Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khi Loài Vật Lên Ngôi

Đây thực chất là một cuốn tiểu thuyết khôn ngoan, dí dỏm về bản chất man rợ của con người, và sa giông chỉ là một công cụ để biểu đạt cái ẩn dụ sâu sa ấy. Thuyền trưởng người Hà Lan, Đại úy Van Toch, trong một cuộc đi săn tìm ngọc trai, đã phát hiện ra những con sa giông khổng lồ, chỉ có thể được tìm thấy trên một hòn đảo gần Sumatra. Những người bản địa gọi chúng là “tapa”, hoặc "quỷ biển". Những con sa giông muốn ăn hàu nhưng chúng không thể tách vỏ được. Van Toch muốn ngọc trai nhưng rất khó khăn trong việc lặn sâu để bắt được hàu. Ngoài ra các loài động vật ăn thịt lớn như cá mập luôn là mối đe dọa với sa giông. Và chính từ đó, Van Toch đã nghĩ ra một phi vụ làm ăn, có thể xem là mấu chốt của mọi vấn đề. Vị thuyền trưởng bắt đầu cung cấp cho những con sa giông dao để chúng có thể tách hàu, và đâm cá mập. Hơn nữa, kế hoạch nhân rộng sa giông sang những vùng khác cũng bắt đầu được lan rộng. Thuyền trưởng Van Toch tìm thấy một người đầu tư tài chính, và bắt đầu từ đó những con sa giông được rao bán trên thế giới. Sa giông không chỉ thu gom ngọc trai và san hô, chúng con được thuê để làm tất cả những công việc dưới nước như xây đập, thủy điện, đê điều, kéo dài đường bờ biển... Khi Van Toch chết, công ty mang tên Salamander Syndicate đã được thành lập, và bắt đầu khai thác sa giông giống như một lực lượng lao động giá rẻ. Hàng tỷ con sa giông đã lan rộng đến tất cả các bờ biển và các quốc gia. Cuối cùng, con người và sa giông đã đi đến xung đột, để tranh giành địa bàn, tranh giành sự sống, và quyền lực. Karel Capek chính xác là một bậc thầy của thể loại hài hước đen. Ông đã biến tất cả mọi thứ âm mưu xấu xa thành một câu chuyện mang lại niềm vui thú vị. Ông chế giễu cách thủy thủ nguyền rủa sa giông, châm biếm sự thông minh, chợ đen, các doanh nhân, chủ nghĩa tư bản, Ki Tô giáo, nhà sưu tập, rượu, xu hướng và lý thuyết trong giáo dục, khai thác, một nhất thời, thời trang, chú thích, thói tham lam, đạo đức giả, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa Phát xít, những người cố gắng để tiếp tục chương trình nghị sự của của chính họ. Ông chế giễu ô nhiễm, phân biệt chủng tộc, tôn giáo, thói tự cao tự đại, ngụy biện, chiến tranh, những người giàu có, những câu lạc bộ phụ nữ, và đặc biệt là khoa học, những nghiên cứu, hội nghị, khám phá tranh luận dài dòng về loài sa giông.... đã khiến câu chuyện trở thành một bức tranh châm biến lý thú, vạch trần đầy đủ bộ mặt của xã hội, với một thứ văn chương sâu cay, hài hước, và thông minh. Cuốn sách được xuất bản lần đầu vào năm 1936, “khi nó vẫn còn có thể cười vào Adolph Hitler”. Trong cuốn sách có nhiều đoạn thú vị về nước Đức. Ví dụ chi tiết  người Đức quyết định rằng con sa giông của họ là cấp trên, nhạt màu, đi bộ nhiều hơn xây dựng, và có những đặc tính vượt trội hơn hẳn sa giông ở nơi khác. Với thái độ khinh bỉ, họ mô tả những con sa giông Địa Trung Hải thoái hóa, còi cọc cả về thể chất và đạo đức, xem chúng là các con sa