Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ma Cà Rồng Ở Dallas

Khi chàng ma cà rồng Bill Thompton tiếp nhận vị trí Điều tra viên khu vực Số Năm, Sookie Stackhouse mặc nhiên được những ma cà rồng quyền lực nhất vùng bảo vệ. Nhưng, được coi như món đồ thuộc quyền sở hữu của Bill, cô buộc phải sử dụng khả năng đọc tâm trí của mình để phục vụ những kẻ khát máu. Với điệp vụ đầu tiên trong vai trò một tay lính đánh thuê, cô phải lặn lội cùng Bill tìm lời giải đáp cho sự mất tích bí ẩn của một ma cà rồng đồng tính tận Dallas. Cô những tưởng mình chỉ cần đọc tâm trí một vài người thường nào đó. Cô cũng đã tưởng mình có thể bảo vệ những con người liên quan đến vụ việc. Chỉ có điều, mối nguy hiểm không phải lúc nào cũng chỉ đến từ phía ma cà rồng. Và, lý thuyết bao giờ cũng đơn giản hơn thực tế… Một lần nữa, chính mạng sống của cô lại bị treo trên đầu sợi tóc… Charlaine Harris (sinh 25/11/1951) sinh ra và lớn lên tại Tunica, Mississippi và hiện giờ đang sống ở Arkansas cùng chồng và ba người con. Bà sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch và tiểu thuyết. Chết trước hoàng hôn (Dead Until Dark) là tập đầu tiên trong bộ tiểu thuyết ăn khách The Southern Vampire Mysteries (Bí ẩn ma cà rồng miền Nam), từng giành được giải Anthony Award cho Tác phẩm thần bí xuất sắc nhất 2001. Bộ tiểu thuyết này cũng được đạo diễn Alan Ball chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách nhiều năm liên tiếp True Blood. “Thật khó tưởng tượng ra cảnh ma cà rồng và người sói cùng lượn lờ ở mỗi góc đường, nhưng Harris đã biết cách khiến người đọc yêu thích, bị lôi cuốn và cuối cùng là mê mệt những câu chuyện của bà.” – The Monroe News-star “Một cuốn sách bạn muốn đọc trước giờ đi ngủ, chắc mẩm sẽ chỉ theo dõi hết chương đầu tiên, nhưng hóa ra lại chỉ dừng lại được khi đã đi đến trang cuối cùng.” – Alan Ball, biên kịch American Beauty và đạo diễn True Blood “Bằng sự hòa quyện của những pha hành động, tình cảm và các chi tiết hài hước, Harris đã tạo ra một thế giới sống động đầy tính hiện thực, tất nhiên, nếu không kể đến ma cà rồng và những sinh vật siêu nhiên khác.” – The Toronto Stars *** Andy Bellefleur đã say khướt. Chuyện này chẳng bình thường với Andy chút nào - tin tôi đi, tôi biết hết mấy tay nát rượu ở Bon Temps. Nhờ nhiều năm làm việc trong quán bar của Sam Merlotte, tôi đã quen mặt tất cả bọn họ. Nhưng Andy Bellefleur, người gốc địa phương và là thanh tra trong lực lượng cảnh sát ít ỏi ở thị trấn Bon Temps, thì trước giờ chưa từng say xỉn ở quán Merlotte. Tôi cực kỳ tò mò muốn biết vì sao tối nay lại là ngoại lệ. Vì Andy và tôi chẳng hề quen thân nên tôi không thể hỏi thẳng anh ta được. Nhưng vẫn còn vài cách khác mà, thế là tôi quyết định dùng các cách ấy. Mặc dù tôi luôn cố hạn chế sử dụng khiếm khuyết, hay tài năng của mình, muốn gọi sao cũng được, để tìm ra những thứ có thể ảnh hưởng đến tôi hoặc những thứ thuộc về tôi, nhưng đôi lúc sự tò mò lại thắng thế. Tôi hạ rào chắn tâm trí xuống để đọc suy nghĩ của Andy. Rồi tôi lại thấy hối hận. Sáng nay Andy đã tóm một tên bắt cóc. Gã đàn ông đó đã bắt cóc cô bé hàng xóm mới mười tuổi mang vào rừng hãm hiếp. Cô bé đó hiện đang ở bệnh viện, còn gã kia đang ở trong tù, nhưng tổn hại mà hắn đã gây ra thì chẳng thể nào khắc phục được. Tôi buồn đến phát khóc. Tội ác ấy chạm vào sâu thẳm quá khứ của chính tôi. Sự trầm uất của Andy làm tôi thấy thích anh ta hơn một chút. “Này Andy Bellefleur, đưa chìa khóa xe anh đây,” tôi nói. Gương mặt to bành của Andy ngước lên nhìn tôi, ngơ ngác. Sau một hồi lâu ngẩn ngơ để cho lời tôi nói thẩm thấu vào trí óc rối bời của mình, Andy thò tay lục túi quần kaki rồi đưa tôi một chùm chìa khóa nặng trịch. Tôi đặt thêm một ly bourbon pha coca trên quầy bar trước mặt anh ta. “Tôi mời,” tôi nói, rồi lấy điện thoại ở cuối quầy bar gọi cho Portia, em gái Andy. Hai anh em nhà Bellefleur sống ở một căn biệt thự lớn kiểu tiền Nội Chiến hai tầng màu trắng trước đây hẳn rất tráng lệ nhưng giờ đang xuống cấp, nằm trên con phố xinh xắn nhất trong khu vực đẹp nhất thị trấn Bon Temps. Trên đường Magnolia Creek, mọi ngôi nhà đều quay mặt ra phía dải công viên có dòng suối nhỏ len qua, bắc rải rác ngang con suối là những cây cầu hoa hòe hoa sói chỉ dành riêng cho người đi bộ; đường lộ chạy dọc hai bên công viên. Trên đường Magnolia Creek còn có vài căn nhà xưa khác nữa, nhưng tất cả đều được chăm chút hơn nơi ở của gia đình Bellefleur, căn Belle Rive. Việc duy tu căn nhà Belle Rive vượt quá khả năng chi trả của Portia, một luật sư, và của Andy, một cảnh sát, vì số tiền để duy trì căn nhà cùng đất đai vườn tược chung quanh đã hết từ lâu rồi. Nhưng bà của họ, Caroline, lại gàn bướng không chịu bán. Portia nhấc điện thoại sau hồi chuông thứ hai. “Portia à, tôi là Sookie Stackhouse đây,” tôi phải lên giọng để át đi âm thanh ồn ã trong quán bar. “Hẳn là cô vẫn đang ở chỗ làm.” “Phải rồi. Andy đang ở đây, say mèm rồi. Tôi đã thu chìa khóa xe của anh ấy. Cô đến đón Andy được không?” “Andy quá chén à? Hiếm nhỉ. Được rồi, tôi sẽ đến đó trong vòng mười phút,” cô ta hứa, rồi cúp máy. “Cô tốt bụng quá, Sookie,” tự nhiên Andy thốt lên. Anh ta đã nốc cạn ly rượu tôi vừa rót. Tôi gạt cốc ra chỗ khuất mắt, mong rằng anh ta không đòi thêm nữa. “Cảm ơn anh, Andy,” tôi nói. “Anh cũng là người tốt bụng mà.” “Bạn trai… đâu ấy nhỉ?” “Ngay đây này,” một giọng nói lạnh lùng đáp lại, và Bill Compton xuất hiện ngay đằng sau Andy. Tôi mỉm cười với anh qua đầu Andy lúc này đang gục xuống. Bill cao khoảng một mét tám, tóc và mắt cùng một màu nâu sẫm. Anh có bờ vai rộng và đôi cánh tay cuồn cuộn cơ bắp như của người đã lao động chân tay suốt nhiều năm liền. Trước khi đi lính, Bill đã làm việc ở trang trại, đầu tiên là cùng bố, sau đó làm một mình. Trong cuộc Nội Chiến thì phải. “Chào M.B.!” Micah, chồng của Charlsie Tooten, cất tiếng. Bill phẩy tay đáp lại, Jason, anh trai tôi, thì chào hỏi vô cùng lịch sự, “Chào buổi tối nhé, ma cà rồng Bill.” Jason, trước đây không mấy sẵn lòng đón chào Bill bước vào gia đình nhỏ của chúng tôi, nhưng giờ lại thay đổi thái độ hoàn toàn. Trong thâm tâm tôi gần như vẫn nín thở chờ xem thái độ được cải thiện này có tồn tại mãi không. “Này Bill, anh là một tay hút máu tốt bụng đấy,” Andy nói vẻ đánh giá, rồi xoay người đối mặt Bill. Tôi lại nâng cấp quan điểm của mình về Andy khi say xỉn, vì khi tỉnh táo có bao giờ anh ta tỏ ra sẵn lòng chấp nhận ma cà rồng vào xã hội con người trên đất nước này đâu cơ chứ. “Cảm ơn anh,” Bill đáp bằng giọng khô khốc. “Với một tay nhà Bellefleur thì anh cũng đâu quá tệ.” Anh rướn người qua quầy hôn tôi. Đôi môi anh cũng lạnh như chính giọng nói. Phải làm quen với điều này thôi. Như khi