình mà phát nhựt trình như mỗi bữa. Cô Túy Nga ở nhà có một mình, cô mở tờ nhựt báo "Thanh niên" ra, thấy ở chương đầu có một bài đề tựa chữ lớn như vầy: "Tài với Tình". Cô là người đa tình, thấy tựa như vậy thì lấy làm kỳ, nên đọc bài ấy trước. Bài viết như vầy: Ông Nguyễn Hải Đường là một đấng nhơn tài của Việt Nam, ông ở tại "Chư nghệ Đại học hiệu" Ba-Lê mà xuất thân, được cấp bằng làm Kỹ sư Bác vật sở Tạo Tác Đông Pháp. Chí tấn thủ với tài học thức của ông làm vẻ vang cho bực thanh niên Nam Việt không biết chừng nào. Tiếc thay cho ông cũng như trăm ngàn đấng thanh niên khác, hễ đa tài thì đa tình, ông cũng bị dây ái tình ràng buộc lôi cuốn vào biển khổ. Hôm chúa nhựt rồi đây, tôi thăm ông bạn tôi là ông y khoa Tấn sĩ Lê Vĩnh Trị ở Châu Đốc, tình cờ tôi nghe được tâm sự của ông Hải Đường thì tôi lấy làm đaulòng vô hồi. Theo như lời ông bạn tôi nói lại, thì ông Hải Đường từ nhỏ đã có tình với một cô mỹ nữ nào đó, nhưng vì cô chê ông nghèo hèn, không khứng kết tóctrăm năm với ông, nên ông thất vọng mới đi qua Pháp mà học. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Đóa Hoa Tàn của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Dây Oan - Hồ Biểu Chánh
.....Thầy hay tin ấy thì thầy ngẩn-ngơ, bỏ ăn bỏ ngủ. Thầy nghĩ cô Ðằng phạm tội giết chồng thì cô phải chịu hình phạt mà đền cái tội đại ác ấy, bởi vì theo lẽ Trời cũng như theo luật người, hễ có vay thì phải trả, không trốn đâu cho khỏi được. Mà cái tội ác của cô Ðằng phạm đây gốc ở nơi mình mà ra. Tuy mình không xúi cô làm như vậy, nhưng mà mình nhen nhúm bếp lửa tình trong lòng cô, mình làm cho cô cuồng tâm loạn trí, chẳng còn phân biệt tội phước dữ lành được nữa, nên cô mới dùng thuốc độc mà giết chồng. Ấy vậy tội của cô làm cũng là tội của mình, cô là cái tay làm, còn mình là cái óc khiến, bây giờ ra trả nợ oan-trái ấy, há mình đành trốn lánh hay sao. Ðã biết cô tự quyết gánh vác một mình, đã biết việc mình tư tình với cô không ai hiểu thấu, nhưng mà dầu người ta không hiểu, chớ Trời Ðất há không biết hay sao? Cái nợ oan trái nầy mình không thể trốn đâu cho khỏi, trước sau gì mình cũng phải trả phứt cho rồi, dầu bị khổ hình mà lương tâm được bình an, mình hủy cái kiếp lao đao nầy thì hoặc may kiếp sau mình mới được hoan lạc.... *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Dây Oan của tác giả Hồ Biểu Chánh.