giông man rợ nhiệt đới, và hoàn toàn là loài sa giông cấp dưới. Khi loài vật lên ngôi hài hước, châm biếm, bất ngờ, súc tích. Với cách giới thiệu nhân vật mới, phong cách tự sự mở, trong hầu hết các chương, chỉ với một không khí châm biếm. Câu chuyện sa giông cũng có thể được xem là một câu chuyện ngụ ngôn cho những kinh nghiệm của nhiều dân tộc bị áp bức và những nạn nhân của chủ nghĩa thực dân, luôn bị yếu thế, nhưng cũng luôn có ý thức nỗ lực để được văn minh, để trở thành thành viên của xã hội da trắng châu Âu, chiếm đoạt các nghi lễ văn hóa, và tất nhiên là chế độ nô lệ. Đây là một cuốn sách, trong đó có đám đông, và cần được đọc bởi đám đông. Không có nhân vật chính trong Khi loài vật lên ngôi, thay vào đó câu chuyện được trình bày như một bài học lịch sử lâu dài mang tính giải trí. Người kể chuyện trích từ bài báo khoa học, các cuộc phỏng vấn, và những bài báo được sưu tập bởi ông Povondra. Povondra là một nhân vật khá xuyên suốt, và thú vị trong cuốn sách. Ban đầu ông cảm thấy rất tự hào rằng mình là một người có tác động to lớn quan trọng đến sự phát triển của lịch sử văn minh loài người, nhưng rồi đến cuối đời, lại chết trong nỗi ám ảnh tội lỗi về sự xuất hiện của sa giông tại dòng sông nơi quê hương mình. Capek tự hỏi mình: "Này anh, anh không thấy hối tiếc cho loài người hay sao?"  Ông tự đáp:" Lạy Chúa, hãy để tôi yên! Tôi biết làm sao bây giờ?" “Tôi nói cho anh biết: ngay cả lúc này, khi một phần năm châu Âu đã chìm dưới nước, anh có biết ai vẫn ngày đêm làm việc như điên cuồng trong các phòng thí nghiệm để cố sáng chế ra những máy móc và vật liệu phá hủy cho hiệu quả hơn không? Anh có biết ai vẫn cho sa giông vay tiền, ai đang tài trợ cho sự tận diệt thế giới này, cho trận Tân Đại Hồng Thủy hay không?” Capek hẳn có tiếc, nhưng đó là tiến trình phát triển tự nhiên của loài người. Các ông nhà văn chẳng bao giờ có thể can thiệp vào điều đó. Đây không phải là suy đoán về những gì trong tương lai, mà là tấm gương phản chiếu cái đang tồn tại và chúng ta đang sống chung với nó. Khi loài vật lên ngôi dành được rất nhiều lời khen ngợi của những tác giả nổi tiếng. Nhà văn Milan Kundera từng nói “Khi loài vật lên ngôi sẽ không bao giờ rơi vào quên lãng… Čapek có lẽ là nhà văn châu Âu đầu tiên có những tác phẩm hình dung trước được viễn cảnh khủng khiếp của thế giới toàn trị.” Cuốn sách này còn là cảm hứng cho vô số tác phẩm lừng danh được xuất bản sau, có thể liệt kê ra như: 1984 hay Trại súc vật của George Orwell; hay The Sirens of Titan, Harrison Bergeron của Kurt Vonnegut… và ngay cả ý tưởng sinh sản đơn tính của khủng long trong Công viên kỷ Jurassic… Čapek được đề cử giải Nobel Văn học bảy lần, nhưng ông không bao giờ giành chiến thắng. Tuy nhiên, một số giải thưởng lại mang tên ông, như giải Karel Čapek, được trao tặng hàng năm bởi Czech PEN Club cho tác phẩm văn học góp phần củng cố và duy trì các giá trị dân chủ và nhân văn trong xã hội.  Ông cũng là một nhân vật chủ chốt trong việc tạo ra các PEN Club Tiệp Khắc là một phần của Văn Bút Quốc tế.  