Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thám Tử Rời Sân Khấu - Agatha Christie

Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case hoặc Curtain) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được hãng Collins Crime Club xuất bản lần đầu tại Anh tháng 9 năm 1975. Đây là tiểu thuyết cuối cùng của Agatha Christie về nhân vật thám tử Hercule Poirot cũng như Arthur Hastings với bối cảnh là điền trang Styles, nơi từng diễn ra vụ án đầu tiên trong loạt truyện về Hercule Poirot. Tác phẩm này được Agatha Christie viết từ đầu thập niên 1940 trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai với ý định làm đoạn kết cho toàn bộ loạt truyện về Hercule Poirot, nữ nhà văn giữ nó trong nhà băng suốt hơn 30 năm rồi mới cho ấn hành chỉ một năm trước khi bà qua đời. *** Ghi chú của đại úy Arthur Hastings Bốn tháng sau cái chết của Hercule Poirot một văn phòng luật gia mời tôi đến gặp tại trụ sở. Tại đây, họ làm theo yêu cầu của khách hàng của họ, trao cho tôi một phong bì kín, bên trong có văn bản mà tôi chép lại sau đây: Văn bản của Hercule Poirot Bạn thân mến, khi anh đọc những dòng này, tôi đã mất được bốn tháng. Tôi chần chừ không muốn viết, nhưng sau lại thấy cần phải nói cho ai đó biết sự thật về những gì xảy ra ở Styles. Chắc rằng đến lúc đọc bài này, anh đã đặt ra đủ các loại giả thuyết một cách chật vật hòng đi đến kết quả. Song xin nói để anh biết rằng lẽ ra anh đã sớm tìm ra sự thật, vì tôi đã cố ý cung cấp những dấu hiệu để dẫn anh tới đó. Nếu anh chưa tìm ra được, ấy là tại vì bản chất anh quá tin người, trước sau anh vẫn vậy! Ít nhất anh cũng phải biết ai đã giết Norton chứ, dù là còn tù mù về cái chết của Barbara Franklin. Nhưng hãy nói từ đầu. Tôi mời anh đến Styles, nói là tôi cần anh. Đó là sự thực. Tôi bảo anh phải là tai, là mắt cho tôi. Đó cũng là sự thực, nhưng có lẽ không hẳn theo nghĩa mà anh hiểu. Anh phải nhìn thấy những gì tôi muốn anh nhìn, nghe thấy những gì tôi muốn anh nghe. Anh phàn nàn về chuyện tôi không nói thật hết với anh khi trình bày vụ việc. Đúng, tôi không chịu nói rõ lai lịch tên X. Nhưng tôi phải làm thế, mặc dù ở đây cũng vậy, lý do tôi viện ra với anh không phải là lý do thực. Lý do thực, rồi anh sẽ hiểu ngay bây giờ. Tôi đã chuyển cho anh bản tóm tắt năm vụ án khác nhau. Tôi đã nêu bật nhận xét rằng trong mỗi vụ án đó, người bị kết án hoặc bị nghi ngờ dường như không phải thủ phạm thực. Tôi lại nêu rõ một điều quan trọng nữa, trong mỗi vụ, X đã có mặt tại chỗ hoặc ở quanh quẩn đâu đó. Anh đã vội suy diễn ngay ra một điều, trớ trêu thay, vừa đúng vừa sai. Anh nghĩ X là người đã trực tiếp phạm các tội ác đó. Nhưng bạn ơi, hoàn cảnh xảy ra là trong mỗi vụ, duy nhất chỉ có người bị kết tội mới có cơ hội làm việc đó. Như vậy, sẽ giải thích sự có mặt của X như thế nào? Trừ phi là người có dính dáng đến cảnh sát hoặc là một nhóm người quyền chức sa đọa, rất khó cho một người nào lại dính liên tiếp đến năm vụ án khác nhau. Điều đó không thể xảy ra anh hiểu không? Không ai lại đến gặp anh mà nói: "Tôi trực tiếp quen biết năm kẻ giết người". Không, không thể có như vậy. Thực ra, chúng ta đứng trước một hiện tượng xúc tác kỳ cục. Phản ứng giữa hai chất chỉ xảy ra khi có mặt chất thứ ba, chất này có vẻ như không đóng vai trò gì và không hề bị biến đổi. Tình hình là như thế: khi X có mặt, là án mạng xảy ra, nhưng X không mó tay trực tiếp. Đây là một tình hình kỳ lạ, hoàn toàn bất bình thường. Và tôi hiểu ra là vào cuối đời, mình đã gặp một hung thủ tạm gọi là "hoàn hảo" hắn đã thực thi một kỹ thuật tinh vi làm cho hắn không bao giờ có thể bị vạch mặt. Kỹ thuật đó là đáng ngạc nhên, nhưng không mới. Đã có những trường hợp tương tự. Và đây là một chỉ dẫn đầu tiên tôi để lại cho anh. Vở kịch Othello. Trong kịch này, có một điển hình như hệt X. Đúng, Iago là tên giết người hoàn hảo. Cái chết của Desdémone, của Cassio rồi của cả Othello nữa, là những tội ác của Iago do hắn trù liệu. Vậy mà không ai chịu nghi ngờ hắn. Lẽ ra hắn còn được "tại ngoại" mãi, cho đến khi người đồng hương vĩ đại của anh - thi hào Shekaspeare - phải dùng đến một biện pháp thô thiển nhất, là đưa chiếc khăn tay ra mới lật mặt được hắn. Phải, án mạng được nâng lên thành nghệ thuật hoàn hảo. Không có một lời kích động trực tiếp nào. Iago còn khéo léo ngăn mọi người chớ dùng bạo lực và gieo mối nghi ngờ vào lòng người khác rồi lại làm bộ gân cổ bác bỏ! Cách làm ấy ta lại thấy trong màn ba tuyệt vời của vở John Fergueson, trong đó chàng ngố Clutie John kích động người khác giết người mà hắn không ưa. Kiểu gợi ý về tâm lý đó là một công trình tuyệt hảo. Anh Hastings, anh cần hiểu điều này: mỗi người chúng ta đều là một hung thủ tiềm ẩn. Trong mỗi chúng ta thỉnh thoảng lại nỗi lên sự muốn giết nhưng không nhất thiết kèm theo sự dám giết. Đã bao lần ta nghe thấy người này người kia nói: "Mụ ấy làm tôi tức lộn ruột, muốn giết mụ ngay lập tức!" - "Tôi sẽ giết nếu nó dám nói thế!" - "Tôi ấy à, tôi sẽ bẻ gẫy cổ hắn!" Nhưng lúc đó, ý của ta thật rõ ràng: muốn giết cho chết. Nhưng ta không làm việc ấy, vì lý trí ta không đồng tình với tình cảm. Ở trẻ nhỏ cái máy hãm lý trí ấy có khi không hiệu quả. Tôi biết một thằng bé bực mình với con mèo, thốt lên: "Nằm im, không tao đập cho một cái vào đầu chết tươi!". Nói rồi làm thật. Để sau đó mới hoảng hồn vì con mèo đẵ chết. Vì thật ra, thằng bé rất yêu con vật ấy. Tóm lại trong mỗi chúng ta đều có một tên hung thủ nằm ngủ. Và nghệ thuật của X không phải chỉ gợi lên ý muốn mà còn thủ tiêu sự kháng cự của lý trí. Nghệ thuật đó được rèn giũa trải qua thực tế lâu dài. Hắn biết dùng một từ chính xác, một câu nói thích hợp, giọng nói tính toán làm sao để gây áp lực liên tục lên một điểm yếu! Trong khi đó, nạn nhân không ngờ vực chút nào. Đây không phải là thôi miên; thôi miên chưa chắc đã ăn. Nó là một cái gì lắc léo hơn, đáng sợ hơn: sự tập hợp tất cả sức lực của một con người để mở rộng một khe hở chứ không bịt nó lại. Anh phải biết điều đó chứ, vì nó đã xảy ra với anh. Có thể anh đã bắt đầu hiểu ý nghĩ một số nhận xét của tôi mà anh cho là lạ. Khi tôi nói có một vụ án sắp xảy ra không phải lúc nào tôi cũng ám chỉ một vụ giống nhau. Tôi nói rằng tôi đến Styles nhằm một mục đích nhất định, vì ở đó sắp xảy ra án mạng. Và anh đã hết sức ngạc nhiên thấy tôi đoán chắc như thế. Nhưng sở dĩ tôi chắc như vậy, vì vụ án mạng đó sẽ do tôi tiến hành. Phải, kỳ lạ thật, anh nhỉ. Và kinh khủng nữa. Tôi là người phản đối tội ác, người luôn luôn tôn trọng cuộc sống con người, thế mà tôi lại kết thúc sự nghiệp của mình bằng gây ra án mạng! Hay bởi tôi quá đạo đức giả, quá ý thức về sự ngay thẳng của mình mà cuối cùng phải đứng trước sự lựa chọn sinh tử đó. Vì, anh Hastings ơi, bao giờ cũng có mặt phải, mặt trái. Nhiệm vụ của đời tôi là cứu người bị oan, ngăn ngừa tội phạm và tôi chỉ có thể làm được việc đó bằng một cách duy nhất. Vì - anh chớ quên điều này - X không thể bị pháp luật trừng trị. Hắn có chỗ trú an toàn. Tôi không nghĩ ra cách nào khác khác để đánh bại hắn, buộc hắn vĩnh viễn không thể tác oai tác quái. Song tôi vẫn do dự. Biết rõ cần làm gì, nhưng chưa dám quyết làm. Giống như Hamlet, tôi cứ trì hoãn mãi giờ phán xét cuối cùng. Thế là xảy ra một mưu toan khác, định làm hại bà Luttrell. Tôi nóng chờ xem anh, vốn thính nhạy với sự thật hiển nhiên, lần này có hiểu ra không. Và anh đã hiểu: phản ứng đầu tiên của anh là nghi cho Norton, dù rất mơ hồ. Anh đã đoán đúng: Norton chính là người chúng ta tìm. Không có bằng chứng gì để xác minh giả thuyết đó, trừ một nhận xét dụt dè của anh rằng hắn là con người vô vị. Song lúc đó chính là lúc anh đã tới gần sự thật. Tôi đã nghiên cứu kỹ lai lịch của hắn. Hắn là con của một bà mẹ độc đoán và áp chế, nên không lúc nào hắn có dịp tự khẳng định hoặc áp đặt tính cách của mình cho ai. Hắn bị tật nhẹ ở chân, nên ngay lúc đi học không tham gia tích cực được vào các trò chơi của bạn học. Một điều có ý nghĩ mà anh kể lại với tôi là hắn bị bạn bè chế nhạo vì buồn nôn khi nhìn con thỏ bị lột da. Tôi cho rằng chuyện ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng hắn. Hắn sợ máu và bạo lực, nên bị "kém thớ". Trong tiềm thức, hắn chờ dịp để tự khẳng định, báo thù lại bằng cách tỏ ra táo bạo, thậm chí tàn ác. Tôi hình dung hắn sớm nhận ra mình có khả năng gây ảnh hưởng tới người khác. Hắn biết bình tĩnh lắng nghe, gợi được cảm tình, mọi người không chú ý hắn lắm, song không ghét bỏ. Hắn nhận ra là nếu dùng những lời thích hợp và nhấn vào đúng chỗ, thì rất dễ gây ảnh hưởng tới người khác. Chỉ cần hiểu họ, nắm được ý nghĩ của họ,lường trước những phản ứng và những ý nghĩ âm ỉ của họ. Anh có thấy không, một sự khám phá như vậy làm cho hắn có cảm giác như thế nào về quyền lực của mình! Hắn là Stephen Norton, người vừa được yêu mến vừa bị coi thường, nay có khả năng thúc đẩy người khác làm những việc họ không muốn làm hoặc tưởng là không muốn làm. Tôi hình dung hắn bắt đầu đem cái sở trường đó ra thực hành, rồi lâu dần thành quen, thích thú với việc thông qua nguời khác để gây ra những hành vi bạo lực, những việc mà hắn không tự làm được vì thiếu sức mạnh thể chất. Và cái trò quỷ đó cứ lên mãi thành niềm đam mê, không làm không được. Như một thứ ma túy, nghiện rồi không thể bỏ. Norton con người vốn bản tính hiền lành, trở thành tên bạo sát dấu mặt. Giống như người nghiện, hắn phải có suất tiêm chích hằng ngày, luôn tìm hết nạn nhân này tới nạn nhân khác. Tôi tin là con nhiều vụ khác, ngoài năm vụ mà ta đã biết. Và trong mỗi vụ, hắn đều có vai trò giống nhau. Hắn quen biết Etherington; hắn đã ở suốt mùa hè ở cái làng Riggs ở,thỉnh thoảng uống rượu với anh này ở quán. Trong một chuyến du ngoạn, hắn làm quen với Freda Clay và làm như nói chuyện bâng quơ, đã gợi ý cho cô ta thấy nếu bà cô chết đi thì nhất cử lưỡng tiện: chẳng những bà già được giải thoát, mà cô sẽ được sống ung dung, thoải mái. Hắn cũng là bạn của Litchfield, và gợi cho Margaret thấy nếu giải thoát được cho các em gái, cô sẽ là người hùng. Tôi tin là, không ai trong số những người đó sẽ giết người, nếu không bị Norton tác động. Bây giờ ta trở lại những sự kiện ở Styles. Tôi đã theo dõi Norton một thời gian. Và khi hắn làm quen với Franklin, tôi thấy ngay mối nguy. Với Norton, vợ chồng Franklin mở ra những khả năng rất thú vị, có thể nói là đủ các loại khả năng. Bây giờ thì chắc anh đã hiểu điều mà bất cứ người nào đầu óc bình thường phải hiểu ngay, đó là Franklin và con gái anh yêu nhau. Cử chỉ bất thường của bác sĩ, cái cách ông ta không bao giờ nhìn thẳng vào Judith, bỏ qua mọi kiểu đối xử xã giao với Judith, tất cả những cái đó phải cho anh thấy là ông ta yêu con gái anh. Nhưng đó là một người có nghị lực và thẳng thắn. Có thể ăn nói hơi cục cằn, nhưng