ngả đầu lên ngực anh, chẳng ai nghe thấy được nhịp tim đập trong ấy. “Chào buổi tối, cưng à,” anh nói nhỏ. Tôi đẩy qua quầy bar một ly B trừ, loại máu nhân tạo được Nhật Bản phát chế, anh ngửa cổ nốc cạn rồi liếm môi. Gần như ngay lập tức trông anh hồng hào hẳn. “Cuộc họp sao rồi cưng?” tôi hỏi. Bill đã ở Shreveport hầu như cả đêm hôm nay. “Anh sẽ kể cho em sau.” Tôi hy vọng những chuyện liên quan đến công việc của anh không quá bi thương như chuyện của Andy. “Được thôi. Em mong là anh sẽ giúp Portia dìu Andy ra xe cô ấy. Cô ấy đến kia kìa,” tôi nói, hất đầu về phía cửa. Đấy là lần đầu tiên tôi không thấy Portia vận bộ đồng phục váy công sở, sơ mi, áo khoác, tất dài cùng giày đế bệt. Portia đã thay quần jean xanh và một chiếc áo lạnh Sophie Newcomb nhàu nhĩ. Thân hình Portia to cao như người anh mình, nhưng cô có mái tóc màu hạt dẻ dài và dày. Chăm sóc cho mái tóc mình đẹp đẽ là một nét đặc trưng của bản thân mà Portia chưa muốn từ bỏ. Cô chỉ đưa mắt khắp đám đông om sòm chăm chăm tìm một thứ. “Ôi, anh ấy xỉn quá rồi, hay nhỉ,” cô thốt lên, thẩm định tình trạng ông anh trai của mình. Portia cố phớt lờ Bill, người đang làm cô thấy hết sức khó chịu. “Chuyện này không xảy ra thường xuyên đâu, nhưng nếu đã muốn uống thật là anh ấy sẽ uống quắc cần câu luôn.” “Portia này, Bill có thể dìu anh ấy ra ngoài xe giúp cô,” tôi nói. Andy cao và đậm người hơn Portia, rõ ràng là nặng quá sức cô em gái. “Tôi nghĩ mình có thể tự lo được,” Portia quả quyết với tôi, vẫn không thèm nhìn qua Bill, lúc này đang nhướn mày nhìn tôi. Thế là tôi để cô vòng tay qua người ông anh trai, cố nhấc anh ta ra khỏi ghế. Andy vẫn ì ra đó. Portia liếc nhìn quanh tìm Sam Merlotte, chủ quán bar, tuy anh này có vẻ ngoài nhỏ thó gầy gò nhưng thật ra lại rất khỏe. “Sam đang đi pha chế rượu cho một buổi tiệc kỷ niệm ở câu lạc bộ ngoại ô mất rồi,” tôi nói. “Tốt hơn hết là cứ để Bill giúp đi.” “Ừ thôi cũng được,” cô luật sư cứng nhắc đáp, mắt nhìn chăm chăm lên mặt gỗ quầy bar bóng loáng. “Cảm ơn rất nhiều.” Trong chớp mắt Bill đã xốc Andy lên đi ra phía cửa, mặc cho hai chân Andy cứ muốn nhũn như chi chi. Micah Tooten bật dậy mở cửa, để Bill có thể dìu Andy thẳng ra ngoài bãi đỗ xe. “Cảm ơn cô, Sookie,” Portia nói. “Tiền rượu anh ấy đã trả hết chưa?” Tôi gật đầu. “Được rồi,” cô nói, vỗ nhẹ tay xuống bàn để ra hiệu là cô về đây. Cô phải nghe hàng đống lời khuyên đầy thiện chí khi theo bước Bill ra khỏi cửa chính của quán Merlotte. Đó là lý do vì sao mà chiếc Buick cũ kỹ của thanh tra Andy Bellefleur lại đỗ trong bãi xe quán Merlotte suốt đêm đến tận ngày hôm sau. Sau này hẳn anh ta sẽ thề rằng dĩ nhiên không có ai trong chiếc Buick ấy khi mình bước ra khỏi xe đi vào quán. Hẳn anh ta cũng sẽ khai rằng trước đó do quá bận tâm về cơn hỗn loạn nội tâm nên đã quên khóa cửa. Đâu đó trong khoảng thời gian từ tám giờ tối, khi Andy bước vào quán Merlotte, đến mười giờ sáng hôm sau, khi tôi đến để giúp mở cửa tiệm, xe của Andy đã có thêm một hành khách mới. Người này chắc chắn sẽ gây ra một nỗi xấu hổ trầm trọng cho viên cảnh sát. Hắn đã chết. Đáng lẽ ra tôi không nên đến đây làm gì. Đêm trước tôi đã làm ca khuya, và nhẽ ra tối hôm sau tôi lại phải làm ca khuya nữa. Nhưng Bill đã yêu cầu tôi đổi ca với một đồng nghiệp khác, bởi anh cần tôi đi cùng đến Shreveport, và Sam đã không phản đối. Tôi đã nhờ chị bạn Arlene đổi ca với tôi. Hôm ấy là ngày nghỉ của chị, nhưng Arlene luôn muốn kiếm những món tiền boa hậu hĩnh hơn khi làm việc ca tối, nên chị đồng ý đến quán vào lúc năm giờ chiều. Kỳ thực, lẽ ra Andy đã phải đến lấy xe buổi sáng hôm đó, nhưng anh ta vẫn còn quá váng vất không đủ sức làm trò buộc Portia cho quá giang đến quán Merlotte, quán này thì không nằm trên đường tới đồn cảnh sát. Cô bảo buổi trưa sẽ đến đón anh ở chỗ làm, và cả hai sẽ dùng bữa ở quán. Sau đó thì anh ta có thể lấy xe. Thế nên chiếc Buick, cùng vị hành khách câm lặng của mình, đã phải chờ lâu hơn thời gian cần thiết mới được phát hiện. Tôi đã ngủ khoảng sáu tiếng đêm trước đó, nên cảm thấy trong người khá khỏe khoắn. Hẹn hò với ma cà rồng có thể sẽ làm khó cho sự cân bằng của bạn nếu bạn thực là người sống về ban ngày, như tôi đây này. Tôi giúp mọi người đóng cửa quán, rồi về nhà với Bill trước một giờ sáng. Hai chúng tôi cùng tắm trong bồn tắm nước nóng nhà anh, rồi làm vài chuyện khác nữa, nhưng tôi đã đi ngủ sau hai giờ một chút, và mãi đến gần chín giờ sáng mới thức dậy. Lúc đó thì Bill đã xuống lòng đất từ lâu rồi. Tôi uống thật nhiều nước, nước cam cùng một viên vitamin tổng hợp và một viên bổ sắt vào bữa sáng, đó là chế độ dinh dưỡng của tôi kể từ khi Bill bước vào đời tôi và mang theo (cùng với tình yêu, trò phiêu lưu, lẫn sự phấn khích) mối đe dọa triền miên của chứng thiếu máu. Thời tiết đang dần trở nên mát mẻ hơn, tạ ơn Chúa, khi tôi ngồi trước hiên nhà Bill, mặc áo len móc dài tay và chiếc quần dài màu đen mà chúng tôi vẫn mặc làm việc ở quán Merlotte mỗi khi trời quá lạnh không thể mặc quần soóc được. Chiếc áo sơ mi đánh gôn trắng của tôi có thêu chữ BAR MERLOTTE’S bên ngực trái. Khi đang đọc lướt qua tờ báo buổi sáng, một phần tâm trí khác của tôi giúp tôi nhận ra một thực tế rõ ràng là cỏ mọc không nhanh như trước kia. Có vẻ như một vài ngọn cỏ bắt đầu ngả màu dần. Tình trạng sân bóng trong trường trung học chắc hẳn sẽ khá xấu vào tối thứ Sáu tới đây. Mùa hè ở Louisiana cứ dùng dằng mãi không dứt, kể cả ở miền Bắc Louisiana cũng thế. Mùa thu đến rất miễn cưỡng, cứ như thể bất cứ lúc nào mùa thu cũng có thể bỏ cuộc để lại nhường chỗ cái nóng hầm hập của tháng Bảy vậy. Nhưng tôi vốn mẫn cảm, và có thể điểm mặt được những dấu hiệu của mùa thu vào buổi sáng hôm nay. Mùa thu và mùa đông đến có nghĩa là đêm được dài hơn, thời gian ở bên Bill được lâu hơn, và giấc ngủ được thêm vài giờ nữa. Nên tôi đi làm với tâm trạng vui vẻ. Khi thấy chiếc Buick vẫn còn đỗ một mình trước quán bar, tôi nhớ lại chầu rượu say bí tỉ bất thường của Andy tối qua. Phải thú thật rằng, tôi đã mỉm cười khi nghĩ đến cảm giác của anh ta sáng nay. Ngay khi chuẩn bị vòng xe ra đằng sau để đỗ xe cùng với những nhân viên khác, tôi nhác thấy cửa sau của xe Andy mở he hé. Nếu cứ để như vậy thì đèn trần chắc chắn sẽ sáng hoài, phải không nào? Và ắc quy xe anh ta sẽ cạn mất. Và chắc hẳn anh ta sẽ cáu điên lên, rồi phải vào trong quán bar mà gọi xe đến cẩu đi, hoặc nhờ ai đó làm nóng xe cho mình… nên tôi đỗ xe vào bãi rồi ra khỏi xe, cứ để máy nổ. Hóa ra đây lại là một sai lầm tai hại vì lạc quan quá mức. Tôi ẩy cánh cửa vào, nhưng nó chỉ nhích tới có một phân. Thế nên tôi tì cả người vào cánh cửa, nghĩ rằng nó sẽ dập khóa lại và tôi có thể đi làm việc khác. Nhưng một lần nữa, cánh cửa không