Phong Linh - Zing.vn *** Tôi thường được hỏi, điều gì đã thôi thúc tôi viết “Khi loài vật lên ngôi”, và tại sao tôi lại chọn loài động vật lưỡng cư để làm hình tượng cho cái gọi là tiểu thuyết viễn tưởng của mình về sự diệt vong của nền văn minh loài người. Thành thực mà nói, ban đầu tôi không hề có ý định viết tiểu thuyết viễn tưởng. Tôi cũng không có mối quan tâm yêu thích nào đặc biệt đối với hình thức viễn tưởng; trước khi bắt đầu viết về những con vật lưỡng cư này, thậm chí trong đầu tôi là một tiểu thuyết hoàn toàn khác. Tôi nghĩ ra hình mẫu một người tốt, hơi giống với người cha quá cố của tôi, một bác sĩ tỉnh lẻ với các bệnh nhân; đó phải là một bài ca về ngành y, và phần nào đó về bệnh lý xã hội. Tôi đã khá hứng thú với ý tưởng đã nghiền ngẫm trong đầu tuần này qua tháng khác, nhưng lại không tài nào thấu cảm hoàn toàn. Tôi hoài nghi, liệu nhân vật bác sĩ tốt bụng có thể làm gì trong cái thế giới hỗn loạn này, như bấy lâu nay. Vâng, ông ấy có thể chữa lành vết thương cho mọi người, nhưng hầu như không liên can gì đến sự bất lực và nỗi đau mà thế giới chúng ta đang chịu đựng. Tôi nghĩ về người bác sĩ tốt bụng, nhưng cả thế giới này lại đang quay cuồng với khủng hoảng kinh tế, bành trướng dân tộc và ngòi nổ chiễn tranh. Tôi không thể nào hóa thân vào nhân vật bác sĩ của mình, bởi tôi - cho dù không ai đòi hỏi điều này ở các nhà văn - vẫn luôn trăn trở một điều: Cái gì đang đe dọa thế giới loài người? Sự thật hiển nhiên là tôi không thể xoay chuyển được hiểm họa của văn minh nhân loại, nhưng ít nhất tôi không thể ngồi nhìn và không thể thôi nghĩ đến điều đó. Mùa xuân năm ngoái, thời kỳ mà kinh tế thế giới xấu đi và chính trị còn tồi tệ hơn, tôi có lần đã viết câu này: “Bạn không được phép nghĩ rằng, sự phát triển đang bùng nổ trong cuộc sống của chúng ta là cơ hội phát triển duy nhất trên hành tinh này”. Và đây rồi. Câu này là nguyên nhân khiến tôi viết “Khi loài vật lên ngôi”. Điều này luôn đúng: Chúng ta không thể loại trừ khả năng là, trong những điều kiện phù hợp, một loài sinh vật khác con người cũng có thể trở thành cái nôi của sự phát triển văn minh. Nếu xét theo con người với nền văn minh và văn hóa của mình, trong suốt lịch sử phát triển từ một loài linh trưởng, từ các bộ lạc nguyên thủy, ta có thể mường tượng một nguồn năng lượng tiến hóa tương tự có thể chi phối quá trình phát triển của các loài động vật khác. Không thể loại trừ khả năng là, trong những điều kiện sống nhất định, ong hay kiến có thể trở thành những giống loài thượng đẳng, năng lực văn minh của chúng không thua gì chúng ta. Cũng không thể loại trừ khả năng này ở các sinh vật khác. Trong những điều kiện sinh học thuận lợi, một nền văn minh khác có thể xuất hiện, không thấp kém hơn nền văn minh của chúng ta, kể cả dưới sâu thẳm đại dương. Đấy là ý tưởng ban đầu; và ý tưởng thứ hai: Giả sử một loài động vật khác con người đạt được cái trình độ mà chúng ta gọi là nền văn minh, thì bạn nghĩ gì? Chúng cũng làm những điều vô nghĩa như loài người? Cũng châm ngòi các