Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nhà Băng

“NHÀ BĂNG” , nguyên tác tiếng Anh “The money changers”, người dịch Vũ Đình Phòng, Nhà Xuất bản Hà Nội, xuất bản năm 1996. Nếu anh giàu tức là anh nghèo Bởi anh sẽ giống như con lừa còng lưng Dưới những thỏi vàng đè nặng Anh phải vác tiền bạc của cải Nhưng chỉ trên một quãng đường Rồi cái chết sẽ giải tỏa cho anh khỏi nỗi nhọc nhằn đó. *** Nhiều người vẫn còn giữ lại ấn tượng lo âu, dai dẳng trong hai ngày hôm đó của tháng Mười. Hôm ấy là thứ Ba, Ben Rosselli, chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ, đồng thời là cháu nội của cố sáng lập viên nhà băng này đã công bố một tin ghê rợn. Tin này lập tức loan truyền khắp các phòng ban và ra cả bên ngoài. Hôm sau, thứ Tư, người ta phát hiện ra một vụ ăn cắp ngay tại chi nhánh chính của Ngân hàng đóng ngay ở trung tâm thành phố, sự kiện này mở đầu cho một loạt sự kiện nối tiếp nhau như phản ứng dây chuyền, đầy bất ngờ, dẫn đến một thảm họa tài chính, đến một bi kịch con người, đến một cái chết.   Khi Tổng giám đốc Ben Rosselli gọi điện cho một số các quan chức thân cận dưới quyền, chưa ai đoán được ông định nói điều gì. Một số nhận được lời triệu tập trong lúc họ ăn sáng ở nhà, số khác vào lúc họ bước vào phòng giấy. Dĩ nhiên đó là những quan chức cấp cao nhất nhà băng, nhưng Ben Rosselli còn triệu tập cả một số nhân viên kỳ cựu mà ông vẫn thường coi là bạn bè thân thiết. Tất cả đều nhận được câu triệu tập y hệt nhau: "Mời đến hội trường họp lớn trong Tòa nhà cao ốc vào mười một giờ sáng nay."   Đó là tên gọi trụ sở công khai của Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ. Đúng giờ quy định, khoảng hai chục người đã tề tựu trong phòng họp. Trong lúc chờ đợi, họ vẫn đứng bàn tán xôn xao, không ai quả quyết kéo ghế ra ngồi. Đột nhiên một tiếng nói to làm mọi người ngừng trò chuyện:   - Ai cho phép bác làm chuyện này? Các cặp mắt quay cả lại nhìn người vừa nói câu đó: Roscoe Heyward, Phó tổng giám đốc, đặc trách khu vực các tài khoản. Ông ta quát hỏi bác quản lý nhà ăn dành cho các quan chức cao cấp của nhà băng, lúc này đang rót rượu Xeres ra ly. Đây là thứ rượu quý đặc biệt của Tây Ban Nha. Là cấp lãnh đạo cao, Roscoe Heyward nổi tiếng là người nghiệt ngã trong công việc theo đúng các khuôn phép của nhà băng. ... *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Nhà Băng của tác giả Arthur Hailey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái Chết Giữa Thinh Không - Agatha Christie
Cái Chết Giữa Thinh Không (Cái chết trên mây), Nguyên tác: Death in the Clouds/ Death in the Air. Là tập 12 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Trên chuyến phi cơ hạng sang Prometheus nhắm hướng bay đến phi trường Croydon, thám tử Hercule Poirot theo thói quen nghề nghiệp đưa mắt theo dõi từng hành khách trên máy bay. Trước tiên là nàng Jane Grey đang ngồi thu mình rụt rè... còn Norman Gale đăm chiêu nghĩ ngợi... đến anh chàng nhà khảo cổ trẻ tuổi Jean Dupont vừa nhổm người đứng dậy giơ tay đập chết con o­ng vò vẽ bay vù vù trên đầu mọi người. Mãi đến lúc phát hiện Madame Giselle ngồi chết ở dãy ghế phía sau khoang tàu, thám tử Hercule Poirot mới nhận ra còn một con o­ng khác nữa, chính là một mũi tên tẩm độc dùng ống xì đồng thổi bay đi.  Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Cái Chết Giữa Thinh Không (Cái chết trên mây) của tác giả Agatha Christie.