chịu sập lại. Tôi sốt ruột giật toang cửa ra để xem thứ gì kẹt trong cửa xe. Một luồng hôi thối ùa tràn ra bãi đỗ xe, một mùi hôi thối chết chóc. Tôi nghẹn họng mất hết tinh thần, vì tôi chẳng xa lạ gì với mùi hôi thối ấy. Tôi thò đầu vào trong băng ghế sau của xe, tay bịt chặt miệng, dù rằng làm thế cũng chẳng ngăn được thứ mùi này. “Ôi, trời ơi,” tôi thì thào. “Ôi, chết tiệt.” Lafayette, tay bếp làm một ca ở quán Merlotte, đã bị nhồi vào ghế sau. Trần truồng. Chính bàn chân nhỏ màu nâu của Lafayette với những móng chân sơn màu mận chín đã ngăn không cho cánh cửa đóng sập lại, và chính cái xác của Lafayette đã tạo ra thứ mùi xóc cả óc đó. Tôi vội nhảy phắt ra sau, lẩy bẩy leo vào xe mình rồi lái vòng ra phía sau quán, bấm còi inh ỏi. Sam chạy ra từ phía cửa dành cho nhân viên, tạp dề cột quanh eo. Tôi tắt máy xe và lao bắn ra ngoài nhanh đến nỗi chính bản thân còn không nhận thức được mình đã ra khỏi xe, và tôi ôm choàng lấy anh như một chiếc tất tích điện. “Chuyện gì thế?” Tiếng Sam vang lên trong tai tôi. Tôi ngửa người ra sau ngước nhìn anh, chẳng phải ngước lên quá cao làm gì vì Sam hơi nhỏ con. Mái tóc vàng hoe hoe đỏ của anh lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sớm. Cặp mắt xanh biêng biếc đang mở to khiếp đảm. “Lafayette đó,” tôi nói, bắt đầu thút thít. Khóc lóc thì kỳ cục, ngớ ngẩn và vô tích sự thật, nhưng tôi không kìm lại được. “Anh ấy chết rồi, trong xe của Andy Bellefleur ấy.” Vòng tay của Sam siết chặt sau lưng tôi khi anh lại kéo tôi sát vào lòng. “Sookie, thật tiếc là em đã phải nhìn thấy cảnh ấy,” anh bảo. “Chúng ta sẽ gọi cảnh sát. Lafayette tội nghiệp.” Việc làm đầu bếp ở quán Merlotte không nhất thiết đòi hỏi tay nghề bếp núc cao siêu gì, vì Sam chỉ bán vài món sandwich và khoai tây chiên, nên vị trí này thay người luôn. Nhưng bất ngờ thay, Lafayette lại là người làm việc ở đây được lâu nhất. Lafayette là người đồng tính, đồng tính kiểu hoa hòe hoa hoét, kiểu trang-điểm-và-để-móng-tay-dài. Người dân miền Bắc Louisiana vẫn còn khó chấp nhận được chuyện này hơn dân ở New Orleans, nên tôi ngờ rằng Lafayette, một người da màu, đã phải hứng chịu khó khăn gấp đôi. Mặc cho - hay nhờ vào - những khó khăn đó, anh ấy vẫn luôn vui vẻ, lém lỉnh khôi hài, thông minh, và là đầu bếp giỏi thực thụ. Anh ấy đã chế một loại xốt đặc biệt để ướp hamburger, và người ta gọi món burger Lafayette khá thường xuyên. “Anh ấy có người thân nào ở đây không nhỉ?” tôi hỏi Sam. Chúng tôi tự giác rời nhau ra và rảo bước về phía tòa nhà, vào văn phòng của Sam. “Anh ấy có một tay anh em họ nào đó,” Sam vừa nói vừa nhấn 9-1-1. “Làm ơn đến quán Merlotte trên đường Hummingbird ngay,” anh nói với người trực tổng đài. “Có một xác chết đàn ông trong xe ở đây. Phải, trong bãi đỗ xe, ngay trước cửa quán. À, chị cũng làm ơn báo cho Andy Bellefleur đi. Xe của anh ta đấy.” Từ chỗ đang đứng, tôi có thể nghe thấy tiếng trả lời bai bải ở phía đầu dây bên kia. Danielle Gray và Holly Cleary, hai phục vụ bàn ca sáng, bước vào qua cửa sau, cười hô hố. Hai cô này đều đã ly dị lúc hai lăm hai sáu tuổi, là bạn với nhau từ thuở thiếu thời, có vẻ như đều khá hài lòng với công việc này miễn là được làm việc cùng nhau. Holly có một cậu con trai năm tuổi đang học mẫu giáo, còn Danielle có một cô con gái bảy tuổi và một cậu con trai chưa đến tuổi đi học để ở nhà cho bà trông khi cô ấy đến quán Merlotte làm việc. Tôi chẳng bao giờ gần gũi được với hai người phụ nữ này - dù rằng họ cũng sàn sàn tuổi tôi - bởi họ luôn chăm chắm quan tâm tới nhau mà thôi. “Có chuyện gì vậy?” Danielle hỏi khi cô ta nhìn thấy mặt tôi. Khuôn mặt choắt và đầy tàn nhang của cô ta lập tức trở nên lo lắng. “Sao xe của Andy ở trước cửa quán vậy?” Holly hỏi. Có thời cô ấy đã cặp kè với Andy Bellefleur, tôi chợt nhớ ra. Holly có mái tóc vàng tém ngắn lòa xòa quanh mặt như những cánh hoa cúc dại héo rũ, và làn da đẹp nhất mà tôi từng thấy. “Anh ta ngủ qua đêm trong xe à?” “Không phải,” tôi đáp, “mà là người khác kia.” “Ai?” “Lafayette ở trong xe.” “Andy để một tay lập dị da đen ngủ trong xe của mình sao?” Câu này của Holly, người khi nào cũng thẳng thừng vô duyên. “Chuyện gì đã xảy ra với anh ta thế?” Câu này của Danielle, người thông minh hơn trong hai cô. “Tụi này không biết nữa,” Sam đáp. “Cảnh sát đang trên đường đến đây.” “Ý anh là,” Danielle nói, thật chậm rãi từng chữ một, “anh ta đã chết.” “Phải,” tôi bảo cô ta. “Đó chính xác là ý của tụi này.” “Này, một giờ nữa là chúng ta phải mở cửa rồi,” Holly chống tay lên bờ hông tròn trịa của mình. “Chúng ta sẽ xử lý chuyện này ra sao đây? Nếu cảnh sát cho chúng ta mở cửa, ai sẽ làm bếp chứ? Mọi người vào quán, họ sẽ muốn dùng bữa trưa.” “Tốt hơn là cứ chuẩn bị sẵn sàng đi, để đề phòng thôi,” Sam nói. “Dù tôi đang nghĩ là mãi đến chiều mình mới được phép mở cửa kia.” Anh vào văn phòng để bắt đầu gọi cho mấy tay đầu bếp thay thế. Thật lạ lẫm khi phải làm những việc chuẩn bị thường ngày trước khi mở cửa quán, cứ như thể Lafayette sẽ đi vào bất cứ lúc nào cùng một câu chuyện về buổi tiệc nào đó mà anh ấy đã tham dự, như mới vài ngày trước đây anh cũng đã đi vào như thế. Tiếng còi hụ của xe cảnh sát vang vọng từ con đường chạy ngang qua trước quán Merlotte. Tiếng bánh xe nghiến lạo xạo trên bãi xe rải sỏi của Sam. Đến khi chúng tôi hạ hết ghế xuống, bày biện bàn ăn, cuộn thêm vài bộ dao nĩa dự phòng vào khăn ăn để sẵn sàng thay thế cho những bộ dao nĩa đã được dùng đến, thì cảnh sát bước vào. Quán Merlotte nằm ngoài phạm vi thị trấn, nên viên cảnh sát trưởng địa phương, Bud Dearborn, sẽ đảm trách vụ này. Bud Dearborn là một người bạn rất thân của ba tôi trước kia, giờ đây mái tóc đã điểm bạc. Ông có khuôn mặt bèn bẹt, như người mang mặt chó Bắc Kinh, và đôi mắt nâu mờ đục. Khi ông bước vào cửa trước quán, tôi nhận ra Bud vẫn còn đang đi đôi bốt nặng nề và đội chiếc mũ lưỡi trai đội bóng Saints. Chắc hẳn ông bị gọi đến khi vẫn đang làm việc ngoài nông trại. Bud đi cùng Alcee Beck, viên thanh tra da màu duy nhất trong lực lượng cảnh sát địa phương. Da Alcee đen đến nỗi chiếc sơ mi trắng của anh ta sáng lóa lên vì tương phản. Chiếc cà vạt được thắt ngay ngắn, bộ vét hết sức chỉnh tề. Còn đôi giày da thì được đánh bóng loáng lấp lánh. Bud và Alcee thay phiên nhau coi quản trong vùng… ít nhất thì cũng có vài người quan trọng hơn để giữ cho khu vực này còn hoạt động. Mike Spencer, giám đốc công ty mai táng kiêm nhân viên pháp y của địa phương, cũng là người có vai vế trong địa phương, là bạn thân của Bud. Tôi sẵn sàng đánh cuộc rằng lúc này Mike đã ra ngoài bãi xe, tuyên bố Lafayette tội nghiệp đã chết. Bud Dearborn hỏi, “Ai là người phát hiện ra cái xác?” “Tôi đây.” Bud và Alcee liếc nhìn nhau đầy ẩn ý