cuộc chiến tranh? Cũng gây ra các thảm họa lịch sử? Và chúng ta nhìn nhận thế nào về chủ nghĩa đế quốc của loài bò sát, chủ nghĩa dân tộc của loài mối, về sự bành trướng kinh tế của chim hải âu hay cá mòi? Chúng ta sẽ nói gì khi một loài động vật khác con người, với tri thức và số đông áp đảo, tuyên bố rằng chỉ có chúng mới có quyên ngự trị cả thế giới và thống soái muôn loài? Khi so sánh với lịch sử loài người, và với những gì nóng bỏng nhất vừa xảy ra, tôi buộc phải ngồi vào bàn mà viết “Khi loài vật lên ngôi”. Giới phê bình liệt nó vào tiểu thuyết viễn tưởng. Tôi phản đối từ này. Đây không phải là viễn tưởng, mà là hiện thực. Đây không phải là suy đoán về những gì trong tương lai, mà là tấm gương phản chiếu cái đang tồn tại và chúng ta đang sống chung với nó. Đây không phải truyện hoang đường, thứ mà tôi có thể cho không và còn tặng thêm bất cứ lúc nào, bao nhiêu tùy thích và cho bất cứ ai. Đây chính là hiện thực. Biết làm sao được, nhưng văn chương nếu không quan tâm đến thực tại và những gì thực sự xảy ra trên thế giới, nếu không có những phản ứng mạnh mẽ mà chỉ là ngôn từ và ý nghĩ sáo rỗng, thì đó không phải văn chương của tôi. Thế đấy, tôi viết về những con vật lưỡng cư vì tôi nghĩ đến loài người, tôi đã chọn một loài vật giống con sa giông làm hình tượng, không phải vì tôi thích hay không thích nó hơn những sản phẩm khác của Tạo Hóa, mà vì chuyện dấu tích của loài sa giông khổng lồ tiền sử ở Phân kỷ Đệ tam đã từng bị lầm tưởng là hóa thạch của tổ tiên loài người; do đó trong tất cả các loài vật, sa giông có vị trí lịch sử đặc biệt để có thể bước lên khán đài như là hình ảnh của chúng ta. Và nếu như có một cái cớ để có thể miêu tả những việc liên quan đến con người mà tác giả buộc lòng phải hóa thân vào những con sa giông thì đây là một trải nghiệm hơi lạnh lẽo, nhưng rốt cuộc nó cũng quyến rũ và kinh hoàng như khi hóa thân làm Nhân loại. KAREL ČAPEK (1936) Mời các bạn đón đọc Khi Loài Vật Lên Ngôi của tác giả Karel Čapek & Đăng Thư (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vĩnh Biệt Mùa Hè - Nguyễn Đông Thức
Bộ tứ 4H (Hân, Hằng, Hoa, Hạ) của lớp 12A đã “làm mưa làm gió” không chỉ trên thị trường sách mà cả trong điện ảnh và âm nhạc trên dưới 20 năm. Ca khúc Vĩnh biệt mùa hè của nhạc sĩ Thanh Tùng viết năm 1992 một thời là ca khúc phổ biến của giới học sinh, sinh viên, nhất là các bạn năm cuối cấp với những ca từ thiết tha đầy nỗi nhớ: “Mùa hè bâng quơ, Bâng quơ nỗi nhớ, Những chiếc lá non vươn trên cành cây khô… Mùa hè đi qua rồi, Tình yêu cũng qua rồi…” Không chỉ có vậy, tác phẩm đã được hãng phim Giải phóng dựng thành phim nhựa năm 1992 và sau đó đạo diễn Bùi Thạc Chuyên chuyển thể thành phim truyền hình dài 4 tập 12A và 4H. Câu chuyện về 4 cô học trò Hằng, Hân, Hoa và Hạ. Hằng xuất thân là con nhà giàu, xinh đẹp, thông minh, học giỏi. Cứ ngỡ rằng cuộc sống sẽ trải thảm dưới chân cô. Thế nhưng việc người mẹ bỏ nhà đi theo tiếng gọi của tình yêu đã đẩy Hằng vào nỗi cô đơn đến tột độ. Và cô ngã vào vòng tay của thầy Minh – một