có những nguyên tắc nhất định. Theo ông, người chồng phải chung thủy với người vợ mình đã chọn. Về phía Judith nó mê tít ông bác sĩ. Tôi tưởng anh đã biết chuyện ấy rồi, và Judith cũng tưởng thế, cái hôm anh gặp nó trong vườn hồng. Do đó nó với cáu kỉnh. Tính cách như nó không chịu để ai thương hại, thậm chí thông cảm. Rồi Judith hiểu là anh tưởng nó yêu Allerton, và nó không cần đính chính, cứ để mặc cho khỏi gây lôi thôi. Nó chấp chới với Allerton như để tìm trong đó một niềm an ủi tuyệt vọng, mặc dù biết Allerton là loại người nào. Nó chỉ đùa cợt thế thôi, chứ không hàm ý tình cảm gì. Tất nhiên Norton hiểu tất cả, hắn dự kiến khai thác tình hình đó. Tôi cho là hắn đã tìm cách ảnh hưởng đến Franklin, nhưng thất bại. Bác sĩ là loại người duy nhất không chịu tác động gì từ phía Norton. Ông có trí óc cực kỳ tỉnh táo. Hơn nữa, niềm đam mê lớn nhất đời ông là công việc. Với Judith, Norton thành công hơn bằng cách khéo léo khích cái lý thuyết về những cuộc đời vô dụng. Judith thành thật tin vào thuyết này, và hắn tỏ ra cực kỳ gian manh, làm bộ chủ trương thuyết trái lại và nói khích Judith, cho là cô ta không đủ táo bạo để đưa lý thuyết vào thực hành. "Đó là loại lý thuyết ta hay có lúc trẻ, nhưng không bao giờ dám thực hiện". Cách nói ấy mang tính kích động thô thiển, ấy vậy mà có khi hiệu quả. Bọn trẻ ấy mà, chúng còn non nớt quá! Nếu bà Barbara vô dụng bị loại trừ, con đường với Franklin và Judith sẽ rộng mở. Điều ấy không được nói toạc ra, người ta còn bản rằng lý thuyết này không ám chỉ trường hợp cá nhân nào, vì nếu Judith biết là có ám chỉ, nó sẽ phản ứng quyết liệt. Nhưng với một môn đệ của tội ác như Norton thì một vụ là chưa đủ. Hắn đã tìm ra một chỗ nữa để thử tài, đó là vợ chồng Luttrell. Ta hãy quay trở lại trước nữa. Hastings, anh có nhớ ván bài anh tham gia tối hôm mới đến. Sau ván bài, Norton đã nói mấy câu rất to khiến anh lo là ông đại úy nghe thấy. Nhưng đó là hắn cố tình muốn vậy: Luttrell phải nghe thấy! Norton không bỏ lỡ cơ hội nào để bình phẩm tính cách bà Luttrell, cố tình nhấn mạnh một cách tự nhiên. Và cuối cùng ý đồ của hắn đã thành kết quả. Việc ấy xảy ra ngay trước mũi anh, mà anh không hay biết. Nền móng của sự việc đã được sắp đặt sẵn: sự áp bức quá đáng của bà vợ, sự xấu hổ, bực bõ của ông chồng... Anh hãy thử nhớ chính xác mà xem. Norton kêu khát. Hẳn là hắn biết bà Luttrell đang ở quanh đó và chắc chắn sẽ ra mặt. Ông đại tá đáp ứng ngay, tỏ rõ bản chất chủ nhà rộng rãi của mình. Ông xin đãi một chầu rượu và vào tìm chai. Các anh đều ngồi gần cửa sổ. Bà Luttrell bước vào phòng ăn, thế là xảy ra cuộc cãi vã, chì chiết. Luttrell biết là mọi người nghe thấy hết. Ông ta trở vào. Lẽ ra mọi người phải tìm cách xoa dịu sự việc. Hoặc Boyd Carrington, hoặc chính anh, Hastings có thể làm điều đó. Nhưng Norton đã cướp lời, và khéo léo đổ thêm dầu vào lửa. Hắn nói trở lại về ván bài - làm Luttrell cảm thấy mình bị lấn át - rồi nói chuyện tai nạn đi săn. Thế rồi, cái ông Boyd Carrington đần độn vô tình mắc bẫy, lao ngay vào kể chuyện tên cận vụ giết ông anh của mình. Câu chuyện đó, chính Norton đã để cho Boyd, hắn biết rằng Boyd sẽ kể lại như là của chính mình vào lúc nào có người khéo gợi. Thành ra gợi ý cuối cùng không phải do Norton nói ra! Vậy là mọi thứ đã được dọc sẵn. Và điểm bùng nổ đã tới. Bị sỉ nhục trước mặt mọi người, nghĩ rằng ai nấy đều cho mình là thiếu dũng khí chống lại, ông Luttrell nghĩ cách để thoát ra. Thì đấy - có ngay những chuyện tai nạn đi săn, chuyện anh lính giết anh ruột. Rồi bất thần đằng cuối vườn, sau lùm cây, thấp thoáng cái đầu của bà vợ... không sợ gì cả... coi như tai nạn... Ta phải tỏ cho họ biết ta là ai... cho bà ấy chết cho xong! Nhưng bà ấy không chết. Tôi cho là, lúc bóp cò, ông ta đã bắn trượt bởi trong thâm tâm, ông muốn bắn trượt. Lập tức ý tưởng phản ứng tan ra mây khói. Bởi vì dù thế nào, ông ta vẫn yêu vợ. Đó là một trong những vụ án mạng mà Norton đã dự liệu không thành. Nhưng còn âm mưu tiếp theo! Hastings biết không, lần này hắn nhằm vào anh đó! Hãy nhớ lại đi, ông bạn thật thà ạ. Norton đã thấy ra tất cả các điểm yếu của anh, và cả những tính tốt của anh là ngay thẳng và đạo đức. Allerton thuộc loại người mà anh căm ghét và e ngại một cách tự nhiên, như cólinh tính. Và những điều anh nghĩ về hắn, biết về hắn, đều đúng. Norton liền kể anh nghe một câu chuyện khác - chuyện này có thực, theo như tôi biết - về một con gái bị Allerton tình phụ. Chuyện đó ngay lập tức gây ấn tượng mạnh với anh. Allerton đúng là thằng tồi, thằng đểu chuyên quyến rũ, cưỡng bức con gái, dồn họ đến chỗ phải tự vẫn. Mặt khác, Allerton gợi ý Boyd Carrington nói chuyện với anh về Judith. Và anh cảm thấy cần nói chuyện nghiêm chỉnh với con gái. Và, như anh đã lường trước, nó cãi lại, nói rằng việc đời nó, nó lo. Anh càng cuống. Giờ anh hãy bình tĩnh xem xét Norton đã lợi dụng những gì ở anh: tình yêu con gái, ý thức trách nhiệm của người cha... anh tự nhủ: "Ta phải hành động ngay, kẻo hối không kịp". Anh lại nghĩ đến vợ, thấy không thể lẩn tránh trách nhiệm trông nom con cái mà người vợ yêu quý đã để lại. Còn có cả sự ghen tuông tự nhiên và vô lối của phần lớn các ông bố khi có kẻ địch cướp con gái mình. Thấy chưa, Norton đã nhấn vào những phím đàn nhạy cảm, đúng là một nhạc trưởng bậc thầy. Và anh cứ thế lao vào. Hastings, anh có tật cả tin vào bề ngoài của sự vật. Chẳng suy nghĩ gì, anh tin ngay là Allerton hẹn gặp Judith hôm sau ở London. Nhưng anh không nhìn thấy Judith, không nghe Judith nói. Vậy mà sáng sớm hôm sau, anh vẫn còn tin như thế, và tỏ ý mừng là Judith đã đổi ý. Song nếu anh chịu khó xem xét, anh sẽ thấy ngay là Judith không hề có ý định đi đâu hôm đó. Và anh cũng bỏ qua không thấy một sự việc nhỏ khác; có một người định đi hôm đó, nhưng không đi được, nên tỏ ra vô cùng bực dọc. Đó là cô Craven y tá. Đúng thế! Allerton không chỉ tán tình một phụ nữ. Quan hệ giữa hắn và cô Craven đã tiến triển khá xa, xa hơn nhiều so với việc hắn lơ mơ tí chút với Judith. Và người hắn hẹn gặp ở London chính là cô ta! Một mẹo nữa của Norton. Anh trông thấy Allerton hôn Judith, Norton liền thúc anh đi vòng quanh góc nhà, vì hắn biết Allerton hẹn hò cô Craven gần nhà kính. Sau khi làm bộ níu anh lại, Norton để anh đi. Nhưng hắn đi theo anh. Hắn hiểu câu nói mà anh vừa nghe được từ miệng Allerton góp thêm thuận lợi vào kế hoạch của hắn. Cho nên hắn vội kéo anh đi nhanh để anh không kịp nhận ra rằng người phụ nữ ở đó không phải là Judith. Đúng là mưu mẹo bậc thầy! Phản ứng của anh là tức thời: anh quyết giết Allerton. May thay, anh có một người bạn trí óc còn minh mẫn. Và không chỉ trí óc mà thôi, như anh sắp thấy đây. Ngay ở đầu bản viết này, tôi đã nói anh không tìm ra sự thật, vì tính anh dễ tin quá. Ai nói gì, anh tin ngay. Tôi, tôi nói gì, là anh tin. Song tìm ra sự thật, đâu có khó với anh. Tôi đã đuổi George đi. Tại sao? Thay bằng một anh hầu ít từng trải hơn, và rõ ràng kém thông minh hơn. Tại sao? Tôi vốn là người rất chăm lo súc khỏe, tôi không để bác sĩ nào theo dõi, và từ chối không chịu để bác sĩ nào khám như anh khẩn khoản yêu cầu. Tại sao? Bây giờ thì anh hiểu tại sao tôi cần anh đến Styles chứ? Tôi cần có một người tin như đinh đóng cột tất cả những gì tôi nói. Tôi nói đi dưỡng bệnh ở Ai Cập về, sức khỏe vẫn tồi như trước. Anh tin. Thựa ra là sai: tôi trở về Anh khá hơn rất nhiều. Chịu khó để ý một chút, anh sẽ thấy ngay. Nhưng không, anh đã tin. Sở dĩ tôi chia tay với George, là vì nếu nó ở lại, tôi không thể nói dối với nó rằng chân tôi bị liệt. Hastings, anh hiểu chưa? Tôi giả vờ bị tật, đánh lừa tất cả mọi người, kể cả Curtiss, thực ra tôi vẫn đi lại được. Hơi tập tễnh môt chút. Rồi đến cái tối đáng nhớ đó, tôi nghe tiếng chân anh lên gác, chần chừ một lát rồi lẻn vào phòng Allerton. Tôi cảnh giác ngay, vì đang rất lo cho tâm trạng của anh. Curtiss đang xuống ăn dưới nhà, tôi có một mình. Không bỏ phí một giây, tôi ra khỏi phòng, băng qua hành lang. Tôi nghe tiếng anh làm gì trong buồng tắm của Allerton, và phải dùng cái cách mà anh thường phản đối - quỳ xuống nhìn qua lỗ khóa. May quá, chìa không có trong ổ. Và tôi nhìn thấy anh. Anh mó máy mấy cái lọ, và tôi hiểu ngay anh đang mưu đồ gì. Phải hành động ngay. Tôi trở về phòng mình chuẩn bị các thứ. Lúc Curtiss lên, tôi sai hắn sang tìm anh. Anh vừa vào vừa ngáp, nói là đau đầu. Tôi liền gây chuyện rối tinh, yêu cầu anh phải uống thuốc. Để cho xong chuyện, anh đồng ý uống một tách sôcôla thật ngọt. Anh uống một ngụm hết, vì đang vội về. Có điều là, tôi cũng biết dùng những viên thuốc ngủ! Về phòng, anh đã ngủ ngồi trên ghế. Sáng hôm sau thức dậy, trí óc anh tỉnh táo trở lại, bây giờ anh mới phát hoảng vì chuyện tày đình định làm. Thế là anh thoát hiểm, vì không thể nào lặp lại việc ấy lần thứ hai khi người ta đã lấy lại lý trí. Nhưng điều ấy đã làm tôi, tôi phải quyết định. Vì tất cả những gì tôi biết về những người khác không áp dụng với anh. Anh không phải kẻ giết người, thế mà suýt nữa bị kết tội giết người, vụ giết này do người thứ ba chủ trương, nhưng hắn hoàn toàn vô tội trước pháp luật. Anh người trung thực, thật thà, tận tụy, đáng kính như thế, mà cũng suýt nhúng tay vào tội ác! Vậy tôi phải hành động ngay. Tôi biết mình không còn nhiều thời gian nữa, nhưng xét cho cùng, như thế lại tốt. Vì cái mệt nhất, ấn tượng nhất trong một vụ án mạng là tác động của nó đối với hung thủ. Mọi việc dẫn đến chỗ là tôi, Hercule Poirot tự thấy mình như một người được Thượng Đế chỉ định để trừng phạt những người khác. May thay, điều đó sẽ không xảy ra, vì đã đến lúc tôi cũng sắp phải ra đi. Nhưng tôi sợ Norton lại thàng công nữa cái trò ma quái của hắn khi nhằm vào một người thân của cả anh và tôi. Đó là con gái anh. Và bây giờ, ta nói đến cái chết của Barbara Franklin. Dù anh nghĩ thế nào mặc anh, tôi cho là anh chưa lúc nào ngờ tới sự thật. Vì Hastings ơi, chính anh đã giết Barbara. Phải, chính anh. Vì thực ra, còn một khía cạnh khác của hình tam giác một khía cạnh mà tới lúc đó, tôi chưa quan tâm đúng mức. Cả anh cả tôi đều không phát hiện hành tung của Norton theo hướng đó. Song tôi tin rằng hắn đều đã thực hiện cả. Anh có bao giờ tự hỏi, tại sao bà Franklin lại muốn đến ở Styles? Nơi này đâu phải là chỗ thích hợp với bà. Bà thích tiện nghi, thích ăn ngon, thích chơi bời giao thiệp... ở Styles làm gì có những thứ đó. Nhưng bà lại cố đòi đến nghỉ hè tại đây. Đó là, như tôi đã nói, còn một cạnh khác của hình tam giác: Boyd Carrington. Bà Franklin là một phụ nữ bị vỡ mộng, đó là nguyên nhân khiến bà bi tâm thần. Bà ôm nhiều tham vọng về bậc thang xã hội và về tài chính. Bà lấy bác sĩ Franklin hy vọng ông có tương lại, sự nghiệp xán lạn. Ông đúng là người xuất sắc theo kiểu ông, nhưng không