và bước về phía tôi. “Sam à, bọn tôi mượn văn phòng của cậu được chứ?” Bud hỏi. Không cần đợi Sam trả lời, ông ta hất đầu ra dấu cho tôi đi vào. “Chắc chắn rồi, thẳng vào trong ấy đấy,” ông chủ của tôi đáp khô khốc. “Em ổn chứ, Sookie?” “Không sao đâu mà, Sam.” Tôi không chắc điều này có thật hay không, nhưng Sam có phản ứng kiểu gì với cái yêu cầu này thì cũng gặp rắc rối hết, vô ích thôi. Mặc dù Bud ra dấu cho tôi ngồi xuống, tôi lắc đầu khi ông ta và Alcee an vị trên hai cái ghế trong văn phòng. Bud, tất nhiên là ngồi trên cái ghế to bành của Sam, còn Alcee thì giành lấy chiếc ghế phụ vẫn còn ngon, chiếc ghế vẫn còn lại chút ít nệm lót ấy. “Kể cho chúng tôi nghe về lần cuối cùng cô gặp Lafayette còn sống đi,” Bud gợi ý. Tôi suy nghĩ. “Anh ấy không làm việc tối qua,” tôi nói. “Mà là Anthony. Anthony Bolivar.” “Ai thế nhỉ?” Vầng trán rộng của Alcee nhăn lại. “Không nhận ra cái tên đó.” “Anh ta là bạn của Bill. Anh ta đang lang bạt qua vùng này, và cần một công việc. Anh ta có kinh nghiệm.” Anh ta đã làm việc tại quán ăn trong thời kỳ Đại Khủng hoảng. “Ý cô là tay đầu bếp tạm thời ở đây là một ma cà rồng? “Thì sao chứ?” tôi hỏi lại, khóe miệng cong lên ương bướng, lông mày nhíu lại, và tôi biết rằng khuôn mặt mình đang dần toát lên vẻ giận dữ. Tôi đang cố hết sức để không phải đọc tâm trí của họ, cố bằng mọi giá để hoàn toàn không thông tâm gì cả, nhưng việc này không dễ dàng. Bud Dearborn thì thường thường thôi, nhưng Alcee thì phóng suy nghĩ ra cứ như kiểu ngọn hải đăng truyền phát tín hiệu vậy. Ngay lúc này đây anh ta đang tỏ vẻ ghê tởm và kinh sợ. Trong thời gian trước khi gặp Bill, và nhận ra anh quý trọng khiếm khuyết của tôi - là tài năng, như cách anh nhìn nhận - tôi đã cố hết sức để dối gạt bản thân và lừa phỉnh mọi người rằng tôi thực sự không biết “đọc” tâm trí. Nhưng kể từ khi Bill giải thoát tôi khỏi lao tù nhỏ bé mà tôi tự xây lên cho bản thân, thì tôi đã thực tập và trải nghiệm, trong sự khuyến khích của Bill. Vì anh, tôi đã mô tả thành lời những thứ mà mình đã và đang cảm nhận suốt hàng mấy năm trời. Có vài người gửi đi những thông điệp hết sức mạnh mẽ, rõ ràng, như Alcee đây. Còn đâu thì hầu hết mọi người lúc này lúc khác, như Bud Dearborn vậy. Theo như những gì tôi biết thì chuyện này phụ thuộc rất nhiều vào việc cảm xúc của họ mãnh liệt đến đâu, mức độ tỉnh táo của họ ra sao, thời tiết như thế nào. Còn có vài người thì kín như bưng đến nỗi gần như không thể biết được họ đang nghĩ gì. Có lẽ tôi có thể đọc được tâm trạng của họ, nhưng tất cả chỉ có vậy. Tôi đã thừa nhận rằng nếu được chạm vào người khác khi cố đọc tâm trí họ, thì bức tranh trở nên sáng sủa hơn - như sử dụng đường truyền cáp sau khi dùng ăng ten ấy. Và tôi cũng phát hiện ra rằng nếu mình “gửi” những hình ảnh thư giãn cho người ta, thì tôi có thể len lỏi vào tâm trí của họ dễ như bỡn. Tôi thì không muốn thâm nhập vào suy nghĩ của Alcee Beck chút nào. Nhưng tôi đang hoàn toàn miễn cưỡng đón nhận bức tranh toàn cảnh về phản ứng mê tín đến độ cực đoan của Alcee khi anh ta nhận ra có một ma cà rồng làm việc ở quán Merlotte, về nỗi khiếp sợ của anh ta khi phát hiện ra tôi là người phụ nữ mà anh ta đã nghe nói đang hẹn hò với ma cà rồng, về lời kết tội từ trong sâu thẳm của anh ta cho rằng tên đồng tính công khai Lafayette là một nỗi ô nhục cho cộng đồng người da màu. Alcee đoán rằng ai đó hẳn là muốn chơi khăm Andy Bellefleur, khi tống xác của một gã đồng tính da màu vào xe của Andy. Alcee đang băn khoăn không rõ Lafayette có bị nhiễm AIDS không, rồi liệu làm sao đấy mà con virút ấy có thấm vào ghế xe Andy và cứ tồn tại ở đó không. Alcee sẽ bán xe ngay, nếu đó là xe của anh ta. Nếu chạm vào Alcee, hẳn là tôi sẽ biết được luôn cả số điện thoại và cỡ áo ngực của vợ anh ta nữa. Bud Dearborn nhìn tôi kỳ kỳ. “Chú vừa nói gì ạ?” tôi hỏi. “Phải. Ta thắc mắc không biết cháu có gặp Lafayette ở đây suốt tối qua không. Anh ta có ghé vào quán uống ẩm gì chăng?” “Cháu chẳng bao giờ gặp anh ấy ở đây cả.” Ngẫm lại chuyện này, thì tôi chẳng bao giờ thấy Lafayette uống rượu. Lần đầu tiên, tôi mới nhận ra rằng mặc dù đám người đến ăn trưa có cả người da màu và người da trắng, nhưng những vị khách đến quán buổi tối hầu như rặt là người da trắng. “Anh ta hay tụ tập ở đâu?” “Cháu chịu.” Tất cả những câu chuyện Lafayette kể đều được thay đổi tên họ để bảo vệ danh tính những người vô tội. À ừ, thực ra, là những kẻ có tội thì đúng hơn. “Lần cuối cùng cháu gặp anh ta là khi nào?” “Đã chết, nằm trong xe.” Bud cáu kỉnh lắc đầu. “Lúc còn sống cơ, Sookie à.” “Hừmm, cháu nghĩ là… cách đây ba ngày. Anh ấy vẫn ở đây khi cháu đến làm ca của mình, và bọn cháu chào nhau. À, anh ấy có kể cho cháu nghe về một buổi tiệc mà mình đã đến dự.” Tôi cố nhớ lại chính xác những lời của anh. “Anh ấy bảo đã đến một ngôi nhà nơi diễn ra đủ kiểu làm tình hoang đàng trụy lạc.” Hai người đàn ông há hốc nhìn tôi. “Vâng, anh ấy đã bảo thế đấy! Cháu cũng không biết chuyện đó có bao nhiêu phần sự thật.” Tôi hình dung ra khuôn mặt của Lafayette khi anh ta kể tôi nghe chuyện này, cái cách anh ta điệu đà đặt ngón tay ngang môi ngụ ý rằng anh ta sẽ không nói cho tôi biết bất kể cái tên hay địa điểm nào cả. “Cháu không nghĩ là người khác phải biết chuyện này à?” Bud Dearborn trông bàng hoàng. “Đó là một bữa tiệc riêng tư. Sao cháu phải kể cho người khác chứ?” Nhưng kiểu tiệc tùng như thế không được phép diễn ra trong địa phận của hai người này. Hai người đàn ông vẫn chằm chằm nhìn tôi. Bud hỏi qua kẽ răng, “Lafayette có kể cho cháu nghe gì về chuyện sử dụng ma túy trong buổi gặp gỡ ấy không?” “Không, theo cháu nhớ thì không.” “Bữa tiệc đó được tổ chức ở nhà người da trắng hay người da đen?” “Da trắng,” tôi đáp, rồi lại ước gì mình đã lấy cớ không biết. Nhưng Lafayette đã thật sự ấn tượng với ngôi nhà - mặc dù không phải vì căn nhà mỹ miều hay to lớn gì. Thế sao anh ấy bị ấn tượng đến thế? Tôi không chắc Lafayette sẽ thấy ấn tượng với những thứ gì, anh đã sinh ra, lớn lên và mãi đến bây giờ vẫn trong cảnh nghèo khó, nhưng tôi chắc chắn rằng anh ấy đã kể về nhà của một người da trắng nào đó, vì anh ấy có nói, “Tất cả ảnh trên tường đều chụp những người trắng như hoa huệ và mỉm cười như cá sấu.” Tôi không kể lời nhận xét đó ra cho đám cảnh sát, và họ cũng không hỏi gì thêm. Rời khỏi văn phòng của Sam, sau khi giải thích lý do trên hết vì sao xe của Andy lại ở trong bãi xe, tôi trở ra đứng sau quầy. Tôi không muốn quan sát những gì đang diễn ra ở bãi đỗ xe, và chẳng có khách hàng nào để phục vụ cả, vì mọi lối vào bãi đỗ xe đã bị cảnh sát chặn hết rồi. Sam đang sắp xếp những chai rượu đằng sau quầy, vừa đi vừa phủi bụi chúng, còn Holly và Danielle đã ngồi phịch xuống một bàn ở