người đàn ông đầy thủ đoạn. Để rồi khi cha cô đối mặt với vòng tù tội do có liên quan đến vụ án tiêu cực thì Hằng nhận ra mình chẳng còn gì: không mẹ, không cha, và người tình cũng cao chạy xa bay. Và nếu cô không may mắn gặp được Đoàn Hùng – người thanh niên xung phong năm xưa thì chưa biết cô sẽ trôi về đâu. Hạ là con gái của gia đình có cha mẹ làm bác sĩ. Cô học trò giỏi văn, bí thư chi đoàn lớp có một mối tình đẹp đẽ và thơ mộng với Long – con trai một sĩ quan chế độ cũ. Vì sự không “môn đăng hộ đối” này mà mẹ Hạ đã quyết liệt ngăn cản. Mọi thứ trong Hạ dường như vụn vỡ khi cô phát hiện ra thủ đoạn mẹ mình đã dùng để chia rẽ hai người. Hân giàu tình cảm, Hoa hồn nhiên. Chính vì vậy mà có lẽ cuộc đời đã dành cho hai cô gái này những ưu ái hơn. Hân tiếp tục học vào đại học, còn Hoa được mẹ giao lại cho gian hàng ở ngoài chợ. Bên cạnh 4 cô gái là Thiện chính trực, dũng cảm bảo vệ lẽ phải, Long giàu nghị lực. Đối lập là Ngôn – một học sinh cá biệt, du côn và kết thúc đời học sinh của mình bằng những nằm tù dài đăng đẳng. Và thầy Minh – một kẻ thủ đoạn. Câu chuyện dẫn dắt người đọc đi qua năm tháng học trò, có những giây phút hồn nhiên đùa nghịch, và cũng có những nỗi buồn đau của đời thường. Và kết thúc với chút buồn man mác. “Hân bước vào sân trường. Khoảng sân giờ đây bỗng rộng mênh mông, trống vắng đến lạnh lùng, đầy những lá rụng và hoa tàn.Mùa hè đang đi qua. Cái mùa hè cuối cùng của đời học sinh trong một năm học đầy biến động….Lần đầu tiên trong cuộc đời, Hân bắt đầu ý thức được sự tạm bợ và phù du của kiếp người. Cô cảm thấy buồn man mác. Tại sao người lớn cứ sống như vậy, khác hẳn những điều mà người trẻ được dạy dỗ, để cuối cùng không còn ai biết tin vào ai nữa. Mùa hè đã vĩnh viễn đi qua” *** Nhà văn Nguyễn Đông Thức sinh ngày 18 tháng 10 năm 1951 tại Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Hiện nay ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp đại học. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1988). Sau ngày miền Nam giải phóng, Nguyễn Đông Thức tham gia thanh niên xung phong và làm báo, viết văn. Hiện nay anh công tác tại báo Tuổi Trẻ thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm chính đã xuất bản Ngọc trong đá (tiểu thuyết, 1986) Mưa khuya (truyện ngắn, 1987) Tình yêu thường không dễ hiểu (truyện ngắn, 1987) Trăm sông về biển (tiểu thuyết, 1988) Con gái vốn phức tạp (truyện ngắn, 1988) Mối tình đầu tiên và cuối cùng (truyện ngắn, 1989) Bản án trước khi chào đời (truyện ngắn, 1989)... Vĩnh biệt mùa Hè Vĩnh biệt facebook ...   Giải thưởng Giải A cuộc thi sáng tác do thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh với tác phẩm Một bông hồng cho cô bộ đội. Giải nhì cuộc thi sáng tác do thành đoàn Hồ Chí Minh cho tác phẩm Truyện rất khó viết. Giải ba cuộc thi sáng tác do Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh cho tác phẩm Mưa khuya. Giải nhì cuộc thi sáng tác do báo Sài Gòn giải phóng cho tác phẩm Hạnh phúc. Mời các bạn đón đọc Vĩnh Biệt Mùa Hè của tác giả Nguyễn Đông Thức.