Cái Bẫy Chuột - Agatha Christie
Tính đến năm 2007, Vở kịch The Mousetrap (Cái bẫy chuột) của Agatha Christie hiện đang giữ kỷ lục vở kịch được công diễn lâu nhất trong lịch sử sân khấu London, ra mắt lần đầu tại rạp Ambassadors Theatre ngày 25 tháng 11 năm 1952 và vẫn tiếp tục được diễn cho đến nay với trên 20.000 buổi diễn. Nội dung của nó kể về một vụ án mạng có thật, từng gây chấn động Vương quốc Anh vào năm 1945. Chiến tranh thế giới thứ hai, Vương quốc Anh là một trong những đế quốc tham chiến sớm nhất. Cho đến ngày hiệp ước đình chiến được các bên ký kết, tổng thiệt hại về người của đảo quốc sương mù cho cuộc chiến này là 320.000 người. So với những quốc gia tham chiến khác như Liên Xô, Đức, Ba Lan… thì con số này rất "nhỏ". Thế nhưng, chỉ tính riêng tại Vương quốc Anh, thì con số này lớn vô cùng. Ngày 9/1/1945, cậu bé Dennis O’Neill - 13 tuổi bị phát hiện đã chết trong tình trạng thể chất vô cùng kinh khủng. Cậu bé gần như chỉ còn một bộ da bọc xương, cơ thể bầm dập những vết đòn roi, vết đòn cũ chưa mờ thì đã bị che lấp bởi những trận đòn kế tiếp. Dennis và em trai Terence - 11 tuổi, được một đôi vợ chồng trung niên nuôi nhận ở một nông trại hẻo lánh tại Shropshire. 13 giờ chiều, mẹ nuôi của Dennis - bà Esther Gough gọi điện báo với bác sỹ rằng Dennis đã ổn định, sức khỏe đang hồi phục. Thế nhưng đến 15h cùng ngày, khi vị bác sỹ đến nông trại, Dennis đã chết. Và theo khám nghiệm tử thi cũng như kết luận từ các bác sỹ, Dennis đã chết nhiều giờ trước đó. Nước Anh một phen chấn động về cái chết của Dennis. Thời điểm ấy, báo chí xứ sở sương mù chỉ đưa tin về những chiến thắng của quân đội Anh trước phe phát-xít, về hàng nghìn kẻ thù bị tiêu diệt trong ở mỗi chiến trường, về những thiệt hại của người Anh trong cuộc chiến. Vậy nhưng, hình ảnh về cái chết thương tâm của Dennis O’Neill vẫn khiến tất cả phải ngậm ngùi. Kết quả khám nghiệm tử thi gây sốc với tất cả. Dennis bị trụy tim do bị đánh quá mạnh vào lồng ngực. Cậu bé bị giết, chứ không phải vì chết đói nữa. Dennis chết, chỉ 2 ngày trước sinh nhật tuổi 13. Và phải có kẻ phải chịu trách nhiệm cho tội ác này. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Cái Bẫy Chuột của tác giả Agatha Christie.
Ba Điều Bí Ẩn - Agatha Christie
Ba Điều Bí Ẩn là tập 18 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Hamborough Close, Westshire Ngày 24-9-1936 Kính gửi ông Hercule Poirot, Một vụ việc vừa phát sinh, đòi hỏi sự xử lý tinh tế và kín đáo. Tôi đã nghe nhiều người nói tốt về ông, nên quyết định giao phó việc này cho ông. Tôi có nhiều lý do để tự tin mình là nạn nhân của một vụ gian lận, Nhưng vì lý do gia đình, không muốn kêu cảnh sát. Tôi đã có một số biện pháp để phòng thân và đối phó với tình hình, nhưng ông cần sẵn sàng đến đây ngaykhi vừa nhận được điện. Ông khỏi cần trả lời thư này, xin gửi tới ông lòng biết ơn. Kính thư: Gervase Chevenix-Gore *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Ba Điều Bí Ẩn của tác giả Agatha Christie.