khu vực hút thuốc để Danielle có thể hút một điếu. “Mọi chuyện thế nào?” Sam hỏi. “Cũng chẳng có gì nhiều. Họ không thích nghe chuyện Anthony làm việc ở đây, và họ cũng không ưa những gì em kể về bữa tiệc mà Lafayette cứ lải nhải hôm trước ấy. Anh có nghe thấy anh ấy kể với em không? Cái vụ làm tình tập thể ấy?” “Có, anh ta cũng kể mấy chuyện đó với anh nữa. Buổi tối hôm đó với anh ta hẳn là đã lắm. Nếu quả thật là có bữa tiệc kiểu đó.” “Anh nghĩ rằng Lafayette bịa chuyện sao?” “Anh không nghĩ ở Bon Temps lại có nhiều buổi tiệc kiểu tạp chủng, lưỡng tính thế đâu,” anh đáp. “Nhưng đó chẳng qua là vì không có ai mời anh cả thôi,” tôi nói thẳng ra. Tôi băn khoăn không hiểu liệu mình có biết tí gì về những chuyện diễn ra nơi thị trấn nhỏ bé này không. So ra với tất cả mọi người ở Bon Temps thì tôi phải là người biết rõ mọi thứ từ trong ra ngoài, vì mọi thông tin ít nhiều gì cũng sẵn ra đấy, nếu tôi muốn bới móc tìm hiểu, “Ít nhất thì, theo em đây là lý do chứ nhỉ?” “Ừ đấy là lý do đấy,” Sam đáp, khẽ mỉm cười với tôi trong lúc chùi một chai whiskey. “Em nghĩ thiệp mời của em cũng bị thất lạc ở bên bưu điện mất rồi.” “Em có nghĩ rằng Lafayette trở lại đây tối hôm qua là để kể cho anh hoặc em nghe về bữa tiệc đó không?” Tôi nhún vai. “Có lẽ anh ta chỉ hẹn gặp ai đó ở bãi đỗ xe thôi. Dù sao thì, ai cũng biết quán Merlotte ở đâu mà. Mà anh ấy đã lấy lương chưa?” Đã cuối tuần rồi, thường thì đây là lúc Sam trả tiền cho bọn tôi. “Chưa. Có lẽ anh ấy đến cũng vì chuyện đó, nhưng anh định hôm sau mới đưa cho anh ta. Hôm nay này.” “Em thắc mắc không biết ai đã mời Lafayette đi dự tiệc.” “Câu hỏi hay đấy.” “Anh không nghĩ rằng anh ta ngu đến nỗi cố tống tiền ai đó chứ nhỉ?” Sam cọ cọ lớp gỗ giả trên mặt quầy bằng một chiếc giẻ sạch. Quầy đã sạch bóng lên rồi, nhưng anh vẫn cứ thích luôn chân luôn tay, tôi nhận thấy thế. “Anh không nghĩ vậy,” anh nói sau một hồi suy nghĩ. “Không thể nào, họ hẳn đã chọn nhầm người rồi. Em biết Lafayette tám đến cỡ nào mà. Anh ta không chỉ kể cho chúng ta nghe việc mình đi đến một buổi tiệc như thế - anh dám cá là anh ta không được phép kể - mà còn muốn lợi dụng buổi tiệc để làm tiếp những chuyện mà mấy người khác, à ừ, mấy người tham gia ấy, sẽ phải khó chịu.” “Kiểu như là, giữ liên lạc với những người cũng từng tham gia bữa tiệc ấy? Nháy mắt đưa tình với họ ở chốn đông người?” “Đại loại như thế.” “Em nghĩ rằng nếu ta có làm tình với ai đó, hoặc xem họ làm tình với nhau, ta sẽ cảm thấy rằng mình ngang hàng với họ.” Tôi không quả quyết lắm khi nói ra điều này, vì không có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực ấy lắm, nhưng Sam lại đang gật gù. “Điều Lafayette mong muốn nhất là được mọi người chấp nhận bản chất con người mình,” anh nói, và tôi buộc phải đồng ý. Mời các bạn đón đọc Ma Cà Rồng Ở Dallas của tác giả Charlaine Harris & Thiện Hoàn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đại Việt Truyền Kỳ - Ôm Anh Từ Phía Sau
Nơi mà các ngươi vẫn sống gọi là Trái Đất, thuộc hệ Mặt Trời, nằm trong dải Ngân Hà, thế nhưng đó chỉ là một ngân hà bé nhỏ nằm trong Đại Thiên Hà - Thái Bình Thiên Hà. Vậy mới nói, đối với Thái Bình Thiên Hà bao la thì Trái Đất chỉ như một hạt cát nằm trong sa mạc, hằng hà vô số. Vậy cũng chưa hết, ngoài Thái Bình Thiên Hà còn tồn tại mười bảy Đại Thiên Hà khác. Đại Thiên Hà rộng lớn, và người đứng đầu mỗi Đại Thiên Hà được gọi là Đại Đế. Nhân vật chính của chúng ta tên Phạm Văn Long, hắn xuất thân từ nước Việt... *** Tại khu vực phía nam tầng thứ hai Thông Thiên Tháp, thân ảnh Phạm Văn Long vẫn kiên trì bước tới. Hiện tại tốc độ của hắn không còn giữ được như ban đầu nữa, càng tiến về phía trước càng chậm. Tuy nhiên, khoảng cách với Băng Hải Đảo xem chừng cũng không còn bao xa. - Cẩn thận! Một âm thanh như sấm nổ ngang trời, vang vọng khắp trong đại não làm Phạm Văn Long hết hồn, dừng ngay lại. - Sư phụ, có chuyện gì thế? Phạm Văn Long tức thì nhận ra tiếng của lão Kim, nghi hoặc hỏi lại. - Nhóc con, nhìn cho kỹ không gian phía trước đi. Nghe câu trả lời không đầu không đuôi của lão Kim, Phạm Văn Long vội vặn hỏi thêm vài câu. Thế nhưng, lão Kim giống như chưa từng lên tiếng, dù hắn có kêu gọi thế nào cũng im bặt. ... Mời các bạn đón đọc Đại Việt Truyền Kỳ của tác giả Ôm Anh Từ Phía Sau.
Thiên Hiệp Tình - Bình Đạm Nhất Thiên
Nếu nói " Đại Bi Tịnh Thế chú" là võ học tà ác nhất thiên hạ, cũng là lời nói dối rất thiện ý rồi. Nó có thể giúp cho tâm trí người tu luyện hướng thiện, và nó cũng làm cho người luôn truy cầu sự tà ác tạo nên một cuộc phong ba chốn võ lâm. Võ lâm tương truyền rằng năm đó một vị hiệp sĩ áo trắng vì nó phá bảy môn phái, giết lùi ma giáo. Mặc kệ tốt xấu ra sao, hiệp sĩ áo trắng có phải vì truy cầu vị trí võ học trí tôn hay không. Triều đình muốn phái Thiên Kiếp, người mạnh nhất thiên hạ, đến tiêu diệt hắn ta. Thế nhưng, tìm mãi không được, cho nên hoàng đế chỉ có thể vẫn phái ra một ông lão thần bí, cùng hắn quyết chiến trên đỉnh núi Ngũ Nhạc. Về sau, trước khi lâm chung lão hoàng đế đã giao phó cho con của hắn là Nguyên Khánh, phải tìm Thiên Kiếp để ổn định võ lâm, để Hoàng triều mãi mãi lưu truyền. Cùng lúc ấy, trong một ngôi chùa ở sơn thôn, một hòa thượng lười biếng đang ngồi trước mặt Phật tổ trong đại điện vừa ngáp vừa niệm A Di Đà Phật , thỉnh thoảng lại nhớ về các ni cô xinh đẹp vừa gặp hôm qua... *** Tự cho là phong lưu, gia tộc này không gì không làm được. Nhưng hôm nay gặp được Cảnh Thanh, bị cái khí chất kia hấp dẫn, trong lòng âm thầm hạ quyết định nếu không phải Cảnh Thanh thì sẽ không cưới. Một giây trôi qua, lão giả ở bên trong bước ra nói: "Bốn vị, lão hủ bất tài, trong nhà có chút việc nên chậm trễ." Bốn người ngồi dậy, cùng cung kính nói: "Diệp tướng quân khách khí rồi." Ấn Thiên trước tiên khách sáo nói: "Lần đầu Diệp tướng quân đến bảo địa, quả thật là tình thế bất đắc dĩ mới phải quấy rầy lão nhân gia người." Diệp Đỉnh Thiên bấm đốt ngón tay cười nói: "Bốn vị đại hiệp có chuyện gì tìm đến lão phu?" Ấn Thiên lại chắp tay nói: "Diệp tướng quân, lần này triều đình phái bốn người bọn ta đến truy tìm Thiên Kiếp." Diệp Đỉnh Thiên trong lòng bất giác dâng lên tức giận: "Thiên Kiếp thần bí, lão phu ta chưa bao giờ nhìn thấy bộ mặt thật của hắn." Bốn người cau mày suy tư. Lúc này trong lòng Diệp Đỉnh Thiên thầm nghĩ tại sao lại là Thiên Kiếp, chẳng lẽ trong thiên hạ không có nổi một người nâng được toàn bộ võ lâm sao? Đợi lão phu luyện thành Âm Dương Điển Tịch, việc đầu tiên làm là giết chết Thiên Kiếp! Diệp Đỉnh Tâm khôi phục lại tinh thần, hàm súc nói: "Bốn vị đại hiệp đường xa đến, để lão phu chiêu đãi mấy vị thật tốt." ... Mời các bạn đón đọc Thiên Hiệp Tình của tác giả Bình Đạm Nhất Thiên.