Trang Trại Hoa Hồng - Đỗ Kim Cuông
C huyến hàng sang Singapore đã xuất xong từ ngày hôm qua. Tôi còn nấn ná chơi với Vân, nhỏ bạn cùng học từ thời đại học. Nó rủ rê: “- Hai đứa mình về miền Tây chơi thăm vợ chồng Cư - Thơm. Nó cứ nhắc mi hoài”. Không một giây lưỡng lự, tôi ừ liền. Vân giao cửa hàng cho chồng, giao con cho chị giúp việc. Hai đứa leo lên chiếc xe Camry đời mới hướng ra đường cao tốc về miền Tây. Tôi không chút âu lo. Còn những hơn hai tháng nữa mới đến ngày đại giỗ của nhà tôi. Mọi việc chuẩn bị cho ngày trọng đại này tôi đã bàn bạc với chị Thoa cách nay cả tháng. Con lộ mới mở về đến ngã ba Trung Lương, đường rộng, sáu làn xe hai chiều, đi thật mát ga. Xe mới. Cô bạn tôi lại là tay lái bạo, chỉ hơn một giờ cả người và xe đã chìm đắm trong cái màu xanh miên man của dừa, của những vườn cây trái bên bờ sông Tiền, sông Hậu. Thơm thoáng nhìn thấy tôi và Vân đã kêu ré lên: “- Chu cha! Mắt tao có nhìn nhầm không đấy? Hai đứa bay sao lại xuất hiện ở xứ này? Đang định tính chuyện chi ở đây?”. Tôi cười cười. Vân đáp tỉnh queo: “- Tụi tao nhớ mày xuống chơi. Mai về. Có xin nghỉ được lấy một ngày tiếp tụi tao không?”. Thơm nói không đắn đo: “- Giám đốc là tao. Nhân viên văn phòng cũng là tao. Có lúc còn kiêm cả chân bảo vệ. Lo gì? Tiếp tụi bay còn khoái hơn là ngồi với mấy ổng trên thành phố xuống. Mấy cha chưa tan việc đã lo mời đi nhậu. Mệt thấy bà… Hai đứa chờ tao vài phút, tao dặn dò văn phòng. Ta đi uống cà phê. Để tao gọi chồng về, bắt cá đãi tụi bay trưa nay”. *** Nhà văn Đỗ Kim Cuông sinh ngày 25 tháng 4 năm 1951, quê quán phường Hồng Phong, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, ông gia nhập quân đội, tham gia từ cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968, tại chiến trường Trị Thiên Huế với tư cách là một người lính bộ binh, trực tiếp chiến đấu cho đến Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất. Năm 1976, Đỗ Kim Cuông được trở lại giảng đường Đại học tại Khoa Ngữ văn Viện đại học Huế. Sau khi tốt nghiệp, ông về giảng dạy tại Trường cao đẳng sư phạm Nha Trang - Khánh Hoà. Ông nguyên là Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh Khánh Hoà, kiêm Tổng Biên tập tạp chí Văn Nghệ Nha Trang, đại diện tuần báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) tại Nam Trung Bộ. Đỗ Kim Cuông đã từng giữ chức Vụ trưởng Vụ Văn hoá văn nghệ Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương. Hiện nay ông là Phó Chủ tịch thường trực Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (2010 - 2021), sống và làm việc tại Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1990), Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Tác phẩm đã xuất bản: - Người đàn bà đi trong mưa (tiểu thuyết, 1987); - Một nửa đại đội (tiểu thuyết, 1989); - Hai người còn lại (tiểu thuyết, 1989); - Thung lũng tử thần (tiểu thuyết, 1990); - Miền hoang dã (tiểu thuyết, 1991); - Mảnh sân sau u ám (tiểu thuyết, 1993); - Vùng trời ảo mộng (tiểu thuyết, 1993); - Tự thú của người gác rừng (tập truyện ngắn, 1996); - Đêm ngâu (tập truyện ngắn, 1999); - Cát trắng (tiểu thuyết, 1997); - Người dị hình (tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn, 2000); - Thủ lĩnh vùng sông Tô (tiểu thuyết, NXB Công an Nhân dân, 2001); - Phòng tuyến Sông Bồ (tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn 2009); - Lỗi hẹn với Sê pôn (tiểu thuyết, 2011); - Chớp biển (tập truyện ngắn, 2010); - Lời hẹn với Sê pôn (tập truyện ngắn, 2012); - Gió rừng (tập truyện ngắn, 2012); - Trang trại Hoa Hồng (tiểu thuyết, 2014).  Mời các bạn đón đọc Trang Trại Hoa Hồng của tác giả Đỗ Kim Cuông.