Thành Phố Trộm - David Benioff
Trong cuộc phong tỏa Leningrad tàn bạo của quân Đức, Lev Beniov bị bắt vì tội hôi của và bị ném vào cùng xà lim với tên đào ngũ điển trai tên Kolya. Thay vì bị hành quyết, Lev và Kolya còn có cơ hội giữ mạng sống bằng cách thực thi một nhiệm vụ tưởng chừng không thể: tìm về một tá trứng. Trong một thành phố bị cắt đứt mọi nguồn tiếp tế và chịu sự thiếu đói không thể tin nổi, Lev và Kolya dấn thân vào một cuộc săn lùng qua khắp tình trạng hỗn loạn tàn khốc của Leningrad và đằng sau phòng tuyến địch để tìm cái bất khả. Với những diễn biến khôi hài và thâm thúy, kinh hoàng và xúc động, Thành Phố Trộm là một cuộc phiêu lưu Thế chiến 2 nghẹt thở, đầy chất điện ảnh, là câu chuyện của lứa tuổi thành niên thân thiết với cảm xúc cực kỳ hiện đại để nói về quá trình các chàng trai trở thành đàn ông. “Cuốn tiểu thuyết thứ hai của David Benioff khắc họa một cốt truyện mạnh mẽ, một tình bạn sôi nổi, một chuyện yêu đương kỳ quặc, đủ hạng người xấu đáng sợ, một bầu không khí chập chờn giữa chủ nghĩa hiện thực thô sượng và sự lố bịch kiểu thần thoại và một khiếu hài tăm tối nhưng khó cưỡng; thật ra là mọi thứ mà bạn đọc có thể mong đợi ở một câu chuyện về tình bạn đặt trong bối cảnh quân Đức bao vây Leningrad trong Thế chiến 2.” *** Mùa đông năm 1941, Leningrad bị quân Đức vây hãm gắt gao. Gió rét cắt da cắt thịt, mọi mẩu gỗ trong thành phố đều đã biến mất và cháy trong bếp lò của ai đó, thức ăn đã từ lâu biến thành giấc mơ xa xỉ, những cư dân với phần ăn tem phiếu khiêm tốn trở nên gầy rộc vì đói kém và mọi hành vi phạm tội đều bị hành quyết bởi không có đủ lương thực nuôi tù nhân. Khi Lev Beniov bị bắt vì tội hôi của, cậu đã nghĩ mình sẽ chết chắc, cho đến khi bị ném vào cùng xà lim với tên đào ngũ điển trai Kolya. Họ có cơ hội được sống bằng cách thực hiện một nhiệm vụ bất khả thi: tìm về một tá trứng để làm bánh cho đám cưới của con gái ông đại tá. Trong một thành phố bị cắt đứt mọi nguồn tiếp tế và dường như không còn chút thực phẩm nào, Lev và Kolya đã dấn thân vào cuộc săn lùng không thể nào quên… Lev mười bảy tuổi, thân hình gầy gò càng thêm còi cọc vì thiếu ăn, tự nhận không phải là ý trung nhân lý tưởng của con gái, vẫn còn khá ngây thơ và chưa biết tình yêu là gì. Trong khi đó, Kolya hoàn toàn ngược lại: điển trai, khỏe mạnh, tự tin, là một gã khoác lác biết tuốt và nói nhiều không thể tin được. Đồng thời, Kolya là người tử tế, nghĩa hiệp, liều lĩnh, và là bộ óc chỉ dẫn lẫn hành động cho cả hai người. Nhưng dù trái ngược nhau về cả ngoại hình và tính cách, họ vẫn là một cặp bài trùng cực kỳ hợp rơ. Kolya đóng vai trò là người chăm sóc, còn Lev với vai trò một người lắng nghe và chia sẻ. Ngay từ lần đầu gặp mặt, Kolya đã cho Lev một miếng xúc xích ngon lành, rồi không ít lần bảo vệ cho Lev như thể đang bảo vệ một đứa em trai thân thiết. Còn Lev, mặc dù hay cáu kỉnh vì Kolya cứ lải nhải suốt trên hành trình, nhưng vẫn kiên nhẫn lắng nghe những câu