Hiệp Hội Bảo Vệ Nhẫn - J. R. R. Tolkien
• Cuốn sách này được NXB Hội Nhà Văn chia làm bảy tập, từ 6 đến 12. Ebolic gộp lại thành một khi chế bản ebook, năm tập sách trước thuộc dự án Ebolic #32 Người Hobbit. Mục lục được chia lại theo từng tập. Bìa mỗi tập được chèn ở đầu chương lớn, bìa ở đầu tác phẩm do chúng tôi thiết kế. • Tất cả lỗi dịch sai, lỗi chính tả, viết sai tên, cách trình bày dấu câu, trình bày đoạn văn, hình minh họa bị thiếu đều được chúng tôi sửa lại và bổ sung, đối chiếu nguyên tác The Fellowship of the Ring. • Chú thích đề Tornad là của người làm ebook; chú thích không đề gì là của dịch giả Nguyễn Nam. Phần Phụ lục I trình bày lại từ mục Câu lạc bộ ở cuối mỗi tập. Phụ lục II là sản phẩm của Ebolic sáng tác và thêm vào. • Để giữ mức độ trung thành nhất có thể với bản in, Ebolic chỉ sửa những lỗi dịch sai từ vựng sao cho vẫn mang văn phong cũ, còn những lỗi sai cả câu văn và đoạn văn thì chúng tôi không sửa. Tinh thần của bản gốc là dịch nhân danh và địa danh, bản dịch này không làm thế, nhưng chúng tôi cũng không dịch lại. Do đó cuốn sách này không mang đến sự chính xác tuyệt đối về thế giới Trung Địa và tinh thần tác phẩm đến cho bạn đọc. Chúng tôi khuyến cáo chỉ nên coi cuốn sách này như một bản dịch tham khảo. Cuốn thứ 5: Kẻ trộm trong đêm đã kết thúc phần đầu của bộ sử thi Chúa Tể những Chiếc Nhẫn – Người Hobbit. Chúng ta sẽ chia tay với Bilbo Baggins nơi đây (trong tập 6 này), chia tay với nhà thám hiểm đầu tiên của những người Hobbit, một con người tuy nhỏ bé nhưng can đảm, mưu trí và có một ý chí quả cảm không gì lay chuyển được. Cuốn Người Hobbit của giáo sư J. R. R Tolkien vẫn được coi như phần dẫn truyện của bộ sử thi Chúa Tể những Chiếc Nhẫn. Những tình tiết trong câu chuyện đã giúp bạn đọc làm quen với vùng Trung Địa trong Niên Đại Thứ Ba, làm quen với những cư dân chính của vùng đất diệu kỳ này: những người Elf vui tính và cuồng nhiệt, những người Dwarf tham vàng nhưng không thiếu lòng can đảm, bọn Goblin tàn độc… và cả với những người Hobbit tuy nhỏ bé nhưng có một ý chí quả cảm đáng khâm phục. Tuy nhiên câu chuyện vẫn để mở, bạn chắc vẫn còn nhớ lời của Gandalf khi gặp lại Bilbo trong tập 5: “Không lẽ anh bạn lại cho rằng ngần đó lần tai qua nạn khỏi, lại chỉ trông cậy vào vận may kỳ lạ thôi ư? Anh là một người tuyệt diệu, anh bạn Baggins, và ta rất tự hào về anh đấy, nhưng dẫu sao anh cũng chỉ là một anh chàng bé nhỏ trong cả cái thế giới lớn lao này!” Bilbo có thể không hay, nhưng những con người thông thái và hùng mạnh như Elrond vẫn ý thức được sức mạnh của Cái Ác. Khi nghe về ước vọng xua đuổi Necromancer ra khỏi Trung Địa, Elrond đáp: “Như thế thì tuyệt diệu,” Elrond nói. “Nhưng tôi sợ là chuyện đó sẽ không xảy ra trong Niên Kỷ này, và cả nhiều Niên Kỷ tiếp sau nữa.” Hơn ai hết, chính Elrond cũng là một nạn nhân của Sauron – Chúa Tể Hắc Ám. Sau một trận chiến trong Niên Kỷ Thứ Hai, Elrond đã phải náu mình về thung lũng thần tiên Rivendell. Và dù cho Sauron đã bị đánh bại vào cuối Niên Kỷ Thứ Hai, Chiếc Nhẫn Quyền Uy của hắn bị chặt đứt cùng cánh tay trong Trận Chiến Cuối Cùng, hắn vẫn náu mình dưới cái tên Necromancer, và âm thầm chiêu binh mãi mã dưới bóng toà lâu đài đen của xứ sở Mordor. Và nay, hoàn toàn tình cờ, một người Hobbit (Chúa Tể Hắc Ám đâu thèm biết tới tộc người nhỏ bé này) đã tìm ra Chiếc Nhẫn. Hắn đã được biết tin này, và nếu có được Chiếc Nhẫn trong tay, hắn lại trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, hắn sẽ đủ sức mạnh để biến cả thế giới thành nô lệ. Những kẻ thù của Chúa Tể Hắc Ám đã chia rẽ và không còn mạnh như trước nữa, còn chính hắn, nung nấu căm thù, đã trở nên quyết liệt hơn bao giờ hết. Lối thoát duy nhất của những người Hobbit và những tộc người khác là tìm cách ngăn chặn hắn đoạt lại được Chiếc Nhẫn Tối Thượng. Đó là khởi đầu bộ Hiệp Hội bảo vệ Nhẫn. *** John Ronald Reuel Tolkien sinh năm 1892 tại Bloemfontein, Nam Phi. Ký ức thời thơ ấu của ông luôn gắn liền với thành phố này và trang trại của gia đình. Cha chết sớm do thấp khớp, ông cùng mẹ và em trai quay về Anh Quốc. Gia đình ông sống tại Anh trong cảnh nhà không dư dả. Niềm vui lớn của Tolkien lúc này là đọc sách. Những tác gia lớn của Anh thời đó như H. G. Wells, G. K. Chesterton rất được ông ngưỡng mộ. Năm 16 tuổi, ông đã có được học bổng của Đại học Oxford danh tiếng. Trong suốt cuộc đời mình, Tolkien luôn có một niềm đam mê ám ảnh, đó là niềm say mê ngôn ngữ, nhất là những ngôn ngữ cổ. Ông nhuần nhuyễn trong những sử thi Iceland, Na Uy, Phần Lan. Ngay tên một số nhân vật như những người Dwarf trong cuốn Người Hobbit này cũng được mượn từ Sử thi Bắc Âu. Thorin Khiên Sồi vốn chẳng phải ai xa lạ, mà chính là Thần Thor của những người Viking đấy. Năm 1914, Thế Chiến Thứ Nhất nổ ra, Tolkien gia nhập quân ngũ với vai trò một sỹ quan tại Trận Somme, nơi ông đã chứng kiến sự hy sinh của bao bạn hữu. Ông bị thương năm 1917 và được đưa về hậu cứ. Không khi nào Tolkien có dịp ra tiền tuyến nữa. Năm 1925, cùng một số đồng nghiêp, ông cho công bố bản dịch Lãnh chúa Gawain và Hiệp sĩ xanh. Tác phẩm có tiếng vang lớn, và Tolkien được mời làm giáo sư ngôn ngữ của Đại học Oxford. Người Hobbit – tập sách đã làm Tolkien nổi tiếng ra đời năm 1936. Ông bắt đầu viết tập sách này khi đang chấm một bài thi quá tệ của sinh viên. Cuốn sách khi viết xong đã được gửi cho NXB Unwin. Thật thú vị, người chấp thuận cho cuốn sách được in lại là cậu con trai mười tuổi của ông chủ NXB. Nhanh chóng, Người Hobbit trở thành bestseller và mang lại danh vọng cho Giáo sư Tolkien. Cùng với C. S. Lewis, tác giả Alice ở xứ sở diệu kỳ, một giáo sư đồng nghiệp, Tolkien gia nhập nhóm Inklings, một nhóm sáng tác nổi tiếng lúc này.  