như vợ mơ ước. Ông có tài, nhưng chẳng bao giờ được báo chí nói đến, chẳng bao giờ có nổi một phòng khám bệnh tư ở phố Harley. Ông chỉ được dăm bảy đồng nghiệp biết tiếng, và đăng các công trình khoa học của mình trên những tạp chí thông thái không mấy người đọc. Và ông sẽ không bao giờ giàu có. Nhưng rồi Boyd Carrington từ phương Đông về, lại mới được phong tước hiệu, thừa kế một dinh cơ đồ sộ và gia tài lớn. Ông ta vẫn giữ trong lòng tình cảm thắm thiết với cô gái mười bảy tuổi hồi xưa, mà ông suýt hỏi làm vợ. Ông ta định nghỉ tại Styles - trong khi chờ công việc trùng tu dinh thự Knatton hoàng thành - và gợi ý mới vợ chồng Franklin cùng tới nghỉ. Barbara đồng ý ngay. Hiển nhiên là dưới mắt người đàn ông giàu có và tráng kiện này, bà Franklin vẫn còn đầy xuân sắc và hấp dẫn. Song ông thuộc người của thế hệ trước, không thể xui bà ly dị chồng. John Franklin cũng không chấp nhận ly hôn. Nhưng nếu ông ta chết đi, Barbara Franklin có thể trở thành phu nhân Boyd Carrington hạnh phúc xiết bao. Và tôi hình dung Norton đã nhìn thấy ở bà một công cụ dễ sai khiến. Bây giờ ngẫm lại, sao mà mọi việc rõ ràng quá. Hãy nhớ lại bà Franklin luôn tỏ ra mình gắn bó như thế nào với chồng, còn tô đậm thêm, nói muốn chết để khỏi là gánh nặng cho chồng. Sau đó bà lại dùng chiến thuật khác: giả bộ lo lắng rằng chồng sẽ tự lấy thân mình làm thí nghiệm với các chất độc. Phải, lẽ ra ta phải thấy rõ! Bà ta chuẩn bị tư tưởng để mọi người thấy Franklin chết vì chất physostigmine. Ồ! Không có ai đầu độc ông ấy đâu! Chỉ là thí nghiệm khoa học. Ông ấy dại dột ống thử chất ancalôít đó, rồi tử nạn. Nhưng rồi, dồn dập có diễn biến. Chính anh cho tôi biết bà Franklin rất không bằng lòng thấy lúc họ đi Knatton về, Boyd Carrington để cho cô Craven xem tướng tay. Cô y tá này còn trẻ và khá hấp dẫn, rất khéo làm duyên với đàn ông. Cô đã thử bắt tình với bác sĩ Franklin, nhưng không xong. Vì thế cô ta ghen ghét với Judith. Cô ta lại bắt tình với Allerton, dù biết anh này là người không đúng đắn. Và cuối cùng cô ta xoay sang để ý đến Boyd Carrington, ông này còn đẹp mã lắm. Mà ông ta thì có lẽ sẵn sàng xiêu lòng, vì anh thấy rồi đấy, ông đã từng khen cô y tá là người tươi tắn, đáng yêu. Vì thế bà Barbara sinh lo và quyết định ra tay sớm. Hastings anh biết không, tôi cảm thấy cây đậu calabar thật là đáng nể. Lần này, nó đã thực sự phát huy quyền lực: tránh người vô tội, đánh kẻ ác tâm. Tối hôm đó, bà Franklin mời mọi người lên uống cà phê trong phòng mình, và bà ta đã chuẩn bị sẵn thuốc độc. Theo lời anh nói lại, tách của bà đặt ngay cạnh bà, còn tách ông chồng đặt phía bên kia tủ sách nhỏ. Rồi có chuyện ra xem sao đổi ngôi. Mọi người đổ xô ra ban công. Mình anh ở lại, lúi húi điền ô chữ và ngẫm nghĩ. Và anh xoay cái tủ sách để tìm một câu viết của Shakespeare. Mọi người trở vào. Bà Franklin uống tách cà phê lẽ ra dành cho chồng, còn chồng lại uống tách của bà Barbara. Tôi đã hiểu ngay chuyện gì đã xả ra, nhưng không thể chứng minh. Song nếu người ta cho bà Franklin chết không phải do tự tử, thì mọi nghi ngờ sẽ tập trung vào Franklin và Judith. Nghĩa là vào hai người hoàn toàn vô can. Vì thế tôi nghĩ mình có quyền bịa ra chuyện trông thấy bà Frankin cầm lọ trong tay và nhắc lại những lời bà thường than vãn - dù là vờ vĩnh - muốn chết cho xong. Có lẽ tôi là người duy nhất làm thế được, vì tôi được tiếng là có kinh nghiệm về hình sự, lời chứng của tôi nhất định có sức nặng. Tôi nói là tự tử, mọi người chấp nhận ngay và tỏ vẻ hài lòng. Nhưng, trời ơi, anh không hề nghi vấn gì vì mối hiểm nguy thực sự. Tôi chết đi rồi, anh còn suy nghĩ đến nó nữa không, như con rắn độc thỉnh thoảng ngóc đầu dậy và ton hót: "Hay Judith đã làm việc đó...". Có thể lắm. Vì vậy tôi quyết định phải viết ra. Cần phải để cho anh biết rõ sự thật. Có một ngưới khác không hài lòng về kết luận tự tử; đó là Norton. Vì hắn cảm thấy bị lấy mất "thành tích". Như tôi đã giải thích bên trên, hắn là một tên bạo sát, muốn hưởng tất cả lạc thú của sự kinh hoàng, ngờ vực, khiếp sợ mà vụ giết người gây ra. Đằng này không thế. Vụ giết người mà hắn dự tính đã xoay chuyển một cách thảm hại, không theo ý hắn. Tuy nhiên hắn tính được ngay cách để đền bù. Và hắn lại bắt đầu ton hót, lắt léo. Mấy hôm trước, hắn đã làm bộ nhìn thấy điều gì bất thường qua ống nhòm. Lúc đó hắn định để anh tưởng là Allerton và Judith trong tư thế thân mật nào đó. Nhưng do không nói rõ hắn có thể sử dụng sự việc đó theo cách khác. Ví dụ, hắn sẽ nói đã trông thấy Franklin cặp kè với Judith. Như vậy sẽ chiếu thêm ánh sáng mới - rất thú vị - lên cái chết của Barbara và gây nghi ngờ rằng bà này chết không phải vì tự tử. Vì thế, tôi quyết định ra tay ngay lập tức. Tôi nhờ anh bảo Norton đến gặp tôi tối hôm đó. Bây giờ tôi sẽ kể chuyện gì xảy ra giữa chúng tôi. Hẳn Norton khấp khởi sẽ nói những gì hắn muốn để đánh lừa tôi. Tôi không để hắn kịp nói. Tôi nói toạc không vòng vo, những gì tôi biết về hắn và hành động của hắn. Hắn không chối điều nào. Hắn bình thản ngồi trên ghế, mỉm cười một cách mãn nguyện thách thức. Rồi hắn hỏi tôi định làm gì? Tôi đốp chát trả lởi luôn là tôi muốn chặn tay hắn lại, trừng trị hắn. - A! Hắn ngạo nghễ. Bằng lưỡi dao hay bằng thuốc độc? Lúc đó, chúng tôi đang chuẩn bị uống sôcôla. Hắn vốn nghiện món này mà. - Cách đơn giản nhất, là một chén thuốc độc. Và tôi đưa hắn tách sôcôla vừa rót. Hắn nói: - Nếu vậy, tôi muốn uống tách kia cơ, tách của ông, được không? - Không sao, tôi đáp. Quả là không sao thật. Như đã nói, tôi cũng hay dùng thuốc ngủ. Nhưng vì từ lâu tối nào cũng dùng, nên cơ thể tôi đã quen, liều đối với tôi không nghĩ lý gì, vẫn làm Norton ngủ mệt. Tôi đã cho thuốc ngủ vào liễn sôcôla, cả hai chúng tôi cùng uống. Tách của Norton sau đó sẽ có tác dụng, còn tác dụng rất ít đối với tôi, nhất là sau đó tôi lại uống một thuốc khác để trung hòa. Chúng ta sắp tới chương cuối. Khi Norton đã thiếp đi, tôi đặt hắn lên xe lăn của tôi, đẩy sát vào góc cửa sổ, phủ rèm che. Rồi Curtiss đến, giúp tôi lên giường. Chung quanh yên tĩnh rồi, tôi nhỏm dậy, đẩy Norton về phòng của hắn. Bây giờ chỉ còn trông vào tai mắt của ông bạn hastings nữa là xong. Chắc anh không để ý, tôi đã mang tóc giả từ nhiều năm nay. Và anh càng không biết nữa, là râu mép của tôi cũng giả. (Ngay George cũng không biết việc này). Thật vậy, ngay sau khi mượn Curtiss, tôi đã cố tình vô ý làm cháy râu, và cho thay bằng râu giả y hệt. Tôi liền khoác bộ áo ngủ của Norton, bộ áo này màu sắc đặc biệt không lẫn vào đâu được. Tôi làm cho tóc bù xù lên giống Norton, đi dọc hành lang, đến gõ cửa phòng anh. Đúng như tôi dự đoán, anh mở cửa nhìn ra ngoài, mắt còn ngái ngủ. Và anh nhìn thấy Norton từ phòng tắm đi ra, tập tễnh băng qua hành lang để về phòng. Cửa đóng rồi, anh còn nghe tiếng chìa khóa xoay trong ổ. Tôi liền cởi bỏ bộ áo, mặc lại cho Norton đang ngủ. Sau đó tôi bê hắn lên giường trừng phạt hắn bằng khẩu súng nhỏ tôi có từ khi ở nước ngoài. Từ khi đến Styles tôi đã cất giấu cẩn thận, trừ hai hai lần tôi biết Norton đang đi chơi xa, tôi mang súng cố tình đặt hớ hênh trên bàn của hắn, để cô hầu phòng nhìn thấy mà khai sau này. Tồi tôi bỏ chìa khóa vào túi Norton, lấy lại xe lăn, khóa cửa lại bằng chiếc khóa thứ hai mà tôi đã cho làm từ trước. Từ lúc ấy tôi lo thảo văn bản này dành cho anh. Tôi mệt lắm rồi: bao cố gắng nỗ lực đã làm tôi kiệt sức, và chắc chẳng còn bao lâu nữa tôi sẽ... Tuy nhiên, còn một số chi tiết nữa tôi cần nói rõ. Các vụ giết người do Norton chủ trương là những tội ác hoàn hảo, còn vụ giết người của tôi không được như thế. Cách dễ nhất, tốt nhất để thủ tiêu Norton là làm công khai, ví dụ gây ra một vụ tai nạn với khẩu súng của tôi. Lúc đó tôi sẽ giả bộ hốt hoảng, tiếc nuối, và mọi người sẽ bình phẩm: "Ông già thật lẩm cẩm, không nhớ là súng đã lên đạn." Tôi không muốn làm như vậy, và xin giải thích lý do. Bởi vì tôi muốn "chơi đẹp" như trong thể thao. Đúng, anh không đọc nhầm đâu. Lúc này tôi đang làm tất cả nhưng việc mà anh đã trách tôi không chịu làm. Tôi đang nói toẹt ra với anh. Thực ra anh đã có đủ các quân bài chủ trong tay để khám phá sự thật. Nếu còn chưa rõ, tôi xin kể sau đây những chỉ dẫn mà tôi đã để lại cho anh. Anh biết, vì tôi đã nói với anh là Norton đến đây sau tôi. Anh biết vì tôi đã nói với anh rằng sau khi tôi đến Styles chìa khóa phòng tôi bị mất và tôi phải làm một chìa khác. Vì vậy, khi anh tự hỏi: "Ai có thể giết Norton? Ai có thể đi ra khỏi một phòng đã khóa từ bên trong?" thì câu trả lời là như sau: - Là Hercule Poirot, vì hắn có chiếc chìa khóa thứ hai của một trong hai phòng. Bây giờ tôi nói về người anh trông thấy ngoài hành lang. Tôi đã hỏi anh có chắc là Norton không. Anh tỏ vẻ ngạc nhiên về câu hỏi ấy và hỏi tôi chẳng nhẽ tôi cho là người khác. Tôi đã trả lời đúng sự thật; đó không hề là ý định của tôi (tất nhiên, vì tôi đã phải thi thố nhiều mẹo để làm anh tưởng đó là Norton). Tiếp đó tôi đã nêu vần đề vóc dáng và đưa ra nhận xét rằng tất cả những người ở Styles đều cao hơn hắn. Nhưng có một người thấp hơn đó là Hercule Poirot. Song muốn cao hơn hai ba phân thì quá dễ: chỉ cần độn thêm đế vào giầy. Anh cũng hoàn toàn cho rằng tôi không thể đi lại một mình. Nhưng tại sao? Chỉ tại tôi bảo anh như thế. Cuối cùng, tôi đã cho George về, và để lại chỉ dẫn cuối cùng: "Hãy đi gặp George". Othello và Clutie John nói lên rằng tên X bí mật ấy không ai khác ngoài Norton. Vậy ai là người có thể giết Norton? Chỉ là Hercule Poirot! Chỉ cần anh thoáng ngờ vực như vậy là mọi mảnh sẽ khớp lại với nhau: những điều tôi đã nói và làm, cả những điều tôi dè dặt chưa nói, lời các bác sĩ Ai Cập và bác sĩ London nói là tôi không đi lại được, lời George nói là tôi mang tóc giả, và việc tôi đi tập tễnh hơn cả Norton. Tất cả chi tiết đó lẽ ra phải làm anh hiểu. Cuối cùng, có phát súng tôi bắn: đây là điểm yếu duy nhất của tôi. Tôi thừa biết rằng đáng lẽ phải áp nòng súng vào thái dương Norton. Nhưng tôi khó chấp nhận sự mất cân xứng ấy, cho nên tôi nhắm vào đúng giữa trán. Ôi, chỉ riêng việc đó đủ để làm anh thấy ra sự thật. Nhưng biết đâu anh đã chẳng ngờ ngợ thế rồi. Biết đâu anh đã chẳng biết rõ sự thật trước đọc những dòng này. Song... tôi lại nghĩ là chưa. Bởi vì anh thật thà quá, dễ tin quá, bởi vì bản chất anh quá tốt. Tôi còn nói gì nữa đây? Franklin và Judith - tôi chắc rồi anh sẽ thấy - biết rõ sự thật, nhưng họ không nói với anh đâu. Họ sẽ không giàu có, trước mắt phải lo đối mặt với muỗi và sốt rét, nhưng mỗi người chúng ta đều có những ý kiến riêng về cách quyết định về mình, phải không nào? Thế còn anh, anh Hastings cô đơn, tội nghiệp? Tim tôi đau quặn mỗi khi nghĩ tới anh. Một lần cuối, anh có muốn nghe lời khuyên của Poirot này không? Nếu muốn thì sau khi đọc hết