chuyện của Kolya mà hóa ra đó chính là câu chuyện anh ta sáng tác. Tình bạn của họ, không phải là kiểu săn sóc cho nhau từng ly từng tí, đây là kiểu tình bạn điển hình của hai đứa con trai: trêu chọc và khiêu khích, nói tục, tình yêu, tình dục, ban đầu là khó chịu và tưởng như không thể hòa hợp, rốt cuộc lại nảy nở rực rỡ, sôi nổi, ồn ào nhưng sâu sắc và cảm động một cách diệu kỳ. Kolya thường vòng tay lên vai Lev và nói đủ thứ chuyện, khi thì để khai thông đầu óc vẫn còn ngây thơ của Lev, khi thì chia sẻ những khát khao bình dị hoặc kể tiếp câu chuyện dở dang… Thật ra, người thuần khiết nhất chỉ thích cho đi mà không cần nhận lại, và người ngây thơ nhất không cần biết phía trước là muôn vàn khó khăn chết chóc, người lạc quan nhất hài hước ngay cả khi cận kề cái chết, lại chính là Kolya.    Hành trình đi tìm trứng băng qua cả thành phố đến tận chiến tuyến kẻ thù cũng là hành trình băng qua súng đạn tàn khốc, băng qua những hậu quả nặng nề của chiến tranh, đối diện với cái đói khủng khiếp và cái lạnh tê người, chứng kiến những phận người lụi tàn và bất hạnh mà họ không thể nào giúp đỡ gì được vì chính họ cũng đang bị cái đói cào xé. Trong hành trình đó, họ đã trưởng thành hơn, Lev đã can đảm hơn và có thể tự hào kể lại đã đoạt mạng hai tên Đức bằng dao khi chưa đủ mười tám tuổi. Họ dấn thân vào cuộc phiêu lưu với mục đích được sống, nhưng đôi khi chỉ mong ước có một miếng bánh mì thật hay một miếng xúc xích thật, hoặc Lev thì ganh tị với Kolya vì được ngủ với Sonya xinh đẹp tốt bụng, hay như Kolya sẽ mở tiệc ăn mừng nếu có thể đi ị. Khôi hài, trần trụi nhưng sâu cay, những bất hạnh này chẳng phải để tố cáo hiện thực chiến tranh, mà sao vẫn nghe sống mũi cay cay. Khi mà chất bi kịch hòa lẫn trong hài kịch, khi mà nước mắt của cái đau khổ được giấu sâu cùng trong những cái cười khôi hài, thì những cái bất hạnh này đã trở nên quá lớn để nghĩ đến. Họ chỉ chấp nhận số phận của mình.    Giọng văn phóng khoáng và táo tợn, ngôn ngữ rất đời và rất chân thực, dùng những mảnh đời bất hạnh và những khát khao trần trụi để mô tả tinh vi bức tranh hiện thực của chiến tranh làm bối cảnh cho một tình bạn lạ kỳ. Diễn biến nhanh và thu hút như một bộ phim điện ảnh, dễ dàng đọc liền mạch từ trang đầu tiên đến trang cuối cùng, mới cười đó rồi lại tê dại đi sau đó, để lại sau cùng một ấn tượng mạnh mẽ về một tình bạn trong hoàn cảnh bắt buộc đã nhanh chóng nảy sinh và gắn bó không thể quên đến cuối đời. *** David Benioff sinh năm 1970 tại New York trong một gia đình Do Thái. Ông là nhà văn, nhà biên kịch, nhà sản xuất truyền hình và đạo diễn. David Benioff là một nhà biên kịch và nhà sản xuất truyền hình, nhà văn và đạo diễn người Mỹ. Cùng với cộng tác viên của mình D. B. Weiss, anh được biết đến nhiều nhất với tư cách là đồng sáng tạo, người dẫn chương trình và nhà văn của Game of Thrones, bộ phim chuyển thể từ HBO của George R. R. Mời các bạn đón đọc Thành Phố Trộm của tác giả David Benioff.