Cũng như những người Hobbit của mình, Tolkien hiếm khi nào rời tẩu thuốc. Ông cũng thích đố chữ, thích ngủ trễ như anh chàng Bilbo Baggins hiền lành. Và bạn hãy nhìn xem, ngôi nhà của ông bà Tolkien đây liệu có giống cái lỗ của những người Hobbit? Cuối những năm 30, ông đặt bút viết tiếp 3 tập tiếp theo của Chúa Tể những chiếc Nhẫn. Chiến tranh thế giới thứ hai, cùng những ảnh hưởng của thời kỳ đen tối này đã buộc Tolkien ngẫm nghĩ lại nhiều điều, và tác phẩm chỉ ra mắt độc giả vào năm 1953. Cậu con trai mười tuổi khi nào của NXB Unwin, nay đã trưởng thành, một lần nữa là người ấn hành tác phẩm của Tolkien. Chúa Tể những chiếc Nhẫn được in thành 3 phần, và là một trong những cuốn sách được ưa chuộng nhất trong mọi thời đại. Danh tiếng và sự giàu có vừa là sự hài lòng, vừa là nỗi khổ của Tolkien. Tuy nhiên, ông chấp nhận sự nổi tiếng này và luôn phải bận rộn với việc quan tâm của công chúng ái mộ. Bà Edith vợ ông qua đời năm 1971. Mất mát này giáo sư Tolkien không chịu nổi; ông đau đớn suốt hai năm ròng và qua đời năm 1973, ngày mùng hai tháng Chín. *** Khi ông Bilbo Baggins ở Bag End thông báo rằng nay mai ông sẽ ăn mừng sinh nhật thứ một trăm mười một của mình bằng một buổi liên hoan đặc biệt hoành tráng, thì có rất nhiều xôn xao bàn tán và phấn khích ở Hobbiton. Bilbo rất giàu và rất lập dị, và đã là kỳ quan của xứ Shire1 suốt sáu mươi năm, kể từ vụ biến mất kỳ lạ và lần trở về bất ngờ của ông ta. Những của cải ông mang về sau những chuyến du hành giờ đã trở thành một truyền thuyết trong vùng, dư luận chung tin rằng, bất kể những bố già có nói gì, là Vùng Đồi ở Bag End chằng chịt những đường hầm chứa đầy kho báu. Và nếu thế chưa đủ lừng danh thì vẫn còn sự khang kiện kéo dài của ông ta để mọi người phải thán phục. Thời gian cứ trôi qua nhưng có vẻ nó chả ảnh hưởng gì đến ông Baggins. Ở tuổi chín mươi chín, họ bắt đầu gọi ông ta là được bảo quản tốt, nhưng chữ không thay đổi chắc là gần với sự thật hơn. Có một số người đã lắc đầu và nghĩ sao mà một ai đó sở hữu (một cách hiển nhiên) cả tuổi trẻ lâu dài cũng như (theo ước đoán) sự giàu có vô tận. “Cái này sẽ phải trả giá,” họ nói. “Thế là trái tự nhiên, rồi nó sẽ đẻ ra rắc rối cho coi!” Nhưng tới nay thì vẫn chưa thấy có rắc rối gì, và vì ông Baggins hào phóng với tiền bạc của mình, nên hầu hết mọi người sẵn lòng tha thứ cho cả những điều kỳ quái lẫn cái tài sản khổng lồ của ông. Ông ta vẫn đi lại với họ hàng (dĩ nhiên là ngoại trừ nhà Sackville-Baggins), và ông ta có rất nhiều kẻ hâm mộ tận tình trong đám Hobbit thuộc những gia đình nghèo khổ và không địa vị. Nhưng ông ta không có bạn thân, cho đến khi đám em út trong họ ít tuổi hơn bắt đầu lớn lên. Người lớn nhất trong số này, và được Bilbo ưa thích là anh chàng Frodo Baggins2. Khi Bilbo chín mươi chín, ông ta chọn Frodo làm kẻ thừa kế và đem anh về sống ở Bag End; và mọi hy vọng của nhà Sackville-Baggins sau cùng đã tan nát. Bilbo và Frodo tình cờ lại có cùng ngày sinh, 22 tháng Chín. ... Mời các bạn đón đọc Hiệp Hội Bảo Vệ Nhẫn của tác giả J. R. R. Tolkien.
Người Hobbit - J. R. R. Tolkien
• Cuốn sách này được NXB Hội Nhà Văn chia làm bảy tập, từ 1 đến 5. Ebolic gộp lại thành một khi chế bản ebook. Mục lục được chia lại theo từng tập. Bìa mỗi tập được chèn ở đầu chương lớn, bìa ở đầu tác phẩm do chúng tôi thiết kế. • Tất cả lỗi dịch sai, lỗi chính tả, viết sai tên, cách trình bày dấu câu, trình bày đoạn văn, hình minh họa bị thiếu đều được chúng tôi sửa lại và bổ sung, đối chiếu nguyên tác The Fellowship of the Ring. • Chú thích đề Tornad là của người làm ebook; chú thích không đề gì là của dịch giả Nguyễn Nam. Phần Phụ lục I trình bày lại từ mục Câu lạc bộ ở cuối mỗi tập. Phụ lục II là sản phẩm của Ebolic sáng tác và thêm vào. • Để giữ mức độ trung thành nhất có thể với bản in, Ebolic chỉ sửa những lỗi dịch sai từ vựng sao cho vẫn mang văn phong cũ, còn những lỗi sai cả câu văn và đoạn văn thì chúng tôi không sửa. Tinh thần của bản gốc là dịch nhân danh và địa danh, bản dịch này không làm thế, nhưng chúng tôi cũng không dịch lại. Do đó cuốn sách này không mang đến sự chính xác tuyệt đối về thế giới Trung Địa và tinh thần tác phẩm đến cho bạn đọc. Chúng tôi khuyến cáo chỉ nên coi cuốn sách này như một bản dịch tham khảo. Ban đọc thân mến, “Liệu Chúa Tể những chiếc Nhẫn có thể dựng thành phim?” Câu hỏi ấy hôm nay nghe thật ấu trĩ, nhưng mới gần đây thôi, giới phê bình và biên kịch phương tây đều thống nhất là: “Không!” Đạo diễn Peter Jackson của New Line Cinema đã thực hiện một “nhiệm vụ bất khả” – dựng lại Chúa Tể những chiếc Nhẫn thành 3 tập trên màn ảnh lớn. Kết quả cũng thật mỹ mãn: 11 đề xuất, 04 giải Oscar 2002 cùng doanh số trên 400 triệu USD riêng cho tập 1 Hiệp hội bảo vệ chiếc nhẫn. Cùng thể loại, nhưng Chúa Tể những chiếc Nhẫn đã đẩy bật Harry Potter xuống phía sau trên cả quầy sách lẫn trên màn ảnh lớn. Những tập tiếp theo sẽ ra mắt trong dịp Giáng Sinh năm nay và năm sau chắc chắn sẽ còn làm tốn khối giấy mực của giới phê bình. Thật may cho Peter Jackson, bởi anh đã chạm vào đúng mạch. Nên nhớ, thế giới của Chúa Tể những chiếc Nhẫn đã ăn đậm trong tâm trí người đọc từ lâu, chưa nói đến 50 triệu bản phát hành toàn cầu bằng 37 thứ tiếng (tiếng Việt là ngôn ngữ thứ 38), chưa nói đến chuyện được bình chọn là “Cuốn sách hay nhất thế kỷ 20” (Britain Channel 4 và WaterStones bình chọn; Amazon cũng cho cùng kết quả), riêng đối mặt với hằng hà sa số game điện tử: War Craft, Heroes Of Might and Magics, Age Of Wonders, Heroes Chronicles dựa trên cốt truyện Chúa Tể những chiếc Nhẫn cũng đã đủ mệt lắm rồi. Thế giới huyền ảo Trung Địa (Middle Earth) đã được tác giả Tolkien và trí tưởng tượng của độc giả khắc hoạ từ bao thập niên nay. Jackson đã không phạm “húy”, và anh đã thành công. Vậy điều gì đã tạo nên sự bất tử cho vùng Trung Địa của giáo sư đại học Oxford J. R. R. Tolkien? Bạn đọc sẽ có thời gian đế khám phá điều này khi phiêu bạt cùng những người Hobbit nhỏ bé, trung hậu nhưng bất khuất, đối mặt với bao hiểm nguy rình rập trên đường thực hiện những “sứ mệnh bất đắc dĩ” của mình. Để tiện theo dõi, chúng tôi xin giới thiệu sơ qua về Trung Địa vào thời trước khi câu chuyện này diễn ra. Vào thời hồng hoang, Eru Ilúvatar, chúa tể của vạn vật đã khai sinh và tạo ra những người Ainur – những người thần thánh. Người Ainur đã tấu lên khúc nhạc của mình, và thế giới Trung Địa đã được sinh ra trong tiếng nhạc này. Những tộc người cũng đã nối nhau xuất hiện trên Trung Địa, những người Elf thông thái rồi người lùn rậm râu Dwarf