những dòng này, hãy đáp xe lửa - hoặc xe hàng, xe hơi - đi gặp Elizabeth Cole tức Elizabeth Litchfield. Đọc cho cô ấy nghe văn bản này, giải thích cho cô ấy rằng, nếu là anh, anh cũng sẽ làm như Margaret chị cô. Tiếc rằng chị cô ấy không có một người như Poirot để bảo vệ. Nói tất cả cho Elizabeth để cô ấy rũ bỏ hết những ác mộng ám ảnh cô suốt bấy lâu nay. Làm cho cô ấy hiểu là bố cô không chết vì tay con gái lớn, mà là do ông bạn quý hóa của gia đình: Stephen Norton. Vì thật là không công bằng một phụ nữ còn trẻ, đẹp như cô ấy lại không muốn sống chỉ vì nghĩ mình là người có số mệnh đen đủi. Không phải vậy. Hãy nói thế nhé, anh bạn, anh vẫn còn dư sức hấp dẫn với phụ nữ... Thôi, tôi không còn gì để nói. Tôi không biết việc tôi làm có chính đáng hay không. Thực sự không biết. Trong thâm tâm tôi nghĩ là một người không có quyền làm thay pháp luật. Nhưng mặt khác, tôi cũng là một phần của pháp luật. Hồi trẻ, lúc còn phục vụ ở Sở Cảnh sát Bỉ, tôi đã bắn hạ một tên tội phạm, hắn đứng trên mái nhà bắn xuống người qua đường. Trong trường hợp khẩn cấp chí nguy, tôi đã cứu được nhiều mạng người khác... Thôi, vĩnh biệt anh bạn. Tôi đã vứt bỏ những ống thuốc trợ tim trước nay vẫn giữ trong tầm tay đề phòng trường hợp nguy cấp. Tôi muốn buông xuôi, phó mặc đời mình cho Chúa. Mong Người hãy trừng phạt - hay cứu vớt - thật nhanh. Chúng ta sẽ không cùng nhau sát cánh nữa. Anh nhớ không, vụ án đầu tiên mà chúng ta cùng hợp tác để phá, diễn ra tại đây. Và cũng lại ở đây, là vụ án cuối cùng... Ôi, cái thời tươi đẹp!... Mời các bạn đón đọc Thám Tử Rời Sân Khấu của tác giả Agatha Christie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cô Gái Trong Chiếc Thùng Gỗ
7 năm trước, Flora Dane – một sinh viên đại học vô tư vô lo – bị bắt cóc khi đang đi uống với bạn tại một quán bar trong kỳ nghỉ xuân. Cô bị trong một chiếc thùng gỗ rẻ tiền có kích cỡ như một cỗ quan tài, dưới căn hầm ở một nơi biệt lập với khu dân cư và nhiều ngày không được ăn uống. Trong suốt 472 ngày, Flora đã nhận ra được giới hạn chịu đựng của một con người.  May mắn được cứu thoát nhưng Flora trở về là thành một người hoàn toàn khác. Cô đã dành 5 năm để học về tâm lý tội phạm, tự vệ. Sau nhiều lần cô biến mất dài ngày và trở về, người ta tự hỏi chuyện gì xảy ra với Flora, một nữ anh hùng hay một tên tội phạm ám ảnh với quá khứ? Trích dẫn:  ĐÂY LÀ ĐIỀU TÔI BIẾT: Không có gì nhiều để làm ngày qua ngày trong cái thùng gỗ có kích cỡ như một cỗ quan tài ấy. Trên thực tế, chỉ có duy nhất một điều đáng để ám ảnh, tưởng tượng, trù tính trong từng phút kinh hoàng, từng giờ hãi hùng. Một lý do duy nhất khiến bạn tiếp tục. Một ý nghĩ duy nhất đem lại cho bạn sức mạnh. Bạn sẽ tìm thấy nó. Bạn sẽ hun đúc nó. Và nếu bạn giống tôi, bạn sẽ không bao giờ để nó biến mất. Trả thù. Nhưng hãy cẩn thận với điều ước của bạn, đặc biệt khi bạn chỉ là một con bé ngốc nghếch bị giam cầm trong cái thùng gỗ có kích cỡ như chiếc quan tài. --- “Lisa Gardner là bậc thầy trong dòng truyện tâm lý ly kỳ… Thế giới về FBI, nỗi kinh hoàng của những vụ bắt cóc và tiếng nói ủng hộ các nạn nhân được hòa quyện trong tác phẩm trinh thám đầy kịch tính này.” _Thông tấn xã Hoa Kỳ_ -- LISA GARDNER là nữ nhà văn người Mỹ, có những sáng tác nổi bật thuộc các series như loạt sách Đặc vụ FBI Quincy và chuỗi vụ án của Thanh tra D.D. Warren. Bà cũng viết nhiều tiểu thuyết lãng mạn với bút danh Alicia Scott. Gần đây, bà nhận giải thưởng Silver Bullet với những đóng góp cho trẻ em nhiều nguy cơ và động vật vô gia cư. Hiện nay, Lisa sống cùng gia đình ở New England. Một số tác phẩm cùng tác giả đã được Đinh Tị Books mua bản quyền: - Cô gái trong thùng gỗ - Vỏ bọc hoàn hảo - Di sản kinh hoàng - Săn đuổi đến cùng *** ~ CÔ GÁI TRONG CHIẾC THÙNG GỖ ~ Tác giả: Lisa Gardner. Dịch giả: Phạm Hoa Phượng Thể loại: Trinh thám. Mức độ ưa thích: 7/10 . . Sau 472 ngày bị giam trong chiếc thùng gỗ hình quan tài, cô gái trẻ Flora Dane được giải thoát, trở về với gia đình, nhưng cô không còn là con người mà mọi người xung quanh yêu thương và mong chờ. Flora tự biến bản thân thành một dạng nữ hiệp chuyên đi tìm kiếm + giải cứu những nạn nhân bị bắt cóc khác, đồng thời nếu có cơ hội thì trừng trị thủ phạm luôn. Điều này khiến cô vướng vào những vụ rắc rối với bên cảnh sát. Thượng sĩ Thanh tra D.D. Warren là người chịu trách nhiệm điều tra vụ án nghiêm trọng mới nhất mà Flora gây ra. Ngay khi vụ án còn chưa được giải quyết thì một sự kiện tồi tệ khác lại xảy ra. Sau ấn tượng tốt với “Săn đuổi đến cùng” thì Biển không ngần ngại mua thêm hai quyển nữa của Lisa Gardner, nhưng phải công nhận “Cô gái trong chiếc thùng gỗ” không được hay. Cốt truyện mang tính sáng tạo và ly kỳ, văn phong không nhanh nhưng đủ để cuốn hút độc giả. Tuy nhiên, có lẽ vì không hiểu nổi / không đồng tình với cách hành xử của nhân vật chính nên Biển cho rằng cốt truyện hơi vô lý. Những điều ác mà đầu óc con người có thể nghĩ ra quả thật không có giới hạn, nhưng cách mà các nạn nhân phản ứng lại với những điều ác đó đôi khi cũng nằm ngoài tầm hiểu biết + xử lý của cảnh sát. Thanh tra D.D. Warren trong truyện là một phụ nữ tương đối chính trực, khá dũng cảm, có tư chất thích hợp để làm việc trong ngành hành pháp, cụ thể là lĩnh vực thực chiến khi truy bắt tội phạm. Vì một tai nạn mà cô bị gãy tay, không thể cầm súng, tạm thời làm một “sĩ quan giám sát bị hạn chế nhiệm vụ” (tức là công việc bàn giấy, viết và nộp báo cáo các vụ án) nhưng D.D. vẫn năng nổ đến các hiện trường vụ án hoặc tham gia truy tìm chứng cứ. Tuy vậy, theo Biển thì hình tượng và vai trò của D.D. Warren trong truyện này hơi mờ nhạt, chưa khiến độc giả ấn tượng sâu được như Tracy Crosswhite trong loạt truyện của Robert Dugoni. Sau khi đọc cuốn “Kẻ giấu mặt” của Nicholas Sparks thì Biển có cái nhìn lạc quan hơn về chuyện làm quen với các anh chàng pha chế đẹp trai trong quán bar, nhưng cuốn “Cô gái trong chiếc thùng gỗ” sẽ gieo vào lòng người đọc yếu bóng vía nỗi sợ hãi đối với việc đi bar. Cá nhân Biển KHÔNG thích đi bar vì vừa tốn tiền vừa hại màng nhĩ, nếu cần giải trí thì Biển sẽ tự mở bài Star Sky và uống trà xanh gạo rang nóng :3 Hình bìa không vẽ thùng gỗ nhưng Biển nghĩ minh họa trên bìa sách cũng diễn đạt khá chính xác ý tưởng trong truyện. Sách to dày nhưng đọc không có cảm giác thỏa mãn mà chỉ thấy hơi lê thê. Phần dịch thuật và trình bày ổn, không có lỗi chính tả hoặc lỗi in ấn. Hy vọng cuốn “Vỏ bọc hoàn hảo” sẽ có cốt truyện lý thú hơn để tình cảm của Biển đối với truyện trinh thám của Lisa Gardner chưa bị hao mòn đi. (Sea, 18-12-2019) Camellia Phoenix *** [Review] Cô gái trong chiếc thùng gỗ Tác giả: Lisa Gardner Dịch giả: Phạm Hoa Phượng Thể loại: Trinh thám tâm lý —————————————————————————— Đã bao giờ bạn tưởng tượng mình thức dậy và phát hiện mình bị nhốt trong một chiếc thùng gỗ chưa? Tối tăm. Tù túng. Kích thước chính xác bằng kích cỡ của bạn. Không đủ chỗ để co đầu gối. Không đủ chỗ để lăn người qua. Như thể nó là cỗ quan tài của riêng bạn. 7 năm trước, Flora Dane – sinh viên đại học, bị bắt cóc bởi Jacob Ness. Hắn nhốt cô trong một chiếc thùng gỗ. Không đồ ăn, không nước uống trong nhiều ngày liền. Sau 472 ngày bị giam cầm, may mắn đã đưa Flora trở về. Cô dành 5 năm để học về tâm lý học tội phạm và tự vệ, trở lên mạnh mẽ hơn nhưng cũng trở thành một con người hoàn toàn khác. Tác giả mở đầu truyện bằng vụ bắt cóc Flora lần thứ hai. Bằng kỹ năng tự vệ đã được học, Flora đã thiêu cháy tên bắt cóc với gói thuốc dưỡng hoa và dung dịch làm mát. Cô trở về căn nhà với ba lớp bảo vệ an toàn của cô. Nhưng một lần nữa, Flora lại trở thành nạn nhân bị bắt cóc. Lisa Gardner viết cuốn truyện này gồm 2 phần xen kẽ lẫn nhau. Giữa 472 ngày bị giam cầm trong chiếc thùng gỗ và vụ bắt cóc Flora do Thượng sĩ Thanh tra D.D. Warren điều tra. Xen giữa những ngày tháng sống khổ sở, bị giam cầm, bị ép làm nô lệ tình dục là những tình tiết gay cấn hồi hộp của vụ án. Flora Dane là cô gái sống sót hay là kẻ sát nhân bị ám ảnh bởi chuỗi ngày đen tối trong cuộc đời mình? “Cô gái trong chiếc thùng gỗ” bắt đầu bằng vụ án mạng giống như cuốn “Săn đuổi đến cùng”. Tuy nhiên nhịp độ câu chuyện lại khác nhau do tính chất của cốt truyện. Nếu như “Săn đuổi đến cùng” sự kịch tính được đẩy lên cao ngay từ chương đầu thì “Cô gái trong chiếc thùng gỗ” lại khá chậm rãi. Cá nhân mình thấy khoảng 20 chương đầu tiên đọc rất dễ nản bởi Lisa Gardner viết về chuỗi 472 ngày bị bắt cóc của Flora khá nhàm chán, còn vụ án thì có quá nhiều manh mối rời rạc, làm mất đi sự tò mò của độc giả. Bắt đầu từ chương 25 thì cuốn sách này trở nên thú vị hơn. Căng thẳng đẩy lên cao hơn, sự hồi hộp nghẹt thở trong cuộc chạy đua với thời gian của cảnh sát xen với những chi tiết mới trong vụ bắt cóc Flora khiến độc giả không thể rời mắt khỏi truyện. Điểm trừ cho cuốn sách này là chi tiết về tâm lý nhân vật được viết khá nhiều, làm giảm nhịp độ câu truyện cũng như tốc độ đọc của các mọt. Ngoài ra cũng có một vài lỗi chính tả nho nhỏ, có thể bỏ qua. Đánh giá: 8/10 Đặng Minh Đức *** “Thật buồn cười, kẻ tổn thương lại muốn làm tổn thương người khác” Vậy có khi nào một người sống sót từ tay của một kẻ sát nhân lại muốn trở thành một kẻ sát nhân? Cuốn sách này có lẽ là phần tiếp theo của cuốn “ Di sản kinh hoàng”, sau khi thanh tra D.D giải quyết xong vụ án sát thủ hoa hồng. Nhân vật chính là Flora Dane – một nạn nhân đồng thời là một người sống sót. Câu hỏi thực sự là … cô ta liệu có phải một kẻ tự coi mình là người thực thi pháp luật, săn đuổi những kẻ sát nhân để trả thù cho 472 ngày cô bị giam giữ? Cuốn sách gồm 2 phần song song là 472 ngày bị giam giữ của Flora bởi Jacob Ness và cuộc sống hiện tại sau 5 năm. Flora bị bắt cóc và giam giữ như một thứ súc vật trong một chiếc quan tài thông, không gian hẹp hòi đến mức cô không thể làm gì ngoài việc ngủ để đánh mất đi ý thức về hiện tại, bị Jacob Ness lạm dụng tình dục và bỏ đói trong kế hoạch hủy hoại ý thức, nhân cách và làm lại cô dưới cái tên Molly, một người phụ nữ phụ thuộc hoàn toàn vào hắn ta. Chuỗi ngày kinh khủng đó đã được chấm dứt sau 472 ngày và cô ấy vẫn sống sót. Sau khi trở về, Flora trở nên mạnh mẽ và khác hoàn toàn với cô của 5 năm trước. Cô tự đưa bản thân mình vào tầm ngắm của những kẻ săn mồi và hủy diệt chúng với tư cách là một nạn nhân. Hãy tưởng tượng, một cô nàng tóc vàng bị trói hai tay đã đốt cháy một gã trai lực lưỡng bằng một loại bột có trong những bó hoa. Một việc tưởng chừng như vô lý nhưng lại rất hợp lý. Sau khi dính dáng vào vụ việc đó, cô ấy đột nhiên bị bắt cóc trong chính ngôi nhà với 3 lớp bảo vệ của mình và một cuộc chạy đua khác lại bắt đầu. Liệu đây chỉ là một sự tình cờ hay có liên quan gì đến quá khứ của cô? Câu chuyện cuốn hút mình