Người Đi Săn Và Con Sói Lửa - Nguyễn Quỳnh
Người Đi Săn Và Con Sói Lửa gồm có: NHỮNG CHUYỆN KHÔNG NGỜ TỚI CON CHÓ CON XA RỪNG CON SÓI LỬA VỚI HAI CON LỢN VÀ EM BÉ NẰM VÕNG NỖI OAN CỦA CON SÓI LỬA CON SÓI LỬA LÀM KHÁCH QUAN CHÁNH SỨ CON SÓI LỬA VỚI CON BÁO VÀNG VÀ CON KHOANG MẸ SĂN HỔ CHẠM TRÁN VỚI CON HỔ BẠC MÁ CON SÓI LỬA BỎ TRỐN MỘT LẦN ĐI SĂN BÒ RỪNG NHỮNG CUỘC GẶP GỠ GIỮA RỪNG GIÀ SỨC MẠNH CỦA BẦY ĐÀN BỊ ĐÀN SÓI BAO VÂY TRÊN ĐƯỜNG VỀ CHIẾN KHU ***  Nguyễn Quỳnh là tác giả quen thuộc với nhiều bạn đọc nhỏ tuổi qua nhiều tác phẩm như: Châu Cá Lóc, Rừng Đêm, Viên tuỳ tướng và con voi thần… mà vào những năm 80 của thế kỷ trước cứ vào lúc 6g kém 15′ thế hệ 7x chúng tôi lại mong chờ, háo hức để được đón nghe truyện của Ông trên Loa Truyền Thanh ( không phải là Đài Radio đâu nhé :raised eyebrow. Một trong những chuyện của ông đã để lại trong tôi những dấu ấn sâu sắc về một con vật tình nghĩa cho mãi đến tận bây giờ. Chả thế mà ” Người đi săn và con Sói Lửa” đã được trao giải B (không có giải A) cho truyện dài dành cho thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam. *** Khu rừng vẫn chìm ngập trong không khí ban mai. Lũ khỉ vượn sau cơn ngái ngủ giờ đã náo nức nô đùa, chuyền từ cành nọ sang cành kia. Sóc đuôi cờ, đuôi đỏ ra khỏi tổ. Công đàn đã sà xuống các bãi cỏ. Những chàng công trống đã cất những tiếng kêu cảnh giác: “T... ồ! T... ồ! T... ồ!”. Chúng đánh hơi thấy hơi người. Bỗng có một tiếng kêu kéo dài: “Cho… éc...!” tiếng con hoẵng. Ông Giáp reo lên: - Con hoẵng! Chắc con Báo Vàng đã vồ được con hoẵng! Thả chó ra anh em ơi! Theo tôi! ... Mời các bạn đón đọc Người Đi Săn Và Con Sói Lửa của tác giả Nguyễn Quỳnh.
Bên Dòng Sầu Diện - Nguyễn Đình Tú
Là câu chuyện về cuộc đời Minh Việt sinh ra ở thị trấn An Lạc – thị trấn Nét Mặt Buồn, đất Cảng. Là chàng trai được sinh ra từ cuộc gặp gỡ giữa chàng Vệ quốc quân và cô gái con nuôi bà bán cháo lòng thuộc xứ đạo An Lạc. Những uẩn khúc trong khi sinh ra không được bố thừa nhận vì sợ ảnh hưởng đến cương vị công tác đến lúc trưởng thành, đi bộ đội chống Mỹ, bị thương lạc đơn vị và được người bạn thời niên thiếu bên kia chiến tuyến của của bố cứu giúp đến những di hại về sau của bản thân và gia đình như cuộc trêu ngươi cùng số phận. Cuộc đời của Minh Việt là cuộc đời của những lỡ lầm và bất trắc, từ trẻ cho đến lúc chớm già, nó như một định mệnh bám lấy anh trong dòng xoáy của những ý thức hệ, của những hiểu lầm và những tổn thương. Nó vẫn bám lấy anh trong những ngày cuối đời trở lại quê nhà, tìm lại tuổi thơ trong ngậm ngùi, nuối tiếc. Một cuốn tiểu thuyết không chỉ để đọc cho vui, để suy ngẫm về một thời chưa xa trong tâm thức mỗi người. *** Nhà văn Nguyễn Đình Tú quê ở Kiến An, Hải