cao ngạo, người Hobbit hiền lành, loài Người can đảm… Nhưng những thế lực quỷ thuật dưới tay Chúa Tể Hắc Ám đầu tiên Melkor cũng theo nhau lộ diện: bọn Rồng của Glaurung – Cha của loài Rồng, bọn quỷ khổng lồ Troll – những con quái vật ù lì của bóng đêm, bọn Goblin tàn độc… Cuộc chiến gìn giữ Trung Địa đã bắt đầu ngay từ trước Niên Kỷ Thứ Nhất. Những trận giao tranh tàn khốc đã diễn ra. Những pháp sư cao quý của Hội Đồng Bạch Đạo đã đôi lần đánh bại Melkor và kẻ kế thừa của hắn – Chúa Tể Sauron. Nhưng họ cũng phải chịu vô số tổn thất. Chỉ biết rằng Chúa Tể Hắc Ám Sauron đã biến mất vào đầu Niên Kỷ Thứ Ba. Có thể hắn đang thâu thập thêm lực lượng, bởi những kẻ bộ hạ của hắn vẫn còn nguyên đó: bọn Goblin, bọn Rồng, bọn quỷ núi khổng lồ… Nhưng các pháp sư thuộc Hội Đồng Pháp Sư Bạch Đạo Tối Cao có những suy nghĩ khác… Và như vậy, vào năm 2941 Niên Kỷ Thứ Ba, vào một buổi sáng đẹp trời ở xứ Shire, xứ sở an lành và biệt lập của những người Hobbit, câu chuyện đã bắt đầu… ***   John Ronald Reuel Tolkien sinh năm 1892 tại Bloemfontein, Nam Phi. Ký ức thời thơ ấu của ông luôn gắn liền với thành phố này và trang trại của gia đình. Cha chết sớm do thấp khớp, ông cùng mẹ và em trai quay về Anh Quốc. Gia đình ông sống tại Anh trong cảnh nhà không dư dả. Niềm vui lớn của Tolkien lúc này là đọc sách. Những tác gia lớn của Anh thời đó như H. G. Wells, G. K. Chesterton rất được ông ngưỡng mộ. Năm 16 tuổi, ông đã có được học bổng của Đại học Oxford danh tiếng. Trong suốt cuộc đời mình, Tolkien luôn có một niềm đam mê ám ảnh, đó là niềm say mê ngôn ngữ, nhất là những ngôn ngữ cổ. Ông nhuần nhuyễn trong những sử thi Iceland, Na Uy, Phần Lan. Ngay tên một số nhân vật như những người Dwarf trong cuốn Người Hobbit này cũng được mượn từ Sử thi Bắc Âu. Thorin Khiên Sồi vốn chẳng phải ai xa lạ, mà chính là Thần Thor của những người Viking đấy. Năm 1914, Thế Chiến Thứ Nhất nổ ra, Tolkien gia nhập quân ngũ với vai trò một sỹ quan tại Trận Somme, nơi ông đã chứng kiến sự hy sinh của bao bạn hữu. Ông bị thương năm 1917 và được đưa về hậu cứ. Không khi nào Tolkien có dịp ra tiền tuyến nữa. Năm 1925, cùng một số đồng nghiêp, ông cho công bố bản dịch Lãnh chúa Gawain và Hiệp sĩ xanh. Tác phẩm có tiếng vang lớn, và Tolkien được mời làm giáo sư ngôn ngữ của Đại học Oxford. Người Hobbit – tập sách đã làm Tolkien nổi tiếng ra đời năm 1936. Ông bắt đầu viết tập sách này khi đang chấm một bài thi quá tệ của sinh viên. Cuốn sách khi viết xong đã được gửi cho NXB Unwin. Thật thú vị, người chấp thuận cho cuốn sách được in lại là cậu con trai mười tuổi của ông chủ NXB. Nhanh chóng, Người Hobbit trở thành bestseller và mang lại danh vọng cho Giáo sư Tolkien. Cùng với C. S. Lewis, tác giả Alice ở xứ sở diệu kỳ, một giáo sư đồng nghiệp, Tolkien gia nhập nhóm Inklings, một nhóm sáng tác nổi tiếng lúc này.  Cũng như những người Hobbit của mình, Tolkien hiếm khi nào rời tẩu thuốc. Ông cũng thích đố chữ, thích ngủ trễ như anh chàng Bilbo Baggins hiền lành. Và bạn hãy nhìn xem, ngôi nhà của ông bà Tolkien đây liệu có giống cái lỗ của những người Hobbit? Cuối những năm 30, ông đặt bút viết tiếp 3 tập tiếp theo của Chúa Tể những chiếc Nhẫn. Chiến tranh thế giới thứ hai, cùng những ảnh hưởng của thời kỳ đen tối này đã buộc Tolkien ngẫm nghĩ lại nhiều điều, và tác phẩm chỉ ra mắt độc giả vào năm 1953. Cậu con trai mười tuổi khi nào của NXB Unwin, nay đã trưởng thành, một lần nữa là người ấn hành tác phẩm của Tolkien. Chúa Tể những chiếc Nhẫn được in thành 3 phần, và là một trong những cuốn sách được ưa chuộng nhất trong mọi thời đại. Danh tiếng và sự giàu có vừa là sự hài lòng, vừa là nỗi khổ của Tolkien. Tuy nhiên, ông chấp nhận sự nổi tiếng này và luôn phải bận rộn với việc quan tâm của công chúng ái mộ. Bà Edith vợ ông qua đời năm 1971. Mất mát này giáo sư Tolkien không chịu nổi; ông đau đớn suốt hai năm ròng và qua đời năm 1973, ngày mùng hai tháng Chín. *** Thuở nọ, có một Hobbit1 sống trong “lỗ” nhà mình dưới lòng đất. Bạn chớ nghĩ đó là một cái “lỗ” bẩn thỉu và ẩm thấp, nơi đuôi giun và rễ cây thò ra từ bốn phía, bốc mùi khó ngửi. Mà đó cũng chẳng phải một “lỗ” trong vùng cát khô, nơi không có gì ăn được và cũng chẳng ăn được thứ gì. Không, “lỗ” của chúng ta là một lỗ Hobbit, và điều đó có nghĩa là no đủ. Nó khởi đầu từ một cánh cửa rất tròn, giống lỗ mạn thuyền, được sơn màu xanh lá, với tay nắm đồng sáng lấp lánh ở giữa. Cửa mở vào trong, thẳng tới một hành lang dài, gần giống như một đường hầm xe lửa ngày nay. Nhưng đường hầm này không có khói, cũng chẳng có bụi, lại rất ấm cúng: tường được lát gỗ tấm, sàn lát gạch và có thảm phủ trên; dọc theo tường là những ghế gỗ bóng xếp hàng, khắp nơi đóng đầy mắc áo để treo mũ và áo khoác – dân Hobbit vốn rất hiếu khách. Đường hầm này cứ kéo dài, kéo dài mãi xuống dưới, nhưng chưa đến tâm của Vùng Đồi, như dân nhiều dặm quanh đây quen gọi. Dọc hai bên đường hầm có nhiều, rất nhiều những cửa tròn, cái này kế tiếp cái kia. Hobbit không ưa cầu thang: tất tật nào phòng ngủ, phòng tắm, nào kho chứa đồ (cả dãy kho chứa đồ), phòng chứa quần áo (hobbit dành hẳn vài phòng để giữ quần áo), nào nhà bếp và nhà tắm, đều nằm gọn ở một tầng, nói cho đúng thì cùng nằm trong hành lang trên cả. Những phòng tốt nhất nằm bên tay trái, và chỉ riêng những phòng này có cửa sổ bên trong – những cửa sổ sâu, hình tròn, nhìn ra vườn và những trảng cỏ xanh chạy dài xuống mé sông. Gã Hobbit của chúng ta là một Hobbit “con nhà lành” thuộc họ Baggins. Nhà Baggins đã sống ở vùng ven Đồi từ thuở nảo thuở nào tới giờ và luôn được coi như một gia đình danh giá. Phần vì đa số họ giàu có, phần vì họ chưa từng rơi vào những cảnh éo le hay chơi trò lập dị. Không hỏi, bạn cũng biết trước dân họ Baggins sẽ đáp những gì. Nhưng tôi sẽ kể bạn nghe chuyện về một gã trong họ Baggins, người cuối cùng cũng đã bị cuốn vào một cuộc phiêu lưu, hắn đã miệng nói tay làm những việc khó ngờ. Có thể hắn sẽ mất đi sự kính trọng của xóm giềng, nhưng bù lại hắn lại có đủ… À vâng, tự bạn sẽ thấy kết cục hắn có được gì chăng. ... Mời các bạn đón đọc Người Hobbit của tác giả J. R. R. Tolkien.