ngay từ những chi tiết mở đầu với nhịp điệu khá nhanh, gấp gáp và đầy sự tò mò. Những tháng ngày bị giam giữ của Flora thực sự là những điều mình không thể tin được, gây ám ảnh, kinh tởm và cũng thật đáng thương. Những điều con người có thể đối xử với nhau thật ngoài sức tưởng tượng của một người có cuộc sống bình yên như mình. Cuốn sách đã chứng minh một điều rằng sức sống của con người thật là mãnh liệt, làm sao một cô gái bé bỏng như vậy lại có thể chịu được những điều không tưởng đó và sống sót trở về. P/S: Cuốn sách khá dày, một câu chuyện dài nên cũng không thể tránh được có những sự việc thừa thãi, lê thê bởi vậy mọi người cũng nên cân nhắc trước khi tìm đọc. Anh SoShi *** Đây là những điều tôi đã không biết: Khi thức giấc lần đầu tiên trong một chiếc thùng gỗ tối tăm, bạn sẽ tự nhủ, điều này không thể xảy ra. Bạn sẽ đẩy nắp thùng, tất nhiên là như vậy. Không được. Bạn đấm mạnh các cạnh bằng nắm tay mình, đạp gót chân xuống phần đáy. Bạn sẽ đập đầu mình liên tục vào thành thùng, lần nữa rồi lần nữa, mặc dù từng cú đập đều khiến bạn đau nhói. Và bạn sẽ hét lên. Bạn gào lên, bạn la hét, và tiếp tục như vậy. Dòng nước sền sệt từ mũi bạn chảy ra. Nước mắt cũng không ngừng tuôn rơi trên má. Tiếng gào trở nên khản đặc, giật cục. Rồi bạn nghe thấy những âm thanh lạ lùng, buồn bã, thê lương. Và bạn hình dung ra được cái thùng gỗ. Này, mình đang bị nhốt trong một cái thùng gỗ tối tăm. Bạn nhận ra những âm thanh đó xuất phát từ chính mình. Những cái thùng gỗ thông dạng này không có bề mặt trơn nhẵn toàn bộ. Những lỗ thông khí được khoan một cách sơ sài. Khi miết tay chạy tròn theo cạnh của chúng, khi chọc ngón tay vào kiếm tìm một cái gì đó trong tuyệt vọng… bạn sẽ chỉ thấy được những mẩu vụn gỗ mà thôi. Bạn sẽ nhai những mảnh gỗ cứng. Bạn sẽ mút những ngón tay trầy xước của mình, liếm những chỗ máu ứa ra, miệng phát ra những âm thanh ư ử như chó con bị đau. Bạn chỉ có một mình trong chiếc thùng. Thật đáng sợ. Kinh hãi. Khủng khiếp. Phần lớn là bởi bạn chưa biết mình sẽ còn phải sợ hãi đến mức nào nữa. Dần dần, bạn biết rõ chiếc thùng hơn, nơi đã trở thành nhà bạn, xa thật xa ngôi nhà thân quen của mình. Bạn lắc lư đôi vai để xác định bề rộng. Bạn đo chiều dài bằng đôi tay. Bạn nâng chân mình lên. Không đủ chỗ để co đầu gối. Không đủ chỗ để lăn người qua. Chiếc thùng chính xác bằng kích cỡ của bạn. Như thể nó được làm cho riêng bạn. Một cỗ quan tài gỗ thông của riêng bạn, đang làm căng cứng phần thắt lưng, bầm giập hai vai, đau nhói phía sau đầu bạn. Tiện nghi duy nhất: giấy báo lót dưới đáy thùng. Thoạt đầu bạn không để ý đến chi tiết này. Khi nhận ra sự tồn tại của chúng, bạn không hiểu chúng để làm gì. Cho đến khi bạn đi tiểu lần đầu tiên. Rồi ngày qua ngày, nằm trên đống bẩn thỉu của mình. Như một con vật, bạn sẽ thầm nghĩ như vậy. Ngoại trừ phần lớn các con vật đều được đối xử tử tế hơn thế. Miệng bạn sẽ trở nên khô khốc, đôi môi nứt nẻ. Bạn sẽ bắt đầu miết ngón tay vào những lỗ thông khí sẽ cào mạnh da mình, chỉ để có chút gì đó cho vào miệng, để nuốt, để mút. Bạn sẽ biết được bản thân mình ở một khía cạnh bạn chưa từng biết đến trước đó. Suy sụp. Mãnh liệt. Mùi khai nồng của nước tiểu. Vị mặn của máu. Nhưng bạn vẫn chưa biết gì cả. Khi nghe tiếng bước chân bạn sẽ không tin được. Mình hoang tưởng thôi, bạn tự nhủ. Mình mơ thôi. Bạn chỉ là một mớ rác thảm hại trong tấm da người. Một con bé ngốc nghếch lẽ ra đã biết nhiều hơn và giờ nhìn lại mình xem. Thế nhưng, âm thanh của chiếc khóa kim loại vang lên ở bên ngoài thành thùng, chỉ cách tai bạn một chút… Có thể bạn lại khóc. Và lại khóc, nếu vẫn còn chút nước sót lại trong người. Khi bạn nhìn thấy khuôn mặt hắn, người đã làm điều này với bạn, bạn cảm thấy nhẹ nhõm. Thậm chí vui mừng. Bạn nhìn chăm chăm vào đôi má béo phị của hắn, đôi mắt tròn, cái miệng đang mở ra, để lộ hàm răng ố vàng, và bạn nghĩ tạ ơn Chúa. Tạ ơn Chúa, tạ ơn Chúa, tạ ơn Chúa. Hắn để cho bạn ra khỏi thùng. Hắn nhấc bạn lên, thực tế là như vậy, bởi đôi chân bạn không thể đứng được nữa, các bắp cơ của bạn mất tất cả sức mạnh vốn có của nó, và đầu bạn ngắc ngoẻo. Ngắc ngoẻo. Từ này khiến bạn buồn cười. Một trong những từ bạn chưa bao giờ hiểu được ý nghĩa. Nhưng giờ thì bạn đã rõ. Ngắc ngoẻo. Đầu bạn ngắc ngoẻo. Chúa ơi, mùi gì thật kinh khiếp. Mùi tỏi, mùi cơ thể, mùi quần áo chưa giặt và mùi tóc bẩn thỉu. Thứ mùi đó là từ người bạn sao? Hay từ hắn? Bạn nôn ọe, không cưỡng lại được. Và điều đó khiến hắn cười thành tiếng. Khi hắn cầm chai nước lên. Khi hắn nói chính xác điều bạn phải làm để có được chai nước ấy. Hắn trông ục ịch. Già nua. Gớm guốc. Kinh tởm. Bộ râu rối bù, mái tóc bết dính, mấy vệt tương cà lốm đốm trước ngực chiếc sơ mi ca rô rẻ tiền. Bạn quá cao sang so với hắn. Trẻ trung, tươi tắn, xinh đẹp. Kiểu những cô gái được xếp vào hạng top trong buổi tiệc trường. Bạn có tất cả. Hay từng có tất cả? Bạn khóc khi nghĩ đến mẹ. Bạn van nài hắn thả bạn, khi bạn nằm phủ phục dưới chân hắn. Và rồi cuối cùng, sau rốt, với chút sức lực còn sót lại, bạn cởi bỏ bộ đồ đang mặc trên người. Bạn để hắn làm cái điều mà hắn muốn. Bạn hét lên, nhưng cổ họng bạn khô khốc không thể cất thành lời. Bạn nôn ọe, nhưng bụng bạn trống rỗng không còn chút gì trong đó. Bạn sống sót. Và sau đó, khi hắn ta cuối cùng cũng đưa cho bạn chai nước đó, bằng cách đổ thẳng lên đầu bạn. Bạn không chút hổ thẹn nâng tay mình lên hứng càng nhiều càng tốt dòng chất lỏng quý giá ấy. Bạn liếm lòng bàn tay mình. Bạn mút những lọn tóc bết dính, bẩn thỉu của mình. Và đợi lúc hắn không để ý, bạn liếm đốm tương cà từ chiếc sơ mi cởi ra của hắn. Trở về lại cái thùng. Cái thùng. Cái thùng. Nắp thùng đóng lại. Khóa bấm lại. Gã đàn ông kinh tởm ấy đi khỏi. Để lại bạn một lần nữa, chỉ một mình. Trần truồng. Bầm tím. Rớm máu. Biết những điều bạn không bao giờ muốn biết. “Mẹ ơi!” Bạn thì thầm. Nhưng con quái vật ấy là có thật. Không ai có thể làm bất cứ điều gì để cứu bạn nữa. Đây là điều tôi biết: Không có gì nhiều để làm ngày qua ngày trong cái thùng gỗ có kích cỡ như một cỗ quan tài ấy. Trên thực tế chỉ có duy nhất một điều đáng để ám ảnh, tưởng tượng, trù tính trong từng phút kinh hoàng, từng giờ hãi hùng. Một lý do duy nhất khiến bạn tiếp tục. Một ý nghĩ duy nhất đem lại cho bạn sức mạnh. Bạn sẽ tìm thấy nó. Bạn sẽ hun đúc nó. Và nếu bạn giống tôi, bạn sẽ không bao giờ để nó biến mất. Trả thù. Nhưng hãy cẩn thận với điều ước của bạn, đặc biệt khi bạn chỉ là một con bé ngốc nghếch bị giam cầm trong cái thùng gỗ có kích cỡ như chiếc quan tài. Mời các bạn đón đọc Cô Gái Trong Chiếc Thùng Gỗ của tác giả Lisa Gardner & Phạm Hoa Phượng (dịch).
Bãi Săn Người
"Tôi là Diệp Tứ Minh, mọi người thường gọi tôi là anh Tứ. Tôi cảm thấy biệt danh này khắc mình, vì tôi phát hiện mình buộc phải kết liễu sinh mạng trong vòng 4 ngày, nếu không chờ đợi tôi phía trước chính là "sống không bằng chết".  Do một nhiệm vụ nằm vùng, cảnh sát Diệp Tứ Minh bị nghiện ma túy. Khi cai nghiện, anh lại mắc phải chứng lệ thuộc thuốc. Biết mình sắp thân bại danh liệt, anh quyết định tự sát. Đúng lúc này, ở bờ sông có người phát hiện ra một cánh tay cụt. Cho rằng anh là cảnh sát hiện trường nên người dân níu lại và báo án. Đồng thời ở ngoại ô thành phố, người ta phát hiện 61 thi thể dưới một đập chứa nước, trở thành một án giết người liên hoàn chưa phá lớn nhất trong thành phố. Chỉ còn 4 ngày nữa, Diệp Tứ Minh sẽ nhận được phán xét cuối cùng, anh quyết định đánh cược: hoặc là sẽ phá giải vụ án thành công hoặc là tìm cơ hội "hi sinh" trong khi làm nhiệm vụ? Giới thiệu tác giả: Ntybooks xin giới thiệu tác giả Lương Kha - tác giả trinh thám thuộc thế hệ 8X - Sơn Đông. Tác giả đã di cư sang Đức, là một trong những nhà văn rất thích dòng tiểu thuyết trinh thám và rất thành công với tác phẩm: Bãi săn người *** Nếu bạn nào thích trinh thám Trung Quốc thì có thể cho quyển này vào danh sách tìm đọc nha, cũng khá lắm. Diệp Tứ Minh (Anh Tứ) một cảnh sát nằm vùng. Trong một lần xâm nhập để triệt phá một tổ chức buôn bán ma tuý, anh bị nghiện. Việc cai nghiện tưởng chừng đơn giản nhưng không hề đơn giản, trong quá trình cai nghiện anh bị lệ thuộc vào thuốc. Cuộc sống của anh gặp nhiều bất hạnh từ đó. Gia đình tan vỡ, con không nhận cha, đồng nghiệp nhìn anh với con mắt khác và nhiều vấn đề đen tối khác. Chán nản và thất vọng, Diệp Tứ Minh định tự tử. Nhưng khi định nhảy xuống sông để kết liễu sinh mệnh, thì có người phát hiện một cánh tay cụt có hình xăm một nửa bông hoa hồng (cái này ở bìa có vẽ) và giữ anh lại vì tưởng anh là cảnh sát được cử đến xử lý hiện trường. Cùng thời điểm đó, 61 bộ hài cốt được tìm thấy dưới một đập chứa nước ở ngoại ô thành phố. Phá án lập công xoá nỗi ô nhục hay liều chết “hi sinh vì nhiệm vụ” … Diệp Tứ Minh quyết tâm lao vào điều tra vụ án. Bãi Săn Người là sự kết hợp của kinh dị, hành động, sự biến thái vẹo vọ tâm lý lẫn trinh thám điều tra thông thường. Giết người, phân xác, lột da mặt. Những pha hành động đầy tính điện ảnh. Tâm lý lệch lạc, méo mó của hung thủ lẫn quá trình hành động, điều tra truy tìm manh mối thông thường của cảnh sát. Lối viết khá hấp dẫn, lôi cuốn hồi hộp. Nhiều những bất ngờ không ngờ được đưa vào để đánh lạc hướng. Mang một màu u tối, mỗi người đều như sống dưới đáy của xã hội, mang những tổn thương day dứt trong lòng. Chỉ sống thôi sao mà cũng khó quá. Gọn lại quyển này rất khá, hồi hộp, hấp dẫn, khó đoán trước được điều gì sẽ xảy ra, nội dung đầy trăn trở 8,25/10 P.s: Nếu làm cảnh sát mà khổ, be bét như này thì chắc ai cũng muốn bỏ ngành. Binh Boog *** BÃI SĂN NGƯỜI Tác giả: Lương Kha Dịch giả: Tuệ Tâm Reviewer: Điền Yên Công ty phát hành: Phuc Minh Books —— Hiếm khi gặp một truyện trinh thám nào mà số nạn nhân với hung thủ lại nhiều thế này. Án lồng án, vừa tưởng thằng này là hung thủ thì lại phát hiện nó đúng là hung thủ, nhưng lại là của vụ khác chứ không phải vụ chính. Dĩ nhiên, người đọc có thể đoán bằng cách đơn giản hơn: thấy truyện mới đi được non nửa độ dài thì chẳng thể nào boss cuối đã bị bắt được. Nhân vật chính là anh Tứ – một cảnh sát ngầm, chuyên thâm nhập vào hang ổ tội phạm dưới các vỏ bọc khác nhau. Một trong những lần đó, anh buộc phải hít ma túy để tạo lòng tin cho kẻ thù. Thôi thì ít ra anh cũng không phải bắn vào đầu đồng đội như anh Khánh trong Mê cung. Nhưng kể từ đó, anh Tứ nghiện. Cai rồi tái nghiện liên tục do đặc thù nghề nghiệp. Điều này tôi biết. Dù bạn đã cai bao lâu, chỉ cần thuốc ở trước mặt, chưa cần hít, bạn đã tái nghiện rồi. Một cảnh sát dương tính với ma túy, sự nghiệp của anh ta coi như chấm dứt. Ai tin anh? Ai dám đặt trọng trách vào tay một thằng nghiện? Anh Tứ vào sinh ra tử, một đời sống mái với nghề, vợ li dị, con không nhận cha. Tất cả những gì anh còn