Phòng, là nhà văn quân đội. Anh được biết đến nhiều qua những cuốn tiểu thuyết mang đậm thông điệp dành cho những người trẻ với những hoang hoải, lạc loài, bâng khuâng đi tìm cái tôi thời đại. Nguyễn Đình Tú học luật, từng làm “sĩ quan quân pháp” và anh đến với nghề văn chuyên nghiệp chỉ vì muốn được thoải mái dịch chuyển cả về địa lý và trí tưởng tượng. Là một nhà văn thuộc lứa tuổi 7X, trong anh vừa là một quân nhân, vừa là một nhà văn chính hiệu. * Giải thưởng văn học: Giải thưởng truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ quân đội, năm 1999. Giải thưởng văn học 5 năm Bộ Quốc phòng. Giải thưởng văn học 10 năm Bộ Công an. Giải thưởng tiểu thuyết Nxb Công an nhân dân phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam, năm 2002. * Các tác phẩm chính đã xuất bản: Bên bờ những dòng chảy (2001); Hồ sơ một tử tù (2002); Không thể nào khác được (2002); Nháp (2008); Nỗi ám ảnh khôn nguôi (2003); Nét mặt buồn (2005); Phiên bản (2009). Bên dòng Sầu Diện (2007); Chú bé đeo ba lô màu đỏ Giọt sầu đa mang ... *** K hi tôi chào đời thì cái mà tôi cảm nhận được đầu tiên là mùi cháo lòng. Buồng mẹ tôi nằm chờ đẻ nối liền với một chái bếp lợp giấy dầu. Trong bếp nồi cháo lòng sôi lục bục, bắn những tia bột dính như keo lên nắp vung mở hé. Mùi cháo lòng ngậy quá chừng! Lúc đầu tôi hớn hở hít lấy hít để. Thế rồi một cảm giác ngơn ngớn chạy dọc người tôi (tất nhiên vẫn trong tư thế nằm co) khiến tôi buồn nôn. Nhưng mà tôi không nôn được. Miệng tôi lúc ấy lòng thòng rất nhiều thứ dây dợ, dạ dày của tôi chỉ quen tiếp nhận, chưa bao giờ biết phản ứng ngược lại, vì thế tôi muốn khóc nhưng cũng không khóc được. Rồi tôi lại ngửi thấy mùi thơm thơm của thứ lục diệp đang ải dần trước sức nóng của chiếc nồi gang. Ấy là lúc bà tôi cho hành, rau răm, mùi tàu vào nồi cháo. Mùi thơm này nhanh chóng trở nên khó chịu vì mỗi lúc một ngai ngái, nồng nồng khiến tôi ngạt thở. Thế rồi một mùi tanh khủng khiếp lại ập vào mũi tôi. Ấy là lúc bà tôi đang lấy tay vét vét những vụn tiết, vụn mỡ, vụn rau bám trên thành chậu, những thứ còn sót lại sau khi dồi lòng. Cũng còn phải đến hơn một vốc tay. Nghiêng chậu, lại còn tới hơn một bát nước tiết nữa. Bà tôi úp cái chậu vào nồi tiết đang bốc khói, đập “cành cạch” lên thành nồi cho mọi thứ rơi vào khoảng mờ mịt của hơi nước. Lẳng cái chậu vào góc bếp, bà với lấy cái đũa cả to ngoáy nồi cháo theo chiều vun từ ngoài vào trong. Có vẻ như đã bằng lòng với nồi cháo cho buổi hàng của mình, bà nhặt hai mẩu rơm bện, gồng mình bê nồi cháo đặt sang một bên bếp. Bị giảm nhiệt, lập tức nồi cháo sôi nhỏ lại. Bà đi vào buồng mẹ đang nằm. - Vẫn đau hả? - Dạ... ... Mời các bạn đón đọc Bên Dòng Sầu Diện của tác giả Nguyễn Đình Tú.