là công việc này. Nếu kết thúc trong nhục nhã thì chết còn hơn. Và anh quyết chết. Hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ là tuyệt nhất. Người chết rồi, chẳng ai kể về sai lầm của anh nữa, họ chỉ nhắc đến điều tốt đẹp thôi. Khổ nỗi, chẳng hiểu sao, phàm những thằng càng liều mạng muốn chết ngay lại càng sống dai. Anh Tứ muốn hy sinh, thần Chết cũng không chấp nhận. Anh quyết phá được vụ án cuối cùng, chết không hối hận. Vụ án này không ngờ lại quá rắc rối, làm anh mãi không chết nổi. Chiếc lá cuối cùng bên ngoài cửa sổ mãi không rời cành. Trong lúc chờ nó lìa cành thì anh Tứ kịp tìm được bông hoa mới. Đã rất nhiều lần tôi nghĩ lấy chồng đừng lấy cảnh sát nếu bạn không có thần kinh thép. Vất vả chưa nói, đó là điều dĩ nhiên. Đáng sợ nhất là bị bỏ rơi và chờ đợi vô vọng. Trong Đại mễ tiểu mạch, vợ của Hình Long Nhược li dị dù vẫn yêu chồng vì chị không thể chịu nổi cảnh chờ đợi chồng hàng đêm, luôn lo lắng anh bị thương hoặc hy sinh. Chị có thể cáng đáng gia đình, con cái nhưng không thể chịu nổi sự tra tấn dày vò tinh thần. Đằng sau sự hy sinh của các chiến sĩ công an là sự hy sinh của cả gia đình họ. Tác giả viết rất khéo, một tập truyện mà cảm giác như đọc cả series giết người. Đọc truyện mà tôi cứ phải chép miệng: “đời có lắm thằng điên”. Tôi tin rằng nếu tác phẩm này được dựng thành phim thì nó đủ gay cấn. Điểm trừ (nhẹ) là đoạn đối đầu giữa boss cuối và boss gần cuối chóng vánh quá, chưa đủ thỏa mãn tôi. Vốn có quan điểm lấy ác trị ác, tôi thấy boss gần cuối chết hơi nhanh, chưa kịp tận hưởng cảm giác của các nạn nhân của hắn. Tôi thích cuốn sách này, trừ cái bìa. Phong cách bìa quá “Tây” cho một truyện trinh thám Á. *** Tôi là Diệp Tứ Minh, mọi người thường gọi là anh Tứ. Tôi cảm thấy biệt danh này khắc mình, vì tôi phát hiện mình buộc phải kết liễu sinh mạng trong vòng bốn ngày, nếu không chờ đợi tôi phía trước chính là “sống không bằng chết”. Giờ nghĩ lại, mọi nguồn cơn của sự việc đều bắt đầu từ chiếc sofa năm năm về trước. Chiếc sofa đỏ bọc vải, khó có thể mô tả màu sắc của nó một cách chính xác, nhưng có lẽ lúc mới mua thì nó màu trắng. Lại gần sẽ ngửi thấy một hỗn hợp mùi quái lạ: mùi thức ăn thừa, mùi mồ hôi, mùi thuốc lá… Khi đó tôi mặc chiếc áo sơ mi trị giá ít nhất hai ngàn tệ, nhưng tôi cũng không thể vì tiếc của mà không ngồi xuống đống rác đó. Vì ngay sau gáy tôi là một họng súng lạnh ngắt. “Từ đầu đến giờ mày luôn bình tĩnh.” Kẻ cầm súng tên là Đảng Siêu. Hắn không nói to, nhưng giọng nói sắc nhọn như muốn xuyên thủng màng nhĩ. “Mày là thằng nào? Cớm hả?!” “Cớm” là tiếng lóng, ám chỉ “cảnh sát”. Nhiều người không thích cảnh sát, nguyên nhân rất đa dạng. Đảng Siêu không thích cảnh sát thuần túy vì lý do nghề nghiệp. Hắn buôn lậu súng ống, thuốc phiện và hắn giết người. Các bó cơ toàn thân tôi cứng ngắc, nội tạng như thể biến mất trong phút chốc. Lẽ ra tôi phải đổ mồ hôi như tắm mới phải, nhưng trán tôi lại khô rang như sa mạc Gobi. Có lẽ tôi nên phản bác hoặc biện giải đôi câu, nhưng tôi quyết định không mở miệng. Bởi vì tôi có thể cảm thấy giọng mình sẽ căng thẳng đến mức hụt hơi, chỉ cần mở miệng là để lộ nỗi sợ hãi đang dâng trào. Trong phòng lặng phắc, chỉ có tiếng tích tắc của đồng hồ treo tường. Bàng Tam nhìn tôi, mồ hôi vã đầm đìa khắp mặt. Điều này rất dễ hiểu, tôi mà chết thì cậu ta cũng khó mà sống sót nổi. Nghĩ đến đây, tôi quyết định phải làm gì đó. “Có lý đấy! Dẫu nói thì lũ nghèo kiết xác bọn mày cũng không hiểu…” Tôi chậm rãi đứng dậy, đồng thời tận dụng chút thời gian ít ỏi nhanh chóng nuốt nước bọt để dây thanh quản khôi phục chức năng đôi chút, “Nếu tao muốn làm trò thì còn phải ngày nào cũng tự mua dây buộc mình sao?” Không ai đáp lời, không ai phụ họa. Bọn chúng đều nhìn tôi chằm chằm. Không còn lựa chọn nào khác. “Không mang!” Tôi vứt thuốc lá và bật lửa lên bàn đánh “xoạch” một tiếng, cố cất cao giọng, “Ai cho mượn chút?” Tên nào đó quẳng một gói bột trắng nho nhỏ lên bàn. Bàng Tam đưa cho tôi miếng giấy bạc. Tôi thành thục lấy thuốc lá cuộn thành điếu, đổ bột trắng ra giấy bạc, dùng bật lửa hơ nóng. Một mùi quái dị mà quen thuộc xộc thẳng vào mũi. Thứ đó bắt đầu hóa lỏng, sủi bọt rồi biến thành màu cam nhạt ghê tởm, nom nó giống nham thạch trong miệng núi lửa vẫn thường thấy qua tivi. Tôi bần thần giây lát, rồi nhắm mắt, hít mạnh một hơi. Họng súng rời khỏi gáy tôi. Đảng Siêu ngồi xuống bên cạnh, đưa cho tôi cốc nước. Tôi uống một ngụm liền phun hết ra ngoài. Bọn chúng cười phá lên. “Hít mạnh quá cơ…” Bàng Tam đứng bên cạnh cười xiểm nịnh, đế vào một câu. “Giỡn chơi ấy mà, anh Tứ đừng kích động thế!” Đảng Siêu vỗ vai tôi, “Hít gấp quá hại người lắm, ngay cả anh Thương cũng không dám nữa là.” “Giỡn gì thế hả?” Tôi đẩy hắn một cái, “Lẫn cả phân ngựa à? Để lần sau mang cho bọn mày hàng nguyên chất, cho bọn mày mở mang tầm mắt.” Đảng Siêu cuời, sau đó hạ giọng nói chuyện với tôi. Nói thật, phần lớn chuyện chúng kể, tôi chẳng nghe thấy gì. Khi đó, tôi nằm trên sofa, cảm giác cơ thể mình trôi bồng bềnh, mí mắt như công tắc ngàn cân, liên tục nhắm lại, mở ra. Đầu tôi biến thành cái lồng, mọi thông tin từ thế giới bên ngoài đi vào não qua tai và mắt, rồi chảy ra tứ tán khắp nơi như bị rò nước. Tuy nhiên, câu nói dưới đây thì ngoại lệ, “Anh cần bao nhiêu bánh? Ngắn hay dài?” Tôi cười. Thế giới trước mắt bắt đầu trở nên méo mó, xoay chuyển. Mọi thứ trong phòng đều tan chảy, nguội dần, rồi đúc thành chiếc huân chương khảm huy hiệu của ngành cảnh sát. Đó là lần đầu tiên tôi hít thuốc phiện. Quả thật tôi là cảnh sát. Chẳng biết đó là lần thứ bao nhiêu tôi phải xâm nhập vào hang ổ của tội phạm. Khi ấy, tôi không hề cảm nhận được một lần hít thuốc phiện sẽ khiến bản thân ra sao. Trên thực tế, khi ấy tôi cảm thấy không gì mình không thể làm được và mình sẽ mãi mãi “siêu sao” thế này. Mời các bạn đón đọc Bãi Săn Người của tác giả Lương Kha & Tuệ Tâm (dịch).
Cuộc Đời Là Một Tiểu Thuyết
Với anh, mọi thứ đã được viết sẵn Với cô, mọi thứ đang đợi viết tiếp “Sáu tháng trước, ngày 12 tháng Tư năm 2010, con gái ba tuổi của tôi, Carrie Conway, đã bị bắt cóc trong lúc hai mẹ con đang chơi trốn tìm trong căn hộ nhà mình ở Williamsburg.” Câu chuyện của Flora Conway, nữ tiểu thuyết gia nổi tiếng sống kín đáo, đã bắt đầu như thế. Carrie đột ngột mất tích, không cách nào lý giải được. Cửa chính và các cửa sổ đều đóng kín, các camera giám sát trong tòa nhà không phát hiện điều khả nghi nào. Cuộc điều tra của cảnh sát không mang lại kết quả gì. Cùng thời điểm ấy, ở bờ kia Đại Tây Dương, một nhà văn với trái tim tan nát trốn tránh xã hội trong một ngôi nhà xập xệ, bế tắc với tiểu thuyết đang viết dở. Anh là người duy nhất nắm giữ chìa khóa của bí ẩn.  Và Flora sẽ đánh bật anh. Với Cuộc đời là một tiểu thuyết, bạn sẽ bắt gặp một Guillaume Musso hoàn toàn mới, người dẫn bạn bước vào mê cung, dắt bạn đi theo mạch truyện ly kỳ bằng nguồn sức mạnh rút từ quyền năng của những cuốn sách và khát khao mãnh liệt sống cuộc đời của các nhân vật. “Guillaume Musso là một cao thủ phù phép, luôn biến hóa ra điều bất khả trong cuộc đời các nhân vật giữa lúc ta không ngờ tới.” - Anne Michelet, Version Femina “Một câu chuyện tuyệt vời làm hài lòng cả độc giả sách trinh thám lẫn tín đồ văn chương. (…) Guillaume Musso, chắc chắn là nhà văn lớn và độc giả phi thường, trở lại với chủ đề nghề viết, nguồn cảm hứng, cuộc đời thực và tưởng tượng… một cách thật điêu luyện (…) Cuộc đời là một tiểu thuyết không khỏi khiến ta nghĩ tới Romain Gary.” - Alain-Jean Robert, AFP TÁC GIẢ: Guillaume Musso sinh năm 1974 tại Antibes, thị trấn nhỏ bên bờ Địa Trung Hải. Ngay từ năm mười tuổi, cậu bé Guillaume đã phải lòng văn chương và tuyên bố một ngày nào đó sẽ viết tiểu thuyết. Lớn lên, anh theo học ngành kinh tế rồi trở thành giáo viên sau khi tốt nghiệp, nhưng niềm đam mê thuở ban đầu vẫn tràn đầy. Năm 2001, tiểu thuyết đầu tay của anh ra đời và nhận được tín hiệu tốt từ giới phê bình. Tác phẩm thứ hai, Rồi sau đó, xuất bản năm 2004, đã gây ấn tượng mạnh và đưa tên tuổi Guillaume Musso đến với công chúng. Từ đó đến nay, anh đều đặn cho ra đời các tiểu thuyết mới và giành được thành công vang dội không chỉ tại Pháp mà còn trên khắp thế giới. Các tác phẩm của Guillaume Musso đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được chuyển thể thành phim. Các tác phẩm của Guillaume Musso đã được Nhã Nam xuất bản: - Rồi sau đó - Hãy cứu em - Hẹn em ngày đó - Bởi vì yêu - Trở lại tìm nhau - Nếu đời anh vắng em - Cô gái trong trang sách - Cuộc gọi từ thiên thần - Bảy năm sau - Ngày mai - Central Park - Giây phút này - Cô gái Brooklyn - Dưới một mái nhà ở Paris - Cô gái và màn đêm - Cuộc đời bí mật của các nhà văn *** 'Cuộc đời là một tiểu thuyết' - khi hư cấu gọi tên hiện thực. Sau "Cuộc sống bí mật của các nhà văn", Guillaume Musso bật mí thêm những ngõ ngách khác trong hành trình kiến tạo một tác phẩm văn chương trong "Cuộc đời là một tiểu thuyết". Tại New York, Mỹ, cô bé 3 tuổi Carrie Conway bị bắt cóc trong khi đang chơi trốn tìm cùng mẹ mình trong căn hộ. Flory Conway - mẹ của nạn nhân - nữ tiểu thuyết gia nổi tiếng sống ẩn dật và truyền thông chỉ biết Flory thông qua một tấm ảnh mờ nhạt. Carrie bốc hơi khi các cửa tòa nhà đều đóng kín, camera giám sát không ghi lại được hình ảnh nào khả nghi và cuộc điều tra rơi vào bế tắc. Ở Paris, Pháp, Romain Ozorski là tiểu thuyết gia 40 tuổi đã viết được 19 cuốn sách và tất cả đều trở thành bestseller. Nhưng đó là quá khứ, bởi hai năm gần đây Romain không viết thêm quyển tiểu thuyết nào.  Anh ly dị vợ, không nhận được quyền nuôi con cùng với những hóa đơn chưa thanh toán và một quyển tiểu thuyết đang còn dang dở.  Hai nhà văn nổi tiếng ở hai bờ Đại Tây Dương, với bao cuộc đời được tạo ra từ 2 khối óc đầy sáng tạo. Cha mẹ đẻ của những niềm vui và nỗi buồn trong hành trình đi tìm con chữ. Hai con người cùng bước chân vào bi kịch đời mình. Liệu có sợi dây nào liên kết Flory Conway và Romain Ozorski, khi cả hai dấn thân vào cuộc viễn chinh đi tìm cái kết? Cuốn sách Cuộc đời là một tiểu thuyết sẽ đem đến câu trả lời thỏa mãn cho người đọc. "Đặc sản" Guillaume Musso với cái kết bất ngờ  Có thể nói với hầu hết tác phẩm của Guillaume Musso, cái kết bất ngờ luôn là dấu ấn mà độc giả tò mò và ngóng đợi. Dưới sự dẫn dắt tài tình, câu chuyện được ông bóc tách và ghép lại như trò chơi xếp hình. Chỉ đến khi mảnh ghép cuối cùng được đặt vào, bức tranh toàn vẹn mới hiện ra trước sự trầm trồ của người đọc. Cuộc đời là một tiểu thuyết vẫn chứa đựng plot twist nằm ở những trang cuối cùng, với điểm sáng riêng biệt chính là một Guillaume Mussohoàn toàn mới. Câu chuyện tưởng chừng dễ đoán nhưng cài cắm những “ngòi nổ” mà chính độc giả chính là người giật kíp và tự nhận ra khi đi cuối hành trình. Ở cuốn tiểu thuyết này, tác giả tạo nên một tổng thể chỉn chu khi hư cấu gọi tên hiện thực. Các tuyến nhân vật đan cài lẫn nhau, song hành vào giao nhau ở điểm cuối truyện, hòa làm một và biến cuộc đời thành một quyển tiểu thuyết, hay nói đúng hơn tiểu thuyết phản ánh trung thực một cuộc đời. Những lát cắt trong cuộc đời của các nhà văn  Nếu Cuộc đời bí mật của các nhà văn là trải nghiệm công việc của người viết lách nơi ánh hào quang, tiền bạc và sự thành công chỉ là bề nổi cho những phần chìm trước mắt độc giả, thì Cuộc đời là một tiểu thuyết lại là những ngõ ngách khác trong hành trình xây dựng nhân vật, vật lộn với tình huống và đem cuộc đời thực vào trong tác phẩm. Tác phẩm mới của Musso hé lộ những lát cắt nằm phía trong tâm hồn và được bóc tách bởi chính sự dấn thân trên hành trình đi tìm con chữ. Mỗi tiểu thuyết gia có quyền lấy chất liệu đời thực đưa vào tác phẩm hay ngông cuồng cầm nắm trong tay quyền sinh sát mỗi nhân vật.  Nhưng dường như họ cũng có câu chuyện riêng cần kể. Sự cô đơn, niềm tin yêu thậm chí là bi kịch trở thành nguyên liệu quý giá trong việc tạo tác những cuộc đời tưởng chừng đã mất. Phía sau một tác phẩm thành danh luôn chứa đựng một bí mật mà người giữ chìa khóa để mở toang cánh cửa mà không ai khác chính là tác giả. Họ cho phép độc giả bước vào những cuộc đời song song khác của họ với đầy đủ dư vị cảm xúc hỉ nộ ái ố. Cuộc đời là một tiểu thuyết phần nào làm thỏa sự tò mò nơi độc giả khi hiểu thêm về công việc viết lách và những cuộc đời hiện sinh bằng con chữ với câu hỏi đặt ra rằng: Liệu cuộc đời là một quyển tiểu thuyết hay tiểu thuyết chính là cuộc đời? *** Quay về với một cuốn tiểu thuyết của Guillaume Musso. Sau cuốn “Cô gái và màn đêm” hơi gây thất vọng mình đã tự nhủ “Thôi thì cả thanh xuân đọc truyện lãng mạn của Guillaume Musso của tôi kết thúc tại đây”. Tuy vậy, lúc đó mình đã mua cuốn “Cuộc đời là một tiểu thuyết” rồi nên vẫn quyết định đọc dù đọc qua review thấy rate không cao lắm. Thực sự, mình thích cuốn sách này. Nó cũng lấy lại niềm tin của mình vào tác phẩm của Guillaume Musso. Thôi thì những cuốn sách của chú cùng cháu lớn lên, cháu cũng quyết định là cũng có thể cùng nhau về già :D. Mình nhận thấy từ rất nhiều cuốn sách, nhân vật chính của Guillaume Musso đều là những nhà văn. Và từ cuốn sách này, mình cảm thấy dường như Guillaume Musso đã mượn văn chương để nói về cuộc đời mình và để bộc bạch những suy tư mà cuộc sống đời thường khó có thể làm được. Musso cũng công nhận “Sức mạnh to lớn của văn chương hư cấu nằm ở quyền năng nó cho phép chúng ta chạy trốn thực tại hay bang bó những vết thương ta phải chịu đựng do bạo lực xung quanh gây ra.” Cuộc đời là một cuốn tiểu thuyết kể về 2 nhân vật Flora Coway và Romain Ozorski đều là những người viết. Đến một ngày, sau những biến cố đau đớn, họ cảm thấy nghi ngờ về cuộc sống của mình. Nội dung cuốn sách này lấy cảm hứng từ câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng của Plato về những người tù, bị giam trong một hang động từ khi mới sinh ra. Những người tù này luôn bị xích và phải quay mặt về phía trong hang, thay vì phía cửa/miệng hang. Trong suốt cả cuộc đời, họ sẽ chẳng bao giờ thấy đc thế giới bên ngoài ra sao. Thứ duy nhất mà họ có thể là những cái bóng phản chiếu của những sự vật đi ngang qua cửa hang vào lúc có ánh sáng mặt trời chiếu vào. Họ cho rằng những cái bóng chính là những con người, con vật và đồ vật ấy. Đến một ngày, một trong số những người tù này trốn thoát và chạy ra khỏi hang. Lần đầu tiên anh ta thấy thế giới thật thay vì những cái bóng. Nhận thức cũ về thế giới xung quanh của anh ta bị sụp đổ. Những cái bóng anh ta nhìn thấy mỗi ngày khi xưa hóa ra chỉ là một phần rất rất nhỏ của thế giới thực ngoài kia. Thế rồi anh ta trở lại hang kể với những bạn tù của mình về thế giới ngoài hang mà anh ta nhìn thấy. Nhưng không may, những người bạn của anh ta, vì vẫn luôn giữ nhận thức cũ, nên không thể hiểu được những điều anh ta nói, họ không thể tưởng tượng ra tại sao lại có một thế giới như vậy tồn tại ngoài kia. Từ đó, tác giả đẫn dến những suy tư trong trích dẫn của Bergson “Chúng ta không thực sự thấy bản chất của mọi thứ: thường thì ta chỉ tự giới hạn mình ở việc đọc nhãn dán trên chúng”. Bergson “Thực tại… Hư cấu… Suốt cuộc đời tôi đã đi tìm ranh giới rất mơ hồ giữa chúng. Không gì gần với cái thật bằng cái giả trong thế giới thực, bởi khi con người coi một hoàn cảnh nào đó là thực tế, thì sau đó chúng sẽ trở thành thực tế…”. Guillaume Musso Tuy vậy, tác giả cũng nhắc đến nối sự và sự đau khổ của những con người bị giam cầm khi được ra khỏi hang, rằng “họ nhận ra bóng tối thật dễ chịu và ánh sáng khiến họ đau khổ” và họ không muốn chấp nhận sự thật. Đôi khi biết được sự thật cũng không phải chuyện vui, nhưng liệu chúng ta có muốn sống mãi trong hang tối? Một vài bộ phim và cuốn sách cũng xoay quanh chủ đề này, có thể kể đến bộ phim Ma trận 9 Lana Wachowski & Lilly Wachowski, 1999) hay cuốn sách gần đây của David Chalmers “Reality+: Virtual world and the problems of philosophy”. Khi được hỏi “Nếu chúng ta đang sống trong một mô phỏng máy tính thì khả năng mô phỏng đó sẽ như thế nào?”, tác giả David Chalmers trả lời rằng: Có nhiều loại mô phỏng khác nhau. Có loại gọi là mô phỏng hoàn hảo, nó làm việc tốt đến mức không ai có thể phân biệt được nó với thực tại vật lý. Nếu chúng ta đang ở trong một mô phỏng hoàn hảo, chúng ta sẽ không bao giờ biết được điều đó. David Chalmers Vậy liệu có phải chúng ta đang sống trong một thế giới mô phỏng? Mình nghĩ đây là một câu hỏi triết học khá thú vị để đi sâu hơn vào nhận thức con người, và cũng có khá nhiều tài liệu đi sâu hơn vào câu hỏi này, mình sẽ trích dẫn ở cuối bài. Guillaume Musso đang dùng tác phẩm văn chương của mình để gợi lên những câu hỏi sâu sắc hơn cho độc giả. Tuy nhiên, triết học luôn là những vấn đề trừu tượng, bàn về triết học đòi hỏi chiều sâu hiểu biết về con người và thế giới quan. Do đó, một tác phẩm văn chương đủ sâu sắc, đủ hấp dẫn đẻ bàn về triết học cũng không phải điều đơn giản. Mình thấy, trong Guillaume Musso mới hình thành một ý tưởng sơ lược, chưa thực sự hiểu sâu sắc về nó. Do đó, mình đánh giá các tình tiết trong câu chuyện này còn một số đoạn hơi “lỏng lẻo”, và dường như tác giả đã hơi lúng túng không biết kết truyện sao cho vừa.  Mặc dù vậy đây vẫn là một cuốn sách mình thấy hay bởi ý tưởng và những thông điệp mà Guillame Musso muốn gửi đến độc giả về sự thức tỉnh, mở rộng thế giới quan và đi tìm  ánh sáng của sự thật. Vì đọc phải có bất ngờ khi đọc truyện mới hay nên mình không tóm tắt nội dung chi tiết mà chỉ ghi lại phần mình ấn tượng nhất trong cuốn sách này, nhưng mà sách hay và đáng đọc nhé
Hai Cõi Người Ta
Khi người bạn yêu sâu sắc mất đi, dù là người thân hay người phối ngẫu, cuộc đời bạn mãi mãi không còn như trước nữa. Những gì trước nay bạn có như một điều mặc nhiên, đột nhiên sẽ mất. Khoảng trống đó không gì bù đắp được, chỉ có chính bạn có thể, bằng cách này hay cách khác, vượt qua và tìm cách sống tiếp. Nhưng cách vượt qua của mỗi người sẽ không như nhau. Có người sẽ cố chấp không buông như Ross, đi khắp nơi mong gặp linh hồn của vợ, tìm mọi cách cực đoan để liều mình tìm sang thế giới bên kia, thế nhưng không thỏa nguyện, bởi bóng hình anh yêu có tồn tại đâu? Hoặc như nỗi ám ảnh của người mẹ có con mắc bệnh hiếm, khiến cô khép mình với thế giới bên ngoài, sợ cả yêu thương.  Thế nhưng đây không chỉ là một cuốn sách về tâm lý tình cảm. Một hồn  ma, một hồ sơ vụ án chưa bao giờ khép, một khu đất là quê hương của thổ dân Châu Mỹ ngày xưa với biết bao hiện tượng kỳ dị... được lật lại bởi người cảnh sát địa phương, không ngờ lật ra cả một giai đoạn đen tối của lịch sử nước Mỹ, khi mà khao khát về đời sống tốt đẹp hơn lại vô hình suýt đẩy quốc gia vào con đường diệt chủng với Thuyết Ưu Sinh - một lý thuyết gạn lọc những gen bị cho là "gen xấu" của con người. Nhưng con người, với tất cả hiểu biết hạn hẹp của  mình, liệu đã có đủ năng lực để vạch ra lằn ranh cho khoa học di truyền đó? Một câu chuyện đan cài hấp dẫn từ đầu tới cuối, là sự xen kẽ của trinh thám, tình cảm, khoa học và lịch sử, với ngòi bút mượt mà đậm tính nhân văn. *** Lần đầu tự đẩy mình vào chỗ chết, Ross Wakeman suýt thành công, nhưng lần thứ hai và thứ ba chết hụt thì không phải do anh. Lần thứ hai, anh ngủ gục trên tay lái nên phóng xe lao qua thành cầu và rớt xuống hồ nhưng được đội cứu hộ tìm thấy. Khi chiếc Honda nửa chìm nửa nổi được trục vớt, cửa xe đều còn khóa kín, kính cửa sổ cường lực rạn như mạng nhện mà vẫn nguyên vẹn. Sau vụ tai nạn chẳng ai hiểu làm sao anh ta thoát khỏi xe mà không hề trầy xước. Lần thứ ba, Ross bị cướp ở New York. Tên cướp trấn lột ví tiền, đập Ross một trận nhừ tử, nã một phát vào lưng anh rồi trốn mất dạng. Với cự ly gần như thế, viên đạn lẽ ra phải khiến xương vai vỡ vụn và đâm thủng phổi. Vậy mà như có phép thần, viên đạn kẹt lại ngay khi vừa chạm xương. Mẩu đạn chì bé tẹo giờ đang được Ross dùng làm móc chìa khóa. Còn lần đầu tiên suýt chết là vài năm trước, khi Ross mắc kẹt giữa một trận bão sét. Tia sét màu xanh tuyệt đẹp bất chợt xuất hiện trên nền trời rồi phóng thẳng trúng tim anh. Mấy bác sĩ đều nói anh đã chết lâm sàng khoảng bảy phút. Họ nói rằng tia sét không đánh trúng Ross trực tiếp. Nếu dòng điện mạnh 50,000 ampe thực sự truyền thẳng vào lồng ngực, nó sẽ làm nước trong tế bào bốc hơi và khiến anh nổ tung đúng theo nghĩa đen. Tia sét chỉ sượt qua, tạo ra dòng điện cảm ứng khiến nhịp tim anh rối loạn. Mấy tay bác sĩ đều trầm trồ cái gã này sao mà may mắn quá. Mấy gã đó đều sai bét. Lúc này, Ross chẳng buồn cẩn trọng khi dò dẫm trên mái nhà đen thui ướt nhẹp của gia đình O’Donnells’ Oswego vào ban đêm. Trời đã vào tháng Tám mà gió lùa vào từ hồ Ontario vẫn còn lạnh buốt, thổi mấy sợi tóc dài vào mắt khi anh khéo léo rướn mình qua ô cửa sổ xiêu vẹo. Nước mưa vỗ xuống gáy khi anh loay hoay gắn mấy cái kẹp vào máng xối và chỉnh lại máy quay phim chống thấm nước hướng vào tầng gác mái. Đôi ủng của anh trượt một phát, khiến vài tấm ván lợp cũ mèm rơi xuống. Ông O’Donnel che ô đứng dưới đất, nheo mắt dõi theo anh. “Cẩn thận đấy,” ông ta hét lên. Ross ngầm hiểu lời O’Donnel muốn nói: Chừng ấy hồn ma là đủ lắm rồi. Nhưng Ross sẽ chẳng làm sao cả đâu. Anh sẽ không trượt chân; anh sẽ không ngã. Đây là lý do vì sao hết lần này đến lần khác, anh sẵn sàng lao vào nguy hiểm và liều mạng như nhảy bungee, leo núi và hút ma túy. Anh vẫy tay với ông O’Donnell, ra hiệu rằng mình đã nghe thấy. Nhưng Ross biết mặt trời sẽ mọc sau tám tiếng nữa, cuộc sống của anh vẫn tiếp diễn, và dù muốn đến đâu thì mình cũng không chết được. Tiếng trẻ con khiến Spencer Pike tỉnh giấc và loay hoay ngồi dậy. Tất cả phòng trong Viện Dưỡng Lão Shady Pines đều bật đèn ngủ, nhưng ông biết dù có bật điện hết công suất đủ để chiếu sáng cả thành phố Burlington này thì mình cũng chẳng thấy gì quá phạm vi chân giường. Bệnh đục thủy tinh thể khiến ông chẳng nhìn được gì. Những lúc bước ngang qua gương soi để vào phòng vệ sinh, ông loáng thoáng thấy ai đó đang nhìn mình - một anh chàng với hàng lông mày chưa lốm đốm ngả vàng; một người hoàn toàn khác với làn da nhăn nheo bọc ngoài khung xương hiện tại. Nhưng bóng dáng Spencer một thời trẻ trung vụt tan biến, bỏ lại ông với những mảnh vụn sót lại của đời mình. Dù vậy, đôi tai ông vẫn còn rất thính. Khác với mấy lão già lẩm cẩm ở đây, Spencer chưa bao giờ cần đến máy trợ thính. Quỷ thật, ông còn nghe được những thứ ông chẳng buồn quan tâm. Trời ơi, đứa nhỏ lại khóc nữa rồi. Ông vén chăn, bấm nút bên cạnh giường. Một lúc sau, y tá trực đêm bước vào hỏi, “Ông Pike, có việc gì sao?” “Có đứa nhỏ cứ khóc mãi.” Cô y tá nhanh nhẹn xoay gối và nâng cao đầu giường sau lưng ông. “Ông Pike, chẳng có đứa trẻ nào ở đây cả. Đó chỉ là mơ thôi.” Cô vỗ nhẹ lên bờ vai một thời rắn rỏi của Spencer. “Bây giờ thì ông nên ngủ tiếp đi. Ngày mai sẽ bận rộn lắm đấy. Ông có hẹn đúng không?” Ông tự hỏi vì sao cô ta nói chuyện như đang dỗ con nít vậy? Vì sao ông lại ngoan như một đứa con nít - mặc cô đỡ ông nằm xuống giường và kéo chăn lên ngực? Một loạt ký ức chực chờ dâng trào nơi cổ họng, tiếp đó là một cảm giác mơ hồ khiến ông rơm rớm nước mắt. Cô y tá ân cần hỏi: “Ông có cần vài viên Naproxen cho dễ chịu không?” Spencer lắc đầu. Từng là nhà khoa học, ông biết rõ chẳng có phòng thí nghiệm nào bào chế được loại thuốc xoa dịu nỗi đau này. Curtis Warburton ngoài đời trông nhỏ con hơn trên truyền hình. Nhưng chuyện này chẳng hề ảnh hưởng đến sức quyến rũ của anh, thứ khiến chương trình Đêm Rùng Rợn trở thành một trong những tiết mục ăn khách nhất. Mái tóc đen ngắn với vệt tóc bạc trông như lông chồn hôi - anh thành ra thế từ chín năm trước, khi hồn ma của ông nội hiện về ngay chân giường. Sau đêm ấy, anh ta bắt đầu dấn thân vào lĩnh vực điều tra hiện tượng tâm linh. Maylen vợ anh ta có dáng người thấp bé nhưng khả năng ngoại cảm vang danh đến tận sở cảnh sát Los Angeles. Cô đang ngồi bên cạnh và mải miết ghi chép khi Curtis đặt câu hỏi cho ông bà chủ nhà. “Đầu tiên là tại nhà bếp,” bà Eve O’Donnell thì thào, và chồng bà gật gù. Hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu. Hai người mua căn nhà bên hồ này làm nơi nghỉ hè, nhưng suốt ba tháng ở đây, họ gặp nhiều hiện tượng kỳ quái ít nhất hai lần mỗi tuần. “Khoảng mười giờ sáng, tôi khóa hết cửa, đặt chuông báo động và đi đến bưu điện. Lúc về nhà, chuông báo động vẫn đang bật… nhưng tất cả tủ bếp trong nhà đều mở toang, mấy hộp ngũ cốc nằm la liệt trên bàn và vương vãi xung quanh. Tôi gọi tên Harlan vì nghĩ rằng ông ấy mới về nhà và là thủ phạm của đống lộn xộn này.” “Tôi ở câu lạc bộ Elks suốt buổi sáng,” chồng bà ngắt lời. “Chưa từng về nhà. Nhà chẳng ai làm chuyện đó cả.” “Lúc hai giờ sáng, chúng tôi nghe thấy tiếng đàn calliope vọng lại từ tầng gác mái. Nhưng khi chúng tôi bước lên đó thì tiếng nhạc ngừng lại. Lúc mở cửa ra, chúng tôi thấy một chiếc đàn piano đồ chơi không hề gắn pin nằm ngay giữa sàn.” “Chúng tôi không có cây đàn piano đồ chơi nào,” ông Harlan nói thêm. “Nhà cũng chẳng có trẻ con. “Khi chúng tôi thử gắn pin vào thì tiếng nhạc phát ra từ cái đàn lại không giống với âm thanh kia.” Bà Eve ngập ngừng. “Anh Warburton, tôi hy vọng anh hiểu rằng chúng tôi không phải là những người tin… tin vào những thứ như thế. Chỉ là… chỉ là nếu như không phải là nó thì có lẽ tôi đang mất trí rồi.” “Bà O’Donnell, bà không bị mất trí đâu.” Curtis khẽ nắm tay bà ra vẻ cảm thông. “Đến sáng mai là chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về chuyện gì đang diễn ra tại nhà hai vị.” Anh ngoái đầu ra sau để đảm bảo Ross ghi lại đoạn phim này. Tùy vào việc xảy ra sau đó, nhà O’Donnells có thể xuất hiện trên chương trình Đêm Rùng Rợn. Nếu vậy thì thước phim này rất quan trọng. Mỗi ngày, nhóm Warburtons nhận được hơn ba trăm thư điện tử từ những người tin rằng nhà họ bị ma ám. Tám mươi lăm phần trăm vụ việc hóa ra là những trò chơi khăm hoặc do chuột trên nóc nhà. Những vụ còn lại thì - theo kinh nghiệm của Ross - không thể giải thích một cách đơn giản được. “Ông bà từng thấy ma chưa?” Curtis hỏi. “Hoặc là cảm giác nhiệt độ thay đổi đột ngột?” “Phòng ngủ hai vợ chồng tôi đột nhiên nóng như địa ngục khoảng một phút, sau đó lại lạnh đến rùng mình,” ông Harland trả lời. “Ông bà có cảm thấy đặc biệt không thoải mái với chỗ nào trong nhà không?” “Tầng gác mái. Còn cả phòng tắm trên lầu nữa.” Curtis đưa mắt nhìn từ tấm thảm thủ công đậm chất Đông phương đến chiếc bình cổ trên bệ lò sưởi. “Tôi phải khuyến cáo hai vị rằng bắt ma là công việc rất tốn kém đấy.” Là nhà nghiên cứu thực địa trong nhóm Warburtons, Ross được cử đến thư viện, khu tư liệu báo chí để tìm tài liệu về căn nhà hay vụ giết người hoặc tự tử từng xảy ra ở đó. Công tác điều tra của anh chẳng mang lại thông tin gì đáng giá, nhưng Curtis không hề muốn bỏ cuộc. Dù sao thì ma quỷ có thể ám cả người lẫn nhà. Lịch sử luôn để lại vết tích, như mùi nước hoa nhàn nhạt hay vệt ký ức in đậm sau ánh mắt. “Cứ tiến hành thôi,” bà Eve O’Donnell đáp. “Tiền bạc không thành vấn đề.” “Tất nhiên là vậy rồi.” Curtis vừa cười vừa vỗ tay đánh bốp lên đầu gối. “Tốt lắm. Chúng tôi có vài việc phải làm.” Đó là ám hiệu của Ross. Trong quá trình điều tra, anh chịu trách nhiệm thiết lập và giám sát các thiết bị điện từ, máy quay video kỹ thuật số, nhiệt kế hồng ngoại. Bất chấp lợi nhuận kếch xù do chương trình truyền hình và những vụ làm ăn kiểu này mang lại, Ross làm việc với mức lương rẻ mạt. Chín tháng trước, sau khi đọc về nhóm Warburtons trên tờ tạp chí L.A. Times vào ngày lễ Halloween, Ross đã phải nài nỉ họ nhận mình vào làm. Khác với Curtis và Maylene, dù rất muốn nhưng anh chưa từng thấy một linh hồn nào cả. Anh hy vọng khả năng ngoại cảm có thể lây qua đường tiếp xúc giống như bệnh đậu mùa và in lại dấu ấn vĩnh viễn trên người anh. “Tôi nghĩ mình nên kiểm tra tầng gác mái,” Ross đề nghị. Anh đứng giữa hành lang, đợi bà Eve O’Donnel dẫn đường. Dù anh chẳng hề thắc mắc nhưng bà vẫn thừa nhận, “Tôi cảm thấy thật là ngu ngốc, từng tuổi này rồi mà còn thấy ma Casper.” Ross mỉm cười. “Ma có thể làm bà rùng mình một tí, hoặc khiến bà nghĩ mình bị mất trí nhưng sẽ không làm hại bà đâu.” “Ồ, tôi cũng không nghĩ cô ấy sẽ hại tôi.” “Cô ấy?” Bà Eve ngập ngừng. “Harlan dặn tôi không được chia sẻ quá nhiều thông tin để tránh việc các anh hiểu sai vấn đề.” Bà rùng mình, liếc mắt về phía cầu thang. “Em gái tôi mất hồi tôi bảy tuổi. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi… liệu ma có tìm được người nào đó nếu nó muốn?” Ross hướng mắt ra chỗ khác. “Tôi không biết nữa,” anh đáp, thầm ước giá mà mình có thể đáp lời bà ấy với một câu trả lời cụ thể hay chia sẻ trải nghiệm cá nhân. Mắt anh sáng lên khi nhìn thấy cánh cửa nhỏ ngay trên bậc cầu thang. “Ở đây à?” Bà gật đầu, để anh vượt lên trước và mở cửa. Chiếc máy quay phim Ross gắn ngoài cửa sổ trông như con mắt của người khổng lồ Cyclops đang dõi theo hai người. Eve sợ đến rúm ró cả người. “Bước vào đây là tôi thấy ớn lạnh.” Ross dời mấy cái hộp để tránh trường hợp hình bóng kỳ lạ nào đó xuất hiện trong thước phim bị nhận nhầm. “Curtis nói đó là cách tìm ra họ, chỉ cần nghe theo cảm giác mách bảo.” Mắt anh nhìn trúng thứ gì đó lấp lánh trên sàn nhà. Anh khuỵu gối nhặt lên vài đồng xu. “Tất cả có 6 xu.” Anh mỉm cười. “Kỳ quái thật.” “Thỉnh thoảng cô ấy vẫn làm vậy.” Bà Eve lùi dần về phía cửa, hai tay ôm lấy vai. “Luôn để lại cho chúng tôi mấy đồng xu lẻ ấy.” “Con ma đấy sao?” Ross xoay người lại thắc mắc nhưng bà Eve đã chạy xuống lầu. Hít một hơi thật sâu, Ross đóng cửa phòng gác mái lại và tắt hết đèn, để bóng tối tràn ngập căn phòng nhỏ. Anh lách mình sang góc phòng, tránh khỏi tầm máy quay phim rồi khởi động nó bằng điều khiển từ xa. Sau đó Ross cố tập trung vào bóng tối bủa vây trước ngực và sau hai đầu gối, giống như chỉ dẫn của Curtis Warburton. Ross thả lỏng tất cả giác quan, chờ đến khi sự hoài nghi giảm dần và khoảng không xung quanh mở rộng. Anh thầm nghĩ, có lẽ chính là cảm giác này. Cảm giác khi những bóng ma vây quanh giống như cổ họng lúc nấc nghẹn. Bên trái có tiếng bước chân, kèm theo tiếng leng keng không lẫn vào đâu được của mấy đồng xu rớt trên sàn. Ross bật đèn pin rọi quanh phòng, đến chỗ đôi ủng của mình thì thấy có ba đồng xu nằm đó. “Aimee?” anh thì thào với khoảng không trống trải. “Có phải em không?” Thị trấn Comtosook bang Vermont nằm giữa nhiều ranh giới tự nhiên: vùng trũng dẫn nước chảy vào hồ Champlain, vách núi dựng đứng bao quanh mỏ đá granite nơi nửa số dân thị trấn đang làm việc. Dường như có một giới tuyến vô hình ngăn giữa vùng nông thôn bang Vermont và thành phố Burlington liền kề. Nhà thờ thuộc Tự trị giáo đoàn ở trung tâm thành phố có treo một bảng hiệu ca ngợi Comtosook là vùng đất đẹp nhất tiểu bang do tạp chí Đời Sống Vermont trao tặng năm 1994. Thật không sai. Có những ngày, Eli Rochert chỉ biết nín thở ngắm nhìn tán lá đang chuyển màu, nào là màu hồng ngọc, màu hổ phách và cả màu ngọc lục bảo. Nhưng dù khách du lịch có nghĩ gì về Comtosook thì đây vẫn là quê hương Eli. Đã từng, và mãi mãi. Anh vẫn cho là vậy. Tất nhiên, với cương vị là một trong hai cảnh sát của thị trấn, anh biết rõ những gì du khách thấy chỉ là ảo ảnh. Từ lâu Eli đã biết có những thứ dù có cố nhìn chằm chằm thì cũng không thấy được những gì nằm ẩn sâu dưới mặt ngoài. Anh lái xe dọc con phố Nghĩa Trang. Anh vẫn hay tuần tra vào những đêm trăng tròn vành vạnh tỏa ra ánh vàng như mắt diều hâu. Mấy cửa sổ xe đều kéo xuống nhưng chẳng có ngọn gió nào thổi qua. Phần tóc đen ngắn ngủn sau gáy Eli nhớp nháp dính vào gáy. Ngay cả Watson, chú chó săn của anh, cũng đang thở hổn hển trên ghế sau. Mấy tấm bia mộ cũ kỹ nằm ngả nghiêng như những chiến binh với đôi chân rệu rã. Bên trái khu nghĩa trang, gần chỗ cây sồi, là bia mộ kỳ quặc nhất của thị trấn Comtosook. Bia đề, WINNIE SPARKS. SINH NĂM 1835. QUA ĐỜI NĂM 1901. QUA ĐỜI NĂM 1911. Truyền thuyết kể rằng khi đang trên đường đưa tang cho bà lão cay nghiệt có tiếng ra khu nghĩa địa thì mấy con ngựa kéo lồng lên, khiến quan tài rớt xuống. Sau đó nắp quan tài bật ra, bà Winnie ngồi dậy, leo ra khỏi đó rồi khạc nhổ điên cuồng. Mười năm sau khi bà chết - thêm một lần nữa - thì ông chồng tội nghiệp đã đóng đến 150 chiếc đinh trên nắp quan tài để phòng chuyện trước kia. Mời các bạn đón đọc Hai Cõi Người Ta của tác giả Jodi Picoult & Trần Nguyên Hương (dịch).